Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kim Ji Young, Sinh Năm 1982

Kim Ji Young, Sinh Năm 1982 là cuốn sách kể về cuộc đời của một người phụ nữ bị chứng rối loạn tâm lí sau sinh, tên là Kim Ji Young. Câu chuyện mở đầu bằng những dòng giới thiệu về cô - ở thời điểm hiện tại. Nếu tinh ý, độc giả sẽ có thể nhận thấy ở nhiều phân đoạn, tác giả thường gọi cả họ tên của nhân vật chính, lặp đi lặp lại chứ ít dùng đại từ thay thế. Đó là vì trong tiểu thuyết này tác giả đóng vai trò là một nam bác sĩ tâm lí trị liệu cho Kim Ji Young, và phần đầu được viết dưới dạng hồ sơ bệnh án của bác sĩ, mô tả chi tiết về bệnh chứng của bệnh nhân. Những trang viết dần hé lộ về cuộc đời tưởng như rất đỗi bình thường của thiếu phụ trẻ, từ khi cô sinh ra đến khi lấy chồng rồi sinh con như bao người phụ nữ Hàn Quốc rất bình thường khác. Các triệu chứng kì lạ của Kim Ji Young xuất hiện sau khi cô sinh con, có những lúc dường như cô không phải là một Kim Ji Young thực sự, mà đã hóa thân thành những người phụ nữ khác, lúc thành mẹ cô, lúc lại thành người bạn gái cũ của chồng... Dường như cái vỏ thân xác Kim Ji Young cùng lúc có rất nhiều người khác nhau cùng tồn tại, có người còn sống và có người đã khuất, nhưng điểm chung nhất là họ đều là phụ nữ. Kim Ji Young như người phát ngôn hộ những người phụ nữ ấy những lời tự đáy lòng, nhưng bản thân họ thì có lẽ sẽ không bao giờ tự dám nói: “Ông thông gia, tôi xin mạn phép được nói điều này. Chỉ có nhà ông là có gia đình thôi sao? Chúng tôi cũng có gia đình chứ. Ba đứa nhà tôi cũng chỉ có ngày lễ tết mới có thể gặp mặt nhau. Bây giờ cuộc sống của đám trẻ đứa nào chẳng như vậy. Nhưng nếu con gái ông đã về thăm nhà rồi, thì cũng phải cho con gái chúng tôi về thăm nhà chứ”. Nghe những lời ấy, những người sống quanh cô sững sờ, thậm chí là bị sốc, bởi cô đã nói ra một cách khá thẳng thắn, đòi lại công bằng cho phụ nữ trước đặc quyền mà từ trước đến nay gần như cả xã hội vẫn mặc nhiên dành cho nam giới. Kí ức sâu đậm nhất về tuổi thơ của Kim Ji Young là vị sữa bột ngọt ngào: “...mỗi khi mẹ pha sữa cho em, cô lại ở bên cạnh dùng nước bọt thấm ướt ngón tay rồi chấm những hạt sữa bột rơi trên sàn để ăn. Đôi khi mẹ cô sẽ bảo cô ngửa đầu lên và mở miệng rộng, rồi đổ một thìa sữa bột ngọt ngào đậm đà lên lưỡi cô...” Vị sữa ấy sẽ không thể khiến cô nhớ đến vậy, nếu nó không đi kèm với chuyện hễ cô bị bà nội bắt gặp cảnh cô ăn sữa thì sẽ lập tức bị bà cho ăn đòn, khiến sữa phun ra cả miệng lẫn mũi. “Có thể hiểu rằng biểu hiện đó của bà có nghĩa là tại sao chúng mày ‘dám’ đụng vào đồ của cháu trai quý giá của tao. Em trai và những gì thuộc về em là quý giá nhất, không một ai có thể tùy tiện đụng tới bất cứ thứ gì, Kim Ji Young cũng chỉ là ‘không một ai’ trong con mắt của bà. Và cả chị gái cô cũng vậy...” Còn mẹ cô, một người phụ nữ lớn lên trong gia đình làm nông, học xong tiểu học thì ở nhà làm lụng để các anh em trai được đi học tiếp, lớn hơn chút nữa, bà vào làm việc cực nhọc trong xưởng dệt, cùng chị gái bán sức lao động lấy đồng lương còm cõi để tiếp tục nuôi các anh em trai đi học đại học, xây dựng sự nghiệp riêng, để rồi cuối cùng nhận ra rằng trong gia đình và sự nghiệp của những người kia, họ không có chỗ đứng, họ trắng tay. Sau tất cả, những người đàn ông được cả xã hội công nhận là đã “một tay nuôi sống gia đình”, đã gánh vác giang sơn, đã làm nên công to việc lớn, và dĩ nhiên là không hề nhắc đến đồng tiền mồ hôi nước mắt của hai người phụ nữ đổi lấy bằng cả thanh xuân. Những người phụ nữ nhận thấy điều ấy, nên họ phải tự tìm đường sống cho mình, tự đi học, tự xây dựng cuộc sống, sau khi lấy chồng lại tiếp tục guồng quay, sinh con đẻ cái, làm lụng nuôi mình, nuôi chồng, nuôi con. Guồng quay cuộc sống ấy chúng ta có thể bắt gặp ở bất cứ đâu, quá quen thuộc đến nỗi cả xã hội coi đó là điều mặc nhiên phải thế, nam giới mặc nhiên được ưu tiên, còn phụ nữ mặc nhiên xếp hàng thứ yếu. Ngay từ khi còn là những đứa trẻ, họ đã được dạy như vậy, từ những việc nhỏ nhất: Xếp số ăn cơm thì con trai xếp trước, lớp trưởng cũng là con trai; bị quấy rối, sàm sỡ thì nạn nhân là người có lỗi... Một điều khá thú vị là những người phụ nữ được khắc họa trong tiểu thuyết này hiện lên rất đời thường, gần gũi, có thể bắt gặp hình ảnh họ ở bất cứ đâu trong cuộc sống, và họ không đối xử độc ác với nhau. Đây là một điều ít thấy, không có sự hãm hại, dèm pha, chơi xấu giữa những phận đàn bà như thường gặp trong các câu chuyện khác, mà chỉ thấy họ cố gắng để thấu hiểu và nâng đỡ nhau vượt qua đau khổ, tiếp tục duy trì cuộc sống: Cô giáo sau khi nghe học sinh khiếu nại đã đối xử công bằng và tạo điều kiện cho học sinh nữ hơn; người phụ nữ trên xe bus nhận ra mối nguy mà cô bé xa lạ trên xe bus muốn cầu cứu bà; người đồng nghiệp của Ji Young dám chống lại nạn quấy rối tình dục nơi công sở... Câu chuyện tưởng như bình thường mà hóa ra lại chẳng bình thường, bởi nó khiến chúng ta giật mình nhìn lại cuộc sống của chính mình, có phải chúng ta cũng là một Kim Ji Young? Có phải mẹ chúng ta cũng chẳng khác nào bà Oh Mi Sook? Có phải ta cũng đã từng gặp được người bênh vực chúng ta như người phụ nữ xa lạ trên xe bus? Và có khi nào ta tưởng như có thể phát điên, nếu không được bàn tay ai đó nắm lấy đồng cảm, như bà Oh Mi Sook khi nằm trên bàn phá thai?... Quả thực không phải ngẫu nhiên mà cuốn tiểu thuyết khá mỏng này lại có thể khiến cả xã hội Hàn Quốc xôn xao dậy sóng, thậm chí các sao lớn của làng giải trí Hàn Quốc cũng không đứng ngoài cuộc. Không chỉ dừng lại ở phong trào Metoo - phong trào ủng hộ những người phụ nữ từng bị quấy rối tình dục dũng cảm nói lên câu chuyện của mình, Hàn Quốc gọi nữ nhà báo Kang Kyung Hoon là “hung thần” của nhiều công ty cũng như nghệ sĩ của showbiz. Chính cô là người nắm giữ trong tay hàng loạt bằng chứng môi giới mại dâm, quay lén và rao bán phụ nữ, trẻ vị thành niên của ca sĩ bậc nhất xứ Hàn. Một lần nữa truyền thông Hàn Quốc lại đặt câu hỏi cho vị trí cũng như vấn đề an toàn trong môi trường sống dành cho phụ nữ. Hàng loạt các ngôi sao ngầm ủng hộ phong trào nữ quyền bằng việc chia sẻ các trích dẫn về cuốn sách Sinh năm 1982 - cuốn sách nữ quyền gây tiếng vang lớn tại Hàn Quốc, Nhật Bản. Nhà xuất bản Phụ nữ xin được giới thiệu tới độc giả cuốn tiểu thuyết nữ quyền dũng cảm và giàu tính nhân văn này, để nhận thức rõ hơn về vị trí của người phụ nữ cùng những bất công mà họ phải chịu đựng do tình trạng bất bình đẳng giới trong xã hội, cũng như khích lệ những người phụ nữ hãy sống dũng cảm hơn để đấu tranh cho cuộc sống của chính mình. Một số phản hồi, nhận xét của truyền thông Hàn Quốc “Trên thực tế, trong số những phụ nữ sinh năm 1982 ở Hàn Quốc thì Kim Ji Young là cái tên được đặt nhiều nhất. Sinh năm 1982, bây giờ đang ở độ tuổi giữa 30. Tựa đề Kim Ji Young born 1982 đã phản ánh được mục đích của tác giả khi viết cuốn tiểu thuyết này, đó là vẽ nên cuộc sống phổ biến của đại đa số phụ nữ đương đại”. (--Kim Go Yeon Ju, học giả về nữ giới--) “Tôi biết rất nhiều người phụ nữ cảm thấy mình trong đó. Thật sự rất đáng buồn khi họ thấy đồng điệu với nhân vật Kim Ji Young. Ước gì không ai thấy mình giống nhân vật đó!”  (--Noh Hong Chul, diễn viên--) “Mặc dù đây chỉ là một cuốn tiểu thuyết, nhưng câu chuyện bên trong rất chân thật. Tôi không thể ngừng đọc nó cho đến hết. Tôi biết chính xác những gì Kim Ji Young đã cảm nhận... biết đến từng giây mà cô ấy phải trải qua, từ bất hạnh, buồn đau và sợ hãi... Cho dù đó không phải là câu chuyện của tôi nhưng tôi vẫn cảm thấy Kim Ji Young như là một người bạn thân của mình. Và tôi chắc chắn rằng có rất nhiều Kim Ji Young đang sống xung quanh tôi.”  (--Park Shin Hye, diễn viên--) “Dành cho những người có hứng thú muốn hiểu hơn về tình cảnh của người phụ nữ trong xã hội Hàn Quốc hiện nay, cuốn tiểu thuyết nữ quyền mang tên ‘Kim Ji Young sinh năm 1982’ được viết bởi nhà văn Cho Nam Joo sẽ cho bạn thấy một cái nhìn tổng quan thực tế về vấn đề này. Cuốn sách này không giống như những cuốn sách thông thường, thiên về một chuỗi giai thoại ghép lại hơn là tiểu thuyết. Cốt truyện không mấy thú vị. Nhân vật chính Ji Young đến trường, có việc làm, lập gia đình, nghỉ việc và sinh con. Ngoài những điều thường nhật ra thì không còn gì xảy ra nữa. Nhưng đó mới chính là cốt yếu của toàn bộ câu chuyện. Tất cả những người phụ nữ đều là Ji Young. (Kim Ji Young là cái tên được đặt khá phổ biến cho con gái sinh năm 1982, vì thế đây cũng chính là tên của cuốn tiểu thuyết này) Ji Young không chiến đấu chống lại chế độ như một người vận động nữ quyền. Khi có một lão khách già nua phóng đãng bắt cô phải ra ngoài để đi uống rượu với lão thì cô sẽ không chọn cách đứng dậy, đổ ly nước lên đầu lão và rời đi. Mà cô sẽ vẫn ngồi yên và đưa ra những bình luận chính kiến của mình về phân biệt đối xử giới tính như những nữ công nhân trẻ khác cũng làm. Cơ bản thì cô cũng chỉ là phụ nữ trẻ tuổi bị cuốn vào một xã hội sống theo lối gia trưởng." (--Trích review từ dramasrok và được dịch lại từ IRAINvn--) Tôi luôn có cảm giác rằng Kim Ji Young đang thực sự sống ở đâu đó. Bởi cô ấy có quá nhiều điểm giống với những người bạn, những người chị và cả tôi. Lúc viết tôi luôn cảm thấy ngột ngạt và thương cảm cho Kim Ji Young. Nhưng tôi biết rõ cô ấy đã lớn lên như vậy, đã sống như vậy, không có cách thay đổi nào khác nên tôi cũng phải viết như vậy. Kim Ji Young luôn luôn thận trọng và nghiêm túc khi đưa ra quyết định và làm hết khả năng của mình vì sự lựa chọn đó, tôi nghĩ rằng cô ấy cần sự ủng hộ và đền đáp thỏa đáng. Chúng ta cần cho cô ấy nhiều hơn nữa những cơ hội và sự lựa chọn. Tôi có một cô con gái lớn hơn Ji Won năm tuổi. Con gái tôi nói lớn lên muốn làm nhà du hành vũ trụ, nhà khoa học và nhà văn. Thế giới của con tôi sẽ sống phải tốt đẹp hơn thế giới tôi đã sống, tôi tin vào điều đó và đang nỗ lực để hiện thực hóa điều đó. Tôi hi vọng tất cả những bé gái trên thế gian này sẽ có thể mơ ước nhiều hơn, mơ những giấc mơ lớn lao hơn. (--Cho Nam Joo--) Tác giả Cho Nam Joo Sinh năm 1978 tại Seoul. Tốt nghiệp khoa Xã hội học trường Nữ Ehwa và là biên kịch cho những chương trình truyền hình nổi tiếng như Sổ tay PD, Bất mãn zero, Truyền hình trực tiếp buổi sáng... trong suốt 10 năm. Các tác phẩm đạt giải thưởng: Tiểu thuyết Lắng tai nghe (giải thưởng văn học Munhakdongne, năm 2011) Vì Komaneji (giải thưởng văn học Hwangsanbyeon lần thứ 2, năm 2016). Dịch giả: Dương Thanh Hoài Tốt nghiệp khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Hàn Quốc - Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội; tốt nghiệp thạc sĩ Kinh tế, Viện nghiên cứu Hàn Quốc học Trung Ương, Hàn Quốc. Các tác phẩm đã dịch, in và phát hành tại Nxb Phụ nữ: Tiểu thuyết: Lời nói dối hoa mỹ, Mây họa ánh trăng (tập 1), Cảm ơn tất cả Truyện thiếu nhi: Con chính là điều kỳ diệu, Mẹ nổi giận, Nàng công chúa giả vờ không biết mọi chuyện, Những chú ngựa của mẹ, Con là hạt giống nào vậy nhỉ, series Pretty girl - Là con gái... *** [Review Sách] "Kim Ji Young Sinh Năm 1982": Cuốn Sách Nữ Quyền Làm Bùng Nổ Trào Lưu "Metoo" Ở Hàn Quốc Hàn Quốc luôn được biết đến là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển bậc nhất khu vực châu Á. Tuy nhiên trái ngược lại với kinh tế giàu mạnh, xứ sở kim chi lại được đánh giá là quốc gia còn mang nặng tư tưởng phong kiến và phân biệt đối xử với phụ nữ. Trước những bất cập xã hội ấy thì cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 ra đời và gây chấn động Hàn Quốc. Cuốn sách nữ quyền này đã giáng một đòn mạnh mẽ vào hệ tư tưởng lạc hậu và mở ra tương lai tươi sáng hơn cho những người phụ nữ đáng lý phải có được hạnh phúc. Em trai và những gì thuộc về em là quý giá nhất, không một ai có thể tùy tiện đụng tới bất cứ thứ gì, Kim Ji Young cũng chỉ là “không một ai” trong con mắt của bà. Và cả chị gái cô cũng vậy… Kim Ji Young Sinh sinh năm 1982 - người phụ nữ của một thế hệ Cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 của tác giả Cho Nam Joo kể từ khi ra đời đã gây được tiếng vang lớn tại quê nhà Hàn Quốc. Cuốn sách xoay quanh hành trình trưởng thành, lập gia đình, đối mặt với định kiến xã hội của nhân vật Kim Ji Young. Cuộc đời của cô được đánh giá là được xây dựng dựa trên cuộc đời của người phụ nữ Hàn Quốc trong xã hội hiện đại nhưng vẫn còn tư tưởng phong kiến.    Họ Kim là một người rất phổ biến tại Hàn Quốc. Cái tên Ji Young là cái tên được đặt phổ biến cho các bé gái chào đời vào những năm 80. Có thể nói như là cái tên  này đại diện cho thế hệ phụ nữ chào đời trong những ngày tháng Hàn Quốc còn chưa có những luật cần thiết để bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Và cho đến tận ngày nay họ còn phải gánh chịu sự bất bình đẳng giới. Vì vậy khi viết cuốn sách này, Cho Nam Joo không định kể lại cuộc đời của một người phụ nữ mà bà muốn khắc họa cuộc đời của phần đông phụ nữ Hàn Quốc. Cho Nam Joo bộc bạch: Tôi luôn có cảm giác rằng Kim Ji Young đang thực sự sống ở đâu đó. Bởi cô ấy có quá nhiều điểm giống với những người bạn, những người chị và cả tôi. Lúc viết tôi luôn có cảm giác ngột ngạt và thương cảm cho Kim Ji Young. Nhưng tôi biết rõ cô ấy đã lớn lên như vậy, đã sống như vậy, không có cách thay đổi nào khác nên tôi cũng phải viết như vậy.   