Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dì Ghẻ

Dì ghẻ" là một danh từ cực kì có tính đánh sâu vào mỗi khi nhắc đến. Ai ai cũng sẽ xuất hiện cảm giác chán ghét khi nhắc đến từ này. "Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng". Mọi người ngầm hiểu điều đó, mặc dù không thích nhưng thật sự chẳng mấy ai có thể nói nên lời chê trách. Cái khó, cái khổ của người làm dì ghẻ cũng không phải ai cũng hiểu...  Cuộc sống gia đình của hai đứa trẻ phải ở với mẹ kế sẽ được câu chuyện khắc hoạ lại, đồng thời còn mang đến những trải nghiệm cuộc sống chân thật nhất, những tâm tính, phản ứng, đậm chất tâm lý xã hội, cho nên không tránh khỏi những tình tiết có hơi hướng bạo lực và kích thích. Hi vọng Dì Ghẻ sẽ mang lại cho bạn đọc một cảm nhận chân thực nhất về xã hội. *** Ba ngày hôm sau, Nam lúc này đã tỉnh lại. Ký ức kinh hoàng ngày hôm đó vẫn in sâu vào trong đầu của nó. Lúc mở mắt ra nó đã giật mình hoảng sợ bởi không biết mình đang ở đâu. Khi ấy chú Đại phải lập tức trấn an Nam, đến nay sau mấy ngày Nam phần nào cũng đã ổn định trở lại. Mấy ngày qua nó im lặng không nói gì, cho ăn là ăn, ăn xong lại quay mặt vào tường không muốn nói chuyện với ai cả. Đột nhiên hôm nay nó nhìn chú Đại hỏi một câu khiến chú Đại bất ngờ: - - Bố cháu đâu rồi ạ…? Câu hỏi khiến chú Đại lúng túng, nhưng có vẻ như Nam nó khác với những đứa trẻ khác. Trong khi chú Đại chưa biết trả lời ra sao nó đã nói tiếp: - - Có phải bố cháu chết rồi không..? Một lời nói lạnh lùng phát ra từ miệng một đứa trẻ 16 tuổi với anh mắt nhìn thẳng vào mặt người đối diện khiến chú Đại rùng mình. Chú Đại chỉ biết gật đầu: - - Đúng vậy….Chú...chú...xin…. Nam lặng người một hồi rồi nó ngẩng mặt lên hỏi tiếp, lúc này mắt nó đã rưng rưng nhưng không có giọt lệ nào chảy ra cả: - - Vậy….vậy còn em gái cháu…? Chú Đại nhìn Nam nói: - - Bé Hạnh vẫn an toàn, hiện nó đang ở với cô Thúy, biết cháu sẽ lo cho em nên chú có nhắn cô Thúy chiều nay sẽ đưa Hạnh đến. Còn chuyện bố cháu, thật sự chú xin lỗi….Nhưng cháu đừng lo, chú sẽ thay bố nuôi…. Nam nhìn chú Đại ngắt lời: - - Cháu biết, cháu biết bố cháu vì sao mà chết…..Cháu cũng nhìn thấy bố cháu lúc đó...Chú không có lỗi…. Có vẻ như lúc này đã quá sức chịu đựng đối với một thằng nhóc, hoặc có thể sau khi biết em gái vẫn an toàn thì nó mới được giải tỏa. Chú Đại nhìn nó chảy nước mắt, chú Đại nói: - - Không phải kìm nén nữa, chú hiểu cảm giác của cháu bây giờ như thế nào….Bởi những ngày qua chú cũng thế….Cứ khóc đi, khóc to vào…. Lập tức Nam ngồi trên giường òa khóc, nó khóc nức nở, nó khóc to như chưa bao giờ nó phải chịu một nỗi đau lớn như vậy. Đây là lần thứ hai nó trải qua cảm giác này từ ngày ông ngoại mất. Không, nỗi đau này có gì đó khác hẳn, nỗi đau này còn đau hơn nỗi đau nó mất đi ông ngoại nhiều lần…...Bởi vì nó biết bố nó vì cứu nó mà chết. Chú Đại ôm nó vào lòng rồi cũng ứa nước mắt, chú Đại cố gắng an ủi: - - Không sao, không sao…..Bố cháu nói đây là điều bố cháu có thể làm được duy nhất cho cháu. Bố cháu cảm thấy hạnh phúc khi cháu còn sống….Cháu phải trân trọng điều này. Sau này tất cả sẽ ổn thôi….Còn chú ở đây hai đứa sẽ không phải lo gì cả. Chú sẽ thay bố mẹ chăm sóc cho hai đứa. Nước mắt giàn dụa, nỗi đau mất đi người thân nó thực sự khiến con người ta trở nên yếu đuối. Nhưng khi con người rơi vào hoàn cảnh ấy thì lại càng phải mạnh mẽ. Đầu giờ chiều, Nam đột nhiên thao hết băng trên người ra. Chú Đại thấy thế định ngăn lại thì nó nói: - - Mấy chỗ này có bị sao nữa đâu, chỉ có….. Nhìn xuống ngón tay út nó thoáng buồn, nhưng rối nó nói tiếp: - - Chẳng phái chú bảo lát nữa cô giáo sẽ đưa em cháu vào đây sao...Cháu không thể để nó lo lắng khi nhìn cháu toàn thân băng bó thế này được. Nhìn chú Đại nó hỏi: - - Vậy bà ngoại có biết chuyện của cháu, với bố cháu không ạ..? Chú Đại lắc đầu: - - Không ai biết cả, có chăng chỉ có bác Dung….Nhưng chú cũng nói với bác Dung rồi….Chú sợ bà ngoại sẽ lo lắng, bà vẫn nghĩ hai anh em cháu lên bệnh viện thăm bố. Nam vội đáp: - - Đúng rồi chú đừng nói cho bà cháu biết, bà mà biết là chết đấy. Chú cứ bảo mọi người cháu bị tai nạn là được. Nam khiến chú Đại đi hết từ bất ngờ này sang bất ngờ khác, một thằng nhóc vừa phải trải qua nhiều chuyện kinh hoàng như thế vậy tại sao nó lại có thể bản lĩnh đến vậy. Dường như nó chỉ biết lo cho người khác, đột nhiên chú Đại lại thấy hình ảnh ông Tuấn ở trong Nam ngay lúc này. Nó giống hệt bố nó, cũng chỉ biết lo lắng cho anh em mà quên đi bản thân mình phải hứng chịu những gì. Chú Đại bỗng mỉm cười: - - Được, vậy coi như đây là bí mật của chú cháu mình. Nam gật đầu đồng ý, chiều hôm ấy cô Thúy dẫn bé Hạnh vào bệnh viện thăm Nam, không chỉ có cô Thúy và Hạnh, cả cô bạn gái thân nhất của Nam là Trang cũng đến. Nam mặt vẫn còn hơi bầm, cơ thể vẫn hơi đau nhưng nó cố tỏ ra bình thường khi bé Hạnh vừa mở cửa phòng ra đã lao vào anh như hai anh em lâu ngày không găp: - - Anh Nam …..anh Nam ơi…...Sao anh không đến đón em…? Cú ôm từ con bé khá mạnh khiến Nam cảm thấy đau nhói nhưng nó cười tươi rồi gõ nhẹ vào đầu em nói: - - Không thấy anh bị ốm đây à…? Đồ ngốc này…. Cô Thúy nhìn chú Đại hỏi: - - Mấy hôm nay Nam không đi học, suýt chút nữa là tôi