Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Săn Học Bổng

Cuốn sách này chia sẻ với bạn mọi thứ, từ việc chuẩn bị, lên kế hoạch cho đến sử dụng sách vở và tài liệu cho các kỳ thi tiếng Anh. Tác giả Vương Quyên cũng chia sẻ tất cả phương pháp và đường hướng học tiếng Anh cũng như những thất bại và thành công trong việc nỗ lực  để nâng cao năng lực tiếng Anh của cô - từ lúc còn là một cô bé không biết gì về tiếng Anh đến lúc gặt hái được những thành quả đáng kể. Và hơn thế, Vương Quyên cũng chia sẻ cảm nhận của cô về cuộc đời những lúc cô xuống dốc, băn khoăn, đơn độc hay dao động; chia sẻ quan niệm, suy nghĩ của cá nhân cô liên quan đến sự kiên trì, phấn đấu, ước mơ và cả những gì cô gái trẻ học được, chiêm nghiệm được trên đường đời của mình. Về phương diện học tiếng Anh, trong cuốn sách này không có những câu giáo điều, càng không có những câu ra yêu cầu bạn “phải” thế này hay bạn “phải” thế kia, chỉ có những chia sẻ gần gũi, giản đơn. Phương pháp học tập cũng giống như quan điểm nhìn nhận sự vật, mỗi người đều có một cách nhìn riêng về một sự vật nào đó. Nếu bạn cảm thấy phương pháp học tập này phù hợp với bạn, cuốn sách chắc hẳn sẽ rất có ích cho bạn; còn nếu bạn có thể "gạn đục khơi trong", chọn lọc ra phương pháp học tập phù hợp với bạn từ những điều trong sách, như vậy cuốn sách cũng đã thật sự đạt được tác dụng “thả con săn sắt, bắt con cá rô”, đồng thời thể hiện được giá trị của nó. Đây là cuốn sách về phương pháp học tiếng Anh bán chạy nhất Trung Quốc cho đến nay. *** Vương Quyên tên thân mật là Koala Xiaowu. Đã tốt nghiệp thạc sĩ trường Đại học Washington. Hiện đang sinh sống ở thành phố Saint Louis, tiểu bang Missouri, nước Mỹ. Lời bìa phụ trước: Một cuốn sách giản dị và sáng trong nhưng chứa đựng những điều mà bất cứ bạn trẻ nào cũng tìm kiếm. Cuốn sách chia sẻ cho bạn những kinh nghiệm học tiếng Anh và “săn học bổng”, nhưng trên tất cả, nó kể cho bạn nghe về ƯỚC MƠ. Lời bìa phụ sau: “Bạn muốn biết mùi vị của quả lê như thế nào? Vậy bạn hãy tự mình nếm thử.” Tìm mục tiêu cũng vậy. Khi bạn không biết mình thích điều gì thì hãy can đảm thử nghiệm. Tuổi trẻ không sợ thất bại, ngã rồi lại phủi bụi đứng lên. Kì thực, thất bại không đáng sợ, vấp ngã không đáng sợ, nhụt chí không đáng sợ, hèn nhát không đáng sợ, lười biếng không đáng sợ, lạc đường không đáng sợ! Điều đáng sợ nhất là bạn đánh mất trái tim dám theo đuổi ước mơ. *** Cuốn sách là tự truyện của tác giả kể về quá trình trưởng thành trong học tập cũng như cách nhìn nhận về thế giới xung quanh, về cuộc đời của chính bản thân mình trong suốt mười mấy năm trời dài đằng đẳng. Có lẽ đối với nhiều người người thì thể loại này có thể không còn mới mẻ nữa. Tuy nhiên, sẽ không có con đường nào giống con đường nào, sẽ không có áp lực nào giống áp nào và nếu có giống thì bạn có dám chắc chắn rằng nó cũng diễn ra trong cùng một thời điểm như nhau?  “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông.” (Heraclitus – nhà triết học duy vật và được coi là ông tổ của phép biện chứng). Và tác phẩm này cũng không ngoại lệ, nó mang những nét đặc trưng riêng biệt như những thước phim trải dài qua từng giai đoạn từ lúc tác giả còn là một cô bé đến khi nhận thức được bản thân mình phải cố gắng “tôi luôn cảm thấy không cam lòng, luôn cảm thấy cuộc sống không nên dừng lại ở đây, luôn cảm thấy mình chỉ có một lần được sống, không nên đi theo dấu chân người khác, cảm thấy mình nên để lại những dấu ấn riêng trong cuộc đời của mình, để lại những dấu ấn ngoạn mục, đáng nhớ, đáng thán phục, để đến khi chuẩn bị rời xa thế giới này, ít ra trong lòng tôi cũng không có gì để hối tiếc.” Một câu chuyện về sự ham chơi và cái giá phải trả thì không hề nhỏ: “Bạn có thể ham chơi, nhưng nên nhớ, bạn sẽ phải trả giá cho việc ham chơi ấy. Bạn muốn có được thứ này thì phải mất thứ kia. Ông trời công bằng không cho ai tất cả. Cái gọi là chèo thuyền ngược dòng, không tiến ắt lùi, chính là nói bạn ham chơi trong lúc người khác đều đang phấn đấu, thì sẽ bị thụt lùi phía sau.” Một câu chuyện về những ước mơ qua từng giai đoạn của cuộc đời, về sự bình đẳng ước mơ giữa mỗi con người: “Cho dù bạn từ đâu tới, cho dù bạn bình thường như thế nào đi nữa, thì với ước mơ, tất cả mọi người đều bình đẳng như nhau. Cho dù bạn cảm thấy bản thân mình nhỏ bé nhường nào, bạn vẫn có quyền theo đuổi ước mơ cao quý. Chỉ khi dám ước mơ, bạn mới có cơ hội thực hiện được điều mình mơ ước bằng chính sự nỗ lực của bạn. Nếu như ngay cả ước mơ bạn cũng chẳng dám nghĩ tới, vậy thì chẳng phải là bạn không có mảy may xác xuất thành công nào ư?” Một câu chuyện về bài học nỗ lực không ngừng nghỉ trong mọi hoàn cảnh, mọi thử thách: “Đời người cần phải phấn đấu, gặp hoàn cảnh thuận lợi cũng phải phấn đấu, gặp hoàn cảnh đối nghịch cần phải phấn đấu nhiều hơn.” “Tôi cần phải kiên cường, vượt qua thất bại, một lần không được thì thử lần thứ hai, hai lần không được thì thử lần thứ ba, chỉ cần tiếp tục kiên trì tôi sẽ từ từ tiến bộ qua thời gian tích luỹ.” Và còn rất nhiều những kinh nghiệm quí báu, những cuộc hành trình đầy gian khó vượt qua chính bản thân mình,… đặc biệt nổi bật lên xuyên suốt quyển sách là những lời khuyên hữu ích, cách thức và phương pháp hiệu quả trong việc học Tiếng Anh được đúc kết từ chính bản thân tác giả. Tất cả đã được cô đọng lại và chất chứa tinh tế trong từng câu, từng chữ, từng trang giấy của quyển sách “SĂN HỌC BỔNG – Đích đến của tôi PHẢI là nước Mỹ” của một tác giả trẻ tuổi người Trung Quốc nhưng hầu như không còn xa lạ đối với các độc giả Việt Nam – Vương Quyên. Học Tiếng Anh để rửa mối hận "bác cả năm" Quyển sách ở những trang đầu tiên hiện lên là một cô bé tên Diễm Diễm được bố mẹ gửi gắm cả một tương lai tươi sáng và đẹp đẽ. Nhưng mọi việc lại đi theo chiều ngược lại với cái tên xinh đẹp ấy cả về ngoại hình lẫn tính cách “lông mày ngang, tóc ngắn, người gầy nhom như con khỉ”, “chưa từng mặc váy”, “hoạt động trong phòng, trên cây, cánh cửa sắt ngoài cổng nhà” và ước mơ của cô gái nhỏ là trở thành“nữ trinh sát, phi hành gia, nữ hiệp khách”. Điều đặc biệt là chưa bao giờ cô nghĩ đến