Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Đời Tranh Đấu Của Gandhi (Louis Fischer)

Mohandas Karamchand Gandhi sinh trong một gia đình Ấn Độ giáo thuộc cộng đồng Modh (một nhóm thương gia ở Gujarat), tại Porbandar, bang Gujarat, Ấn Độ vào năm 1869.[4] Ông là con của Karamchand Gandhi, một người giữ chức "diwan" (có thể gọi là "Tổng bộ trưởng") của Porbandar, và bà Putlibai, người vợ thứ tư của Karamchand, theo Ấn Độ giáo phái thờ thần Tì-thấp-nô (sa. vaiṣṇava). Nữ thủ tướng Ấn Độ sau này, Indira Gandhi, và con trai của bà, Rajiv Gandhi, không có họ hàng với Gandhi.***

CHƯƠNG 1: MỘT LINH-HỒN XA CÕI TỤC

HÔM ấy là ngày thứ sáu, 30 tháng giêng năm 1948.

Hồi 4 giờ rưỡi chiều, tại biệt thự Birla House ở Tân Đề-ly, sau khi dự bữa cơm thanh đạm thường nhật do bà Abha dâng lên, Thánh tiếp ông Patel, phó Thủ-tướng chính-phủ nước Tân Ấn-Độ. Cuộc hội đàm hình như quan trọng vì kéo dài đã quá giờ. Thánh phải ra dự buổi lễ cầu kinh. Mãi tới khi bà Abha kín đáo nhắc Thánh là đã tới giờ, Thánh mới giã từ khách mà chậm rãi đi tới nơi cầu nguyện. Qua vườn, Thánh còn nói, hai tay vin vào vai hai bà cháu gái: « Đây là hai cây gậy trúc chống già của tôi đây! »

Lúc Thánh bước lên đàn tràng thì có sự nhốn nháo trong đám tín đồ đang đợi sẵn. Kẻ thì tiến lại gần Thánh để lạy chào, người thì rẽ đám đông để lấy chỗ Thánh đi, nhiều tín đồ phủ phục trước chân người. Thánh rời tay khỏi vai hai bà cháu gái, chắp lên ngực để đáp lễ mọi người. Ngay lúc đó, một người từ đám đông tiến ra chắn ngang đường Thánh đi, hình như muốn chờ để phủ phục lạy chào. Sợ trễ giờ cầu nguyện, bà Manou, cháu Thánh, vội đẩy người đó ra bên, thì bị y xô ngã liền. Rồi tiến đến cách Thánh hai bước, y rút súng sáu đã thủ sẵn trong áo nhằm Thánh bắn liền ba phát. Tìm mua: Cuộc Đời Tranh Đấu Của Gandhi TiKi Lazada Shopee

Phát thứ nhất thì Thánh đang đi bỗng dưng lảo đảo mà đứng lại. Phát thứ hai thì máu đào đã loang trên áo Thánh. Bàn tay Thánh đang chắp trước ngực bỗng buông thõng ven mình. Tiếng nổ thứ ba vừa dứt, thì cái cái thân hình gầy guộc của Thánh quỵ xuống. Đôi mắt kính văng ra một bên. Một chiếc dép da của Thánh tụt khỏi chân, rơi ra nẻo khác.

Hai bà cháu gái khẽ nâng đầu Thánh lên và gượng nhẹ khiêng người vào tẩm thất. Mắt ngài khi ấy nhắm nghiền. Phó Thủ-tướng Patel nâng tay người chẩn mạch hình như còn thấy dấu hiệu mong manh của sự sống. Có tiếng lách cách của người nào bới lộn chai lọ trong hộp thuốc để tìm một ống thuốc hồi dương. Nhưng mười phút sau, bác sĩ Bhargava tới thì Thánh vừa tắt thở.

Các thanh-niên nam nữ tín đồ kêu khóc như điên. Thủ tướng Nehru, đồ-đệ yêu dấu của Người, tất tả chạy đến, vành khăn còn quấn dở. Thủ-tướng phủ phục cạnh linh sàng, gục đầu vào nếp áo đẫm máu của Thánh mà khóc than thảm thiết. Rồi đến lượt Devadas, con út Thánh, cùng các nhân viên Chính-phủ mà phần lớn là đồ-đệ người, đến nhìn mặt Thánh. Trong các số các nhân vật ngoại-giao đến viếng tang, nhiều người mủi lòng rơi lệ.

Bên ngoài biệt-thự, dân chúng tụ họp kêu gào đòi được chiêm ngưỡng dung nhan Thánh lần cuối. Người ta phải đặt di-hài Thánh lên nóc nhà, chiếu đèn vào cho tỏ. Quần chúng đang hỗn loạn bỗng im lặng như tờ. Hàng vạn người nối nhau sắp hàng đi diễu trước thi hài. Lẫn với tiếng chân rầm rập trong đêm thâu, vẳng lên những tiếng nức nở của nỗi lòng khôn nén. Đến nửa đêm thì thi hài được hạ xuống để rước vào linh sàng. Suốt đêm, những người thân của Thánh canh gác bên người, và thay phiên nhau cầu kinh đến sáng.

