Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lão Tử - Đạo Đức Kinh - Nguyễn Hiến Lê chú dịch!

Về cuốn  Lão Tử- Đạo đức kinh PDF , trong bộ Hồi kí (Nxb Văn học – 1993), cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết:

Về cuốn 

Lão Tử- Đạo đức kinh PDF

, trong bộ Hồi kí (Nxb Văn học – 1993), cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết:

“Chúng ta đã có vài ba bản dịch Đạo đức kinh rồi. Tôi góp thêm một bản dịch nữa, với một phần giới thiệu khoảng 100 trang về học thuyết của Lão tử.

“Chúng ta đã có vài ba bản dịch Đạo đức kinh rồi. Tôi góp thêm một bản dịch nữa, với một phần giới thiệu khoảng 100 trang về học thuyết của Lão tử.

Theo các học giả Trung Hoa gần đây, cho rằng Lão sinh sau Khổng, Mặc, trước Mạnh; và bộ Đạo đức kinh xuất hiện sau Luận ngữ, vào thế kỉ thứ IV hay thứ III, trước Tây lịch, do môn sinh của Lão tử chép lại lời thầy; tuy có khoảng mười chương của người đời sau thêm vào nhưng tư tưởng vẫn là nhất trí.

Theo các học giả Trung Hoa gần đây, cho rằng Lão sinh sau Khổng, Mặc, trước Mạnh; và bộ Đạo đức kinh xuất hiện sau Luận ngữ, vào thế kỉ thứ IV hay thứ III, trước Tây lịch, do môn sinh của Lão tử chép lại lời thầy; tuy có khoảng mười chương của người đời sau thêm vào nhưng tư tưởng vẫn là nhất trí.

Lão tử là triết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo. Ông lại xét tính cách và qui luật của Đạo, dùng những qui luật đó làm cơ sở cho đạo ở đời và đạo trị nước, tức cho một nhân sinh quan và một chính trị quan mới mẻ. Do đó mà học thuyết của ông hoàn chỉnh nhất, có hệ thống nhất thời Tiên Tần.

Lão tử là triết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo. Ông lại xét tính cách và qui luật của Đạo, dùng những qui luật đó làm cơ sở cho đạo ở đời và đạo trị nước, tức cho một nhân sinh quan và một chính trị quan mới mẻ. Do đó mà học thuyết của ông hoàn chỉnh nhất, có hệ thống nhất thời Tiên Tần.

Ông tặng cho hậu thế những tư tưởng bình đẳng, tự do, trọng hoà bình, không tranh giành nhau mà khoan dung với nhau (dĩ đức báo oán), trở về tự nhiên, sống thanh tịnh. Trở về tự nhiên theo ông không phải là trở về thời ăn lông ở lỗ, sống bằng săn bắn và hái trái cây, mà trở về buổi đầu thời đại nông nghiệp, thời bộ lạc, có tù trưởng nhưng tù trưởng cũng sống như mọi người khác, không can thiệp vào đời sống của dân. Nước thì nhỏ mà dân ít; các nước láng giềng trông thấy nhau, nghe được tiếng cho sủa, tiếng gà gáy của nhau mà dân các nước không qua lại với nhau, có thuyền có xe mà không ngồi, dùng lối thắc dây thời thượng cổ mà không có chữ viết (chương 80). Thời đó có thể là thời Nghiêu Thuấn mà tất cả các triết gia thời Tiên Tần đều cho là hoàng kim thời đại. Dĩ nhiên nhân loại không lùi lại như vậy được và đọc Lão tử chúng ta chỉ nên nhớ rằng ông muốn cứu cái tệ đương thời là đời sống đã phúc tạp quá, từ kinh tế tới lễ nghi, chính trị, tổ chức xã hội; con người đã gian tham, xảo trá nhiều, do đó mà loạn lạc, nghèo khổ.

Ông tặng cho hậu thế những tư tưởng bình đẳng, tự do, trọng hoà bình, không tranh giành nhau mà khoan dung với nhau (dĩ đức báo oán), trở về tự nhiên, sống thanh tịnh. Trở về tự nhiên theo ông không phải là trở về thời ăn lông ở lỗ, sống bằng săn bắn và hái trái cây, mà trở về buổi đầu thời đại nông nghiệp, thời bộ lạc, có tù trưởng nhưng tù trưởng cũng sống như mọi người khác, không can thiệp vào đời sống của dân. Nước thì nhỏ mà dân ít; các nước láng giềng trông thấy nhau, nghe được tiếng cho sủa, tiếng gà gáy của nhau mà dân các nước không qua lại với nhau, có thuyền có xe mà không ngồi, dùng lối thắc dây thời thượng cổ mà không có chữ viết (chương 80). Thời đó có thể là thời Nghiêu Thuấn mà tất cả các triết gia thời Tiên Tần đều cho là hoàng kim thời đại. Dĩ nhiên nhân loại không lùi lại như vậy được và đọc Lão tử chúng ta chỉ nên nhớ rằng

ông muốn cứu cái tệ đương thời là đời sống đã phúc tạp quá, từ kinh tế tới lễ nghi, chính trị, tổ chức xã hội; con người đã gian tham, xảo trá nhiều, do đó mà loạn lạc, nghèo khổ.