việc mình sẽ trở thành một bậc thầy ngôn ngữ Tiếng Anh. Tất cả mọi chuyện cứ tưởng như êm đềm trôi qua như thế trong cuộc sống của Diễm Diễm. Thế nhưng, có một sự việc đã thay đổi những ngày tháng tuổi thơ bình yên ấy đó là vào năm lớp ba có một môn học bắt đầu thường xuyên xuất hiện trên lịch học của cô - Tiếng Anh. Với ý nghĩ non nớt của một đứa trẻ là bản thân không đến nước Anh, cũng không nói chuyện với người Anh thì tại sao lại phải học Tiếng Anh đã đưa đẩy cô gái nhỏ đến với những lơ đễnh, những phân tâm cũng như là những rắc rối, những pha hài hước trong các bài kiểm tra ở trường. Không cần suy nghĩ nhiều cũng đủ biết, bởi vì không có động lực học tập cho nên thành tích của cô bé rất tệ và thế là một lời thề ngầm được đặt ra “Từ nay về sau không bao giờ thèm động vào Tiếng Anh nữa.” Với thành tích học tập ngày một xuống dốc mẹ Diễm Diễm đã đăng kí cho cô đi học thêm. Cô bé đi học trong một thái độ vô cùng miễn cưỡng nhưng chính nơi đó, chính cô giáo ở lớp dạy thêm đó, chính phương pháp giảng dạy đó đã đưa Tiếng Anh lại gần với Diễm Diễm hơn, giúp cô có một số thành tích khá nổi bật ở lớp và đây cũng đánh dấu bước ngoặc đầu tiên trên con đường học vấn của cô. Cái giá phải trả Bước sang những ngày tháng ở trường cấp II, được học dưới sự dẫn dắt của cô giáo chủ nhiệm là giáo viên Tiếng Anh đã đưa ra phương pháp học từ vựng đặc biệt mà tác giả đã đề cập đến là Fifty times.Điều này giúp cô rèn luyện được tính nhẫn nại và không còn mắc lỗi viết sai từ vựng nữa. Trong những năm học ở đây, tác giả cũng tìm ra cho mình phương pháp học Tiếng Anh hiệu quả khác “Tôi có thể cải thiện kỹ năng phát âm Tiếng Anh của mình bằng cách bắt chước phát âm của người khác.” Và theo nhận xét về chính bản thân mình thì “tôi là người có được chút thành tựu thì không còn biết trời cao đất dày là gì, học được một chút chữ nghĩa đã cho rằng mình nắm vững tất cả.” Chính tâm tưởng đó đã đưa Diễm Diễm trượt dài trong nước mắt ở kì thi chuyển trường đầu tiên vì chỉ mãi quan tâm đến mỗi Tiếng Anh nhưng thành tích chẳng có gì xuất sắc vì “hàm lượng vàng không cao” còn các môn học khác thì cô cũng đã bỏ mặc. Giây phút này, tôi đã hiểu ra May mắn thay bố mẹ cô cũng tìm được cho cô một ngôi trường cấp III mới dưới hình thức nội trú và những năm tháng tiếp theo của tác giả bắt đầu với lời hứa vô cùng chắc nịch “Con nhất định sẽ học giỏi hơn mỗi ngày, con nhất định sẽ không thua kém bạn bè.” Lời hứa đó đã không được thực hiện bởi sau ngày khai giảng khoảng một tháng Diễm Diễm đã trở về với trạng thái chán chường, mất đi năng lượng như trước đây không tập trung vào học tập mà “chỉ buôn chuyện, chơi bài với bạn bè, chơi game online, xem phim Hàn Quốc,…” Lo lắng cho đứa con gái nhỏ bé của mình, bố mẹ Diễm Diễm đã chuyển trường cho cô với hi vọng cô có thể học hành tốt hơn. Nhưng vì không thích ứng được với áp lực học tập quá cao độ ở ngôi trường mới chuyển đến nên cách duy nhất mà cô có thể đối mặt là chạy trốn nó cùng với người bạn thân Tiểu Di Tử. Và rồi lịch sử của ba năm trước lại tái diễn khi hầu như tất cả bạn bè cùng lớp của cô thậm chí là ngay cả cô bạn thân cũng đi đến những đại học ở các thành phố hoa lệ như Đại học Thanh Hoa, Đại học Bắc Kinh, Đại học Phúc Đán,… để chắp thêm kiến thức bay cao ước mơ của bản thân thì cô ở lại thành phố phía Bắc, tiếp tục cuộc sống vô vị, tẻ nhạt do không có mục tiêu và sức sống. Đây là bước ngoặc thứ hai và có thể nói là bước ngoặc quan trọng chủ chốt đưa cuộc đời tác giả sang một giai đoạn mới - “tỉnh ngộ và vùng dậy mạnh mẽ” Sự phấn đấu của tôi Con đường nỗ lực phấn đấu, quyết tâm cao độ của tác giả được thể hiện rõ nét nhất ở những năm học đại học ở thành phố phương Bắc cũng chính nơi đây đã tiếp thêm động lực cho tác giả mà sau này khi nghĩ tới cô vẫn còn thấy cảm kích là “Gặp được thầy tốt và bạn hiền.” để rồi từ đó tạo thành một bước đệm đưa tác giả đi cao và đi xa hơn vượt lên chính bản thân mình. Người thầy của Diễm Diễm đã truyền vô số động lực học tập mà một trong số đó là “Dù hoàn cảnh của các bạn như thế nào, thì các bạn cũng cần có dũng khí kiên trì đi tới ước mơ của mình, vì chỉ cần kiên trì chịu khổ, dũng cảm kiên trì, mỗi người đều có khả năng thành công.” Hay câu trả lời cho câu hỏi “Làm thế nào để học giỏi Tiếng Anh?” là “Làm việc cần làm và kiên trì đến cùng.” Tác giả tự nhận mình may mắn khi tìm được cô bạn có cái tên gọi khá dễ thương và ngộ nghĩnhCá Béo Ướp Muối - người có thể nói là cùng cô “đồng cam cộng khổ” trong các giờ tự học, trong các bài tập khó nhằn nhất và cả hai cùng nhau tìm ra những phương pháp học từ vựng, luyện viết, nói Tiếng Anh hiệu quả của bản thân rồi chia sẻ cho đối phương để cả hai cùng tiến bộ. Đặc biệt là bí quyết nắm được một trăm từ vựng mỗi ngày cho đến khi chỉ cần ba giờ để nhớ hết được chúng. Tiếp theo đó là cách mà tác giả cùng cô bạn thân áp dụng các từ vựng vào bài nói của mình từ lời tiếp sức của cô giáo Trịnh “Không có đường tắt giúp nâng cao kỹ năng nói, các bạn chỉ còn cách mở miệng nói thôi.” Cũng chính những năm đầu đại học này, con ếch đã được đổi từ một cái giếng nhỏ sang một cái giếng to hơn khi quyết định đăng kí học luyện nói tại Tập đoàn Công nghệ và Giáo dục phương Đông ở Bắc Kinh để rồi nhận ra ở đây không phải chỉ dân chuyên ngành về Tiếng Anh mới có thể nói tốt Tiếng Anh mà còn nói tốt hơn rất nhiều lần. Trong thời gian học tại đây tác giả đã rút ra một bài học nữa cho bản thân mình không nên so sánh bản thân với người khác vì khởi đầu của mỗi người là khác nhau. Ở năm đại học thứ hai tác giả đã phát triển thêm rất nhiều về kĩ năng nghe nói của mình nhưng đây cũng là năm mà cô phải đấu tranh tâm lý khá mãnh liệt về cuộc thi GRE (kì thi đầu vào cao học của các trường đại học ở khu vực Bắc Mỹ) cũng như phải tiếp tục bước một mình trên con đường đã chọn khi mà cô bạn thân Cá Béo Ướp Muối rẽ sang một hướng khác về chí hướng sau khi tốt nghiệp đại học. Tuy không còn gắng bó với nhau như trước nhưng cả hai vẫn dành cho nhau những lời khuyên, những lời động viên chân thành nhất và cả hai đều được trở thành sinh viên trao đổi đến học tại đại học