Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Xứ Tuyết

Xứ tuyết  là tiểu thuyết của văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari, được khởi bút từ 1935 và hoàn thành năm 1947. Trước khi xuất bản dưới dạng ấn phẩm hoàn chỉnh, tác phẩm đã được đăng tải thành nhiều kỳ trên nhật báo. Xứ tuyết được đánh giá là quốc bảo của nền văn học Nhật Bản. Cùng với Ngàn cánh hạc và Cố đô, Xứ tuyết đã mang lại cho tác giả giải thưởng Nobel văn học vào năm 1968, nhân kỷ niệm 100 năm (1868-1968) hiện đại hóa văn học Nhật Bản với công cuộc cải cách Minh Trị. Xứ tuyết mang âm hưởng truyền thống lữ hành của các thi nhân văn sĩ Nhật Bản từ xa xưa. Câu chuyện theo bước chân của chàng trai trẻ Shimamura du hành ngoạn cảnh và tắm suối nước nóng. Shimamura, sinh ra và lớn lên ở một khu phố thương mại của Tokyo, đã lập gia đình, nhưng lại say mê với cái đẹp như bị một huyền lực điều khiển, vì vậy chàng đam mê theo học nghệ thuật vũ đạo Tây phương và hoạt kịch. Là một chàng trai tài tử nhàn rỗi thiếu thành khẩn với chính mình, lại có đôi lúc khát vọng tự tìm hiểu bản thân thôi thúc, nên chàng thích lên miền núi một mình và đã ba lần lên xuống xứ tuyết phía Bắc Nhật Bản trong ba mùa khác nhau Xuân - Thu - Đông. Trong lần thứ nhất vào thời điểm mở cửa mùa leo núi, mùa xuân bắt đầu với chồi non xanh thẳm và hương thơm ngát, chàng gặp nàng ca kỹ (geisha) Komako. Komako là một cô gái đại diện cho vẻ đẹp tràn trề nữ tính, mạnh mẽ, tương phản giữa thánh thiện và trần tục, giữa tỉnh táo và đam mê, giữa vẻ đẹp sáng ngời nét thơ ngây bên ngoài và sức trầm lắng của nội cảm. Cảm giác mà nàng đem lại cho Shimamura là sự tươi mát và thanh sạch tuyệt vời. Trong những đêm khi mà nàng giúp vui tiệc tùng bằng cách đánh đàn samisen cho những khách du hành, uống rượu say và mệt lả, nàng về bên Shimamura với sự nồng nhiệt khiến chàng rung động đến tận tơ lòng. Con tàu đưa Shimamura vượt qua đường hầm đến xứ tuyết lần thứ hai để gặp lại Komako vào mùa đông, vài tuần trước khi mở mùa trượt tuyết. Trong ánh sáng mờ ảo, Shimamura mê mẩn ngắm khuôn mặt người thiếu nữ ngồi đối diện với chàng ngời lên trên tấm kính cửa sổ toa tàu, với vẻ đẹp vừa huyền ảo vừa siêu phàm, với sự duyên dáng kỳ lạ của khuôn mặt trôi qua phong cảnh ban đêm. Cô gái đó, chàng còn gặp lại ở vùng băng tuyết, chính là Yoko. Một ca kỹ với vẻ đẹp trong trắng và xa vời, mong manh và mờ ảo, tin cậy và thơ ngây ngay cả trong cách nàng thể hiện tình cảm với Shimamura, với giọng nói "truyền cảm, trong thanh và đẹp đến não lòng", khiến chàng mỗi lần tiếp xúc là mỗi lần khám phá thêm một nét quyến rũ nơi nàng. Rồi những ngày đầu mùa thu với lá phong đỏ thắm, Shimamura lại rời Tokyo để đi nghỉ ở xứ tuyết. Ở đó, giữa hai người con gái xứ tuyết, trong khung cảnh của một vương quốc mà cảnh sắc, con người, phong tục, lối sống đều hồn hậu, chất phác và dịu dàng, chàng mẫn cảm sâu sắc trước cái đẹp nhưng lại đắn đo lưỡng lự giữa hai mối tình, một nặng về thể xác, một nặng về tâm hồn. Say đắm Komako nhưng trong Shimamura luôn hiện diện ánh sáng kỳ ảo lóe lên từ Yoko. Xúc cảm tình yêu của chàng dành cho Yoko ngày càng lớn dần khi chàng cảm nhận được cái mờ ảo và mong manh của vẻ đẹp khó diễn tả ấy, một vẻ đẹp chàng khao khát theo đuổi và nắm bắt cả đời. Trong khi Komako càng đến bên chàng thân thiết, gần gũi, mãnh liệt và hy sinh bao nhiêu, thì cứ mỗi lần rời xa xứ tuyết chàng lại thấy nàng biến mất không còn lưu lại chút dư tình trong tâm trí. Tình yêu của Shimamura với Komako bắt đầu chớm những giận hờn đầu tiên. Komako hoang mang không biết Shimamura còn yêu mình thật hay không, còn chàng cũng không sao hiểu nổi sự lạnh lùng của lòng mình, tại sao mình không thể sống được mãnh liệt, trọn vẹn và hy sinh trong dâng hiến không đòi hỏi chút gì trả lại như nàng. Đúng vào lúc Shimamura quyết định rời xa trạm nước nóng ở xứ tuyết để tránh cơn bão lòng và cắt đứt duyên nợ một cách lặng lẽ thì mọi sự đã kết thúc trong bi thảm. Trong một buổi chiếu bóng tại một nhà kho gần nơi chàng ở, một đám cháy dữ dội đã xảy ra. Mặt đất rừng rực trong tia lửa và tàn tro bốc cao lên tận bầu trời đêm, một bầu trời với dải Ngân Hà lóng lánh trong ánh sáng đẹp một cách ma quái. Yoko, người yêu thuần khiết và mối tình lý tưởng của chàng đã chết trong đám cháy đó. Khi chàng chạy tới thì thấy thân hình bất động của Yoko với gương mặt thanh tú và thánh thiện trên đôi tay Komado, còn Komako thì lời nói như mê sảng và vẻ mặt như sắp