phải ra nhà thông báo rồi ấy. May cho anh là gọi điện kịp thời…. Chú Đại khẽ cười: - - Cảm ơn cô, tôi không muốn bà ngoại của hai đứa lo lắng….Hiện giờ bà nghĩ cả hai đứa vẫn đang đi với tôi. Làm phiền cô giáo rồi….Cảm ơn cô mấy ngày vừa qua, con bé không làm phiền cô chứ…? Cô Thúy nói: - - Nó dễ thương lắm, lại ngoan nữa….Nhưng hay hỏi anh, tôi cứ phải nịnh là anh Nam đi học thêm sắp về nó mới chịu. Có con bé ở cùng mấy ngày qua tôi lại thấy thoải mái. Mà anh bảo Nam vào viện vì lý do gì vậy..? Chú Đại ấp úng vì không biết nói dối thế nào trước phụ nữ, Nam tinh ý bèn nói: - - Dạ thưa cô, mấy hôm trước em bị tai nạn…..Cô nhìn xem, giờ em bị mất một ngón tay út rồi...Hì hì. Vừa nói Nam vừa giơ tay lên khoe để cứu chú Đại, cô Thúy với Trang tròn mắt ra nhìn. Trang xót xa vội cầm tay Nam hỏi: - - Có đau không..? Mà sao lại mất cả một ngón tay….. Vừa nói cô bé vừa trực khóc, bé Hạnh cũng cầm tay anh nhìn nhìn, nó thổi thổi như cách bà ngoại hay làm mỗi khi nó bị thương ở đâu đó. Nam mỉm cười: - - Giờ hết đau rồi, tai nạn mà…..Cũng may mà có chú Đại đưa đi kịp thời. Tuy còn vài chuyện chưa rõ, còn những nghi ngờ muốn hỏi nhưng cô Thúy thấy hai chú cháu dường như cũng không muốn nói thêm nên cô Thúy chỉ trách: - - Bị như thế này mà vẫn còn cười được thì cô chịu em rồi. Nam nhìn chú Đại nói: - - Cháu có thể ra viện được rồi chú ạ….Ở đây chán lắm, để cháu đưa em về bà ngoại. Chú Đại hơi lưỡng lự, tuy nhiên về cơ bản Nam cũng không bị thương nặng. Hơn nữa cũng đã 4 ngày trôi qua, nếu không đưa hai anh em về bà ngoại sẽ lo lắng. Bằng chứng là ngày hôm qua bác Dung đã gọi điện cho chú Đại hỏi han rồi. Chú Đại cũng muốn nhanh chóng làm đám tang cho ông Tuấn, khi mà mọi chuyện vừa trôi qua còn quá nhiều việc phải lo thì xác ông Tuấn lúc này đang được bảo quản trong kho lạnh của một lưu giữ tử thi. Mấy hôm nay nghe ngóng thông tin thì dường như phía công an cũng chưa hoặc không phát hiện được gì cả. Suy cho cùng tất cả những kẻ có liên quan đều đã chết banh xác sau vụ nổ. Chú Đại cũng cần phải tổ chức tang lễ cho anh của mình. Vậy là chú Đại đồng ý, Nam được xuất viện, hai anh em được chú Đại chở về nhà bà ngoại, trên xe Nam khẽ hỏi: - - Liệu sau này….? Chú Đại đáp: - - Đừng lo, mọi chuyện xong hết rồi…..Cái chính là mọi người sẽ chấp nhận chuyện này thế nào thôi. Nam im lặng. nó nhìn bé Hạnh, con bé vẫn chưa biết rằng bố nó đã chết. Đột nhiên Nam nhớ tới mụ Hường: - - Vậy còn, bà Dì Ghẻ thì sao ạ…? Chú Đại im lặng một lát rồi đáp: - - Bà ấy trốn rồi, sẽ không bao giờ quay lại nữa đâu. Chú Đại và Nam không còn cách nào khác ngoài chuyện nói dối bà ngoại, bà ngoại chỉ biết Nam bị tai nạn nhẹ, nhưng đau xót nhất vẫn là ngón tay út của Nam. Ba ngày tiếp theo chú Đại đến thông báo cho bà ngoại việc ông Tuấn mất, lý do đó là vết thương lần trước tái phát, rách ra không qua khỏi. Bà ngoại nhìn hai đứa cháu buồn bã bởi từ nay thì cả hai đứa đã thật sự trở thành trẻ mồ côi. Đám tang ông Tuấn được tổ chức long trọng, ngày hôm đó tất cả những anh em của ông Tuấn đều mặc đồ đen xếp hàng ngay ngắn để tưởng nhớ người đàn anh đáng kính lần cuối cùng. Nam cả ngày hôm đó không khóc, bởi nó đã khóc quá nhiều trước đó rồi. Từ những bà cô bên đằng nội đến những người bạn của mụ Hường trước đây không có cảm tình với anh em nó đều nói nó là thằng nhóc máu lạnh. Bé Hạnh lại một lần nữa kéo tay anh hỏi: - - Bố đi đâu rồi hả anh..? Nam nắm tay em mỉm cười rồi khẽ đáp: - - Bố hôm nay đi gặp ông ngoại rồi em ạ…. Bé Hạnh hỏi tiếp: - - Vậy bao giờ bố về…? Câu hỏi của Hạnh khiến mắt Nam ướt đẫm, nhưng nó hít một hơi dài thật sâu rồi trả lời em gái: - - Khi nào em lớn bố sẽ về…… Cô Thúy cũng có mặt trong đám tang, nhìn những người đến dự, nhìn anh em xã hội của ông Tuấn đến viếng, nhìn chú Đại, cô chợt nhớ đến cái hôm chú Đại chở Hạnh đến nhà cô gửi, rồi nhớ đến hôm Nam ở trong bệnh viện….Cả vụ nổ gây xôn xao dư luận những ngày qua. Cô Thúy biết mọi chuyện không như lời chú Đại nói….Vẫn như vậy, cuộc sống của chú Đại vẫn là một ẩn số lớn đối với cô giáo. Cũng từ sau hôm đó, chú Đại không liên lạc gì với cô nữa. Ngay lúc này đây tuy đứng cách nhau chỉ tầm vài mét nhưng khoảng cách giữa hai người chưa bao giờ lại xa đến thế. Cái thế giới mà cả hai đang sống dường như khác nhau một cách đối nghịch, sau khi làm lễ thắp nhang cho bố Nam, cô Thúy quay mặt đi ngang qua chú Đại lúc này đang đứng cạnh linh cữu đáp lễ mọi người. Mặt đối mặt nhưng dường như ánh mắt của họ không hề chạm nhau. Có lẽ cả hai đều hiểu: Cuộc sống của người này sẽ tốt hơn khi không có người kia. Sau tất cả mọi chuyện, cái mà hai người giữ lại cho nhau chỉ là hai bức thư không có lời đáp. Mỗi người mang một cung bậc cảm xúc khác nhau, đứng bên này Nam cũng nhận ra điều không bình thường giữa hai người lớn. Nó nói với chú Đại: - - Chú có biết khi cháu kể chú thích cô giáo bố cháu vui thế nào không..? Chú Đại quay sang nhìn Nam rồi gật đầu đáp: - - Thằng quỷ….Sao mày dám kể … Nam hướng mắt nhìn theo cô Thúy, chú Đại khẽ nói: - - Long, đứng đây thay anh...Anh phải đi có chút việc. Anh không để anh Tuấn phải thất vọng được. Long gật đầu, đúng là một tình huống trớ trêu chỉ có thể xảy ra bởi những con