Bắc Kinh vào năm thứ ba. Ở đây ngoài việc tiến bộ trong học tập ra còn có những việc khiến Diễm Diễm có thể chẳng bao giờ quên được khi cô gặp được các nhân vật thành công trong một số lĩnh vực nhất định và được họ truyền cho nguồn động lực, nguồn cảm hứng mãnh liệt như Thành Long, Lý Liên Kiệt, Mã Vân, Lý Ngạn Hoằng,… Và cuối cùng cô đã hiểu ra “…những hối hận và thất bại trong quá khứ không thể thay thế được cho tương lai, cũng không thể quyết định tương lai. Phấn đấu không bao giờ là muộn.”, “…ước mơ của mình thuộc về mình, chỉ có mình mới có quyền nói “Có” hay “Không” với nó.” Ngôi trường đại học Bắc Kinh này đã giúp cô khẳng định thêm ước mơ của mình và kiên định mục tiêu đã đặt ra cũng như đã tỏ rõ cho cô nhiều điều mà từ trước đến nay cô chưa hiểu. Thời gian thắm thoát thoi đưa cuối cùng cũng đã đến năm cuối cùng của đại học, áp lực về thời gian, về việc học như khiến tác giả “điên loạn” nhưng người thân và bạn bè đã ở bên cạnh giúp cô vượt qua khoảng thời gian khó khăn đấy. Trong năm này, tác giả đã gặt hái nhiều thành công lớn như trúng tuyển kì thi tuyển sinh cao học của Học viện Bắc Kinh, gia nhập vào tổ phụ đề dịch phim,… Bốn năm đại học là khoảng thời gian không quá dài nhưng cũng không quá ngắn. Tuy nhiên nó đủ để làm thay đổi hoàn toàn cả một người “Lần đầu tiên tôi hiểu được ý nghĩa của việc học, ý nghĩa của phấn đấu; hiểu được làm thế nào mình mới có thể làm cho cuộc đời trở nên vui vẻ, hưng phấn, hiểu được làm thế nào mình mới có thể không oán trách không hối hận…” Nhật kí vượt trùng dương của tôi Chương tiếp theo thuật lại cuộc sống cao học khi tác giả còn ở trong nước. Ở chương này, vô số kinh nghiệm về cuộc thi GRE và TOEFL đã được cô mô tả tỉ mỉ qua từng ngày cũng như là cách viết bài luận, nghệ thuật chọn trường du học, trình tự, qui trình làm hồ sơ nhập học. Đạt được kết quả gần như tuyệt đối trong các cuộc thi lớn như GRE, TOEFL hay xa hơn nữa là được nhận vào học tại một trường đại học danh tiếng hàng đầu của nước Mỹ - Đại học Washington. Đó là niềm mơ ước của biết bao nhiêu người và đây cũng chính là kết quả xứng đáng cho sự nỗ lực không ngừng nghỉ của cô, như chính đạo lý mà cô đã hiểu ra được “Chỉ cần có nội tâm đủ mạnh mẽ, quyết tâm đủ kiên định, hành động đủ quyết đoán, kiên trì đủ lâu bền, và nắm chắc cơ hội đến với mình, thì ai cũng đều có cơ hội trở thành kẻ mạnh, trở thành người thành công.” Sống trên đất Mỹ Mấy năm qua cứ ngỡ như cái chớp mắt của thời gian, tác giả không ngừng phấn đấu, không ngừng hoàn thiện bản thân cho đến cuối cùng cũng đặt chân lên được mảnh đất thoả niềm khát khao cháy bỏng của mình. Ở đây cô trải qua nhiều cuộc thi khác nhau và gặp nhiều rắc rồi trong vấn đề hoà nhập với cộng đồng ngôn ngữ nhưng cô vẫn cứ vui vẻ mà đón nhận và tiếp tục trau dồi con đường học vấn của mình… Kết Đích đến của Vương Quyên là nước Mỹ - xứ sở cờ hoa xinh đẹp muôn đời và đích đến của tôi là được hoà mình dưới ánh nắng của bầu trời Châu Âu hoa lệ. Thế còn bạn thì sao? Những bãi biển đầy nắng gió của vùng ven biển Sydney, những