Những bất công xã hội bắt đầu đổ xuống cuộc đời của mẹ của Kim Ji Young, bà Oh Mi Sook. Thuở thiếu thời, bà Oh Mi Sook phải nghỉ học làm công nhân và dành dụm tiền làm thuê để nuôi những người anh và em trai của mình đi học. Không chỉ có bà mà những người phụ nữ sống ở thời đại đó đều vậy. Họ sẽ phải từ bỏ tương lai của mình chỉ vì họ là phụ nữ. Họ phải dành hết cả công sức của mình để tìm đến những điều kiện tốt đẹp nhất cho những người anh, em trai trong nhà. Sau đó những người em, anh của bà đều có công việc ổn định. Người anh cả của bà làm bác sĩ, em thứ làm cảnh sát và em út làm giáo viên. Nhưng sau đó thì họ cũng dần thành gia lập thất. Họ phải chăm lo cho gia đình của mình và không thể thể báo đáp công ơn của bà Oh Mi Sook nữa. Vì chỉ hết tiểu học nên bà có cuộc sống rất khó khăn. Sau khi bà Oh Mi Sook kết hôn thì bà sinh được hai đứa con gái là Kim Ji Young,  Kim Eun Young và một con trai. Những đứa con gái của bà được đối xử bình đẳng hơn thời của người mẹ. Kim Ji Young và chị gái Kim Eun Young được đến trường, được đi học và hưởng những quyền lợi cần thiết. Chính phủ Hàn Quốc đã có những sự cải cách mạnh mẽ điểm xóa bỏ sự bất bình đẳng giới. Nhưng điều này chỉ khá hơn so với trước đây nhưng không có nghĩa là xã hội Hàn Quốc đã hoàn toàn bình đẳng nam nữ. Những dấu hiệu của sự không công bằng giữa nam và nữ được khắc họa trong cuốn sách từ gia đình đến xã hội đều vô cùng chân thật. Lúc còn nhỏ chị em Kim Ji Young luôn phải dành những thứ tốt đẹp nhất cho em trai của mình. Ăn cơm cũng phải để em trai ăn trước, cặp sách đi học của em trai luôn lành lặn còn của hai chị em cô thì lại là đồ cũ. Tương lai và kỳ vọng của cả gia đình điều đặt lên vai của người con trai. Có lẽ tư tưởng "Con gái gả đi rồi như nước đã đổ đi" khó mà thay đổi được trong xã hội Hàn Quốc hiện đại. Ở trường học theo tỉ lệ lớp trưởng là nam chiếm tối đa. Dù các giáo viên ở đây có thói quen chọn ra mỗi lớp vài bạn nữ để chạy việc vì họ cảm thấy nữ sinh chăm chỉ hơn nhưng họ không chọn lớp trưởng là nữ. Trong những năm sau nhờ chính sách mới mà tư duy xã hội thay đổi, tỉ lệ lớp trưởng là nữ đã tăng dần. Những con số trong này vẫn chiếm rất ít so với tỷ lệ lớp trưởng là nam. Nhưng có lẽ những sự phân biệt ấy là rất là quá nhỏ so với những thái độ của mọi người khi những nữ sinh bị quấy rối. Hàng loạt những vụ quấy rối nữ sinh đến từ những kẻ lạ mặt thường xuyên đi lại quanh trường. Khi ấy những nữ sinh đã dũng cảm đứng lên tố giác những kẻ quấy rối thì lại phải chấp nhận những ánh mắt kỳ thị. Chỉ vì các cô bé đã dám nói lên những tội ác mà những người xấu đã làm mà bị xem là không biết xấu hổ. Vì cái tâm lý "tốt khoe xấu che" ấy mà những quyền lợi cơ bản nhất của những nữ sinh đã bị xâm phạm nghiêm trọng. Bất bình đẳng giới ảnh hưởng đến tương lai và cơ hội việc làm của phụ nữ Hàn Quốc Khác với Việt Nam, ở Hàn Quốc cơ hội việc làm không hề bình đẳng giữa nam và nữ. Phụ nữ có rất ít cơ hội việc làm, nhất là những công việc có chế độ đãi ngộ tốt. Lý do mà các doanh nghiệp đưa ra nhằm giải thích cho việc này là do người đàn ông có thể đảm đương được công việc tốt hơn. Họ không phải lo lắng về việc gia đình, chăm sóc con, chăm sóc cha mẹ già, họ không giống như phụ nữ. Phụ nữ sau khi lấy chồng phải chăm sóc cho cha mẹ chồng. Khi họ mang thai cần thêm chế độ đãi ngộ, họ phải nghỉ một khoảng thời gian để nuôi con. Khi con ra đời họ phải dành hết thời gian của mình để chăm sóc con nhỏ. Phần nhiều doanh nghiệp cho rằng phụ nữ có nhiều thứ phải lo nên họ không thể tập trung cho công việc được. Một lí do cũng quan trọng không kém là vì tư tưởng người đàn ông có năng lực, trí lực hơn người phụ nữ vẫn còn nặng trong xã hội xứ sở kim chi.   Trên một trang web thông tin tuyển dụng đã đưa ra kết quả điều tra tỷ lệ tuyển dụng lao động nữ khoảng 100 doanh nghiệp thì tỷ lệ này chỉ ở mức 29,6%[…] người ta vẫn nói rằng tỷ lệ nữ như vậy là khá cao! Trong 50 tập đoàn lớn thì có đến 44% trả lời rằng “nếu ứng viên có điều kiện tương tự nhau thì sẽ chọn ứng viên nam” và không một ai trả lời rằng “sẽ chọn ứng viên nữ”. Cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 đã khắc họa rõ nét hình ảnh của người phụ nữ Hàn Quốc trong công việc. Kim Ji Young đã từng rất chật vật sau khi ra trường vì không tìm được việc làm. Trong một lần đậu vòng phỏng vấn cô đã rất vui vẻ và hy vọng. Nhưng sự hy vọng của cô đã nhanh chóng tan biến bởi câu hỏi tình huống mà bên công ty đưa ra: Cuối cùng một giám đốc nam tầm tuổi trung niên ngồi ở vị trí xa nhất nãy giờ chỉ gật đầu mà không nói gì đặt ra một câu hỏi: "Giả sử các bạn tới tham dự một buổi gặp đối tác. Tìm đối tác của các bạn lại cứ liên tục, như thế này, đụng chạm thân thể bạn. Ví dụ như khoác vai, hoặc sờ đùi. Những việc đại loại như thế. Các bạn hiểu chứ hả? Trong trường hợp như vậy các bạn sẽ làm thế nào? Bắt đầu từ Kim Ji Young đi." Câu hỏi này dành cho ba ứng viên cùng tham gia phỏng vấn là Kim Ji Young và hai ứng viên nữ khác. Cả ba người đều có phong thái lịch sự, nhã nhặn và có trình độ học vấn tốt. Vì trình độ ngang nhau nên ai được nhận vào công ty sẽ quyết định bởi câu trả lời tình huống này. Đây là một câu hỏi phản ánh tình trạng chung của nạn xem thường phụ nữ tại Hàn Quốc. Cả ba ứng viên đều đưa ra những câu trả lời khác nhau. Một ứng viên nữ thì nói rằng sẽ xem lại bản thân ăn mặc có không phải phép không và xin lỗi người quấy rối mình để bảo toàn công việc. Một ứng viên khác thì quyết liệt hơn nói rằng sẽ không tha cho hành vi quấy rối của người đối tác, sẽ truy tố đến cùng dù cho có bị đuổi việc. Còn Kim Ji Young thì nói rằng cô sẽ viện cớ đi vệ sinh hoặc lấy tài liệu để tránh thái độ của đối tác vừa không làm tổn hại đến lợi ích của công ty. Không lâu sau thì Kim Ji Young nhận được kết quả là mình đã trượt phỏng vấn. Cô cứ nghĩ rằng ứng viên đã kiên quyết từ chối hành động quấy rối sẽ là người được tuyển vào công ty. Vì cô ứng viên này quá dũng cảm. Tuy nhiên khi cô gọi điện hỏi nhân viên trong công ty rằng ai là người đậu thì câu trả lời là có ba đều trượt. Trong thực tế thì cách tốt nhất để giải quyết câu hỏi tình huống ấy chính là không tuyển nhân viên nữ. Như vậy sẽ không xảy ra những vụ quấy rối nhân viên nữ của đối tác. Từ đó giảm tối đa thiệt hại của công ty. Cuốn sách bán được hơn 1 triệu bảng làm sống dậy hashtag #metoo Cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 bắt đầu nổi tiếng tại Hàn Quốc sau những vụ bê bối về những đường dây phát tán những đoạn clip nhạy cảm về phụ nữ của những nghệ sĩ nổi tiếng hàng đầu. Cùng với đó là việc phát hiện hàng trăm trang web đen quay lén phụ nữ. Điều này được thể hiện rõ trong cuốn sách khi nhà