người không bình thường. Nhưng đâu có sao, bởi nếu bỏ qua cơ hội thì đó mới là điều đáng tiếc. Mọi người đều nói sai thì sửa nhưng trong cuộc sống có những sai lầm khi bạn nhận ra và muốn sửa sai thì đã không còn cơ hội. Có những thứ thiêng liêng xung quanh mà bạn chưa từng trân trọng để rồi khi mất đi bạn mới khóc thì đã quá muộn, Nước mắt hay lời xin lỗi không thể giúp bạn lấy lại bất cứ một thứ gì cả, nó chỉ khiến bạn cảm thấy đau đớn hơn mà thôi. Thay vì khóc lóc, đau buồn hãy sống làm sao cho bản thân cảm thấy sự tồn tại của mình có ý nghĩa. Vài tháng sau, theo như kế hoạch từ trước, chú Đại xin phép đón bé Hạnh lên Hà Nội để chăm sóc. Chú muốn đón cả ba bà cháu đi nhưng Nam và bà ngoại muốn ở lại để còn hương khói cho ông ngoại. Bản thân Nam cũng bị bà ngoại “ đuổi “ vì lo cho tương lai của cháu nhưng nó nhất quyết không chịu. Nó nói để bé Hạnh ở với chú Đại còn nó sẽ ở đây chăm sóc bà ngoại. Chú Đại dặn nó phải canh chừng cô Thúy giúp chú. Lần này nó không buồn khi phải xa em gái nữa, bởi sau tất cả nó biết chú Đại sẽ chăm sóc bé Hạnh rất tốt. Con bé sẽ được vui vẻ, chỉ một thời gian ngắn mà Nam đã thay đổi rất nhiều, sau đám tang của bố, Nam chững chạc hơn, ra dáng đàn ông mặc dù năm nay nó chỉ bước qua tuổi 17. Một ngày được nghỉ, Nam chở Trang ra thăm mộ của bố. Khi nó đến đã thấy một người đàn ông ăn mặc lôi thôi, đội cái mũ rộng vành đứng trước mộ bố nó, trên tay cầm một bó hoa trắng đặt xuống dưới mộ. Nam tiến lại gần thì lập tức người đó quay lại. Nam lễ phép: - - Cháu chào chú….Chú là bạn của bố cháu phải không ạ…? Người này không trả lời, khẽ lấy tay kéo cái mũ xuống hắn đi qua Nam. Nam có cảm giác dường như đã thấy người này ở đâu rồi, khuôn mặt đen xì, dáng người, dáng đi hình như Nam đã nhìn thấy ở đâu. Nhưng có một điều khiến nãy giờ Nam thấy lạnh cứng người đó là vừa rồi chỉ nhìn qua ánh mắt sắc lẹm, lạnh lùng của người đó Nam thấy như bị áp đảo. Nơi ngón tay út bị cắn bỗng nhiên có cảm giác nhói mặc dù vết thương đã lành từ lâu. Trang thấy bạn đứng yên bèn đi lại lay người hỏi: - - Cậu làm sao đấy..? Người kia là người quen à..? Nam ấp úng: - - Ơ...ơ….không sao….Tớ cũng không rõ, chắc là bạn của bố. Hai bạn trẻ đặt hoa, nhổ cỏ xung quanh mộ. Đứng ở một góc khuất kẻ đội mũ rộng vành kia vẫn đang quan sát hai đứa, hắn sụp hẳn cái mũ xuống rồi quay đi, miệng khẽ nói: - - Đại ca, thằng bé quả thật rất giống anh…...Vậy là em lại phải sống thêm một khoảng thời gian nữa rồi. - ------Kết Thúc------- Cảm ơn các bạn đã theo dõi bộ truyện dài nhất của mình cho tới thời điểm hiện tại. Có thể kết không hay, không được như mong muốn của mọi người nhưng một lần nữa cảm ơn tất cả đã ủng hộ mình cho đến lúc này. Hẹn gặp lại các bạn trong những bộ truyện khác. Thanks All My Friends Mời các bạn đón đọc Dì Ghẻ của tác giả Trường Lê.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiền - Thư Tuyệt Mệnh
Đúng như nhan đề, tác phẩm kinh điển ra đời năm 1984 này là câu chuyện về tiền, những kinh khủng mà tiền gây ra, những tai ương mà tiền mang lại. Nhân vật trung tâm là John Self, kẻ đã sống một đời không tiết chế. Qua lại giữa London và New York, hắn thương thảo hợp đồng, tiêu xài vung tay và thực hiện những thương vụ liều lĩnh trong thế giới phim ảnh, đồng thời quơ cào mọi thứ có thể để thỏa mãn cho khẩu vị vô độ của mình: rượu, thuốc lá, thuốc an thần, văn hóa phẩm đồi trụy, thức ăn nhanh cùng vô số thứ tàn hại sức khỏe. Được kể theo lối độc thoại và gần như không có cốt truyện, tác phẩm vẫn chiếm vị thế nổi bật bởi những phẩm chất không dễ gặp: sắc sảo lộng óc, khôi hài cùng cực và lạc quan sâu sắc. Martin Amis từng cho rằng thước đo duy nhất để xác định thành công của một nhà văn là họ có còn được đọc sau 50 năm hay không. Đến nay, 33 năm kể từ lần xuất bản đầu tiên, Tiền - Thư tuyệt mệnh vẫn chia sẻ với độc giả những mối quan ngại đương thời sâu xa. Từ thời điểm ra đời, tác phẩm được xếp vào top 100 cuốn tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất kể từ năm 1923. *** Trong tiểu thuyết Tiền, Jonh Self là kẻ kể chuyện, chính xác là lảm nhảm những câu chuyện trời ơi đất hỡi của hắn với đầy đủ những trạng huống hỉ, nộ, ái, ố... đẩy người đọc vào một vòng tròn vòng vèo, xoay quanh cuộc di chuyển của hắn giữa London và New York. Trong Tiền, John Self là kẻ theo đuổi đam mê cá nhân với sự quan tâm thấp hoặc không hề có đối với cộng đồng rộng lớn, kéo mình qua một chu kỳ tích lũy, tiêu dùng và cuối cùng là sự thỏa mãn – mô hình hoàn hảo cho một người đàn ông trưởng thành trong thời buổi hàng hóa. Bản thân John Self là một người đàn ông được nuôi nấng trên nền văn hóa tiêu dùng, với những câu chuyện nhảy từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác một cách vô tội vạ, và anh ta dường như chính là kẻ có cách sống không có hệ tư tưởng nào.   