Đến sáng sớm hôm sau, các vị đồ đệ tắm rửa thi hài bằng nước hương thang rồi theo đúng tục lệ quàng qua cổ Thánh một vòng hoa bằng bông và bằng lúa tết. Cỗ vải liệm trắng tinh bọc quanh mình Thánh, chỉ để hở bộ ngực thanh tao tinh sạch mà Ngài có thói quen để trần khi còn sống. Những cánh hồng tươi rắc khắp linh sàng và trên vải liệm. Cạnh di hài, nghi ngút một đỉnh trầm hương.

Gần trưa, theo lời yêu cầu của quần chúng, di hài Thánh lại phải đặt lên nóc tòa nhà Birla lần nữa.

Đến trưa thì con thứ ba của Thánh là ông Ramdas đáp phi cơ về tới Tân Đề-Ly. Người ta chỉ còn chờ ông để cất đám, vì kính trọng những thói sống giản-dị và nhún nhường của Thánh lúc sinh thời, thiếu-lang Devadas và ông Pyarélal Nayyar, người cộng sự thân mật nhất của Thánh, đã quyết định không ướp xác giữ gìn, mà làm lễ thiêu hóa ngay để linh-hồn người quá-cố chóng về nơi cực-lạc.

Lễ nhập quan giản dị và cảm động. Một vòng hoa quấn trên đầu Thánh. Gương mặt người thư-thái, song dường như đượm một nét buồn vô hạn, tưởng chừng Thánh còn phiền muộn về chuyện xâu-xé của hai dân tộc Ấn-Hồi. Ngọn cờ xanh, vàng, trắng, quốc hiệu của nước Tân Ấn-Độ, phủ kín quan tài.

Đám tang đơn giản nhưng bi tráng. Linh-cữu đặt trên một giá súng đại bác kéo bởi hai trăm binh sĩ thủy, lục và không quân. Từ Birla House đến nơi thiêu hóa trên bờ sông Youmna, con đường dài có hơn 5 dặm mà đám tang khởi hành hồi 12 giờ trưa mãi 4 giờ 20 phút buổi chiều mới tới vì có một triệu rưởi người theo sau linh cữu, và một triệu người khác đứng ở suốt dọc đường. Ven sông Youmna còn một triệu người nữa chầu chực sẵn từ tảng sáng quanh hỏa đàn. Ba chiếc phi cơ bay lượn trên đám táng, chốc chốc lại buông xuống từng trận mưa hoa.

Hỏa đàn đặt cách sông Youmna chừng vài trăm bước; những phiến gỗ trầm hương đã chất sẵn trong lò. Di hài Thánh đặt trên hỏa đàn, đầu về hướng Bắc, chân trỏ hướng Nam. Khi xưa Đức Phật về trời, Ngài cũng nằm trong phương vị đó.

Đúng 4 giờ 3 khắc buổi chiều, thì Ramdas, người con thứ ba của Thánh, châm lò. Khi ngọn lửa đầu tiên bốc lên, thì tất cả cái bể người bỗng rung động trong một tiếng than dài. Có lúc như một làn sóng cuốn, dân chúng ùa tới hỏa tràng. Nhưng rồi muôn người như một lại trấn tĩnh được ngay và rũ xuống như dưới một sức đè nén nặng nề. Có tiếng khóc nức lên trong đám đông.

Ngọn lửa dội lên rồi tắt. Trước gió chỉ còn ít tro than và một làn khói cuộn. Cái đám đông mấy triệu người im lặng như tờ. Một tiếng chim hót đâu đây. Xa xa, nước sông rì rào chẩy.

Hai mươi bẩy giờ sau, khi những hòn than cuối cùng trên hỏa đàn đã vạc, những người thân của Thánh cử hành lễ lượm xương. Các đồ đệ của người kính cẩn thu góp những mảnh xương tàn chưa bén lửa. Than tro được vun vén vào chiếc túi nhỏ bằng vải bông do chính người nhà dệt lấy. Bới đống tro than, người ta nhặt được một viên đạn sắt, hòn đạn còn nằm trong mình Thánh. Di cốt được đựng trong một chiếc bình đồng, sau khi lau rửa bằng nước sông Youmna. Ramdas quấn một vòng hoa thơm vào cổ bình, rồi đặt vào một chiếc giỏ đầy hoa mà đem về Hồng thất.

Đến ngày 11 tháng hai thì làm lễ thủy táng hài-cốt Thánh ở hợp lưu sông Hằng-Hà, sông Youmna và sông Sarasouati. Lúc sinh thời, Thánh vốn bao giờ cũng chỉ đi xe lửa hạng ba, lẫn với đám bình dân. Vậy thì bây giờ, dẫu không có lời di huấn, người ta cũng lập một chuyến xe riêng, gồm năm toa toàn hạng cuối, để đưa hài cốt từ Tân Đề-Ly đến nơi an nghỉ cuối cùng. Bình xương tro đặt ở toa xe chính giữa, dưới một núi hoa hồng. Chung quanh, có hai bà Abha và Manon, ông Pyarélal, bà Sonchila Nayyar cùng mấy người học trò yêu của Thánh gìn giữ.

Ở Allahabad, ngày 12, một triệu rưỡi người từ mọi nơi kéo đến để cầu nguyện. Bình di-cốt đặt trên một chiếc xe phủ đầy hoa. Con cháu và các người thân của Thánh đẩy xe hộ tống. Thủ-tướng Nehru đi theo linh xa, nỗi buồn thương hiện trên nét mặt.