cánh rừng bạt ngàn nối đuôi nhau không ngừng nghỉ cạnh dòng sông Amazon hùng vĩ hay cái nắng gió khô hanh và với vô số các loài sinh vật hoang dã ở Nam Phi,… những nơi đó đang chờ bạn. Tôi xin lập lại một lần nữa lời của tác giả “Cho dù bạn từ đâu tới, cho dù bạn bình thường như thế nào đi nữa, thì với ước mơ, tất cả mọi người đều bình đẳng như nhau. Cho dù bạn cảm thấy bản thân mình nhỏ bé nhường nào, bạn vẫn có quyền theo đuổi ước mơ cao quý.” Cuốn sách đáng đọc dành cho những ai có ý định du học hoặc không nhưng là người có ước mơ còn dang dỡ chưa thực hiện được, những người đang thiếu quyết tâm và ý chí, luôn nghĩ bản thân kém cỏi hoặc quá đỗi bình thường. Tôi không chắc là cuốn sách sẽ thay đổi hoàn toàn được bạn nhưng tôi chắc chắn rằng nó sẽ để lại cho bạn một cách nhìn khác so với bạn trước đây. Cuốn sách không hẳn là thay đổi được cuộc đời nhiều người nhưng ít nhất nó đã làm thay đổi được một người - đó là tôi. Hãy đọc đi, cảm nhận và suy nghĩ - những ước mơ dỡ dang còn đang chờ bạn viết tiếp. “Tuổi trẻ không sợ thất bại, ngã rồi lại phủi bụi đứng lên. Kì thực, thất bại không đáng sợ, vấp ngã không đáng sợ, nhụt chí không đáng sợ, hèn nhát không đáng sợ, lười biếng không đáng sợ, lạc đường không đáng sợ! Điều đáng sợ nhất là bạn đánh mất trái tim theo đuổi ước mơ…”   Tác giả: Bảo Trâm - Bookademy Mời các bạn đón đọc Săn Học Bổng của tác giả Vương Quyên.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bí Mật Của Hạnh Phúc - Ph.D David Niven
“Ước mơ lớn nhất của con người là cảm nhận và tìm được ý nghĩa, hạnh phúc của cuộc sống” Hạnh phúc là biết luôn khám phá cuộc sống mới mẻ từng ngày. Hạnh phúc là cảm nhận hồn nhiên cái đẹp cuộc sống từ những điều đang diễn ra quanh ta như bản thân nó vốn từng có. Hạnh phúc là được sống, chia sẻ với những người bạn chân thành. Hạnh phúc là có một tâm hồn trong sáng, một trái tim thuần khiết, không vị kỷ, ghét ghen. Hạnh phúc là biết mỉm cười với chính mình, nâng đỡ người khác chứ không phải chế giễu họ. Hạnh phúc là tìm ra được giá trị niềm vui được cho hơn là chỉ muốn nhận. Hạnh phúc là sống vị tha và biết nhìn nhận lỗi lầm để bước tiếp sau những lần vấp ngã. Hạnh phúc là biết cách chế ngự cái tôi và cái của tôi khi cần thiết. Hạnh phúc là dám yêu, được yêu và dám sống cho một tình yêu chân thành, cho dù chỉ từ một phía. Hạnh phúc là biết gìn giữ, tìm được sức mạnh tinh thần từ những kỷ niệm, ký ức yêu thương ngay cả khi nó không còn hiện diện trong hiện tại. Hạnh phúc tìm được đôi khi không chỉ từ những nụ cười mà còn là giọt nước mắt trên bờ vai tin cậy. Hạnh phúc là mong muốn được học hỏi, sáng tạo tìm ra những giá trị mới, hơn là ước muốn được dạy bảo người khác. Hạnh phúc là tìm được niềm vui công việc, biết ước mơ, làm được những điều mình thích và biết mỉm cười trước những thất bại, nghịch cảnh. Hạnh phúc là biết nhận ra được ý nghĩa những điều giản dị, những giá trị vĩnh hằng của cuộc sống. - First News Khám phá Hạnh phúc Cuộc Sống Khi còn ở tuổi niên thiếu, dường như mọi người chúng ta thường nhìn