hóa điên. Chàng lảo đảo ngẩng mặt lên trời và có cảm giác dải Ngân Hà trôi tuột vào trong người chàng với tiếng gầm thét dữ dội. *** Trong “Xứ tuyết”, thiên nhiên Nhật Bản hiện lên giản dị và tĩnh mịch, mong manh và u huyền. Những tác phẩm của Yasunari Kawabata đã giữ một vị trí đặc biệt trong văn học cận-hiện đại Nhật Bản nói riêng và cho cả nền văn học Nhật Bản nói chung. Trong bộ ba tác phẩm giúp Kawabata dành giải Nobel văn học (Ngàn cánh hạc, Cố đô, Xứ tuyết), tiểu thuyết Xứ tuyết thể hiện quan niệm thẩm mỹ trong truyền thống của người Nhật Bản. Đó là bài thơ về cảnh sắc thiên nhiên, là bài ca về tình yêu, cũng là nơi tìm lại vẻ đẹp Nhật Bản. Nhóm sinh viên khoa Ngữ văn trường ĐH Sư phạm Hà Nội đã thực hiện nghiên cứu khoa học “Thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản trong quan niệm Kawabata”, thông qua tiểu thuyết Xứ tuyết của ông. Biên tập viên Sóng Trẻ xin lược trích chương 2 của báo cáo khoa học, “Vẻ đẹp thiên nhiên Xứ tuyết trong quan niệm thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản” ở bài đăng này. Vẻ đẹp thiên nhiên Xứ tuyết trong quan niệm thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản Trong Xứ tuyết, thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp xuất phát từ chính những quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata. Cái đẹp phong phú của tự nhiên hiện ra từ chính vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên xứ tuyết. Thiên nhiên xứ tuyết là một bài thơ Haiku bằng văn xuôi dung hợp trong đó những quan niệm thẩm mỹ nổi bật nhất của Kawabata. Từ đặc trưng của các nguyên lý thẩm mỹ và nội dung cụ thể của tiểu thuyết Xứ tuyết, chúng tôi tiến hành phân loại và tìm hiểu vẻ đẹp thiên nhiên Xứ tuyết trong quan niệm thẩm mỹ của Kawabata với 4 nội dung: 1. Thiên nhiên mang vẻ đẹp giản dị, gần gũi với cuộc sống (Wabi) 2. Thiên nhiên mang vẻ cô đơn, tĩnh mịch và dấu ấn thời gian (Sabi) 3. Thiên nhiên trong cảm nhận về sự mong manh, u buồn (Aware) 4. Thiên nhiên mang vẻ đẹp u huyền (Yugen) 1. Vẻ đẹp giản dị, gần gũi với cuộc sống 1.1. Thiên nhiên với những sự vật nhỏ bé Trong cảm nhận của Shimamura, bên cạnh những giây phút thiên nhiên hiện ra với vẻ lung linh kì ảo thì đó là hình ảnh thiên nhiên với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc: “Lưng chừng dốc trên lùm cỏ cao và đám bụi rậm, là một bụi tre lùn rậm rạp mà cành tỏa ra mọi phía. Gần ngay cửa sổ, có một vuông vườn với những luống khoai lang, củ cải, khoai tây vươn thẳng. Mảnh vườn thật bình thường lại rực rỡ ánh ban mai khiến Shimamura được hưởng lần đầu tiên thứ màu xanh tươi tắn lạ, như được đánh bóng lên trong buổi sáng mát lành”. Hình ảnh bụi tre, vườn tược với những luống khoai lang, củ cải… giống như những biểu tượng của một làng quê hồn hậu, giản dị. Vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết của vùng đất phương Bắc băng giá hiện lên từ chính những hình ảnh giản dị này. Thiên nhiên xứ tuyết dường như mất đi cái lạnh lẽo, cô đơn trong mỗi trận bão tuyết mà trở về với vẻ đẹp thường ngày. Hình ảnh thiên nhiên phương Bắc đối lập với sự hoa lệ, ồn ào của Tokyo chính là những gì mà người lữ khách Shimamura đang tìm kiếm. Dường như có một sự cách biệt rất lớn giữa cuộc sống thành thị và thiên nhiên ở xứ tuyết. “Đó cũng là khoảng cách giữa hai cõi: thế giới loài người đang chìm đắm trong chiến tranh, trong lối sống chạy theo dục vọng tầm thường, tâm hồn chai sạn do ảnh hưởng của nền công nghiệp cơ khí hiện đại và thế giới thiên nhiên hoang sơ, trinh bạch còn lưu những giá trị truyền thống”. Qua nhận định trên của TS. Nguyễn Thị Mai Liên, vẻ đẹp Wabi hiện lên trong hình ảnh thiên nhiên xứ tuyết cũng chính là giá trị của cái đẹp theo quan niệm thẩm mỹ Nhật Bản – cái đẹp đơn sơ, giản dị. [...] 1.2. Thiên nhiên trong nhịp sống thường nhật Thiên nhiên xứ tuyết hiện lên trong nhịp điệu cuộc sống thường ngày, phập phồng hơi thở của cuộc sống con người. Thiên nhiên thấp thoáng bóng dáng của con người, của những ngày sống đơn điệu mà đẹp đẽ, yên bình. Trong xứ tuyết, vẻ đẹp của ngày mùa, của những bông lúa hiện lên với tất cả những gì thanh bình, ấm áp. Đó là cuộc sống con người, cuộc sống của vùng núi phía Bắc – một cuộc sống giản đơn êm ả bên cạnh sự lạnh lẽo, dữ dội của những ngày tuyết phủ: “Lúa khô cũng phơi trên sào trước nhà yoko trong cánh đồng thoai thoải ngăn cách với đường. Một dãy dài treo thành một bức rèm giữa đám cây hồng, trước bức tường trắng bao quanh khu