Đến ven sông thì bình hài-cốt được chuyển xuống một chiếc xuồng nhà binh sơn trắng để đem ra giữa dòng. Khi miệng bình nghiêng xuống làn nước đỏ cạch của sông Hằng-Hà thì một loạt súng viếng vang động trên những chòi thần công của thành lũy đồn Allahabad. Tro than bay tung trước gió. Những mảnh xương con, thì nước sông Hằng đem nhanh ra biển.

Vụ ám-sát Thánh Cam-Địa là một tang chung cho toàn cõi bán đảo Ấn-Hồi. Quốc dân hình như thấy một nỗi chán chường đè nặng trên tâm hồn. Vì con người lượng cả đức cao như Thánh, một người thương yêu cả đến những kẻ thù hiểm độc nhất của mình, một người bình sinh không bao giờ dám giết đến một loài côn trùng, ruồi muỗi, một người như Thánh mà đến nỗi bị giết dã man bởi chính tay người đồng chủng và đồng đạo của mình, thì trên cõi đất này còn đâu là công lý của Trời?

Ngày thứ sáu 30 tháng giêng năm ấy, Thánh Cam-Địa tạ thế, trong khi sự-nghiệp của người đã đến chỗ tuyệt đích cao siêu. Vậy mà Thánh đã từ giã cuộc đời, bình dị và hồn nhiên chẳng khác khi người sống. Không riêng gì dân tộc Ấn, mà khắp thế-giới được tin Thánh từ trần cũng cảm thấy một cái gì cao cả vừa mất đi. Vì Thánh Cam-Địa tượng trưng cho Đức-độ cao cả mà loài người chúng ta thiếu sót.

Nhà chính-trị Pháp Léon Blum đã diễn tả được tư tưởng của toàn thể chúng ta khi viết rằng:

« Tôi chưa hề đặt chân lên đất nước Người, vậy mà được tin Người mất, tôi xót-xa tiếc nhớ chẳng khác trước cái chết của người ruột thịt. Khắp thế giới, đâu đâu cũng để tang bậc kỳ nhân đó! »

Giáo sư Albert Einstein cũng nói:

« Thánh Cam-Địa đã chứng tỏ rằng người ta có thể chế-ngự được trăm triệu sinh-linh không phải bằng những lời hứa hão-huyền hoặc những mánh-khóe chính-trị xảo-quyệt, mà chỉ bằng tấm gương sáng của một đời sống thanh cao trong sạch ».

Bởi thế cho nên tin dữ ở Tân Đề-Ly vừa truyền đi, khắp thế giới sững sờ điếng lặng trong sự hãi hùng và đau đớn.

Một nguồn sáng của nhân loại vừa vụt tắt.

Ở bên kia đại dương, Mỹ-quốc rủ cờ tang.

Nhân loại cũng đeo một tang lớn trong lòng.

Nhưng cái chết của Thánh có thể như liều thuốc hồi sinh, gây ảnh hưởng diệu kỳ trong cái thế giới đang xâu xé lẫn nhau như lang sói. Những bực chính khách trong tay đang cầm vận mệnh của mấy nghìn triệu sinh linh, các vị dù có tranh đấu cho một lý-tưởng, một chủ-nghĩa nào chăng nữa, thử hỏi có ai đã dám tranh-đấu suốt đời với một lòng nhân như Thánh?