nhận khái niệm hạnh phúc rất đơn giản - đó là đạt được những điều mình muốn. Khi bước vào cuộc sống, chúng ta thực sự đặt chân lên cuộc hành trình tự khẳng định mình, trải nghiệm, khám phá và đi tìm hạnh phúc cuộc sống. Trong cuộc hành trình đó, biết bao điều bất ngờ, biến cố buồn vui đón chờ ta. Và biết bao lần chúng ta phải đối diện với thất vọng, mất mát niềm tin, khổ đau và cả bất hạnh. Chúng ta nhận ra hạnh phúc không hề đơn giản. Và chúng ta đã từng trăn trở tìm cách để cảm nhận cuộc sống mình được hạnh phúc hơn. Qua những khó khăn thử thách, chúng ta từng bước trưởng thành, khám phá ra ý nghĩa cuộc sống có nhiều cung bậc, đa dạng. Và cuộc sống không là một khuôn mẫu định sẵn mà là một không gian đa chiều, phong phú. Khám phá đó đi cùng nhận thức nội tâm và sự thức tỉnh, cách cảm nhận tâm hồn, tinh thần mỗi người. Và hạnh phúc mà chúng ta từng cảm nhận không chỉ là khái niệm ước muốn đơn thuần hay là sự thành đạt mà là một tổng thể hài hòa của tình cảm con người, tình yêu, các mối quan hệ, nội tâm và cách nhìn. Trong đó yếu tố tinh thần là quan trọng nhất. Trong những phút giây đối mặt với thất bại, sai lầm, nghịch cảnh và đắng cay cuộc đời, ngay với những người bản lĩnh, nhiều vốn sống nhất cũng đôi lúc mất phương hướng và tự hỏi: Thế nào là hạnh phúc thực sự? Ý nghĩa và giá trị cuộc sống của mình là gì? Vì sao cảm giác hạnh phúc thực sự lại khó tìm đến thế? Hạnh phúc sao đến rồi lại đi? Có thực sự tồn tại và phải đi tìm sự hạnh phúc vĩnh hằng ở đâu? Làm thế nào để hạnh phúc thật sự? Hạnh phúc là luôn bằng lòng với chính mình hay dám thay đổi, vượt lên để đạt được điều mình mơ ước? Hạnh phúc là cảm nhận tĩnh lặng hướng nội, tự bằng lòng với cuộc sống đang có hay dám vươn lên chinh phục những thử thách để khẳng định mình và thay đổi cuộc sống? Đó không chỉ là trăn trở của mọi người chúng ta hiện nay mà còn từng là những suy tư, câu hỏi của nhiều thế hệ. Có phải là hạnh phúc luôn ở phía trước và khó nắm bắt - chúng ta chỉ có thể hướng đến mà thôi. Hay hạnh phúc thật gần gũi, ở ngay trong tâm chúng ta. Rằng chỉ có những người từng trải qua khổ đau mới có thể hiểu giá trị và cảm nhận trọn vẹn giá trị của niềm vui hạnh phúc. Và ai đó đã chiêm nghiệm sâu sắc rằng hạnh phúc không phải là cảm giác tới đích, mà chính trên từng chặng đường đi, hạnh phúc không chỉ là nụ cười, mà còn là giọt nước mắt chia sẻ trên bờ vai tin cậy. Vâng! Tất cả đều có thể đúng - tùy vào cảm nhận mỗi người trong từng thời điểm. Đến một lúc, hạnh phúc ở ngay trong tâm hồn, ánh mắt chúng ta - không phụ thuộc ngoại cảnh, không gian và thời gian. Hạnh phúc do tinh thần, cách nhìn của chúng ta quyết định. Sẽ đến một lúc chúng ta chợt nhận ra giá trị sâu sắc của hạnh phúc, tình yêu - thật giản dị, thật mới mẻ, lắng đọng trong tâm hồn, bừng sáng như ngôi sao chỉ đường, khiến ta thao thức, cảm nhận đến nỗi chúng ta muốn được chia sẻ cảm xúc với ai đó. Đó chính là nguồn động viên lớn nhất của con người. do First News thực hiện là một cuốn sáchthực sự mới mẻ và sâu sắc dựa theo những ý tưởng của