vệ sinh nữ trong công ty cũ của Kim Ji Young bị gắn camera quay lén và phát sáng lên mạng thì những người đầu tiên biết việc này đã không tố giác. Đó chính là những nam nhân viên đã xem những tấm ảnh này. Họ lén lút chuyền tay nhau xem mà không có một chút cảm giác tội lỗi. Sau khi sự việc được phơi bày, những nhân viên nữ đã rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Dù cố gắng vui vẻ khi đến công ty nhưng lúc nào cũng có cảm giác như sắp phát điên. Chỉ cần chạm vào một người không quen biết cũng có cảm giác như người ta đã xem ảnh của mình, ai đó cười thì nghĩ họ đang cười mỉa mình, lúc nào cũng thấy như tất cả mọi người đều biết mình. Các nhân viên nữ đa số đều phải uống thuốc, gặp bác sĩ tâm lý. Còn nữa, Jung Un vì uống thuốc ngủ mà phải cấp cứu đấy. Thậm chí có người đã nghỉ việc vì không chấp nhận được những sự sỉ nhục và xem thường ngầm ấy. Có lẽ khó tin nhưng một đất nước có nền kinh tế phát triển như Hàn Quốc lại luôn tồn tại hàng trăm web đen có nội dung quấy rối phụ nữ. Và số lượng người xem những trang web này không hề nhỏ. Sự bất bình đẳng nam nữ này đã đẩy nhiều người phụ nữ vào cái chết. Sự việc rúng động gần đây là cái chết của nữ thần tượng Sulli. Sulli đã tự sát tại nhà riêng vì căn bệnh trầm cảm kéo dài. Nổi tiếng là một nghệ sĩ xinh đẹp nhưng Sulli thường xuyên bị cộng đồng mạng chỉ trích vì phong cách ăn mặc của mình. Thậm chí sau khi cô tự sát thì người đồng nghiệp Bang Min Ah đã lòng tỏ tiếc thương trên mạng thì lại bị một số người dùng tấn công bằng lời lẽ thô bỉ trên internet. Bên cạnh sự tiếc thương vô bờ thì sự ra đi tuyệt vọng của Sulli cũng khiến một bộ phận người mang tưởng phong kiến cảm thấy không có gì để tiếc. Sáu tháng sau ngày Sulli qua đời, bạn thân của cô là Goo Hara đã tự sát vì những sự xem thường phụ nữ và bất bình đẳng giới phải chịu đựng. Có thể thấy sự bất bình đẳng nam nữ đã gây ra những hậu quả tiêu cực. Đồng thời những định kiến ấy đã người phụ nữ đến bước đường cùng. Có thể thấy cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 không chỉ được viết ra để mở mang kiến thức như những cuốn sách khác. Cuốn sách được sinh ra để thức tỉnh và thay đổi xã hội. Kim Ji Young Sinh Năm 1982 đã bán được hơn 1 triệu bản tại Hàn Quốc và rất nổi tiếng tại Nhật Bản, Đài Loan và Việt Nam. Cuốn sách nổi lên và làm sống dậy trào lưu #Metoo rúng động Hàn Quốc. Đó là trào lưu "Tôi cũng vậy", "Tôi đã từng sống và bị quấy rối như vậy". Phụ nữ đã không còn e dè mà dũng cảm lên tiếng tố cáo những tội ác. Phụ nữ đã chịu đựng quá nhiều bất công nhưng từ nay sẽ không bao giờ yếu đuối. Càng không bao giờ từ bỏ ước mơ và tương lai của mình. Tấm bản đồ thế giới trong phòng của chị em Kim Ji Young chính là biểu tượng tươi đẹp cho tương lai của những người phụ nữ. Dẫu trải qua bao sóng gió họ vẫn luôn lạc quan và tin rằng bản thân sẽ vượt qua tất cả. Họ tin rằng sẽ vượt qua những định kiến khắc nghiệt để xây dựng lên ước mơ bằng chính đôi tay của mình.   Một vài miếng sticker hình trái tim màu xanh lá cây và xanh dương được dán lên tấm bản đồ cũ kỹ với những vệt gấp giấy. Những miếng sticker đó để biểu hiện vị trí những đất nước mà Kim Eun Young muốn đi, cô cũng đưa cho cả Kim Ji Young để dán trang trí sổ nhật ký nữa. Kể từ khi cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 xuất hiện thì Hàn Quốc nổi lên trào lưu cắt tóc ngắn và để mặt mộc. Họ sẽ không để bất cứ ai đánh giá mình dựa trên vẻ bề ngoài. Phụ nữ hiện đại Hàn Quốc không cần phải ép mình xinh đẹp bằng cách phẫu thuật thẩm mỹ hay trang điểm. Điều này đi ngược lại so với trước đây. Ở Hàn Quốc, phụ nữ không xinh đẹp mà không phẫu thuật thẩm mỹ thì khó mà xin được việc làm. Bất chấp định kiến họ sẽ luôn đấu tranh, vì họ tin rằng có một ngày không xa người phụ nữ trong xã hội Hàn Quốc sẽ được đối xử một cách công bằng và họ sẽ tìm được hạnh phúc. Cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 của Cho Nam Joo đã làm cảm động biết bao trái tim của những người ủng hộ xã hội công bằng và bình đẳng. Cuốn sách đã góp phần truyền động lực sống mạnh mẽ cho những người phụ nữ bị đối xử bất công ở xứ kim chi. Tìm ẩn trong từng trang sách ấy luôn là lòng tin về tương lai tươi đẹp hơn sẽ đến với họ vào một ngày không xa. Review bởi Trần Hạnh - Bookademy Mời các bạn đón đọc Kim Ji Young, Sinh Năm 1982 của tác giả  Cho Nam Joo & Dương Thanh Hoài (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiền - Thư Tuyệt Mệnh
Đúng như nhan đề, tác phẩm kinh điển ra đời năm 1984 này là câu chuyện về tiền, những kinh khủng mà tiền gây ra, những tai ương mà tiền mang lại. Nhân vật trung tâm là John Self, kẻ đã sống một đời không tiết chế. Qua lại giữa London và New York, hắn thương thảo hợp đồng, tiêu xài vung tay và thực hiện những thương vụ liều lĩnh trong thế giới phim ảnh, đồng thời quơ cào mọi thứ có thể để thỏa mãn cho khẩu vị vô độ của mình: rượu, thuốc lá, thuốc an thần, văn hóa phẩm đồi trụy, thức ăn nhanh cùng vô số thứ tàn hại sức khỏe. Được kể theo lối độc thoại và gần như không có cốt truyện, tác phẩm vẫn chiếm vị thế nổi bật bởi những phẩm chất không dễ gặp: sắc sảo lộng óc, khôi hài cùng cực và lạc quan sâu sắc. Martin Amis từng cho rằng thước đo duy nhất để xác định thành công của một nhà văn là họ có còn được đọc sau 50 năm hay không. Đến nay, 33 năm kể từ lần xuất bản đầu tiên, Tiền - Thư tuyệt mệnh vẫn chia sẻ với độc giả những mối quan ngại đương thời sâu xa. Từ thời điểm ra đời, tác phẩm được xếp vào top 100 cuốn tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất kể từ năm 1923. *** Trong tiểu thuyết Tiền, Jonh Self là kẻ kể chuyện, chính xác là lảm nhảm những câu chuyện trời ơi đất hỡi của hắn với đầy đủ những trạng huống hỉ, nộ, ái, ố... đẩy người đọc vào một vòng tròn vòng vèo, xoay quanh cuộc di chuyển của hắn giữa London và New York. Trong Tiền, John Self là kẻ theo đuổi đam mê cá nhân với sự quan tâm thấp hoặc không hề có đối với cộng đồng rộng lớn, kéo mình qua một chu kỳ tích lũy, tiêu dùng và cuối cùng là sự thỏa mãn – mô hình hoàn hảo cho một người đàn ông trưởng thành trong thời buổi hàng hóa. Bản thân John Self là một người đàn ông được nuôi nấng trên nền văn hóa tiêu dùng, với những câu chuyện nhảy từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác một cách vô tội vạ, và anh ta dường như chính là kẻ có cách sống không có hệ tư tưởng nào.   