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cuộc Đời Tranh Đấu Của Gandhi PDF của tác giả Louis Fischer nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Trên Con Đường Tơ Lụa Nam Á (Nguyễn Chí Linh)
Không hẳn chỉ những ngày rằm lớn, mỗi khi buồn hay gặp những chuyện không hay trong cuộc sống mẹ tôi lại đến chùa. Trong ký ức của tôi, ngôi chùa tuổi thơ luôn đẹp đẽ với cây Bồ Đề to gốc xanh lá đứng reo giữa trời xanh và tán của cây rộng lớn đến mức dường như ôm cả mái chùa được lợp bằng lá dừa vào lòng vuốt ve. Những lần chơi dưới gốc cây Bồ Đề tỏa mát quanh năm, ngọn gió thổi qua làm cây vặn mình răng rắc cũng đủ khiến tôi chết khiếp bởi tưởng tượng ra một thế lực vô hình nào đó đang hiện hữu quanh mình. Mẹ tôi dạy rằng, mỗi lúc con sợ sệt điều gì đó, hãy nhắm mắt lại và niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Dù khả năng hấp thụ của trẻ thơ chẳng là bao nhưng từ đó, câu chú ấy như một niềm tin mà tôi cố vận vào mình để giải quyết mọi vấn đề diễn ra trong cuộc sống. Mùa hè năm 1986, tôi lại sống trong kỷ niệm khi bộ phim Tây Du Ký được trình chiếu. Mỗi khi nghe bản nhạc dạo đầu bộ phim, tôi luôn phải bỏ dở việc đang làm, xin phép mẹ chạy sang nhà hàng xóm kế bên xem ké. Tôi vẫn thuộc lòng đoạn hát: “Thấp thoáng chân mây biết phương nào, thấp thoáng chân mây xa tít mù, về Thiên Trúc còn quá xa, bao khó khăn vượt qua…” Và cứ mỗi mùa hè trôi qua, tôi lại cảm nhận thêm thông điệp mà bộ phim muốn truyền tải: Người giỏi bao giờ cũng khó khăn trên con đường đi của mình bởi xu thế nịnh hót luôn được ưa thích. Khi gặp phải khó khăn, Tề Thiên Đại Thánh luôn nhờ sự giúp đỡ của các vị Tiên, Phật giống như con người lúc bế tắc tìm đến Phật Pháp để lấy lại niềm tin. Với tôi, dù mỗi tôn giáo có nguồn gốc hình thành, tâm linh, đấng tối cao hay cơ cấu tổ chức khác nhau nhưng chung quy cơ bản vẫn là khơi dậy tính thiện trong mỗi con người bởi thiện và ác chỉ có ranh giới mong manh như sợi chỉ. Biết tôi yêu thích con đường tơ lụa, em gái Khải Đơn tặng tôi quyển sách Muôn dặm không mây của bà Tôn Thư Vân để làm bạn tâm giao. Tôi say mê đọc quyển sách ấy trong hành trình 25 ngày Thái Lan, Madagascar và Mauritus sau khi nghỉ việc, mặc kệ điện đóm ở Madagascar rất chập chờn. Thú vị ở sự trùng khớp đến 95% với những cung đường tôi đã đi qua dù rằng trước đây chưa từng đọc quyển sách ấy, giúp tôi nhìn lại quá khứ và hiện tại các thành phố Nam Á nằm trên con đường tơ lụa từ khi tôi đặt chân đến quốc gia Nam Á đầu tiên là Ấn Độ vào ngày 6/2/2008. Đồng thời, đó còn là động lực để thôi thúc bước chân tìm hiểu cuộc sống của người bản địa trong thời loạn lạc chiến tranh ở Afghanistan bởi cụm từ “loạn lạc chiến tranh” tôi chỉ nghe qua lời kể của mẹ mà chưa từng được trải nghiệm bao giờ. Khi thời gian lướt qua để lại vài nếp nhăn trên khuôn mặt, tôi cần lắm “giá trị” của những chuyến đi hơn là cái háo hức chinh phục rồi bồng bột tháo chạy như thời tuổi trẻ. Như tên gọi của nó, con đường tơ lụa do những người Trung Hoa sáng lập có từ những năm 220 trước Công nguyên để giao thương tơ, lụa và gấm đến các quốc gia lân cận. Điểm bắt đầu là các thành phố Hàng Châu, Phúc Châu và Bắc Kinh - những nơi nổi tiếng trong việc sản xuất tơ lụa từ việc nuôi tằm lấy kén. Không chỉ sản xuất phục vụ cho hoàng đế và giai cấp quý tộc, người Trung Hoa còn muốn giao thương mặt hàng gấm, lụa của mình đến các quốc gia lân cận như Mông Cổ, Hàn Quốc và Nhật Bản. Lạc đà là phương tiện vận chuyển lúc bấy giờ trên con đường rong ruổi của thương gia qua những vùng đất lạ lẫm về văn hóa. Rome - kinh đô văn hóa sáng chói của người La Mã trong thời cổ đại là điểm đến thèm muốn nhất của đoàn thương gia Trung Hoa trong việc mở rộng thị trường sau các quốc gia Đông Á lân cận đã đi qua. Thành phố Tây An (bấy giờ là Trường An) là điểm tập kết đầu tiên của đoàn người tơ lụa để vượt Trung Á áp sát bờ Địa Trung Hải và từ đây sẽ vượt biển đến Rome vào những năm 30 trước Công nguyên. Con đường tơ lụa còn được gọi là con đường Đông - Tây với nhiều ý nghĩa sâu xa bởi không chỉ tơ lụa mà trên con đường đó còn hình thành