Tiền là một cuốn sách châm biếm bậc thầy ở mọi thời đại, một cuốn sách hài hước tột bậc, thô tục khôn cùng, lấy cảm hứng từ một nghiên cứu tăm tối về sự cám dỗ của đồng tiền, với đầy những tham lam và phá hoại. Amis sở hữu một sự tinh tế thầm kín về ngôn ngữ. Thể hiện sự hâm mộ Nabokov một cách đầy tự tin, Amis chào Nabokov bằng một hệ thống tường thuật sự méo mó vô cùng đồ sộ và tinh xảo được tính toán rành mạch, thể hiện được phong cách làm chủ, đối thoại sắc bén và mạch lạc về ý nghĩa. Một cuốn sách đến hôm nay vẫn mang đậm hơi thở của thời đại, trong sự xoay sở trở mình vì tiền, loanh quanh những mối bận tâm vì tiền, sống chết vì tiền. Một cuốn sách vừa bủa vây, vừa thức tỉnh con người bởi vô vàn những lẫn lộn giữa thật giả xấu tốt. Tiền thành công không chỉ bởi đã tạo nên được một không khí xã hội luôn trong trạng thái thời thượng, mà hơn thế, Tiền còn giúp độc giả được thưởng thức một cuộc giao hoan chữ nghĩa, như một mê cung, để thỏa sức khám phá, để liên tục trải qua những cuộc sung sướng choáng ngợp mà chiêm ngưỡng tài năng của một bậc thầy ngôn ngữ. Nếu bạn yêu thích Nabokov, yêu thích dòng văn chương hậu hiện đại phá bỏ mọi nguyên lý cơ bản về câu chuyện, chấp nhận dấn thân vào một cuộc chơi đầy thách thức của từ ngữ, thì Tiền là cuốn sách không thể bỏ qua.  *** Martin Amis là một tiểu thuyết gia, nhà tiểu luận, người viết hồi ký và nhà biên kịch người Anh. Tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông là Tiền và Cánh đồng Luân Đôn. Ông đã nhận được Giải thưởng Tưởng niệm Đen James Tait cho Trải nghiệm hồi ký của mình và đã được liệt kê cho Giải thưởng Booker hai lần. Nhà văn Martin Amis, giống như Dostoevsky, quan tâm nhiều đến cách các nhân vật của ông nhìn thế giới như thế nào. Trong dòng chảy này, câu chuyện của Self phản ánh niêm tin của chính mình. John Self là cơ hội để tác giả tạo ra một cuộc đối thoại đa cấp với các quan điểm ý thức hệ khác nhau, được thể hiện trong chính độc thoại của nhân vật, hoặc giữa các cuộc đối thoại giữa các nhân vật.   Mời các bạn đón đọc Tiền - Thư Tuyệt Mệnh của tác giả Martin Amis.
Và Nơi Đây Bình Minh Yên Tĩnh - Boris Vasiliev
Và nơi đây bình minh yên tĩnh (tiếng Nga: А зори здесь тихие) là một tiểu thuyết Liên Xô của nhà văn Boris Vasilyev được xuất bản lần đầu năm 1969. Lấy bối cảnh Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại của Liên Xô, tác phẩm nói về cuộc chiến đấu ở hậu phương của một nhóm pháo thủ nữ Hồng quân nhằm ngăn cản âm mưu phá hoại của một tiểu đội lính dù Đức Quốc xã. Khi được tạp chí Thanh niên xuất bản vào năm 1969, tiểu thuyết đã ngay lập tức được độc giả đón nhận và trở thành một trong những tác phẩm văn học về đề tài chiến tranh nổi bật nhất thập niên 1960 và 1970 ở Liên Xô. Cùng với Tên anh không có trong danh sách, đây được coi là tiểu thuyết ngắn xuất sắc nhất của Boris Vasilyev nói về Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Bản dịch tiếng Việt của tiểu thuyết này được Nhà xuất bản Cầu vồng in chung cùng Tên anh chưa có trong danh sách với dịch giả Lê Đức Mẫn. Tác phẩm đã nhiều lần được chuyển thể thành phim điện ảnh, trong đó bộ phim cùng tên sản xuất năm 1972 đã được đại diện cho điện ảnh Liên Xô tranh Giải Oscar cho phim ngoại ngữ xuất sắc nhất. *** «… Bạn thân mến!   Ở đó bạn phải tất bật với công việc, còn chúng tôi lại ung dung đi câu cá ở một nơi thanh bình không vẩn một hạt bụi. Thực ra, tụi muỗi chết tiệt cũng có đốt, nhưng cuộc sống vẫn một màu tiên cảnh! Bạn hãy xin nghỉ phép và về đây với chúng tôi. Ở đây hoàn toàn không một bóng xe qua, một người đi lại. Mỗi tuần một lần chỉ có một chiếc xuồng máy chở bánh mì đến thôi, vì thế tha hồ mà rong chơi chả phải bận bịu gì đến quần áo. Phục vụ cho khách du ngoạn thì ở đây có hai hồ nước và một con sông đầy cá. Lại còn nấm mới nhiều nữa chứ!… À, hôm nay có một chiếc xuống máy chở đến một ông già vạm vỡ tóc bạc cụt tay và một đại uý bộ đội tên lửa. Người ta gọi đại uý là Anbert còn ông già thì đại uý gọi bằng bố. Họ đến tìm cái gì ở đây thì tôi cũng chẳng để tâm đến…   … Ngày hôm qua tôi không viết hết: sáng nay mới viết nốt. Thì ra ở đây trước kia cũng có chiến đấu… Chiến đấu khi tôi với anh còn chưa ra đời.   Anbert và người cha chở đến một tấm bia đá cẩm thạch. Chúng tôi tìm thấy một nấm mộ trong rừng bên kia sông. Bố ông đại uý nhận ra nhờ những dấu hiệu riêng. Tôi muốn giúp họ mang tấm bia vào tận nơi nhưng lại không dám.   Bình minh nơi đây thật là yên tĩnh, mãi hôm nay tôi mới nhìn ngắm kỹ càng». *** Boris Vasiliev sinh ngày 21/5/1924 ở Smolensk, Nga. Mùa hè năm 1941, ở tuổi 17, khi Đức quốc xã tấn công Liên bang Xô Viết, Vasiliev tham gia quân đội và đóng góp sức mình vào cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Những trải nghiệm từ chiến trường sau đó trở thành chất liệu cho các tác phẩm của Vasiliev.   Trong suốt sự nghiệp của mình, nhà văn đã xuất bản hơn 30 tiểu thuyết và truyện vừa. Các tác phẩm đều hướng tới việc kiếm tìm sự thật và ý nghĩa cuộc sống. Phần lớn tiểu thuyết, truyện ngắn của ông đều được chuyển thể thành phim hoặc lên sân khấu ở Nga và nước ngoài.   