vườn đến tận lỗi vào nhà bên cạnh, một dãy khác, ở góc phải, men theo rìa cánh cổng trước vườn, chìa ra một góc để lấy lối đi lại. Trong đồng lúa, những cây khoai sọ vẫn đang xanh tốt, tàu khỏe, lá cứng cáp; ngược lại, những đóa thược dược và những hoa hồng thì đã héo tàn. Chiếc ao sen nuôi cá vàng lấp lõ phía sau những tầng lúa…”. Vẻ đẹp giản dị của thiên nhiên xứ tuyết đã tái hiện nguyên vẹn nhịp sống thường ngày của con người nơi đây. Đó là những vẻ đẹp vẫn luôn tồn tại trong đời sống, vẻ đẹp của mỗi ngày trôi qua ở vùng đất phương Bắc. Nhưng dưới con mắt của Shimamura, nó hiện ra tràn đầy hơi thở, tràn đầy sức sống, nhịp sống chảy trôi, tràn đầy bóng dáng của con người. 2. Vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch và dấu ấn thời gian 2.1. Thiên nhiên mang vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch Sabi được Kawabata khơi dậy trong thiên nhiên Xứ tuyết giống với vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch trong mỹ học Nhật Bản trung đại với những vần thơ của Basho. “Tác phẩm không chỉ mang phong cách haiku mà còn gợi nhớ đến tập nhật kí du hành của Basho là Oku no hosomichi (Con đường sâu thẳm). Cả hai đều tìm kiếm cái đẹp trong sâu thẳm thiên nhiên ở tận phương Bắc: Oku của Basho và Xứ tuyết của Kawabata. Cả hai đều tìm kiếm cái tố phác chưa bị những hội chợ phù hoa làm vẩn đục”. Nhận định trên đây của Nhật Chiêu đã đặt vẻ đẹp ấy trong sự đối sánh với những “Hội chợ phù hoa” của phương Tây. Có thể nói, vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch của thiên nhiên là vẻ đẹp dường như ngưng đọng trong không gian xứ tuyết, không pha lẫn sự ồn ào, náo nhiệt mà trái lại là vẻ đẹp của sự yên tĩnh, thâm trầm. Sabi với vẻ cô đơn, tĩnh mịch hiện lên trong thiên nhiên xứ tuyết là hình ảnh những cây bá hương và sự yên tĩnh của những khu rừng bá hương. “Thân của những cây bá hương ở đằng sau phiến đá cô ngồi vút lên thẳng tắp, cao đến nỗi anh phải ngửa người ra, tựa lưng vào phiến đá, mới dõi mặt được đến tận ngọn cây. Bầu trời bị che khuất bởi một lớp gần như màu đen những hàng cây mọc sít, những cành cây và những lớp lá kim xanh thẫm dày đặc. Yên tĩnh và thanh bình như một bài thánh ca”. Sự cô đơn, tĩnh mịch của rừng cây được gợi tả bằng những cảm nhận nhãn quang về màu sắc: đen, xanh thẫm. Những gam màu tối ấy khiến thiên nhiên xứ tuyết không hiện lên rực rỡ, thanh khiết mà cô đơn, trầm lặng, tĩnh mịch. “Những cây bá hương phủ một làn voan trắng mỏng nổi lên trên nền tuyết, dù không hề trộn vào nhau vẫn tạo thành một khối sẫm, mà cây nào cây ấy, hiện ra với dáng nét riêng biệt rõ ràng”. Những cây bá hương vào mùa thu hiện lên với màu trắng. Tuy không phải là những gam màu tối mà Shimamura đã cảm nhận khi lần đầu ngắm nhìn những cây bá hương nhưng sắc trắng này vẫn mang lại cho thiên nhiên một vẻ đẹp cô đơn. Sự mờ ảo lẫn vào khu rừng bá hương cũng chính là vẻ cô đơn, tĩnh mịch không lời của thiên nhiên xứ tuyết. Có thể nói, Sabi với vẻ đẹp không lời của sự cô đơn và tĩnh mịch đã hiện lên nguyên vẹn trong thiên nhiên xứ tuyết. Sự tĩnh mịch gần như ngưng đọng của thiên nhiên xứ tuyết khiến cho cảm nhận về thời gian ở đây dường như không trôi chảy. Đó cũng chính là vẻ đẹp mà thời gian đã ban tặng cho thiên nhiên nơi đây. 2.2. Thiên nhiên cổ sơ mang dấu ấn thời gian Những thiên tiểu thuyết của Yasunari Kawabata thường xuất hiện vẻ đẹp của thiên nhiên trong cảm quan về thời gian. Trong Xứ tuyết, dấu ấn thời gian hiện lên rõ nét qua hệ thống những biểu tượng của vẻ đẹp thiên nhiên. Từ đó, Sabi lại được cảm nhận dưới vẻ đẹp được tạo nên từ thời gian trôi chảy – vẻ đẹp cổ sơ mang màu dấu ấn thời gian. Trước hết, vẻ đẹp cổ sơ hiện lên từ những hình ảnh biểu tượng của thiện nhiên xứ tuyết. Trước hết, vẻ đẹp đó hiện ra từ hình ảnh con tàu. Ngay từ đầu tác phẩm, con tàu đã hiện lên với tư cách là một phương tiện đến với xứ tuyết – một vùng đất gần như riêng rẽ, tách biệt: “Còn các toa tàu cũ kĩ, chúng như đã trút bỏ trong đường hầm bộ áo lóng lánh của sương giá tuyết băng. Tàu chạy xuống một thung lung, ở đây, những khoảng tối hơi nhuốm màu hoàng hôn và ngập đầy những vực thẳm xen giữa các ngọn núi chồng lên nhau”. “Con tàu với ba hoặc bốn toa cũ rích và cổ lỗ, chẳng giống gì những đoàn tàu nhanh ở các chuyến lớn trung tâm, khiến ta tưởng như đang ở trong một con tàu của xứ sở khác hoàn toàn xa lạ”. Con tàu của xứ tuyết cũng mang dáng vẻ của vùng đất này – đó là dáng vẻ của cổ sơ, cũ kỹ trên nền băng tuyết. Con tàu cổ lỗ này giống đã đi xuyên thời gian, xuyên qua quá khứ để đưa con người đến đây. Kawabata đã đặc biệt khắc họa hình ảnh “con tàu của xứ sở hoàn toàn khác lạ” như một vật thể thuộc về vùng đất xứ tuyết, thuộc về thiên nhiên cổ sơ. Tiếp đến, vẻ đẹp cổ sơ, cũ kỹ từ sự trôi chảy thời gian hiện lên trong những ngôi nhà ở xứ tuyết với bóng dáng của những mái nhà, mái chùa với vẻ cũ kĩ của lớp bụi thời gian. Khu suối nước nóng mà Shimamura chọn làm điểm nghỉ ngơi với những dãy hành lang hiện rõ thời gian mà nó tồn tại: “… Mỗi bước chân anh trên lớp sàn gỗ cũ kĩ làm kính ở các cánh cửa ra vào rung lên”. Lớp sàn gỗ là dấu ấn của thời gian, là lớp thời gian đã bao trùm lên xứ tuyết. Âm thanh của những cánh cửa là tiếng kêu của thời gian. Dường như đó là vẻ đẹp tích tụ theo dòng chảy của thời gian, vẻ đẹp ngưng đọng từ quá khứ. Vẻ đẹp cổ sơ của thiên nhiên xứ tuyết còn hiện lên qua hình ảnh những mái nhà, mái chùa với những lớp lợp cũ kĩ: “… Một ngôi nhà cũ, mái đã trĩu xuống với một cửa sổ sơn đã bong vì mưa nắng... Phần lớn lợp bằng gỗ, có chẹn đá, các mái nhà trông như những dãy giống nhau, các hòn đá song song với con đường, những hòn đã to, tròn và nhẵn, trắng xóa những tuyết ở phía bóng râm và sáng loáng ở phía có nắng, đen như mực, chúng bóng loáng không hẳn vì ướt mà chủ yếu vì chúng được bào nhắn bởi băng giá, gió mưa”. Vẻ đẹp của những ngôi nhà, những mái gỗ chẹn đá được Shimamura nhìn nhận dưới những tác động của thời gian. Thời gian đã làm những ngôi nhà, những chiếc mái trở nên cũ kĩ, hao mòn nhưng chính thời gian cũng tạo nên vẻ đẹp cổ kính đặc trưng của những ngôi nhà xứ tuyết. Đó là vẻ đẹp của thiên nhiên, của thời gian đã đi qua vùng đất này, của “mưa nắng”, “băng giá” và “gió mưa”. Đó cũng chính là Sabi, là vẻ đẹp hiện lên từ những gì cũ kĩ, hoen gỉ. [...] Thiên nhiên mang vẻ đẹp Sabi trong Xứ tuyết còn hiện lên dưới cảm thức thời gian (ảnh: internet) Trong tác phẩm của Yasunari Kawabata, rất ít khi thời gian chính xác được đề cập trong các chi tiết truyện. Tuy nhiên, thời điểm mùa trong năm luôn được thể hiện rõ nét qua những đặc trưng, dấu ấn của mùa. Điều này giống với cách gợi cảm thức thời gian trong thơ Haiku. Khi Basho viết: “Một đám mây hoa/ Chuông đền Ueno vang vọng/ Hay đền Asakusa” thì thời điểm mùa xuân hiện lên chính từ hình ảnh “Đám mây hoa” đó. Điều này cho thấy sự gắn bó giữa thơ Haiku Nhật Bản và Kawabata trong quan niệm về thời gian. Những dấu hiệu về thời gian trong ngày hay dấu hiệu về mùa trong Xứ tuyết cũng là một yếu tố khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo vật trong tác phẩm và đặc biệt, nó thể hiện rõ dấu ấn thời gian trong nguyên lý thẩm mỹ Sabi. “Cái đẹp của tuyết, cùa các mùa và phụ nữ luôn luôn lấp lánh qua từng trang văn, đẹp như thơ”. [...] 3. Vẻ đẹp u buồn, mong manh Trong cảm nhận của người Nhật Bản, vẻ đẹp của thiên nhiên có lẽ cũng đi liền với sự buồn bã, mong manh. Điều này thể hiện ở chính việc lựa chọn quốc hoa của đất nước này, đó là hoa anh đào. Hoa anh đào đẹp nhất là khi chúng nở rộ, nhưng dù hoa có nở đẹp đến đâu đi chăng nữa thì nó vẫn mang một nỗi buồn phảng phất bởi một lẽ, anh đào sẽ rụng vào đúng lúc nó nở rực rỡ nhất. Như vậy, ngay từ trong cảm quan của mình, người Nhật đã đã để cho hai khái niệm “đẹp” và “buồn” song hành với nhau. Ngay cả với thiên nhiên, cái đẹp cũng gắn với cái buồn. Đây cũng chính là một trong những quan niệm thẩm mỹ truyền thống của Nhật Bản. […] 3.1. Thiên nhiên trong sự lạnh giá Thiên nhiên xứ tuyết mang một sự lạnh giá đến gay gắt. Tuyết ở đây rơi rất nhiều và mạnh, “tuyết rơi nhiều đến nỗi các đoàn tàu luôn bị những khối tuyết lở chặn lại”. Không chỉ có tuyết bao phủ “dày hai, ba mét, đôi khi đến hơn bốn mét” mà ở nơi đây, nhiệt độ cũng xuống rất thấp: “năm ngoái, nhiệt độ ở đây xuống đến hơn hai mươi độ âm”. Khí hậu khắc nghiệt đã tạo cho xứ tuyết một cái lạnh không giống với bất kì một nơi nào khác, “sờ vào vật gì, ta cũng thấy nó lạnh khác lắm”. Xứ tuyết lạnh giá tạo nên một vẻ buồn man mác. Sự lạnh lẽo ấy thấm hết vào cảnh vật, khiến chúng cũng trở nên khác biệt với Shimamura. Cái lạnh của xứ tuyết không chỉ thể hiện trực tiếp ở khí hậu nơi đây mà còn thể hiện gián tiếp qua sự hòa hợp của ánh sáng, bóng tối. Cứ mỗi lần sáng, tối lồng vào nhau, là một lần tạo cho người ta cảm giác hoài vọng, nuối tiếc và u buồn. Bóng tối đang hiện hữu thì ánh sáng cũng xuất hiện. Ngay khi đang nồi trên tàu, dưới