việc giao thương các mặt hàng quý giá lúc bấy giờ, những nền tôn giáo và văn hóa hòa quyện vào nhau. Không chỉ có ý nghĩa về mặt thương mại, con đường tơ lụa còn có ý nghĩa về mặt quân sự khi các hoàng đế La Mã, các vị vua Hồi giáo, triều đại nhà Đường Trung Quốc, đế chế Ba Tư và Ottoman, Thành Cát Tư Hãn, vương triều Mughal đều sử dụng con đường Đông - Tây để cất vó ngựa chinh yên của mình trong việc mở mang bờ cõi. Tìm mua: Trên Con Đường Tơ Lụa Nam Á TiKi Lazada Shopee Phật giáo bắt nguồn từ phía Đông Ấn Độ vào khoảng thế kỷ 6 đến thế kỷ 4 trước Công nguyên sử dụng con đường tơ lụa để truyền bá đạo của mình đến các vùng lân cận vào thế kỷ 1 sau Công nguyên. Những vị tu sĩ theo phương pháp tu khổ hạnh quảng bá đạo Phật bằng cách đi ngược lại với người Trung Hoa trên con đường tơ lụa. Theo quy luật sống còn của thời gian, con đường tơ lụa dài khoảng 6.437km đã dần biến mất, rơi vào quên lãng và nó chỉ thật sự sống lại vào thế kỷ 19 khi nhà địa lý học người Đức Ferdinand von Richthofen cho ra đời những quyển sách viết về con đường thương mại cổ xưa có giá trị trong nhiều lĩnh vực. Trong 6.437km của con đường tơ lụa, UNESCO chỉ công nhận di sản văn thế giới ở đoạn từ Tây An đến dãy núi Thiên Sơn nằm giữa biên giới hai nước Kyrgyzstan - Trung Quốc bởi nó giữ lại vết tích giao thoa văn hóa trên con đường ấy, đặc biệt là những động Phật được khắc vào trong các hang núi sâu. Việc tìm lại những thành phố nào nằm trên con đường tơ lụa ở vùng đất Nam Á được các nhà khoa học lần theo vết tích Phật giáo bằng cách xác định đâu là kinh đô hay trường dạy Phật giáo nằm ngoài Ấn Độ. Ngài Trần Huyền Trang là người có công rất lớn giúp các nhà khoa học tìm lại con đường tơ lụa ngày xưa bằng việc đánh dấu các thành phố đã đi qua trong quyển nhật ký ghi lại của Ngài trên đường đi học đạo từ Tây An qua Thiên Trúc. Con đường ấy bây giờ có khi cũng đã biến mất, lúc lại bị chia năm xẻ bảy ra nhiều khúc khác nhau bởi các con đường nhựa hiện đại, hoặc có khi chỉ là con đường đất hoang tàn xơ xác… trên nhiều quốc gia khác nhau. Nhưng khi được bước chân đi trên những con đường ấy, lòng tôi luôn rộn ràng như tuổi 13 và cứ mơ màng xa xôi về hình ảnh đoàn thương gia với lạc đà cùng với túi hàng gồ ghề trên lưng băng qua cái nắng, cái gió hay cái lạnh thấu xương của sa mạc hoang vu rộng lớn để đến Istanbul, Rome và Venice. Họ đã cất tiếng ca ú a ú ờ để xua đi nỗi nhớ nhà, quyết tâm đến được những vùng đất mới lạ khi năm tháng dần trôi qua trên những cung đường quanh co có khi chạy cuốn hút vào những dãy núi xa mờ lẫn vào trong chân mây… ***Ru mẹ về yên ả chiều quêTôi trở lại Việt Nam sau chuỗi ngày rong ruổi trên vùng đất Nam Á. Tôi không tìm được hương vị hạnh phúc ngọt ngào sau chuyến đi như những lần trước bởi nỗi sợ và niềm đau là hai người bạn đồng hành thân thiết đang trên đường tìm đến. Dường như quá run rẩy và sợ sệt nên niềm vui đã biến vào một góc xó tối tăm nào đó ẩn nấp. Những bậc hiền triết Hy Lạp cổ cho rằng: “Nỗi sợ hãi hay niềm đau như những bà mẹ thiên nhiên đang trút những cơn giận dữ. Chúng ta không thể bỏ trốn hay chống lại. Một người khôn ngoan sẽ tìm cách đi qua nó và đức tin tôn giáo là một giải pháp hữu hiệu.” Thuở bé, nhẹ nhàng trầm ấm qua tiếng mõ hồi chuông, tôi từng nghĩ rằng mình sẽ là một vị Khất sĩ Tăng già và chính tôi đã thực hiện điều đó khi là người lần chuỗi niệm kinh đưa mẹ tôi vào cõi vĩnh hằng vào lúc 7 giờ 10 phút sáng tháng 6/2015. Bà đã trở lại “quê nhà” đúng nghĩa, ở nơi đó bà tìm lại ký ức tuổi thơ cùng những chú bò lang thang qua những bờ cỏ xanh mướt sau mưa, là những ngày lội bùn dưới đập bắt cá phụ cùng những người làm công, là những ngày miền quê yên ả với ánh nắng chiều hanh hao nhìn chị em mình chơi tạt lon ở khoảng sân vắng trước hiên nhà, là những ngày vội vã sà vào lòng anh trai trong kỳ nghỉ phép năm nũng nịu đòi học ê a những chữ cái đầu tiên, là những bước chân sợ sệt trong đêm khuya phụ mẹ đội nấm rơm lên chợ huyện Thủ Thừa để bán và là những ngày dựng nêu, gói bánh đón Tết cổ truyền rộn rã tiếng cười… Nơi đó, bà không phải nhìn những cảnh