Tiểu thuyết ngắn “Và nơi đây bình minh yên tĩnh” (А зори здесь тихие) được xuất bản năm 1969 là một trong những tác phẩm về đề tài Chiến tranh Vệ quốc nổi bật nhất thập niên 1960 và 1970 ở Nga. Tiểu thuyết được coi là cách Vasiliev chiêu hồn cho tất cả phụ nữ Nga đã hy sinh trong Thế chiến hai. Tác phẩm chọn thời điểm năm 1941, khi viên sĩ quan Vaskov chỉ đạo một tiểu đội toàn nữ ở hậu phương chiến đấu bảo vệ bầu trời Karelia. Hàng ngày, họ sống với những trò đùa tinh quái của lũ con gái mười tám, đôi mươi trước viên sĩ quan trẻ - thành viên nam duy nhất trong đội. Các cô gái trẻ trung, hồn nhiên, giàu ước mơ và cũng nhiều khát khao hạnh phúc. Dưới cánh rừng xanh tốt, vẳng tiếng nói cười hồn nhiên, trong trẻo của những cô gái tiểu đội pháo cao xạ. Cuộc sống qua đi trong bình yên, cho đến một lần, tiểu đội đối mặt với một toán lính dù của Đức quốc xã. Trước kẻ thù được trang bị vũ khí tối tân cộng với những khắc nghiệt của cánh rừng già, những cô gái trong tiểu đội đã hy sinh. Họ vĩnh viễn để lại tuổi xuân trên cánh rừng, giữa đầm lầy để hai mươi năm sau, khi Vaskov đưa người con trai nuôi trở lại thăm chiến trường xưa, mọi dấu vết của chiến tranh dường như khép lại, trước mắt anh chỉ còn thấy “nơi đây bình minh yên tĩnh”.   Năm 1972, bộ phim cùng tên được chuyển thể từ tiểu thuyết của Boris Vasiliev đã nhận được đề cử Oscar cho Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất. Ngoài "Và nơi đây bình minh yên tĩnh", Boris Vasiliev còn nổi tiếng với truyện vừa "Tên anh không có trong danh sách" và nhiều tác phẩm khác.   Tại Việt Nam, tiểu thuyết này được Nhà xuất bản Cầu vồng in chung cùng “Tên anh không có trong danh sách” với bản dịch của Lê Đức Mẫn.   Mời các bạn đón đọc Và Nơi Đây Bình Minh Yên Tĩnh của tác giả Boris Vasiliev.
Trên Bờ Sông Hoang Vắng - Boris Polevoi
Từ “chặng đường đã qua”, ông đã rút ra những nguyên mẫu và những sự kiện cả cho tiểu thuyết “Trên bờ sông hoang vắng”, cuốn sách viết về những người công nhân xây dựng một nhà máy thủy điện có công suất lớn ở Xi-bê-ri. Hàng nghìn con người từ khắp mọi miền của đất nước đã đổ đến đây, đến bên bờ của con sông lớn, nơi thâm sơn cùng cốc của vùng rừng tai-ga này. Và mỗi người đều tìm ra “mảnh đất dụng võ” của mình. Nơi đây đã diễn ra một cuộc khảo sát cả về kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp của mọi người, và những khát vọng đạo đức và nhu cầu cá nhân của họ... *** Tác giả cuốn sách này - Bô-rít Pô-lê-vôi (1908 - 1981) - là một nhà văn Nga nổi tiếng, Anh hùng Lao động Xã hội chủ nghĩa, đã được tặng Giải thưởng Quốc gia Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô-viết. Ông đã viết gần ba mươi tác phẩm, trong đó có cuốn “Truyện một người chân chính” mà cả thế giới đều biết.   Bô-rít Pô-lê-vôi không hề hư cấu các nhân vật chính, các sự kiện chủ chốt trong các tác phẩm của mình. Ông đã tìm chọn các nhân vật và các sự kiện như vậy từ thực tế cuộc sống. Chính ông, chứ, có lẽ không ai khác, có toàn quyền tuyên bố: “Tôi đã sống trọn cả cuộc đời văn học giữa các nhân vật của mình”. Luôn luôn tìm kiếm, luôn luôn đắm mình trong thực tế, Pô-lê-vôi đã tiếp xúc với rất nhiều con người tuyệt vời của thời đại chúng ta, ông đã viết về họ một cách đầy cảm phục và tự hào về tình bạn đối với họ. “Thật vui sướng biết bao nhiêu được sống giữa các nhân vật của mình, được trao đổi thư từ với họ, được theo dõi xem cuộc sống sẽ tiếp tục và phát triển một cách chính xác đến mức nào, hướng đi của các tính cách được miêu tả trong các cuốn sách, và phần kết của chúng, bạn, với tư cách là tác giả, đã đánh dấu chấm hết từ lâu”, - ông đã viết như vậy trong tập bút ký “Nhìn lại chặng đường đã qua”.  *** -... Mãi tối hôm đó, em mới làm cho cô ta tỉnh lại. Bọn em đã kiệt sức. Em không còn hy vọng nữa. Sau cùng, cô ấy lắc đầu và hé mở con mắt còn nguyên vẹn, - vài hôm sau, Đi-na kể cho Đi-u-giép. Họ ngồi trên đỉnh lèn Kỳ diệu, trên một chiếc ghế dưới gốc cây thông rậm lá. Một đêm màu lam, thơm ngát mùi hương, vi vo tiếng muỗi, trùm lên trên dòng sông bị chinh phục. Một đêm thanh khiết, đêm mùa hè ấy, ở giữa rừng tai-ga, mà những ánh sáng ở công trường và những ngọn lửa hàn lập lòe hầu như không thay đổi được màu sắc thiên nhiên của nó. Trước đây, lúc mới khởi công, những bàn tay thân thiết của những người nào đó đã làm nên chiếc ghế này trên cao nguyên thu nhỏ lại. Từ đó nó là nơi ẩn náu của những cặp tình nhân và những người mơ mộng. - Toàn thân cô ấy đều bị thương, ruột đứt, xương gãy. Tuy vậy, cô ấy vẫn cố nói điều gì đó, - Đi-na nói tiếp, mắt thẫn thờ. - Em cúi xuống và đoán ra hơn là nghe thấy những lời cô ấy thều thào: “Cháu bé, cháu bé...” Cô ấy lo cho con. Anh Pa-ven, thật là sung sướng biết bao được nói với cô ấy: “Cháu còn sống!” Em cho đem đến máu sinh mệnh bé tí bọc trong tã bông lấy trong lồng ấp trẻ sơ sinh ra. Pa-ven, anh sẽ không tin em, vì phải là phụ nữ mới tin được điều đó. Này nhé, con mắt nguyên vẹn trên bộ mặt sưng phù, đẫm máu ấy biểu lộ một niềm vui, vâng, một niềm vui. Một ảo ảnh, anh sẽ nói với em thế chứ gì? Ổ, không, không phải đâu anh ạ!. . Em vô cùng xúc động. Đi-na cắn môi. Chị nhìn mỏm Đầu bò ở bên kia sông, giống như vẽ bằng mực tẩu lên nền đêm màu xanh nhạt - Anh có biết Va-xi-li-xa ví Ma-ri-a với con gì không? Con tu hú. Lần này thì cô bé đã nhầm, phải không anh? Có thật người ta quyết định chôn cô ấy ở công viên Anh Hùng, bên cạnh những người du kích đưa từ rừng tai-ga về không? - Ông cụ bảo thế. - Có thật Ông cụ cử anh đến U-xchi-Tséc-na-va để chỉ huy chi nhánh của công trường không?   Mời các bạn đón đọc Trên Bờ Sông Hoang Vắng của tác giả Boris Polevoi.