MUA SÁCH (TIKI)

MUA SÁCH (TIKI)

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

QUỐC VĂN CHU DỊCH DIỄN GIẢI - SÀO NAM PHAN BỘI CHÂU
Đây là công trình biên khảo có giá trị lớn của Sào Nam Phan Bội Châu khi ông sống những ngày cuối đời trọng cảnh bị giam lỏng ở Bến Ngự (Huế) Ông đã không bỏ phí một khoảnh khắc thời gian nào để sống một cách có ích nhất. Ông đã dồn hết tâm sức nghiên cứ và giải thích những chân giá trị của Triết Học phương Đông cụ thể là Kinh Dich để cho con cháu mai sau. Nhiều người xem bộ Chu Dịch (Quốc văn Chu Dịch diễn giải) như là một thứ sách chỉ dung việc bói toán không có ích cho đời. Theo Huỳnh Thúc Kháng thì việc ra đời của quyển sách “không khác gì dọn gái gốc mà thấy đất bằng, vẹt mây mù mà thấy mặt trời, làm cho chân tướng của Triết Học Thánh hiền Đông phương bị che lấp mấy trăm đời, nay được bày tỏ một cách sáng suốt, giá trị của cuốn sách này không phải là ít. Đây là công trình biên khảo có giá trị lớn của Sào Nam Phan Bội Châu khi ông sống những ngày cuối đời trọng cảnh bị giam lỏng ở Bến Ngự (Huế) Ông đã không bỏ phí một khoảnh khắc thời gian nào để sống một cách có ích nhất. Ông đã dồn hết tâm sức nghiên cứ và giải thích những chân giá trị của Triết Học phương Đông cụ thể là Kinh Dich để cho con cháu mai sau. Nhiều người xem bộ Chu Dịch (Quốc văn Chu Dịch diễn giải) như là một thứ sách chỉ dung việc bói toán không có ích cho đời. Theo Huỳnh Thúc Kháng thì việc ra đời của quyển sách “không khác gì dọn gái gốc mà thấy đất bằng, vẹt mây mù mà thấy mặt trời, làm cho chân tướng của Triết Học Thánh hiền Đông phương bị che lấp mấy trăm đời, nay được bày tỏ một cách sáng suốt, giá trị của cuốn sách này không phải là ít.---Từ Âu học tràn khắp phương Đông, học giả phương Đông say mê theo ngọn triều Âu hoá. Nói đến triết học thời kể những Bá Lạp Đồ (Platon), Khang Đức (Emmanuel Kant), Tô Cách Lạp Đề (Socrate), v.v... nay dẫn sách này, mai diễn thuyết nọ, mà bao nhiêu triết học sẵn có ở bên phương Đông ta, xem như một vật trong Viện Tàng cổ, mà không ai nhắc đến. Gần đây, các nhà học giả Âu Tây, khảo sát văn hoá phương Đông, nhiều người tỏ lòng sùng bái, tìm sách xưa mà dịch ra để thu nhập tư tưởng cho học giả Âu Tây. Xem bài Ký yết Khổng miếu của bác sĩ Ô Lư, người Pháp, thời rõ người Tây yêu chuộng triết học Đông phương là dường nào. (Bài này nguyên Pháp văn, báo Nam Phong số 83 có dịch đăng). Ký giả có một người bạn tinh thâm Hán học, trên hai mươi năm du lịch nước Nhật và nước Tàu, cùng học giả Đông Tây giao thiệp cũng nhiều, nay tuổi đã già không muốn chen mình vào trong cuộc đời đáng chán này, xoay lại đóng cửa đọc sách, làm bạn cùng mấy bậc danh triết đời xưa. Trong lúc thong thả, nhân đem bản Chu Dịch dịch ra quốc văn, lấy tư tưởng cao thượng dung hợp mà giải thích theo lối vũ trụ quan, nhân sanh quan phát triển được nhiều tinh diệu, và thích hợp với lẽ tiến hoá. Thuở nay nhiều người xem bộ Chu Dịch như một thứ sách chỉ dùng về việc bói, việc số đã không ích cho đời, mà lại dẫn người đời vào cõi mê tín. Nay có bản sách này, không khác gì dọn gai gốc mà thấy đường bằng, vẹt mây mù mà thấy mặt trời, làm cho chân tướng triết học của Thánh