con mắt tinh tế của Shimamura hay của chính Kawabata, bầu trời đêm hiện lên và để lại ấn tượng thật đặc biệt: “Phía trên những quả núi, hoàng hôn còn để lại vài vệt đỏ sậm muộn màng và ở tít xa, trên đường chân trời, còn có thể nhận ra được mấy ngọn núi tách biệt”. Bóng đêm đã bao trùm lên xứ tuyết nhưng ở đằng xa, ánh sáng vẫn còn hiện hữu. Dù có ở trong toa tàu hay bên cánh cửa sổ, Shimamura vẫn luôn cảm nhận được sự xen kẽ sáng tối này. […] Cũng chính từ căn phòng mình, Shimamura nhìn thấy “ở đáy thung lũng, nơi thường tối sớm, đã bắt đầu tối. Nhô cao ở bên ngoài vùng tối, các ngọn núi ở đằng kia rực rỡ nắng chiều, chúng như gần hơn bởi chúng tương phản với những hõm tối và màu trắng của chúng như ánh lân quang dưới bầu trời đỏ ối”. Và Shimamura “cảm thấy mỗi lúc một buồn”. Bóng tối và ánh sáng cùng nhau xuất hiện trên khung cảnh thiên nhiên xứ tuyết, sự tồn tại song song của cả bóng tối lẫn ánh sáng làm cho thiên nhiên như lạnh hơn, tạo nên một khung cảnh băng giá đầy u buồn, hoài vọng. 3.2. Thiên nhiên mang vẻ đẹp mong manh Trong quan niệm của người Nhật Bản, cái đẹp và cái hư vô, mong manh luôn đi cùng với nhau. Điều này được thể hiện khá rõ qua thơ Haiku. Nhà thơ Shiki đã từng viết: “Đẹp lạ lùng Ai mà không ghen tị Lá đỏ rời cành phong” Vẻ đẹp mong manh ấy hiện lên trong Xứ tuyết là thiên nhiên ngập trong sắc trắng. Màu trắng cũng là màu sắc được nhắc tới khá nhiều trong Kinh Phật. Màu trắng là biểu tượng của sự tinh khiết, thanh cao và cũng là màu của sự hư ảo. Trong Xứ tuyết, rất nhiều lần tác giả nhắc tới sắc trắng. Có khi, cảnh vật trở nên mềm mại hơn khi được che phủ bởi sự nhẹ nhàng của tuyết: “Xa xa, trên các ngọn núi, tuyết trông như một lớp kem mềm mại được bao phủ một làn khói nhẹ”. Tuyết cũng làm cho mọi thứ trở nên nặng nề, chật hẹp và cô đơn: “Sự chật hẹp của cái thung lũng bé xíu bị ép chặt giữa những ngọn tuyết phủ dày. Nơi đây chẳng khác gì một cái túi tối om, một cái hốc xiết bao đơn độc giữ lòng núi hẻo lánh này”. [...] Thiên nhiên xứ tuyết là nơi “cư ngụ” của những kiếp phù du như những loài côn trùng. Màu xanh của loài bướm đêm đã gây một ấn tượng cho anh. Với anh, đó là “màu xanh ngỡ ngàng, đơn độc, ngược ngạo thay, nhuốm màu chết chóc”; “nó rơi xuống như một chiếc lá khô, chậm và nhẹ buông rơi, lúc lên lúc xuống, trước khi chạm đất” hay lời tự hỏi “không biết con côn trùng đã chết chưa”. Chúng chỉ là những sinh mệnh mang kiếp phù du, bay lượn trong không trung rồi lìa đời nhanh chóng. Cuộc đời của những kiếp phù du luôn là như vậy. Cõi đời này sẽ không lưu lại được gì từ những vẻ đẹp ấy. [...] 4. Vẻ đẹp u huyền, kì ảo Trong các tác phẩm của Kawabata, thiên nhiên thường xuyên xuất hiện trong gương. Thiên nhiên qua những tấm gương hiện lên rất sống động nhưng cũng manh đầy vẻ siêu thưc, huyền ảo. Thiên nhiên vẫn luôn là bí ẩn mà con người luôn muốn tìm kiếm và chinh phục. Thông qua chiếc gương soi, thiên nhiên bỗng trở nên kỳ ảo hơn, khó nắm bắt hơn bao giờ hết. Với Xứ tuyết, Shimamura không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp u huyền con người mà còn cảm nhận được cả vẻ u huyền của thiên nhiên nơi xứ tuyết. Gương phản chiếu hình ảnh của tuyết, làm cho tuyết kỳ ảo hơn rất nhiều: “Tuyết bỗng sáng rực thêm nữa trong gương, chẳng khác gì ở đó có một đám cháy băng giá”. Tấm gương khiến cho lớp tuyết trắng “bỗng sáng rực”, đây vừa là hình ảnh tự nhiên của tuyết nhưng cũng lại là hình ảnh tuyết được “cải biến” trong thế giới gương soi. Từ trong gương soi, thiên nhiên đã đổi khác. Thiên nhiên không chỉ hiện lên với vẻ đẹp tự thân của nó mà vẻ đẹp ấy còn được nhân lên, đưa con người vào một thế giới mới với những khung cảnh vừa thực mà vừa hư: “Trong bầu trời đêm, phía trên những quả núi, hoàng hôn còn để lại vài vệt đỏ sậm, muộn màng và ở tít xa, trên đường chân trời, còn có thể nhận ra được mấy ngọn núi tách biệt”. Thiên nhiên trong gương soi được Shimamura cảm nhận không chỉ với hình ảnh đơn lẻ mà nó còn hòa vào vẻ đẹp của con người xứ tuyết. Thiên nhiên và con người như soi chiếu vào nhau: Cảnh đêm và điểm sáng đều được Shimamura nhìn qua tấm kính của toa tàu. Chúng ở phía xa và ở đằng sau, chúng mang những cái đẹp lung linh và huyền ảo. Shimamura cảm nhận được những vẻ đẹp ấy và anh cũng không thể rời mắt khỏi Yoko: “Anh bàng hoàng khi một ánh lửa tít xa trong núi bỗng lóe sang ở giữa gương mặt đẹp của người đàn bà trẻ, khiến cho vẻ đẹp không thể nào tả xiết ấy đạt đến đỉnh điểm”. Trong