Tiền là một cuốn sách châm biếm bậc thầy ở mọi thời đại, một cuốn sách hài hước tột bậc, thô tục khôn cùng, lấy cảm hứng từ một nghiên cứu tăm tối về sự cám dỗ của đồng tiền, với đầy những tham lam và phá hoại. Amis sở hữu một sự tinh tế thầm kín về ngôn ngữ. Thể hiện sự hâm mộ Nabokov một cách đầy tự tin, Amis chào Nabokov bằng một hệ thống tường thuật sự méo mó vô cùng đồ sộ và tinh xảo được tính toán rành mạch, thể hiện được phong cách làm chủ, đối thoại sắc bén và mạch lạc về ý nghĩa. Một cuốn sách đến hôm nay vẫn mang đậm hơi thở của thời đại, trong sự xoay sở trở mình vì tiền, loanh quanh những mối bận tâm vì tiền, sống chết vì tiền. Một cuốn sách vừa bủa vây, vừa thức tỉnh con người bởi vô vàn những lẫn lộn giữa thật giả xấu tốt. Tiền thành công không chỉ bởi đã tạo nên được một không khí xã hội luôn trong trạng thái thời thượng, mà hơn thế, Tiền còn giúp độc giả được thưởng thức một cuộc giao hoan chữ nghĩa, như một mê cung, để thỏa sức khám phá, để liên tục trải qua những cuộc sung sướng choáng ngợp mà chiêm ngưỡng tài năng của một bậc thầy ngôn ngữ. Nếu bạn yêu thích Nabokov, yêu thích dòng văn chương hậu hiện đại phá bỏ mọi nguyên lý cơ bản về câu chuyện, chấp nhận dấn thân vào một cuộc chơi đầy thách thức của từ ngữ, thì Tiền là cuốn sách không thể bỏ qua.  *** Martin Amis là một tiểu thuyết gia, nhà tiểu luận, người viết hồi ký và nhà biên kịch người Anh. Tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông là Tiền và Cánh đồng Luân Đôn. Ông đã nhận được Giải thưởng Tưởng niệm Đen James Tait cho Trải nghiệm hồi ký của mình và đã được liệt kê cho Giải thưởng Booker hai lần. Nhà văn Martin Amis, giống như Dostoevsky, quan tâm nhiều đến cách các nhân vật của ông nhìn thế giới như thế nào. Trong dòng chảy này, câu chuyện của Self phản ánh niêm tin của chính mình. John Self là cơ hội để tác giả tạo ra một cuộc đối thoại đa cấp với các quan điểm ý thức hệ khác nhau, được thể hiện trong chính độc thoại của nhân vật, hoặc giữa các cuộc đối thoại giữa các nhân vật.   Mời các bạn đón đọc Tiền - Thư Tuyệt Mệnh của tác giả Martin Amis.
Và Nơi Đây Bình Minh Yên Tĩnh - Boris Vasiliev
Và nơi đây bình minh yên tĩnh (tiếng Nga: А зори здесь тихие) là một tiểu thuyết Liên Xô của nhà văn Boris Vasilyev được xuất bản lần đầu năm 1969. Lấy bối cảnh Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại của Liên Xô, tác phẩm nói về cuộc chiến đấu ở hậu phương của một nhóm pháo thủ nữ Hồng quân nhằm ngăn cản âm mưu phá hoại của một tiểu đội lính dù Đức Quốc xã. Khi được tạp chí Thanh niên xuất bản vào năm 1969, tiểu thuyết đã ngay lập tức được độc giả đón nhận và trở thành một trong những tác phẩm văn học về đề tài chiến tranh nổi bật nhất thập niên 1960 và 1970 ở Liên Xô. Cùng với Tên anh không có trong danh sách, đây được coi là tiểu thuyết ngắn xuất sắc nhất của Boris Vasilyev nói về Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Bản dịch tiếng Việt của tiểu thuyết này được Nhà xuất bản Cầu vồng in chung cùng Tên anh chưa có trong danh sách với dịch giả Lê Đức Mẫn. Tác phẩm đã nhiều lần được chuyển thể thành phim điện ảnh, trong đó bộ phim cùng tên sản xuất năm 1972 đã được đại diện cho điện ảnh Liên Xô tranh Giải Oscar cho phim ngoại ngữ xuất sắc nhất. *** «… Bạn thân mến!   Ở đó bạn phải tất bật với công việc, còn chúng tôi lại ung dung đi câu cá ở một nơi thanh bình không vẩn một hạt bụi. Thực ra, tụi muỗi chết tiệt cũng có đốt, nhưng cuộc sống vẫn một màu tiên cảnh! Bạn hãy xin nghỉ phép và về đây với chúng tôi. Ở đây hoàn toàn không một bóng xe qua, một người đi lại. Mỗi tuần một lần chỉ có một chiếc xuồng máy chở bánh mì đến thôi, vì thế tha hồ mà rong chơi chả phải bận bịu gì đến quần áo. Phục vụ cho khách du ngoạn thì ở đây có hai hồ nước và một con sông đầy cá. Lại còn nấm mới nhiều nữa chứ!… À, hôm nay có một chiếc xuống máy chở đến một ông già vạm vỡ tóc bạc cụt tay và một đại uý bộ đội tên lửa. Người ta gọi đại uý là Anbert còn ông già thì đại uý gọi bằng bố. Họ đến tìm cái gì ở đây thì tôi cũng chẳng để tâm đến…   … Ngày hôm qua tôi không viết hết: sáng nay mới viết nốt. Thì ra ở đây trước kia cũng có chiến đấu… Chiến đấu khi tôi với anh còn chưa ra đời.   Anbert và người cha chở đến một tấm bia đá cẩm thạch. Chúng tôi tìm thấy một nấm mộ trong rừng bên kia sông. Bố ông đại uý nhận ra nhờ những dấu hiệu riêng. Tôi muốn giúp họ mang tấm bia vào tận nơi nhưng lại không dám.   Bình minh nơi đây thật là yên tĩnh, mãi hôm nay tôi mới nhìn ngắm kỹ càng». *** Boris Vasiliev sinh ngày 21/5/1924 ở Smolensk, Nga. Mùa hè năm 1941, ở tuổi 17, khi Đức quốc xã tấn công Liên bang Xô Viết, Vasiliev tham gia quân đội và đóng góp sức mình vào cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Những trải nghiệm từ chiến trường sau đó trở thành chất liệu cho các tác phẩm của Vasiliev.   Trong suốt sự nghiệp của mình, nhà văn đã xuất bản hơn 30 tiểu thuyết và truyện vừa. Các tác phẩm đều hướng tới việc kiếm tìm sự thật và ý nghĩa cuộc sống. Phần lớn tiểu thuyết, truyện ngắn của ông đều được chuyển thể thành phim hoặc lên sân khấu ở Nga và nước ngoài.   Tiểu thuyết ngắn “Và nơi đây bình minh yên tĩnh” (А зори здесь тихие) được xuất bản năm 1969 là một trong những tác phẩm về đề tài Chiến tranh Vệ quốc nổi bật nhất thập niên 1960 và 1970 ở Nga. Tiểu thuyết được coi là cách Vasiliev chiêu hồn cho tất cả phụ nữ Nga đã hy sinh trong Thế chiến hai. Tác phẩm chọn thời điểm năm 1941, khi viên sĩ quan Vaskov chỉ đạo một tiểu đội toàn nữ ở hậu phương chiến đấu bảo vệ bầu trời Karelia. Hàng ngày, họ sống với những trò đùa tinh quái của lũ con gái mười tám, đôi mươi trước viên sĩ quan trẻ - thành viên nam duy nhất trong đội. Các cô gái trẻ trung, hồn nhiên, giàu ước mơ và cũng nhiều khát khao hạnh phúc. Dưới cánh rừng xanh tốt, vẳng tiếng nói cười hồn nhiên, trong trẻo của những cô gái tiểu đội pháo cao xạ. Cuộc sống qua đi trong bình yên, cho đến một lần, tiểu đội đối mặt với một toán lính dù của Đức quốc xã. Trước kẻ thù được trang bị vũ khí tối tân cộng với những khắc nghiệt của cánh rừng già, những cô gái trong tiểu đội đã hy sinh. Họ vĩnh viễn để lại tuổi xuân trên cánh rừng, giữa đầm lầy để hai mươi năm sau, khi Vaskov đưa người con trai nuôi trở lại thăm chiến trường xưa, mọi dấu vết của chiến tranh dường như khép lại, trước mắt anh chỉ còn thấy “nơi đây bình minh yên tĩnh”.   Năm 1972, bộ phim cùng tên được chuyển thể từ tiểu thuyết của Boris Vasiliev đã nhận được đề cử Oscar cho Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất. Ngoài "Và nơi đây bình minh yên tĩnh", Boris Vasiliev còn nổi tiếng với truyện vừa "Tên anh không có trong danh sách" và nhiều tác phẩm khác.   Tại Việt Nam, tiểu thuyết này được Nhà xuất bản Cầu vồng in chung cùng “Tên anh không có trong danh sách” với bản dịch của Lê Đức Mẫn.   Mời các bạn đón đọc Và Nơi Đây Bình Minh Yên Tĩnh của tác giả Boris Vasiliev.