tham lam sân si đấu đá của loài người và mãi mãi là thiên đường riêng cho chính bà. 25 ngày cuối cùng kề cận bên mẹ, tôi đã thực hiện được những điều mà mình đã từng nghĩ và khóc trong đêm tối trời tại Herat, ngoại trừ việc bỏ thuốc lá. Câu trả lời với mẹ ngày xưa như một định mệnh xấu phủ lấy cuộc đời mà tôi không sao dứt ra được. Tôi vẫn chọn “Niềm tin Phật giáo” là người bạn đồng hành để đi qua nỗi sợ và niềm đau một cách nhẹ lòng nhất. Tôi vẫn còn nhớ như in lời dạy của Đức Thế Tôn với Tôn giả Anan ở vườn Câu Thi La: “Anan này, ngươi đừng khóc lóc thảm thiết như thế bởi tất cả vạn vật đều vô thường, không có cái gì bền vững mãi mãi…” Nguyễn Chí LinhĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Trên Con Đường Tơ Lụa Nam Á PDF của tác giả Nguyễn Chí Linh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đảo Tường Vy (An Ni Bảo Bối)
Một cô gái Trung Quốc làm một cuộc hành trình đơn độc qua Việt Nam, Campuchia, Hong Kong rồi Tây Tạng... Đi chỉ để nhìn thấy mình đang đi. Trong sắc màu của âm thanh, ánh sáng, mùi vị. Trong rực rỡ, xôn xao mà hoang vắng. Nhưng thật ra, khung cảnh ở mỗi chốn dừng chân ngắn ngủi của cuộc đời này đều không quan trọng. Khi mỗi chuyến đi là một sự trở về với nội tâm, một sự nhận biết mình và con đường nối với thế giới. Tình cảm thế gian ở đâu cũng như nhau và nỗi cô đơn của con người thì ở đâu cũng vậy. Nên đi, cũng là để nhìn thấy mình trong tất cả và tất cả trong mình. Du hành vì vậy cũng là bắt đầu cuộc phiêu lưu của tâm tưởng. Chuyến du hành của riêng tác giả còn là một hành trình soi lại ký ức. Ký ức trĩu nặng một tình cảm sâu sắc và dở dang, với BỐ. Có những khoảnh khắc như một nhát dao chém, vết thương còn lại mãi. Khoảnh khắc chuyển đổi từ thân phận này sang thân phận khác khi chấm dứt một kiếp luân hồi. Khoảnh khắc rơi vào tình yêu và giây phút giã từ. Những khoảnh khắc ấy, từ trang sách, ta bắt gặp âm thanh của nội tâm vang vọng chân thành.Đảo Tường Vy còn là một sự tìm kiếm chính mình trong tình yêu. "Tình cảm là bài học suốt đời của chúng ta", nên đây mới là chuyến du hành không có điểm dừng. Tình yêu dường như chỉ là ảo giác. Trong tình yêu, hoặc là an toàn, hoặc là tự do, không thể cùng một lúc nắm được cả hai, và "thứ mà chúng ta yêu vẫn chỉ là bản thân tình yêu". Có những tổn thương phải trả giá. Nhưng tình yêu mãi là một khát khao êm ả của con người, như nỗi khát khao của linh hồn cần một nơi cập bến. Tuy nhiên, linh hồn cứ mãi lang thang. Lang thang nên bất an thường trực. Tìm sự tĩnh tại thật dễ dàng mà cũng rất không. Tìm mua: Đảo Tường Vy TiKi Lazada Shopee Triết lý về tình yêu và cuộc sống đan xen nhuần nhị trong những ghi chép nhỏ. Cuốn sách vì vậy đẫm một hương vị quyến rũ. Quyến rũ như bản thân những cuộc du hành và tình yêu. Trong nỗi trầm cảm ngọt ngào, sâu lắng, con đường đẹp nhất là con đường giúp ta tìm thấy mình. Từ một trái tim bình tĩnh, hơi thở mang chút u sầu cũng lấp lánh như một ánh nắng soi nghiêng và tươi mát như giọt mưa đầu mùa trong trẻo... Đọc An Ni Bảo Bối, tìm thấy một tâm hồn Á Đông gần gũi, khác lạ với những nhà văn nữ đương đại cùng thế hệ cô. Không có những nổi loạn, không có cái tôi căng phồng. Nhẹ nhàng và đằm thắm. Tĩnh lặng và kiềm chế. Và vẫn sáng trong trong những nhiệt thành. Có thể rồi bạn sẽ quên tất cả những gì tác giả viết, về một VN dịu dàng và trầm lắng qua cái nhìn của một cô gái nước ngoài, về những chốn dừng chân khác, về cuộc tình của cô. Nhưng hương vị đẫm sâu của một linh hồn đã đi vào trong bạn. Và ở lại cùng bạn, ủi an... Ngôn từ, rốt cuộc cũng không cần mô tả cho một cốt truyện nào. Dòng chảy tâm thức không thể dồn nén trong một cốt truyện. Từ ngữ, cũng chỉ là một cuộc kiếm tìm. Bạn có thể mượn nó để vỗ về một nỗi đau hay phơi khô một cuộc tình. Rồi thời gian cũng xóa nhòa, bạn chỉ còn lại mình.