Trần Trụi Giữa Bầy Sói - Bruno Apitz
Trần trụi giữa bầy sói là một trong những tác phẩm nổi tiếng sau đại chiến thứ hai, được dịch ra hai mươi thứ tiếng và trở thành một sự kiện văn học. Trần trụi giữa bầy sói xoay quanh một câu chuyện rất bình thường. Một chú bé Do Thái Ba Lan được cứu thoát khỏi tay phát-xít Đức, khi chúng đang điên cuồng tàn sát những người dân Do Thái Ba Lan ở Vacsava. Chú bé được bỏ vào một chiếc va ly cho một tù nhân xách đi và được đưa đến Bukhânvan. Sự có mặt của đứa bé gây ra biết bao nguy hiểm cho năm vạn tù nhân sống trong trại, vì bọn phát-xít sau khi đánh hơi thấy đứa bé đã sục sạo đi tìm những dấu vết của tổ chức Đảng đang lãnh đạo các tù nhân trong trại. Câu chuyện tuy bình thường như vậy nhưng nó xúc động người đọc mãnh liệt vì tác giả bố trí nó chặt như một vở bi kịch và nêu lên được cái đẹp, cái cao thượng vô song của con người. Đây không chỉ là một cuốn sách hay, mà còn có một giá trị to lớn. Như nhiều nhà phê bình nhận định, nó đề cập đến chính vấn đề phong cách của tiểu thuyết hiện đại, và là một trong những hướng giải quyết táo bạo nhưng thành công. *** THƯ CỦA TÁC GIẢ GỬI ĐỘC GIẢ VIỆT NAM Cuốn sách của tôi kể lại cuộc đấu tranh của các tù nhân, trong trại tập trung Bukhânvan để cứu một đứa trẻ Ba Lan; đứa trẻ đó được đưa nào trong trại, bất chấp muôn ngàn nguy hiểm. Nhưng mục đích của cuốn sách còn nhằm xa hơn nữa: nó muốn nói lên cái đẹp về tinh thần của con người bênh vực cho con người và làm nổi bật sự vĩ đại của con người. Nó muốn ca ngợi tình đồng chí giữa những con người của bao nhiêu dân tộc châu Âu đằng sau những hàng rào dây thép gai mắc điện cao thế - tình đồng chí có một không hai trong lịch sử. Cuốn sách cũng muốn kể lại sự chiến thắng của con người đối với bản tính thú vật của bọn phát xít. Hạt mầm của lòng bác ái mà hàng triệu con người khi chết xuống đã vùi theo họ trong mảnh đất đẫm máu ở Bukhânvan, ngày nay lại bùng nổ lên trong cuộc chiến đấu của các dân tộc chống kẻ thù, những kẻ mang thảm họa tới cho nhân loại. Tôi chỉ là mật con người bình thường nên mục đích cuốn sách của tôi cũng bình thường: đó là Hòa bình và Hạnh phúc cho hết thảy mọi người. Đem dịch nó ra tiếng nước ngoài, cũng không cần phải có nghệ thuật lắm mới làm nổi, vì mọi người tất sẽ hiểu được nó. Berlin tháng 6 năm 1962 BRUNO APITZ *** TRẦN TRỤI GIỮA BẦY SÓI là một trong những tác phẩm nổi tiếng sau đại chiến thứ hai. Xuất bản lần đầu tiên năm 1958 với 60 vạn cuốn ở Cộng hòa dân chủ Đức, cùng năm ấy tác phẩm này được Chính phủ Cộng hòa dân chủ Đức tặng giải thưởng Văn học Quốc gia, được tái bản liên tiếp ngay cả ở Tây Đức, được dịch ra hai mươi thứ tiếng rà trở thành một sự kiện văn học được nhiều người bàn đến ở châu Âu. Tác giả cuốn sách, Brunô Apitz (1900 - 1979), xuất thân từ một gia đình công nhân ở Laixich, một trung tâm công nghiệp lớn ở Đức. Con người ấy suốt đời là một chiến sĩ chống bọn gây chiến. Trong đại chiến thế giới lần thứ nhất, ông bị giam hai năm vì tuyên truyền hòa bình. Năm 1934 ông lại bị bọn Hítle bỏ tù vì hoạt động chống phát-xít. Ba năm sau ông là một trong những tù nhân đầu tiên bị bọn phát-xít đưa đến Bukhânvan[1] để xây dựng trại tập trung khổng lồ nhốt hàng vạn người. Ông đã ở đấy mãi cho đến khi Hồng quân đánh bại phát-xít Đức, và là một trong những tù nhân cuối cùng của địa ngục Bukhânvan. Phải có nước Cộng hòa dân chủ Đức, người công nhân đã hy sinh tất cả tuổi trẻ của mình trong các nhà tù ấy, mới thành một nhà văn. Ông viết báo, được cử làm chủ nhiệm một nhà hát của nước Cộng hòa dân chủ Đức. Năm 1950 ông làm biên tập cho hãng phim Đêfa và đã chuyển thể quyển tiểu thuyết này thành kịch bản để xây dựng thành phim. Từ mười mấy năm nay đã có rất nhiều tác phẩm viết về các trại tập trung của phát-xít Đức, nhưng không tác phẩm nào để lại cho độc giả ấn tượng mãnh liệt như Trần trụi giữa bầy sói. Điều đó có nhiều nguyên nhân. Một nguyên nhân chủ yếu là vì tác giả của quyển tiểu thuyết này là một chiến sĩ. Là một chiến sĩ nên đối với ông, Bukhânvan không phải chỉ có lò đốt xác, có boong-ke, trại giam, có tháp canh, hàng rào dây điện cao thế, có lũ phát-xít hoành hành bắn giết tra tấn và hàng vạn tù nhân đói khổ, đau ốm, chết chóc và nếu còn sống sót thì kiếp sống cũng chẳng hơn gì thú vật. Điều đó là hiển nhiên. Nhưng còn có điều quan trọng hơn, và là trung tâm sự chú ý của Brunô Apitz. Đó là sự vĩ đại của con người, tình đồng chí “có một không hai trong lịch sử” của hàng chục dân tộc. Con người ở đây “trần trụi” thực đấy, nhưng họ gắn bó với nhau, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Đảng có mặt mọi nơi. Hơfen, một nhân vật trong chuyện, nói: “Nếu chúng mình sống sót ra khỏi nơi đây, tôi