Trên Bờ Sông Hoang Vắng - Boris Polevoi
Từ “chặng đường đã qua”, ông đã rút ra những nguyên mẫu và những sự kiện cả cho tiểu thuyết “Trên bờ sông hoang vắng”, cuốn sách viết về những người công nhân xây dựng một nhà máy thủy điện có công suất lớn ở Xi-bê-ri. Hàng nghìn con người từ khắp mọi miền của đất nước đã đổ đến đây, đến bên bờ của con sông lớn, nơi thâm sơn cùng cốc của vùng rừng tai-ga này. Và mỗi người đều tìm ra “mảnh đất dụng võ” của mình. Nơi đây đã diễn ra một cuộc khảo sát cả về kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp của mọi người, và những khát vọng đạo đức và nhu cầu cá nhân của họ... *** Tác giả cuốn sách này - Bô-rít Pô-lê-vôi (1908 - 1981) - là một nhà văn Nga nổi tiếng, Anh hùng Lao động Xã hội chủ nghĩa, đã được tặng Giải thưởng Quốc gia Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô-viết. Ông đã viết gần ba mươi tác phẩm, trong đó có cuốn “Truyện một người chân chính” mà cả thế giới đều biết.   Bô-rít Pô-lê-vôi không hề hư cấu các nhân vật chính, các sự kiện chủ chốt trong các tác phẩm của mình. Ông đã tìm chọn các nhân vật và các sự kiện như vậy từ thực tế cuộc sống. Chính ông, chứ, có lẽ không ai khác, có toàn quyền tuyên bố: “Tôi đã sống trọn cả cuộc đời văn học giữa các nhân vật của mình”. Luôn luôn tìm kiếm, luôn luôn đắm mình trong thực tế, Pô-lê-vôi đã tiếp xúc với rất nhiều con người tuyệt vời của thời đại chúng ta, ông đã viết về họ một cách đầy cảm phục và tự hào về tình bạn đối với họ. “Thật vui sướng biết bao nhiêu được sống giữa các nhân vật của mình, được trao đổi thư từ với họ, được theo dõi xem cuộc sống sẽ tiếp tục và phát triển một cách chính xác đến mức nào, hướng đi của các tính cách được miêu tả trong các cuốn sách, và phần kết của chúng, bạn, với tư cách là tác giả, đã đánh dấu chấm hết từ lâu”, - ông đã viết như vậy trong tập bút ký “Nhìn lại chặng đường đã qua”.  *** -... Mãi tối hôm đó, em mới làm cho cô ta tỉnh lại. Bọn em đã kiệt sức. Em không còn hy vọng nữa. Sau cùng, cô ấy lắc đầu và hé mở con mắt còn nguyên vẹn, - vài hôm sau, Đi-na kể cho Đi-u-giép. Họ ngồi trên đỉnh lèn Kỳ diệu, trên một chiếc ghế dưới gốc cây thông rậm lá. Một đêm màu lam, thơm ngát mùi hương, vi vo tiếng muỗi, trùm lên trên dòng sông bị chinh phục. Một đêm thanh khiết, đêm mùa hè ấy, ở giữa rừng tai-ga, mà những ánh sáng ở công trường và những ngọn lửa hàn lập lòe hầu như không thay đổi được màu sắc thiên nhiên của nó. Trước đây, lúc mới khởi công, những bàn tay thân thiết của những người nào đó đã làm nên chiếc ghế này trên cao nguyên thu nhỏ lại. Từ đó nó là nơi ẩn náu của những cặp tình nhân và những người mơ mộng. - Toàn thân cô ấy đều bị thương, ruột đứt, xương gãy. Tuy vậy, cô ấy vẫn cố nói điều gì đó, - Đi-na nói tiếp, mắt thẫn thờ. - Em cúi xuống và đoán ra hơn là nghe thấy những lời cô ấy thều thào: “Cháu bé, cháu bé...” Cô ấy lo cho con. Anh Pa-ven, thật là sung sướng biết bao được nói với cô ấy: “Cháu còn sống!” Em cho đem đến máu sinh mệnh bé tí bọc trong tã bông lấy trong lồng ấp trẻ sơ sinh ra. Pa-ven, anh sẽ không tin em, vì phải là phụ nữ mới tin được điều đó. Này nhé, con mắt nguyên vẹn trên bộ mặt sưng phù, đẫm máu ấy biểu lộ một niềm vui, vâng, một niềm vui. Một ảo ảnh, anh sẽ nói với em thế chứ gì? Ổ, không, không phải đâu anh ạ!. . Em vô cùng xúc động. Đi-na cắn môi. Chị nhìn mỏm Đầu bò ở bên kia sông, giống như vẽ bằng mực tẩu lên nền đêm màu xanh nhạt - Anh có biết Va-xi-li-xa ví Ma-ri-a với con gì không? Con tu hú. Lần này thì cô bé đã nhầm, phải không anh? Có thật người ta quyết định chôn cô ấy ở công viên Anh Hùng, bên cạnh những người du kích đưa từ rừng tai-ga về không? - Ông cụ bảo thế. - Có thật Ông cụ cử anh đến U-xchi-Tséc-na-va để chỉ huy chi nhánh của công trường không?   Mời các bạn đón đọc Trên Bờ Sông Hoang Vắng của tác giả Boris Polevoi.