***Thuỷ Tiên. Rất lâu, rất lâu sau, cô từng mơ về một người đàn ông. Mơ thấy anh nhờ người tới, kêu cô đi gặp anh. Cô đi theo người dẫn đường, hình như tới một thôn nọ, rất giống cái thôn nhỏ nằm sâu trong núi Giang Nam mà thời bé cô đã từng sống. Những lúc xuân về lại có gánh hát tới đình làng diễn. Nhưng mọi thứ nhìn thấy trong mơ chỉ là một cái sân khấu. Bên trên diễn những gì, không thể nhớ nổi. Chỉ nhìn thấy anh đứng xem lẫn trong đám người đang đứng dưới sân khấu xem hát. Anh quay lưng về phía cô, mặc đồ đen. Cánh tay trái bị thương vẫn chưa khỏi. Tuy không nói ra nhưng khiến người ta có cảm giác như thể vết thương cũ rất đau đớn. Anh vẫn có dáng như cô hằng yêu thích. Trầm lắng, kín đáo. Tuyệt đối không bao giờ thổ lộ với cô gái anh yêu về những thứ anh nghĩ. Quay người lại nhìn thấy cô, anh cũng không nói gì, mặt như thể hơi cười, nhưng cũng rất lặng lẽ. Rồi lách qua đám đông, định bỏ đi. Cô đi theo anh. Cô biết anh muốn cô đi theo, nhưng không nói ra. Cứ đi theo anh. Đi mãi tới một căn hộ xa lạ. Kết cấu của căn hộ này chỉ có một cửa, mọi lối đi trong đó đều thông nhau. Nhưng lại không nhìn thấy gì. Anh đi vào gian phòng bên trong, có rất nhiều người đang chờ đợi. Anh bắt đầu nói chuyện với họ, sắp xếp mọi việc. Như thể anh vẫn đang làm công tác cần lãnh đạo rất nhiều người làm việc. Cô chờ anh ở gian phòng bên ngoài. Cứ đợi mãi. Có vài chàng trai trẻ làm việc cho anh bước vào, cứ trò chuyện với cô, như muốn an ủi và cố gắng tạo nên bầu không khí vui vẻ. Nhưng anh mãi vẫn không chịu ra, cũng không nói với cô câu nào. Cô cố tình chờ ở đó. Lòng thầm nhủ, em sẽ đợi anh. Như một trò chơi. Cô nhắm sẵn anh. Em nhận ra ngay sự bạc nhược trong trái tim anh. Chỉ là xem anh chơi theo cách nào. Có nỗ lực, có tháo chạy, có cố chấp đều vô dụng. Cô không chủ động, không tiến lên, không thể hiện. Cô muốn so với anh, xem ai trầm mặc hơn. Ai thô bạo hơn ai. Sợ gì kết quả cuối cùng của cuộc thi, chỉ là quên lãng lẫn nhau mà thôi. Nhưng rốt cuộc vẫn là một việc quá sức. Thời gian để quên một con người có lẽ cũng lâu như khi nhớ tới. Và cuối cùng, những thứ mà bạn nhìn thấy được, vãn chỉ là sự tĩnh lặng của mình. Như thể chưa từng yêu. Mọi giới hạn đều quá mơ hồ. Ở bên trái. Cũng có thể bên phải. Thứ mà chúng ta yêu, vẫn chỉ là bản thân tình yêu. Có hay không con người đó đã không còn quan trọng. Trưa mùa Đông, cô một mình đi chợ hoa tìm mua thuỷ tiên. Mặc chiếc áo khoác đen, quần bò bẩn. Đội chiếc mũ len xanh, đi đôi giầy thể thao, đi một con đường rất dài trong ánh nắng yếu ớt và gió lớn hun hút. Trong chợ hoa có hương thơm và hơi ẩm ướt. Cô xọc tay vào túi áo khoác, lặng lẽ ngắm cậu thanh niên muốn về nhà ăn Tết, ngồi trên chiếc ghế đẩu nhỏ cắt thuỷ tiên trong một chiếc làn lớn. Im lặng mãi, ngồi xuống bên cạnh ngắm. Cậu ta hỏi, Cô có thích chúng không? Cô gật đầu. Hỏi, Sao những chiếc lá này vàng thế? Cậu ta đáp, cho tắm nắng là ổn thôi. Cứ gặp ánh nắng, chúng tất xanh lại. Chà. Cô gật đầu. Chọn lấy bốn củ thuỷ tiên đã cắt sẵn. Xách thuỷ tiên ra khỏi chợ. Gió lớn lại ào ạt. Cô lấy khăn quàng che mặt, đợi xe bên đường. Trời tối rất nhanh. Mãi mới gọi được một chiếc tắc xi. Ngồi ở ghế sau, cô xoa lòng bàn tay lên gò má cứ đờ ra vì lạnh buốt. Củ thuỷ tiên nhô lên một chiếc lá bé xíu đã ngả vàng. Cô cúi xuống, khẽ hôn lên nó. Ngoài cửa kính xe đã bắt đầu có tiếng lộp độp nhè nhẹ. Là những hạt tuyết nhỏ. Sắp có một trận tuyết to dầy. Nhẹ hoặc nặng. Sau khi chia tay, không hề gọi điện cho nhau. Thỉnh thoảng có vài tin nhắn những mất hút rất nhanh chóng. Đó là kết cục mà cô có thể dự cảm và định sẵn. Chắc chắn sẽ là như vậy. Cô không bao giờ liên lạc với anh. Anh cũng không liên lạc với cô. Không phải dàn dựng. Chỉ thuận theo tự nhiên, đem hết những dấu ấn của nhau bị thời gian xoá mờ sạch sẽ. Những gì nhớ được đều chỉ vì muốn quên lãng. Họ là những người giống nhau. Y hệt nhau. Vì thế khi gặp ngay phút ban đầu, họ đã nhận được nhau và hiểu sự tồn tại giả tạo của sự nhận biết đó. Sau khi chúng ta chia tay.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đảo Tường Vy PDF của tác giả An Ni Bảo Bối nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Tù Binh Và Hoà Bình (Phan Nhật Nam)