tấm gương soi, thiên nhiên và con người cùng tồn tại, vẻ đẹp thiên nhiên làm nổi bật vẻ đẹp con người. Chính và thế mà vào một buổi sáng, khi nhìn thấy vẻ đẹp của Komako hiện lên trong gương và trên nền tuyết, Shimamura đã nhớ lại vẻ đẹp của Yoko được phản chiếu lại trên cửa kính của toa tàu. Vẻ đẹp của Komako cùng với vẻ đẹp của tuyết trắng tạo nên một điểm nhấn cho bức tranh. Ở đây, tuyết trắng như làm nền cho Komako. Cụ thể hơn, vẻ đẹp của tuyết làm nổi bật đôi má đỏ hồng của cô. Shimamura hay chính Kawabata đã “mượn những chiếc gương soi để tạo lập nên một thế giới huyền ảo chưa từng có nhưng lại làm cho chúng ta tin tưởng vào đấy”. Thiên nhiên trong gương soi mang một vẻ đẹp của sự hư ảo, của sương khói bao phủ và của tuyết trắng. Chính bản thân Shimamura cũng giống như một chiếc gương. Ở đó ta có thể nhìn thấy sự mơ hồ của anh cũng giống như lúc anh nhìn thấy sự mơ hồ, kì ảo của thiên nhiên qua tấm gương.   Mời các bạn đón đọc Xứ Tuyết của tác giả Yasunari Kawabata.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bản Năng - Mitsuyo Kakuta
Tên eBook: Bản Năng (full prc, pdf, epub) Tác giả: Mitsuyo Kakuta  Thể loại: Tiểu thuyết, Văn học Nhật bản   Người dịch: Thục Nhi , Song Thu    Nhà xuất bản: Nxb Trẻ   Nhà phát hành: Trí Việt   Khối lượng:  396.00 gam     Định dạng:  Bìa mềm    Kích thước:  13 x 20.5 cm   Ngày phát hành:  07/2011   Số trang:  376   Nguồn: Sách Hay Cùng Đọc - https://www.fb.com/sachhaycungdoc   Ebook: Đào Tiểu Vũ's eBook - http://www.dtv-ebook.com Bìa sách Bản Năng   Giới thiệu: Bản năng (The Eighth Day) kể lại câu chuyện cảm động của một phụ nữ với đứa bé mà cô đã bắt cóc. Câu chuyện bắt đầu vào năm 1985. Kiwako Nonomiya suy sụp vì bị người tình bắt phá thai và bỏ rơi. Một buổi sáng, cô lẻn vào nhà của vợ chồng người tình, không hề nghĩ đến hậu quả, bế đứa con 6 tháng tuổi của họ ra đi. Kiwako yêu thương đứa bé hơn tất thảy, dù đó không phải là con ruột của cô. Cô đặt tên cho đứa bé là Kaoru. Không thiếu tiền nhưng sợ bị người ta giành lại Kaoru, Kiwako chuyển chỗ ở liên tục. Để trốn tránh cảnh sát, cô chọn cách tham gia một tổ chức tín ngưỡng lạ lùng, cách biệt với thế giới bên ngoài, có tên Gia đình Thiên thần. Dần dần, Kaoru đã trở thành một bé gái dễ thương, xinh xắn. Phần hai câu chuyện xoay quanh Kaoru lúc đã quay về đoàn tụ với gia đình. Trong khi tìm lại quá khứ, cô dần nhận ra cuộc đời mình đang diễn ra theo bước của người phụ nữ đã bắt cóc cô. Nhà văn Kakuta nói, đó là cách nhìn nhận vấn đề từ mọi khía cạnh, kể cả cách người Nhật nghĩ về tình mẹ con trong cuộc sống đầy áp lực của phụ nữ thời nay. Sau đây là bài phỏng vấn nhà văn do First News dịch từ Reuters. Mời bạn đón đọc Bản Năng của tác giả Mitsuyo Kakuta.
Hành Tinh Thứ 12 - Zecharia Sitchin
Tên eBook: Hành Tinh Thứ 12 (full prc, pdf, epub) Tác giả: Zecharia Sitchin Thể loại: Khoa học, Tiểu thuyết, Viễn tưởng, Văn học phương Tây   Bộ sách: Biên niên sử Trái Đất Dịch giả: Bảo Thành   Nhà xuất bản: NXB Thế giới   Hình thức bìa: Bìa mềm   Trọng lượng: 610gr    Giá bìa: 149.000 VND    Nguồn: waka.vn   Ebook: Đào Tiểu Vũ's eBook - http://www.dtv-ebook.com Bìa sách Hành Tinh Thứ 12 Giới thiệu: Qua nhiều năm, những bằng chứng kinh hoàng, những quan niệm tồn tại từ lâu đời đầy thách thức về nguồn gốc sự sống trên Trái đất của chúng ta dần dần dược hé mở. Những bằng chứng này đồng hành cùng người đọc trên hành trình khám phá sự tồn tại của một nhóm người ngoài hành tinh đã từng sinh sống trên thế giới. Cuốn sách đầu tiên trong tuyển tập Earth Chronicles (Biên niên sử Trái đất) đã đưa ra những bằng chứng xác thực về sự tồn tại của một hành tinh huyền bí, Nibiru và giải thích lý do tại sao những “du hành đoàn” của hành tinh này lại đến trái đất hàng tỷ năm trước đây để định hình nên cuộc sống của loài người đương đại. Cuốn sách dựa trên hàng loạt những nghiên cứu tỉ mỉ. “Hành tinh thứ 12” giúp cho người đọc có cơ hội biết đến hàng loạt những “sự thật” chứ không chỉ là sự hư cấu, một câu chuyện về Tạo hóa, trận Đại Hồng thủy, Tháp Babel, và những người Nefilim kết hôn với các con gái của loài người sinh ra các vị á thần vĩ đại. Bằng cách thêu dệt nên những câu chuyện dựa trên ngôn ngữ Kinh thánh, cuốn sách thực sự là “thách thức” đối với những quan điểm trước đây về nguồn gốc và đưa ra những những thông tin đáng giá về các giai đoạn lịch sử và tiền lịch sử của Trái đất và loài người. Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả một cuốn sách ấn tượng về khởi nguyên Loài người, con đường hình thành phát triển và lý giải những thắc mắc của chúng ta về nguồn gốc của mình với hàng loạt các câu hỏi như: *       Làm thế nào mà người Nefilim, những kẻ tìm vàng đến từ một hành tinh xa xôi, sử dụng phương pháp sinh sản vô tính để tạo ra những sinh vật theo đúng hình dạng của mình trên Trái đất? *       Tại sao những vị “Chúa trời” này tìm cách hủy diệt nhân loại bằng trận Đại Hồng thủy 13.000 năm trước? *       Điều gì sẽ xảy ra khi hành tinh của họ trở lại vùng phụ cận của Trái đất sau mỗi 36 thế kỷ? *       Kinh thánh và Khoa học có mâu thuẫn không? *       Chúng ta có đơn độc không? Tác giả: Tác giả Zecharia Sitchin Zecharia Sitchin (11/07/1920 – 09/10/2010) là một người Mỹ gốc Azerbaijani, ông là tác giả của nhiều cuốn sách lý giải về nguồn gốc của loài người liên quan đến những nhà du hành vũ trụ cổ đại. Ông đã từng tốt nghiệp Đại học London, đã từng nhà báo và biên tập viên ở Israel trong nhiều năm. “Hành tinh thứ 12” được dịch ra hơn 20 thứ tiếng; nó cũng là cuốn sách đầu tiên của ông ra đời nhân kỷ niệm một bước ngoặt kép. Đầu tiên, nó trùng với dịp xuất bản cuốn thứ bảy và là cuốn cuối cùng trong loạt sách Biên niên sử Trái đất; và thứ hai, nó đánh dấu mốc 30 năm kể từ lần đầu tiên xuất bản cuốn Hành tinh thứ mười hai, cuốn sách đầu tiên trong loạt sách đó. Mời các bạn đón đọc Hành tinh thứ 12 của tác giả Zecharia Sitchin.  
Cuộc chiến Khuy cúc - Louis Pergaud
Tên eBook: Cuộc chiến khuy cúc (full prc, pdf, epub) Tác giả: Louis Pergaud Thể loại: Sách hay, Sách thiếu nhi, Tiểu thuyết, Văn học Pháp   Nguyên tác: La Guerre des boutons (1912)   Người dịch: Lê Chu Cầu   Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn   Nhà phát hành: Nhã Nam   Khối lượng: 410 gam   Kích thước: 13x20.5 cm   Ngày phát hành: 2009   Số trang: 352   Nguồn: tve-4u.org   Type+Tạo: thanhbt​   Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - http://www.dtv-ebook.com Bìa sách Cuộc chiến Khuy cúc Giới thiệu Bọn trẻ hai làng Longeverne và Velrans tiến hành một cuộc chiến tranh khuy cúc! Một cuộc chiến, từ xửa từ xưa, dĩ nhiên là trẻ con, nhưng hề kém lớn lao nghiêm trọng. Không đổ máu như chiến tranh của người lớn, đương nhiên, nhưng cũng nguy hiểm xiết bao khi thân đã lỡ rơi vào tay địch mà mình thì tự ái đằng đằng! May mà sẵn khuy còn cúc! Thiếu thứ chiến lợi phẩm tối hậu ấy thì sao thoát khỏi thân phận của kẻ thủ bại, ôi ô danh, ôi xấu hổ, bị lột truồng nhục nhã, chim cò tồng ngồng, đít lằn lươn trạch... Cuộc chiến khuy cúc là tác phẩm kinh điển của Louis Pergaud, văn tài đầu xanh bạc mệnh của nước Pháp, đã trút vào cả nhiệt tình, cả nhựa đời, cả cái hài thô sống nghịch dị kiểu Rabelais cùng nỗi buồn thơ ấu vĩnh cửu... Một kiệt tác. Tuỳ tâm vỡ bụng. “Một tác phẩm văn học kinh điển dành cho thiếu nhi, cho những người không ngại vượt qua sự e thẹn của lời nói.” - Xavier Marciniak Thật lạ lùng khi nghe nói tới một “Cuộc chiến khuy cúc”. Song đó chẳng phải là cuộc chiếc giữa các khuy cúc trong thế giới truyện đồng thoại vốn dành cho các “nhóc con”, mà ở đây hẳn hoi là một cuộc chiến có “oánh” nhau kịch liệt giữa các cậu bé (không còn là nhãi ranh đâu nhé) ở hai làng Longeverne và Velrans. Điều thú vị, hay kỳ cục, là khi bất kỳ “chiến sĩ” nào của một trong hai phe bị bắt làm tù binh thì sẽ bị vặt hết sạch cúc áo, khuy quần, cắt vụn cả dây giày... Để làm gì? Để cho kẻ tù binh kia sau khi được tha bổng sẽ trở thành một đứa “non hột” đúng nghĩa, lụp chụp, tồng ngồng... Nó sẽ khiến phe chiến thắng được một phen cười vỡ bụng. Sự hài hước tràn ngập. Nét nghịch ngợm linh động. Vẻ hồn nhiên suối nguồn. Tất cả tạo nên một tác phẩm hấp dẫn, thích thú. Hãy khoan nói về những “bài học”, sẽ thấy đây là một cuốn sách được viết từ một tâm hồn rất trẻ thơ. Thơ và dại. Thơ và mộng. Thơ và sinh lực tràn trề. Và cái cách để làm “tiêu hao năng lượng” trẻ thơ đó không gì vui thích hơn là những trận giáp lá cà, để cuối cùng giành được chiến lợi phẩm là những chiếc khuy áo, cho vui vậy thôi. Và để có thể thiết kế những cuộc chiến đó, những cậu bé kia đã phải phấn đấu học như thế nào (để khỏi bị thầy bắt ngồi tại lớp học thêm hai giờ sau buổi học), đã phải “mánh lới” việc nhà ra sao. Ở đây, câu chuyện danh dự được đặt ra nghe có vẻ khá hài hước, nhưng đồng thời cũng nói lên một vẻ đẹp đơn sơ của tâm hồn tuổi thơ. Mà ở đó dù là cuộc chơi vẫn thể hiện tinh thần trách nhiệm thiêng liêng. Một câu chuyện ở làng quê nước Pháp được viết từ năm 1912, nhưng có thể xem đây là câu chuyện làng quê chúng ta của những ngày không xa lắm - câu chuyện của những đứa trẻ làng, buổi đi học buổi chăn trâu, ra giữa cánh đồng bày trận giả để rồi khi đêm về, giữa những giấc mơ bầu trời đầy sao là sự vung vẩy của những cú đấm, cú co chân rượt chạy... Tác phẩm từng giành được rất nhiều lời khen tặng này không chỉ là một tác phẩm dành cho trẻ con, mà còn để cho những ai từng hoài mong tìm lại những ngày ấu thơ hồn nhiên của chính mình.   