Trần Trụi Giữa Bầy Sói - Bruno Apitz
Trần trụi giữa bầy sói là một trong những tác phẩm nổi tiếng sau đại chiến thứ hai, được dịch ra hai mươi thứ tiếng và trở thành một sự kiện văn học. Trần trụi giữa bầy sói xoay quanh một câu chuyện rất bình thường. Một chú bé Do Thái Ba Lan được cứu thoát khỏi tay phát-xít Đức, khi chúng đang điên cuồng tàn sát những người dân Do Thái Ba Lan ở Vacsava. Chú bé được bỏ vào một chiếc va ly cho một tù nhân xách đi và được đưa đến Bukhânvan. Sự có mặt của đứa bé gây ra biết bao nguy hiểm cho năm vạn tù nhân sống trong trại, vì bọn phát-xít sau khi đánh hơi thấy đứa bé đã sục sạo đi tìm những dấu vết của tổ chức Đảng đang lãnh đạo các tù nhân trong trại. Câu chuyện tuy bình thường như vậy nhưng nó xúc động người đọc mãnh liệt vì tác giả bố trí nó chặt như một vở bi kịch và nêu lên được cái đẹp, cái cao thượng vô song của con người. Đây không chỉ là một cuốn sách hay, mà còn có một giá trị to lớn. Như nhiều nhà phê bình nhận định, nó đề cập đến chính vấn đề phong cách của tiểu thuyết hiện đại, và là một trong những hướng giải quyết táo bạo nhưng thành công. *** THƯ CỦA TÁC GIẢ GỬI ĐỘC GIẢ VIỆT NAM Cuốn sách của tôi kể lại cuộc đấu tranh của các tù nhân, trong trại tập trung Bukhânvan để cứu một đứa trẻ Ba Lan; đứa trẻ đó được đưa nào trong trại, bất chấp muôn ngàn nguy hiểm. Nhưng mục đích của cuốn sách còn nhằm xa hơn nữa: nó muốn nói lên cái đẹp về tinh thần của con người bênh vực cho con người và làm nổi bật sự vĩ đại của con người. Nó muốn ca ngợi tình đồng chí giữa những con người của bao nhiêu dân tộc châu Âu đằng sau những hàng rào dây thép gai mắc điện cao thế - tình đồng chí có một không hai trong lịch sử. Cuốn sách cũng muốn kể lại sự chiến thắng của con người đối với bản tính thú vật của bọn phát xít. Hạt mầm của lòng bác ái mà hàng triệu con người khi chết xuống đã vùi theo họ trong mảnh đất đẫm máu ở Bukhânvan, ngày nay lại bùng nổ lên trong cuộc chiến đấu của các dân tộc chống kẻ thù, những kẻ mang thảm họa tới cho nhân loại. Tôi chỉ là mật con người bình thường nên mục đích cuốn sách của tôi cũng bình thường: đó là Hòa bình và Hạnh phúc cho hết thảy mọi người. Đem dịch nó ra tiếng nước ngoài, cũng không cần phải có nghệ thuật lắm mới làm nổi, vì mọi người tất sẽ hiểu được nó. Berlin tháng 6 năm 1962 BRUNO APITZ *** TRẦN TRỤI GIỮA BẦY SÓI là một trong những tác phẩm nổi tiếng sau đại chiến thứ hai. Xuất bản lần đầu tiên năm 1958 với 60 vạn cuốn ở Cộng hòa dân chủ Đức, cùng năm ấy tác phẩm này được Chính phủ Cộng hòa dân chủ Đức tặng giải thưởng Văn học Quốc gia, được tái bản liên tiếp ngay cả ở Tây Đức, được dịch ra hai mươi thứ tiếng rà trở thành một sự kiện văn học được nhiều người bàn đến ở châu Âu. Tác giả cuốn sách, Brunô Apitz (1900 - 1979), xuất thân từ một gia đình công nhân ở Laixich, một trung tâm công nghiệp lớn ở Đức. Con người ấy suốt đời là một chiến sĩ chống bọn gây chiến. Trong đại chiến thế giới lần thứ nhất, ông bị giam hai năm vì tuyên truyền hòa bình. Năm 1934 ông lại bị bọn Hítle bỏ tù vì hoạt động chống phát-xít. Ba năm sau ông là một trong những tù nhân đầu tiên bị bọn phát-xít đưa đến Bukhânvan[1] để xây dựng trại tập trung khổng lồ nhốt hàng vạn người. Ông đã ở đấy mãi cho đến khi Hồng quân đánh bại phát-xít Đức, và là một trong những tù nhân cuối cùng của địa ngục Bukhânvan. Phải có nước Cộng hòa dân chủ Đức, người công nhân đã hy sinh tất cả tuổi trẻ của mình trong các nhà tù ấy, mới thành một nhà văn. Ông viết báo, được cử làm chủ nhiệm một nhà hát của nước Cộng hòa dân chủ Đức. Năm 1950 ông làm biên tập cho hãng phim Đêfa và đã chuyển thể quyển tiểu thuyết này thành kịch bản để xây dựng thành phim. Từ mười mấy năm nay đã có rất nhiều tác phẩm viết về các trại tập trung của phát-xít Đức, nhưng không tác phẩm nào để lại cho độc giả ấn tượng mãnh liệt như Trần trụi giữa bầy sói. Điều đó có nhiều nguyên nhân. Một nguyên nhân chủ yếu là vì tác giả của quyển tiểu thuyết này là một chiến sĩ. Là một chiến sĩ nên đối với ông, Bukhânvan không phải chỉ có lò đốt xác, có boong-ke, trại giam, có tháp canh, hàng rào dây điện cao thế, có lũ phát-xít hoành hành bắn giết tra tấn và hàng vạn tù nhân đói khổ, đau ốm, chết chóc và nếu còn sống sót thì kiếp sống cũng chẳng hơn gì thú vật. Điều đó là hiển nhiên. Nhưng còn có điều quan trọng hơn, và là trung tâm sự chú ý của Brunô Apitz. Đó là sự vĩ đại của con người, tình đồng chí “có một không hai trong lịch sử” của hàng chục dân tộc. Con người ở đây “trần trụi” thực đấy, nhưng họ gắn bó với nhau, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Đảng có mặt mọi nơi. Hơfen, một nhân vật trong chuyện, nói: “Nếu chúng mình sống sót ra khỏi nơi đây, tôi sẽ chịu trách nhiệm trước Đảng về việc ấy, anh có thể tin như vậy”. Thì Krêmơ nghiêm nghị nhìn vào mặt Hơfen: “Đảng ở ngay đây”. Đảng ở ngay đây, ở ngay Bukhânvan, đó mới là chủ đề của cuốn truyện, ở đây không phải chỉ có đàn sói mà còn có con người, tuy bên ngoài ai cũng như ai đều mặc áo tù kẻ sọc, nhưng bên trong, đó là những con người lớn, đoàn kết, kỷ luật, sáng suốt, kiên nhẫn, mạnh hơn cái chết. Nội dung Trần trụi giữa bầy sói xoay quanh một câu chuyện rất bình thường. Một chú bé Do Thái Ba Lan được cứu thoát khỏi tay phát-xít Đức, khi chúng đang điên cuồng tàn sát những người dân Do Thái Ba Lan ở Vacsava. Chú bé được bỏ vào một chiếc va-li cho một tù nhân xách đi và được đưa đến Bukhânvan. Sự có mặt của đứa bé gây ra biết bao nguy hiểm cho năm vạn tù nhân sống trong trại, vì bọn phát-xit sau khi đánh hơi thấy đứa bé đã sục sạo đi tìm những dấu vết của tổ chức Đảng đang lãnh đạo các tù nhân trong trại. Câu chuyện tuy bình thường như vậy nhưng nó xúc động người đọc mãnh liệt vì tác giả bố trí nó chặt như một vở bi kịch và nêu lên được cái đẹp, cái cao thượng vô song của con người. Thời gian trong Trần trụi giữa bầy sói là thời gian của một vở kịch. Tác giả miêu tả Bukhânvan trong những ngày cuối cùng của nó. Sự việc xảy ra trên dưới một tháng. Ở trang đầu là tháng ba năm 1945, quân Mỹ vượt qua sông Rainơ, biên giới Đức, ở quãng Rêmagân là Hồng quân ào ạt tiến vào đất Đức. Và cứ thể: Haau, Opênhaimơ, Katxen, Aidơnăc... rồi ngày 8 tháng 4 tới Ecfuôc, và cuối cùng quân đồng minh ở cách trại giam 12 cây số và cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Bukhânvan. vấn đề đối với trại Bukhânvan là làm sao theo dõi được tin tức bên ngoài và tìm cách giành giật từng giờ từng phút, vì tương lai thuộc về họ cho nên họ càng trì hoãn được phút nào là họ tiến gần đến thắng lợi phút ấy. Không khí do đó càng ngày càng nồng nặc mùi thuốc súng. Trong những giờ phút ấy, tất nhiên con người càng dễ lộ bản chất của mình. Bọn phát-xit càng điên cuồng, lồng lộn, tàn ác, tìm cái khoái trá trong việc tra tấn, kìm kẹp, bắn giết, nhưng lại càng hốt hoảng, nhớn nhác, tìm cách tháo thân. Đối lập với chúng, Đảng Cộng sản càng nêu cao tinh thần kỷ luật, kiên quyết, sáng suốt lợi dụng thời cơ, ráo riết chuẩn bị. Chính trong khoảng thời gian ấy, cơn lốc của cuộc sống lôi cuốn mọi sự việc diễn