sẽ chịu trách nhiệm trước Đảng về việc ấy, anh có thể tin như vậy”. Thì Krêmơ nghiêm nghị nhìn vào mặt Hơfen: “Đảng ở ngay đây”. Đảng ở ngay đây, ở ngay Bukhânvan, đó mới là chủ đề của cuốn truyện, ở đây không phải chỉ có đàn sói mà còn có con người, tuy bên ngoài ai cũng như ai đều mặc áo tù kẻ sọc, nhưng bên trong, đó là những con người lớn, đoàn kết, kỷ luật, sáng suốt, kiên nhẫn, mạnh hơn cái chết. Nội dung Trần trụi giữa bầy sói xoay quanh một câu chuyện rất bình thường. Một chú bé Do Thái Ba Lan được cứu thoát khỏi tay phát-xít Đức, khi chúng đang điên cuồng tàn sát những người dân Do Thái Ba Lan ở Vacsava. Chú bé được bỏ vào một chiếc va-li cho một tù nhân xách đi và được đưa đến Bukhânvan. Sự có mặt của đứa bé gây ra biết bao nguy hiểm cho năm vạn tù nhân sống trong trại, vì bọn phát-xit sau khi đánh hơi thấy đứa bé đã sục sạo đi tìm những dấu vết của tổ chức Đảng đang lãnh đạo các tù nhân trong trại. Câu chuyện tuy bình thường như vậy nhưng nó xúc động người đọc mãnh liệt vì tác giả bố trí nó chặt như một vở bi kịch và nêu lên được cái đẹp, cái cao thượng vô song của con người. Thời gian trong Trần trụi giữa bầy sói là thời gian của một vở kịch. Tác giả miêu tả Bukhânvan trong những ngày cuối cùng của nó. Sự việc xảy ra trên dưới một tháng. Ở trang đầu là tháng ba năm 1945, quân Mỹ vượt qua sông Rainơ, biên giới Đức, ở quãng Rêmagân là Hồng quân ào ạt tiến vào đất Đức. Và cứ thể: Haau, Opênhaimơ, Katxen, Aidơnăc... rồi ngày 8 tháng 4 tới Ecfuôc, và cuối cùng quân đồng minh ở cách trại giam 12 cây số và cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Bukhânvan. vấn đề đối với trại Bukhânvan là làm sao theo dõi được tin tức bên ngoài và tìm cách giành giật từng giờ từng phút, vì tương lai thuộc về họ cho nên họ càng trì hoãn được phút nào là họ tiến gần đến thắng lợi phút ấy. Không khí do đó càng ngày càng nồng nặc mùi thuốc súng. Trong những giờ phút ấy, tất nhiên con người càng dễ lộ bản chất của mình. Bọn phát-xit càng điên cuồng, lồng lộn, tàn ác, tìm cái khoái trá trong việc tra tấn, kìm kẹp, bắn giết, nhưng lại càng hốt hoảng, nhớn nhác, tìm cách tháo thân. Đối lập với chúng, Đảng Cộng sản càng nêu cao tinh thần kỷ luật, kiên quyết, sáng suốt lợi dụng thời cơ, ráo riết chuẩn bị. Chính trong khoảng thời gian ấy, cơn lốc của cuộc sống lôi cuốn mọi sự việc diễn biến rất nhanh, khiến từng giờ từng phút phải đối phó, đặt kế hoạch, tranh cãi, quyết định. Người ta không còn thì giờ nghĩ đến quá khứ, không còn thì giờ để hồi tưởng, mơ màng. Toàn bộ tác phẩm chỉ có hai cảnh nhắc đến quá khứ, nhưng trong một trăm trang đầu đã có tới sáu mươi cảnh khác nhau, trong đó người ta phải vật lộn với những vấn đề trước mắt. Biến cố xảy ra dồn dập với tốc độ của tia chớp. Jankôpxki đưa đứa bé vào trại, Hơfen phát hiện, Pipich đem giấu, Rôsơ bắt gặp, Bôkhâu ra lệnh: nó phải ra khỏi trại, Hơfen băn khoăn… Thế rồi người giữ đứa bé lại, người tìm ra nó, người đem giấu nó... Biến cố này chưa hết, biến cố khác đã xảy tới, trong khi bên ngoài là máy bay oanh tạc ầm ầm, và xa hơn nữa, những đoàn quân đang rầm rộ tiến. Cuộc sống ở đây căng thẳng đến nỗi các đồng chí trong ủy ban quốc tế các trại tập trung (ILK) không nhớ đứa bé làm cả trại khốn đốn kia là con trai hay con gái nữa cũng như chúng ta dễ dàng quên rằng mụ Horten có cái bộ ngực núng nính là người đàn bà duy nhất trong truyện. Đọc Trần trụi giữa bầy sói, không ai có thể quên những con người bảo vệ danh dự cho dân tộc Đức, Hơfen, Suyp, Pipich, Krêmơ anh chàng Ba Lan Krôpinxki, và những người lãnh đạo ủy ban quốc tế các trại tập trung; Bôkhâu, Bôgoxki, Riômăng, Van Đalen, Kôđixec. Họ khác nhau về tính tình, có người nôn nóng, có người trầm lặng, có người bao giờ cũng bình tĩnh, có người vui vẻ, có người lạnh lùng. Nhưng tất cả đều mang trong người tình nhân đạo cao quý. Cái gì đã khiến Hơfen giữ đứa bé lại, cái gì bắt Krêmơ làm ngơ không kiểm soát công việc của Hơfen, cái gì làm Hơfen đau khổ hơn là bị tra tấn khủng khiếp, cái gì làm Pipich sung sướng khi sắp chết vì đã kịp thời giấu súng. Họ không phải không có khuyết điểm hưng họ vẫn là những hình ảnh đẹp vô cùng. Đó là bài ca về cái đẹp của con người. Càng về sau, tính chất anh hùng ca càng nổi bật. Nếu ở nửa đầu tác phẩm, chủ yếu là miêu tả tâm trạng của cá nhân, thì nữa sau dành cho việc miêu tả hành động của quần chúng. Quần chúng trì hoãn việc dời trại, quần chúng che giấu 46 “nạn nhân” của thần chết, quần chúng bảo vệ đứa bé khiến cho Kluttich tuy đứng trước mặt nó mà không dám làm gì, đành phải rút lui và cuối cùng quần chúng khởi nghĩa. Có thể nói ít người có được ngòi bút khách quan hơn Brunô Apitz trong việc miêu tả nhân vật và sự kiện. Khi