cuốn sách nổi tiếng “100 Bí Mật Đơn Giản của Những Người Hạnh Phúc” của Tiến sĩ David Niven. Cuốn sách sẽ cùng bạn chia sẻ những trải nghiệm chân thành, thực tế và hữu ích nhất cùng những câu chuyện sinh động để khám phá ra những khía cạnh của hạnh phúc. Đây không chỉ đơn thuần là nghiên cứu của một nhà tâm lý tâm huyết mà còn là sự đúc kết, trải nghiệm từ rất nhiều số phận, rất nhiều cuộc đời. Đó là thành quả lao động của những nhà khoa học nghiên cứu về cuộc sống nội tâm con người trong một thời gian dài. Trong nguyên bản những phần chưa phù hợp với người Việt Nam - vì văn hóa và quan niệm hạnh phúc của phương Tây và chúng ta có những điểm khác biệt - nên chúng tôi đã chuyển đổi và bổ sung những ý tưởng và trải nghiệm thích hợp với cuộc sống chúng ta hiện nay. Cuốn sách sẽ giúp chúng ta khám phá nội tâm, cách suy nghĩ, tư duy của chính mình, tìm ra được sự khác biệt giữa người hạnh phúc và không hạnh phúc để tìm ra đường đến hạnh phúc của mình. Qua từng trang sách chúng ta nhận ra rằng hạnh phúc không phải là điều xa xôi, khó tìm. Hạnh phúc có thể tìm được bằng những điều chỉnh, thay đổi trong cuộc sống, cách nhìn và suy nghĩ của chúng ta. Hạnh phúc có thể tìm được trong sự chia sẻ chân thành, trong sự cao thượng của các mối quan hệ, trong lòng dũng cảm, quyết tâm vươn lên, trong cách tư duy tích cực và hướng đến một ngày mai tốt đẹp hơn. Mong rằng cuốn sách với những ý tưởng mới mẻ, sâu sắc và những chân lý giản dị có giá trị vĩnh hằng này sẽ là người bạn chia sẻ chân thành nhất của bạn trong những thời điểm khó khăn, thất bại hay khi đối đầu với thử thách để vươn lên tìm được niềm tin, tình yêu, ước mơ và hạnh phúc cuộc sống. - First News Mời các bạn đón đọc Bí Mật Của Hạnh Phúc của tác giả Ph.D David Niven.
Mạnh Tử - Tinh Hoa Trí Tuệ Qua Danh Ngôn - Giang Bội Trân
Trình Y Xuyên, một nhà Nho đời Tống, nói: “Kẻ đi học nên lấy hai quyển sách Luận ngữ và Mạnh Tử làm cốt. Đã học được hai bộ sách này rồi thì không cần học Ngũ Kinh cũng rõ thông được cái đạo của thánh hiền”. Kế thừa rất nhiều tư tưởng của Khổng Tử, đồng thời có những kiến giải rất riêng của chính mình, Mạnh Tử và các học trò đã biên soạn cuốn sách Mạnh Tử nhằm mục đích giáo dục cũng như giúp người đời sau hiểu rõ tư tưởng chủ yếu của ông. Quan niệm của Mạnh Tử về giáo dục, truyền thống hiếu học, con đường tự tu dưỡng, trí tuệ của con người, quan hệ giao tế và cách đối nhân xử thế… đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Sách Mạnh Tử - tinh hoa trí tuệ qua danh ngôn chắt lọc những lời dạy khôn ngoan của Mạnh Tử trong cuốn sách trên, khai mở cho người đọc nhiều tư tưởng tiến bộ cũng như nhiều điều bổ ích để chúng ta biết cách đối nhân xử thế trong thời đại ngày nay. Mời các bạn đón đọc Mạnh Tử - Tinh Hoa Trí Tuệ Qua Danh Ngôn của tác giả Giang Bội Trân.
Tuổi Già Tập 2 - Simone de Beauvoir
Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 2 của tác giả Simone de Beauvoir.
Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir
Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.