biến rất nhanh, khiến từng giờ từng phút phải đối phó, đặt kế hoạch, tranh cãi, quyết định. Người ta không còn thì giờ nghĩ đến quá khứ, không còn thì giờ để hồi tưởng, mơ màng. Toàn bộ tác phẩm chỉ có hai cảnh nhắc đến quá khứ, nhưng trong một trăm trang đầu đã có tới sáu mươi cảnh khác nhau, trong đó người ta phải vật lộn với những vấn đề trước mắt. Biến cố xảy ra dồn dập với tốc độ của tia chớp. Jankôpxki đưa đứa bé vào trại, Hơfen phát hiện, Pipich đem giấu, Rôsơ bắt gặp, Bôkhâu ra lệnh: nó phải ra khỏi trại, Hơfen băn khoăn… Thế rồi người giữ đứa bé lại, người tìm ra nó, người đem giấu nó... Biến cố này chưa hết, biến cố khác đã xảy tới, trong khi bên ngoài là máy bay oanh tạc ầm ầm, và xa hơn nữa, những đoàn quân đang rầm rộ tiến. Cuộc sống ở đây căng thẳng đến nỗi các đồng chí trong ủy ban quốc tế các trại tập trung (ILK) không nhớ đứa bé làm cả trại khốn đốn kia là con trai hay con gái nữa cũng như chúng ta dễ dàng quên rằng mụ Horten có cái bộ ngực núng nính là người đàn bà duy nhất trong truyện. Đọc Trần trụi giữa bầy sói, không ai có thể quên những con người bảo vệ danh dự cho dân tộc Đức, Hơfen, Suyp, Pipich, Krêmơ anh chàng Ba Lan Krôpinxki, và những người lãnh đạo ủy ban quốc tế các trại tập trung; Bôkhâu, Bôgoxki, Riômăng, Van Đalen, Kôđixec. Họ khác nhau về tính tình, có người nôn nóng, có người trầm lặng, có người bao giờ cũng bình tĩnh, có người vui vẻ, có người lạnh lùng. Nhưng tất cả đều mang trong người tình nhân đạo cao quý. Cái gì đã khiến Hơfen giữ đứa bé lại, cái gì bắt Krêmơ làm ngơ không kiểm soát công việc của Hơfen, cái gì làm Hơfen đau khổ hơn là bị tra tấn khủng khiếp, cái gì làm Pipich sung sướng khi sắp chết vì đã kịp thời giấu súng. Họ không phải không có khuyết điểm hưng họ vẫn là những hình ảnh đẹp vô cùng. Đó là bài ca về cái đẹp của con người. Càng về sau, tính chất anh hùng ca càng nổi bật. Nếu ở nửa đầu tác phẩm, chủ yếu là miêu tả tâm trạng của cá nhân, thì nữa sau dành cho việc miêu tả hành động của quần chúng. Quần chúng trì hoãn việc dời trại, quần chúng che giấu 46 “nạn nhân” của thần chết, quần chúng bảo vệ đứa bé khiến cho Kluttich tuy đứng trước mặt nó mà không dám làm gì, đành phải rút lui và cuối cùng quần chúng khởi nghĩa. Có thể nói ít người có được ngòi bút khách quan hơn Brunô Apitz trong việc miêu tả nhân vật và sự kiện. Khi nói đến bè lũ phát-xít, tác giả không có một nét nào là biếm họa. Ông cẩn thận cân nhắc trong việc miêu tả, chú ý đến dáng điệu, cử chỉ, thái độ của từng đứa, cũng với tất cả sự quan tâm như đối với những đồng chí của mình. Người ta thấy cái lưỡi thè lè của Xvailinh; cái vẻ lịch sự dịu dàng che giấu một sự đểu giả tàn ác của Rainơbôt, ngay trong lúc tra tấn tù nhân y vẫn còn giữ cái vẻ lịch sự mềm mại của những động tác thể thao; cái tên man rợ Mandrin chuyên việc tra tấn người, càng nốc rượu vào thì lại càng tàn ác và tìm thấy trong việc tra tấn một thú vui khủng khiếp. Tên Svan có cái cằm phình ra, hay đi quanh cái bàn giấy to tướng, mở miệng là nói giọng ngoại giao; tên Kluttich thô bạo mở miệng là đòi bắn giết v.v... Ngay trong ngôn ngữ tác giả cũng để cho chúng biểu hiện được rõ cá tính của chúng. Người ta thấy đằng sau thái độ khách quan ấy là cái nhìn rất sáu sắc của một người đã sống một phần lớn đời mình trong việc theo dõi những kẻ thù của nước Đức và của thế giới. Ngay đối với các bạn, tác giả cũng vẫn giữ cái nhìn nghiêm khắc khách quan ấy. Brunô Apitz không gượng nhẹ họ, nếu trong óc họ nẩy ra những ý nghĩ khủng khiểp... Để cho Bôkhâu nghĩ đến cái chết của Hơfen và Hơfen nghĩ đến việc mình khó lòng chịu đựng được cảnh tra tấn nữa, để cho những con người nhân đạo nhất trên đời phải thốt lên: “Tại sao đứa bé kia không chết quách đi cho rồi”, tác giả làm người ta liên tưởng đến bút pháp của Secxpia, vị thầy của nghệ thuật. Người ta khó lòng khắt khe đối với những con cưng của mình hơn Apitz, nhưng kết quả sẽ không phải là làm giảm giá trị nhân vật. Trái lại, từ đó sẽ toát lên cái người ta thường gọi là lôgic khách quan của cuộc sống, tất yếu khách quan của hoàn cảnh và càng làm nổi bật cái tất yếu khách quan ấy thì cái thực, cái giả mới xuất hiện rõ, cũng như vàng, thau, chỉ có thể phân biệt bằng lửa chứ không thể đoán bằng mắt. Cuộc sống những ngày cuối cùng ở Bukhânvan tự bản thân nó là lửa. Cho nên đã xuất hiện thứ vàng cao nhất. Đã xuất hiện: chàng thợ xếp chữ Pipích, có đôi chân khuỳnh khuỳnh, nhỏ bé nhưng đến lúc hiểu sự thật thì anh dũng tuyệt vời; Krêmơ với đôi vai rộng đủ sức che chở cho toàn trại, với đầu óc sáng suốt, thần kinh tốt đến nỗi không còn có sự đe dọa, lừa bịp, không một biến cố nào vật ngã nổi; Bôgoxki với nụ cười vui vẻ, cười trong những lúc khó khăn nhất, Bôkhâu, con người của nguyên tắc, của tổ chức, nhưng nặng nề khối óc mà nhẹ về trái tim; Pribula sôi nổi, nôn nóng, luôn luôn đòi bạo động; Hơfen, con người xứng dáng với lời khen đẹp nhất của Bôgoxki: “Nghi ngờ Hơfen hóa ra nghi ngờ mình sao?”, “Chúng ta phải khỏe như Hơfen” v.v... Đặc biệt, trong tác phẩm đã xuất hiện cả một khối quần chúng vĩ đại, với trực giác được rèn luyện lâu dài trong những năm tù tội, với lòng tin sắt đá vào tổ chức, vào Đảng, ngay khi đứng trước cái chết cũng vẫn là một đội quân vô cùng anh dũng. Chính nhờ bút pháp khách quan ấy đã giúp cho tác giả tận dụng được vốn sống dồi dào của mình và vẽ lên được, tuy chỉ một mảnh của Bukhânvan thôi, nhưng một mảnh nóng hổi sức sống như trái tim của con người. Đối với văn hoc hiện tại, Trần trụi giữa bầy sói không chỉ là một cuốn sách hay, mà còn có một giá trị to lớn. Như nhiều nhà phê bình nhận định, nó đề cập đến chính vấn đề phong cách của tiểu thuyết hiện tại, và là một trong những hướng giải quyết táo bạo nhưng thành công. Trong nhóm chúng tôi, một người đã được nhìn thấy tận mắt Bukhânvan năm 1956. Trại tập trung Bukhânvan hiện nay đã được cải tạo thành một khu lưu niệm trưng bày những vết tích cũ. Từ những lò đốt xác cho đến những mớ tóc, những mảnh quần áo của tù nhân còn được giữ lại, từ những hàng rào thép gai đến những căn hầm đào dưới đất để trốn tránh, tất cả đều gợi lên cảnh của địa ngục trần gian, mà lịch sử loài người cho đến đại chiến thứ hai chưa từng được chứng kiến. Nếu như mỗi hòn đất, mỗi ngọn cỏ nơi đây có thể nói lên được, chúng sẽ kể lại không biết bao nhiêu thảm cảnh khó tưởng tượng; nhưng cuốn sách này của tác giả, theo chúng tôi nghĩ, đã có thể xứng đáng thay mặt cho những vật lưu niệm kia mà tố cáo trước loài người tiến bộ những hành vô cùng dã man của bọn phát-xít, nhắc nhở cho những người còn sống thêm cảnh giác trước những âm mưu thâm độc của bọn khát máu, đồng thời cũng là một bản anh hùng ca nói lên tinh thần bất khuất của tất cả các tù nhân, không kể là thuộc dân tộc nào, đấu tranh giành lấy quyền sống của con người, và sau cùng nói lên vai trò không thể thiếu của Đảng, của giai cấp công nhân, giai cấp tổ chức và lãnh đạo mọi cuộc đấu tranh để giành lấy quyền sống thiêng liêng ấy. Những người dịch Mời các bạn đón đọc Trần Trụi Giữa Bầy Sói của tác giả Bruno Apitz.