Trần Nhã Thuỵ - Báo Tuổi Trẻ Từ đầu đến cuối tác phẩm là những cuộc đánh nhau đến sứt đầu, mẻ trán giữa bọn trẻ con 2 làng. Sau "Chúa ruồi" - tải eBook của William Golding, lại một tiểu thuyết khác cho thấy nhân chi sơ, tính bổn "ác". Với bọn trẻ này, chúng có thể tẩn nhau đến mức gãy tay, chơi đủ trò bẩn, giở đủ mánh khóe cả với người lớn và kẻ thù, mà không có chút mảy may nào ân hận. Đây có thể được xem là hậu quả của việc thiếu đi sự quan tâm, dạy dỗ của người lớn, khi những gì chúng nhận được từ cha mẹ chỉ là những cái tát, những lời càu nhàu. Trái với lời giới thiệu tác phẩm, mình nhận thấy tác phẩm này mang màu sắc u ám, tuy có đôi chỗ hài hước nhưng là "cái hài thô sống nghịch dị". Và như tác giả đã nhận xét ngay từ phần lời ngỏ, tác phẩm này "không dành cho các cô, các cậu bé con". Lời khuyên của mình: đừng cho trẻ con đọc tác phẩm này!!! Và sau rốt, phải chăng hình ảnh những cậu bé này lại chính là phản ánh cho những con người trưởng thành đang miệt mài tham gia vào những cuộc chiến tranh vô nghĩa lý, để rồi nhận ra, tất cả chúng ta đều là "lũ ngớ ngẩn" mà thôi. Thomas - TVE-4U Mời các bạn đón đọc Cuộc Chiến Khuy Cúc của tác giả Louis Pergaud.
Thiên cơ Trung Quốc - Vương Mông
Tên eBook: Thiên cơ Trung Quốc (full prc, pdf, epub) Tác giả: Vương Mông   Thể loại: Chính trị,  Hồi ký, Tiểu thuyết, Văn học Phương Đông   NXB: Lao Động   Công ty phát hành: Alphabook    Năm xuất bản: 2013-01-01   Dạng bìa: Mềm   Khối lượng: 700 g   Giá bìa: 219.000 VNĐ   Nguồn: waka.vn   Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - http://www.dtv-ebook.com Bìa sách Thiên cơ Trung Quốc Giới thiệu: Tác phẩm Thiên cơ Trung Quốc kể về quá trình phát triển của Trung Quốc kể từ khi Đảng cộng sản Trung Quốc ra đời đến nay. Cuốn sách gồm 5 phần chia làm 28 chương được viết theo thể loại hồi ký. Thông qua việc phê phán nước Trung Quốc cũ, phân tích ánh sáng huy hoàng và góc tối khúc khuỷu từ sau khi Đảng cộng sản Trung Quốc lên cầm quyền, tác giả đã có những hồi tưởng chân thực, những kiến giải sâu sắc, với góc nhìn đa chiều về các vấn đề lịch sử nhạy cảm mà các cán bộ đảng viên, phần tử tri thức và nhân dân Trung Quốc cùng quan tâm, là những lập luận của một Vương Mông “vô cùng chính trị”, “vô cùng văn học” mang tính xây dựng đối với tương lai của nền chính trị Trung Quốc hiện đại. Vương Mông nói : "Hiện vẫn có luận thuyết ngô nghê cho rằng có thể dùng một nửa bộ Luận Ngữ trị thiện hạ, hơn nữa dùng ‘’Pháp gia’’ của Tần Thủy Hoàng để quản lý chắc chắn rằng xã hội càng loạn hơn." Rằng : "Nếu lớn tiếng mắng văn hóa truyền thống và đạo Mạnh Tử của Trung Quốc, nhất nhất cho rằng Trung Quốc chỉ có thể đường lối kiểu phương Tây, hoặc bản thân cứ khư khư ôm khuôn mẫu cổ hủ, vậy thì sẽ là một kẻ thất bại, là tự tách mình ra khỏi văn hóa và nhân dân Trung Quốc, là con đường ngăn nhất đi đến diệt vong." Với một số trào lưu tư tưởng xã hội ngày nay ông cũng không tha: "Nào là con đường Chủ nghĩa dân chủ xã hội Bắc Âu mà Trung Quốc nên đi theo, ôi nghe sao ngây thơ và đẹp như Truyện cổ Andersen, như tượng Mỹ nhân ngư làm say đắm lòng người ở Copenhagen Đan Mạch vậy." Cứ thế, với bút pháp mạnh mẽ, giọng văn hùng hồn, bức màn che thiên cơ dần dần được lộ ra. TÁC GIẢ: Vương Mông sinh năm 1934, từng giữ chức Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc, Ủy viên Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, Bộ trưởng Bộ Văn hóa. 16 tuổi vào đảng, 19 tuổi ra mắt tác phẩm đầu tay Tuổi xuân vạn tuế, đến nay được tái bản rất nhiều lần. 22 tuổi ra mắt tác phẩm Người trẻ tuối mới về phòng Tổ chức. Vì cuốn tiểu thuyết này ông bị liệt vào phần tử cánh Hữu. Tác phẩm của ông rất đa dạng từ tiểu thuyết, truyện ngắn, tập thơ đến tản văn, tiểu luận. Những tác phẩm của ông đã được dịch ra hơn 20 thứ tiếng trên thế giới. Ông vinh dự được bốn lần được đề cử cho giải Nobel văn học. Mời các bạn đón đọc Thiên Cơ Trung Quốc của tác giả Vương Mông.