hiền Đông phương bị che lấp mấy trăm đời, nay được bày tỏ một cách sáng suốt, giá trị của bản sách này không phải là ít. Toàn bản Chu Dịch Quốc Văn này có mười quyển nhỏ, đầu từ quẻ Càn, sau đến quẻ VỊ Tế, gồm sáu mươi bốn quẻ, Hào từ, Tượng, Soán, đều có giải nghĩa, mà binh luận một cách rõ ràng. Hiện xã hội ta ngày nay, đối với Hán học có chiều lãnh đạm, nhất là triết học cao sâu thâm thuý như bản Chu Dịch này, lại cũng ít người muốn xem; mà có lẽ cũng ít hiểu nữa. Vì thế, nên chưa dám in vội. Tuy vậy, ngọc ở trong đá, vàng ở dưới bùn, dầu là ít người thưởng thức đến, song cái giá trị quý báu của nó không vì cái có che lấp ấy mà tiêu mòn, mà hai mươi triệu con Hồng cháu Lạc này há lại không có người có cái ý tưởng đối với triết học phương Đông ta, mà tỏ lòng muốn bảo tồn và phát triển ra hay sao? Kí giả nghĩ thế, nên trước hết viết mấy lời tỏ cùng đồng bào ta biết nhà Hán học ta có người học được thâm thuý, đủ tri thức mà phát triển được những học thuyết của Thánh triết xưa, để cống hiến cho kẻ hậu học, sau xin đăng bài Tựa của người làm bản sách Chu Dịch Quốc Văn ấy. Độc giả nếm một miếng cũng đủ biết mùi toàn đĩnh, còn sự ấn hành xin đợi ngày khác. MINH VIÊN HUỲNH THÚC KHÁNG ---Từ Âu học tràn khắp phương Đông, học giả phương Đông say mê theo ngọn triều Âu hoá. Nói đến triết học thời kể những Bá Lạp Đồ (Platon), Khang Đức (Emmanuel Kant), Tô Cách Lạp Đề (Socrate), v.v... nay dẫn sách này, mai diễn thuyết nọ, mà bao nhiêu triết học sẵn có ở bên phương Đông ta, xem như một vật trong Viện Tàng cổ, mà không ai nhắc đến. Gần đây, các nhà học giả Âu Tây, khảo sát văn hoá phương Đông, nhiều người tỏ lòng sùng bái, tìm sách xưa mà dịch ra để thu nhập tư tưởng cho học giả Âu Tây. Xem bài Ký yết Khổng miếu của bác sĩ Ô Lư, người Pháp, thời rõ người Tây yêu chuộng triết học Đông phương là dường nào. (Bài này nguyên Pháp văn, báo Nam Phong số 83 có dịch đăng). Ký giả có một người bạn tinh thâm Hán học, trên hai mươi năm du lịch nước Nhật và nước Tàu, cùng học giả Đông Tây giao thiệp cũng nhiều, nay tuổi đã già không muốn chen mình vào trong cuộc đời đáng chán này, xoay lại đóng cửa đọc sách, làm bạn cùng mấy bậc danh triết đời xưa. Trong lúc thong thả, nhân đem bản Chu Dịch dịch ra quốc văn, lấy tư tưởng cao thượng dung hợp mà giải thích theo lối vũ trụ quan, nhân sanh quan phát triển được nhiều tinh diệu, và thích hợp với lẽ tiến hoá. Thuở nay nhiều người xem bộ Chu Dịch như một thứ sách chỉ dùng về việc bói, việc số đã không ích cho đời, mà lại dẫn người đời vào cõi mê tín. Nay có bản sách này, không khác gì dọn gai gốc mà thấy đường bằng, vẹt mây mù mà thấy mặt trời, làm cho chân tướng triết học của Thánh hiền Đông phương bị che lấp mấy trăm đời, nay được bày tỏ một cách sáng suốt, giá trị của bản sách này không phải là ít. Toàn bản Chu Dịch Quốc Văn này có mười quyển nhỏ, đầu từ quẻ Càn, sau đến quẻ VỊ Tế, gồm sáu mươi bốn quẻ, Hào từ, Tượng, Soán, đều có giải nghĩa, mà binh luận một cách rõ ràng. Hiện xã hội ta ngày nay, đối với Hán học có chiều lãnh đạm, nhất là triết học cao sâu thâm thuý như bản Chu Dịch này, lại cũng ít người muốn xem; mà có lẽ cũng ít hiểu nữa. Vì