nói đến bè lũ phát-xít, tác giả không có một nét nào là biếm họa. Ông cẩn thận cân nhắc trong việc miêu tả, chú ý đến dáng điệu, cử chỉ, thái độ của từng đứa, cũng với tất cả sự quan tâm như đối với những đồng chí của mình. Người ta thấy cái lưỡi thè lè của Xvailinh; cái vẻ lịch sự dịu dàng che giấu một sự đểu giả tàn ác của Rainơbôt, ngay trong lúc tra tấn tù nhân y vẫn còn giữ cái vẻ lịch sự mềm mại của những động tác thể thao; cái tên man rợ Mandrin chuyên việc tra tấn người, càng nốc rượu vào thì lại càng tàn ác và tìm thấy trong việc tra tấn một thú vui khủng khiếp. Tên Svan có cái cằm phình ra, hay đi quanh cái bàn giấy to tướng, mở miệng là nói giọng ngoại giao; tên Kluttich thô bạo mở miệng là đòi bắn giết v.v... Ngay trong ngôn ngữ tác giả cũng để cho chúng biểu hiện được rõ cá tính của chúng. Người ta thấy đằng sau thái độ khách quan ấy là cái nhìn rất sáu sắc của một người đã sống một phần lớn đời mình trong việc theo dõi những kẻ thù của nước Đức và của thế giới. Ngay đối với các bạn, tác giả cũng vẫn giữ cái nhìn nghiêm khắc khách quan ấy. Brunô Apitz không gượng nhẹ họ, nếu trong óc họ nẩy ra những ý nghĩ khủng khiểp... Để cho Bôkhâu nghĩ đến cái chết của Hơfen và Hơfen nghĩ đến việc mình khó lòng chịu đựng được cảnh tra tấn nữa, để cho những con người nhân đạo nhất trên đời phải thốt lên: “Tại sao đứa bé kia không chết quách đi cho rồi”, tác giả làm người ta liên tưởng đến bút pháp của Secxpia, vị thầy của nghệ thuật. Người ta khó lòng khắt khe đối với những con cưng của mình hơn Apitz, nhưng kết quả sẽ không phải là làm giảm giá trị nhân vật. Trái lại, từ đó sẽ toát lên cái người ta thường gọi là lôgic khách quan của cuộc sống, tất yếu khách quan của hoàn cảnh và càng làm nổi bật cái tất yếu khách quan ấy thì cái thực, cái giả mới xuất hiện rõ, cũng như vàng, thau, chỉ có thể phân biệt bằng lửa chứ không thể đoán bằng mắt. Cuộc sống những ngày cuối cùng ở Bukhânvan tự bản thân nó là lửa. Cho nên đã xuất hiện thứ vàng cao nhất. Đã xuất hiện: chàng thợ xếp chữ Pipích, có đôi chân khuỳnh khuỳnh, nhỏ bé nhưng đến lúc hiểu sự thật thì anh dũng tuyệt vời; Krêmơ với đôi vai rộng đủ sức che chở cho toàn trại, với đầu óc sáng suốt, thần kinh tốt đến nỗi không còn có sự đe dọa, lừa bịp, không một biến cố nào vật ngã nổi; Bôgoxki với nụ cười vui vẻ, cười trong những lúc khó khăn nhất, Bôkhâu, con người của nguyên tắc, của tổ chức, nhưng nặng nề khối óc mà nhẹ về trái tim; Pribula sôi nổi, nôn nóng, luôn luôn đòi bạo động; Hơfen, con người xứng dáng với lời khen đẹp nhất của Bôgoxki: “Nghi ngờ Hơfen hóa ra nghi ngờ mình sao?”, “Chúng ta phải khỏe như Hơfen” v.v... Đặc biệt, trong tác phẩm đã xuất hiện cả một khối quần chúng vĩ đại, với trực giác được rèn luyện lâu dài trong những năm tù tội, với lòng tin sắt đá vào tổ chức, vào Đảng, ngay khi đứng trước cái chết cũng vẫn là một đội quân vô cùng anh dũng. Chính nhờ bút pháp khách quan ấy đã giúp cho tác giả tận dụng được vốn sống dồi dào của mình và vẽ lên được, tuy chỉ một mảnh của Bukhânvan thôi, nhưng một mảnh nóng hổi sức sống như trái tim của con người. Đối với văn hoc hiện tại, Trần trụi giữa bầy sói không chỉ là một cuốn sách hay, mà còn có một giá trị to lớn. Như nhiều nhà phê bình nhận định, nó đề cập đến chính vấn đề phong cách của tiểu thuyết hiện tại, và là một trong những hướng giải quyết táo bạo nhưng thành công. Trong nhóm chúng tôi, một người đã được nhìn thấy tận mắt Bukhânvan năm 1956. Trại tập trung Bukhânvan hiện nay đã được cải tạo thành một khu lưu niệm trưng bày những vết tích cũ. Từ những lò đốt xác cho đến những mớ tóc, những mảnh quần áo của tù nhân còn được giữ lại, từ những hàng rào thép gai đến những căn hầm đào dưới đất để trốn tránh, tất cả đều gợi lên cảnh của địa ngục trần gian, mà lịch sử loài người cho đến đại chiến thứ hai chưa từng được chứng kiến. Nếu như mỗi hòn đất, mỗi ngọn cỏ nơi đây có thể nói lên được, chúng sẽ kể lại không biết bao nhiêu thảm cảnh khó tưởng tượng; nhưng cuốn sách này của tác giả, theo chúng tôi nghĩ, đã có thể xứng đáng thay mặt cho những vật lưu niệm kia mà tố cáo trước loài người tiến bộ những hành vô cùng dã man của bọn phát-xít, nhắc nhở cho những người còn sống thêm cảnh giác trước những âm mưu thâm độc của bọn khát máu, đồng thời cũng là một bản anh hùng ca nói lên tinh thần bất khuất của tất cả các tù nhân, không kể là thuộc dân tộc nào, đấu tranh giành lấy quyền sống của con người, và sau cùng nói lên vai trò không thể thiếu của Đảng, của giai cấp công nhân, giai cấp tổ chức và lãnh đạo mọi cuộc đấu tranh để giành lấy quyền sống thiêng liêng ấy. Những người dịch Mời các bạn đón đọc Trần Trụi Giữa Bầy Sói của tác giả Bruno Apitz.