Tù-binh và hòa-bình vốn gồm bốn ấn bản: Ba Việt ngữ (1973, 1987, 2005) và một Anh ngữ. Tác phẩm các bạn đang có cơ hội đọc là ấn bản 2005, được coi như văn bản lưu hành chính thức và có sự gia công bổ khuyết của tác giả. Chương 1: Lời mở-đầu Chương 2: Cây bút Kaolo Chương 3: Những sợi tóc bạc trên thảm ni xanh Chương 4: Đi Bắc về Nam Tìm mua: Tù Binh Và Hoà Bình TiKi Lazada Shopee Chương 5: Những người lỡ-làng Chương 6: Những người lãng-mạn Chương 7: Thời-đại của gian-dối Chương 8: Tù cộng-sản, tù cộng-hòa Chương 9: Vấn-đề tù-binh Chương 10: Diễn-tiến Chương 11: Những con số đau-đớn Chương 12: Tù-binh, anh đi về đâu Chương 13: Hòa-bình, tưởng như là giấc mơ Chương 14: Tống-lệ-Chân, giọt nước mắt khô của hòa-bình miền Nam Chương 15: Một người tù vừa được thả, một tiền-đồn bị tràn-ngập Chương 16: Đấu Chương 17: Nhật-kí trong chiến-tranh của hòa-bình Chương 18: Trên chiến-địa trong Sài-gòn Chương 19: Những lời kết Chương 20: Khi viết lại Tù-Binh Hòa-Bình và nghe hát chiến-ca mùa hèDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Phan Nhật Nam":Mùa Hè Đỏ LửaDấu Binh LửaDựa Lưng Nỗi ChếtTù Binh Và Hoà BìnhĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tù Binh Và Hoà Bình PDF của tác giả Phan Nhật Nam nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Lai rai chén rượu giang hồ (Huỳnh Ngọc Chiến)
Tiểu luận này là tuyển tập những bài viết của tôi về Kim Dung, đăng trên các báo Kiến thức ngày nay, Pháp luật. Tôi có bổ sung thêm một vài bài, và có sửa chữa đôi chút cho phù hợp, khi in ra dưới dạng sách. Viết về Kim Dung, với tôi, là cách để nói lên những suy niệm riêng của mình. Và cũng là cách nói hộ cho rất nhiều người khác, những gì họ mà họ đã ấp ủ từ lâu trong tâm niệm. Đọc các tác giả lớn như Kim Dung, ta phải nên luôn luôn tư niệm một điều "Nhà tư tưởng luôn luôn suy tư về một điều duy nhất". Tác phẩm Kim Dung làm người đọc say mê không chỉ ở cốt truyện hấp dẫn, nghệ thuật kể chuyện tài hoa, hoặc ở chỗ đưa người đọc đến với môt thế giới rộng lớn bao la và thiên nhiên huyền bí, mà còn ở chỗ nó đặt ra những vấn đề trầm trọng cho tư tưởng. Các bộ sách đồ sộ của ông âm thầm kết tập vô số dư vang, dưới ánh sáng lung linh của Đông Phương Sơ Thủy, và mở ra một thông đạo thênh thang cho tư tưởng, để đón nhận nhiều dư hưởng mênh mông khác từ bốn phương vọng lại. Để lịch hành trên thông đạo đó, thì cách hay nhất là đọc trực tiếp các tác phẩm của ông, bởi vì "Shakespeare will never be made by the study of Shakespeare" 1(Chân tướng của Shakespeare sẽ không bao giờ hiển lộ bởi Shakespeare học). Điều đó cũng đúng với Kim Dung, và đúng với các tác giả lớn khác, suốt dưới vòm trời Đông Tây kim cổ. Đi vào thế giới Kim Dung bằng những suy niệm chân thành, chúng ta sẽ dễ nhận ra mối “nhất dĩ quán” trong hàng chục bộ sách của ông. Nhưng nhận ra ở mức độ nào, hoặc nhận ra được điều gì, thì điều đó còn tuỳ thuộc vào cơ duyên của từng người. Và đi vào thế giới Kim Dung cũng có nhiều thể cách: hoặc bỡn cợt phiêu bồng, hoặc trầm ổn túc mục, hoặc lai rai khoái hoạt, hoặc đăm chiêu tư niệm. Và xin mượn lời thi sĩ Bùi Giáng để kết thúc cho phần tựa: "Đọc truyện vũ hiệp là một trong những phép tu dưỡng kí ức và khơi dẫn nguồn vui ẩn mật trong mình. Đọc theo lối hồn nhiên, hoặc vừa đọc vừa suy gẫm. Chưởng lực, kiếm thế, nội kình phát ra có thể là tinh thể của tinh thần phát hiện. Tìm mua: Lai rai chén rượu giang hồ TiKi Lazada Shopee Riêng đối với bạn thi sĩ, sách vũ hiệp có thể giúp bạn làm thơ lai láng một cách không ngờ. Điều đó không có chi lạ: ban sơ vũ học,văn học, thi nhạc cùng phát khởi tại một cỗi nguồn: uyên nguyên của tinh thần xuất phóng". Như thế phải chăng là đã nói rất nhiều? Quảng Nam, cuối năm con Rồng, 2000 Tác giả Huỳnh Ngọc Chiến (1955) vừa mất vì ung thư thực quản ngày 1/6/21 vừa rồi. Anh là thạc sĩ công nghệ thông tin nhưng đồng thời cũng là một người tài hoa trong nhiều lĩnh vực thi ca, nhạc, văn viết và dịch thuật. Vài dòng để mọi người thêm thông tin về anh, cùng gọi là tưởng nhớ đến tác giả với những đóng góp trân quí của anh cho lĩnh vực văn hóa nghệ thuật!Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Lai rai chén rượu giang hồ PDF của tác giả Huỳnh Ngọc Chiến nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.