thế, nên chưa dám in vội. Tuy vậy, ngọc ở trong đá, vàng ở dưới bùn, dầu là ít người thưởng thức đến, song cái giá trị quý báu của nó không vì cái có che lấp ấy mà tiêu mòn, mà hai mươi triệu con Hồng cháu Lạc này há lại không có người có cái ý tưởng đối với triết học phương Đông ta, mà tỏ lòng muốn bảo tồn và phát triển ra hay sao? Kí giả nghĩ thế, nên trước hết viết mấy lời tỏ cùng đồng bào ta biết nhà Hán học ta có người học được thâm thuý, đủ tri thức mà phát triển được những học thuyết của Thánh triết xưa, để cống hiến cho kẻ hậu học, sau xin đăng bài Tựa của người làm bản sách Chu Dịch Quốc Văn ấy. Độc giả nếm một miếng cũng đủ biết mùi toàn đĩnh, còn sự ấn hành xin đợi ngày khác. MINH VIÊN HUỲNH THÚC KHÁNG
KINH DỊCH - ĐẠO CỦA NGƯỜI QUÂN TỬ! Nguyễn Hiến Lê
Kinh dịch là một môn học vô cùng Khoa Học. Sự vận động của quẻ Dịch rất linh hoạt chứ không cứng nhắc. Kinh dịch dùng để luận đoán, hiện tượng trong thời điểm HIỆN TẠI và TƯƠNG LAI. Từ hiện tượng đó người dịch sẽ dễ dàng đưa ra quết định. Kinh dịch là một môn học vô cùng Khoa Học. Sự vận động của quẻ Dịch rất linh hoạt chứ không cứng nhắc. Kinh dịch dùng để luận đoán, hiện tượng trong thời điểm HIỆN TẠI và TƯƠNG LAI. Từ hiện tượng đó người dịch sẽ dễ dàng đưa ra quết định. Kinh dịch là một môn học vô cùng Khoa Học. Sự vận động của quẻ Dịch rất linh hoạt chứ không cứng nhắc. Kinh dịch dùng để luận đoán, hiện tượng trong thời điểm HIỆN TẠI và TƯƠNG LAI. Từ hiện tượng đó người dịch sẽ dễ dàng đưa ra quết định.Nguyễn Hiến Lê không chỉ tìm hiểu, đối chiếu, so sánh với các bản dịch, các công trình nghiên cứu của các nhà triết học phương Đông về Kinh dịch mà ông còn tham bác khá sâu về những công trình của các nhà nghiên cứu phương Tây về bộ sách kì lạ này. Từ đó tác giả tìm ra những diểm tương đồng giữa các học giả Đông và Tây về Kinh Dịch và qua đó giúp độc giả thấy được giá trị đích thực của  Kinh Dịch ở nhiều chiều khác nhau khi áp dụng vào thực tế đời sống. Nguyễn Hiến Lê không chỉ tìm hiểu, đối chiếu, so sánh với các bản dịch, các công trình nghiên cứu của các nhà triết học phương Đông về Kinh dịch mà ông còn tham bác khá sâu về những công trình của các nhà nghiên cứu phương Tây về bộ sách kì lạ này. Từ đó tác giả tìm ra những diểm tương đồng giữa các học giả Đông và Tây về Kinh Dịch và qua đó giúp độc giả thấy được giá trị đích thực của  Kinh Dịch ở nhiều chiều khác nhau khi áp dụng vào thực tế đời sống. Nội dung sách gồm 2 phần: Nội dung sách gồm 2 phần: Nội dung sách gồm 2 phần:- Phần I: Giới thiệu, có 6 chương, từ I đến VI - Phần II: Kinh và truyện: Kinh thì dịch tròn 64 quẻ, Truyện thì chỉ dịch Hệ từ truyện. Phần I: - Chương I và II quan trọng, bạn nên đọc kĩ. - Chương III đọc để nhớ và hiểu được ý nghĩa Kinh Dịch. - Chương IV rất quan trọng, nên đọc rất kĩ, chỗ nào không hiểu thì đánh dấu ở ngoài lê để sau coi lại. Đọc xong Chương IV rồi, nên hãy tạm nhảy Chương V và VI mà đọc tiếp ngay bản dịch 64 quẻ trong phần II. Mỗi ngày chỉ đọc 2,3 quẻ thôi, đọc kĩ cho hiểu, Đọc được độ mươi quẻ thì những quẻ sau sẽ thấy dễ hiểu. Chương IV giúp bạn hiểu 64 quẻ, mà 4 quẻ cũng giúp bạn hiểu thêm chương IV, vì vậy trong khi đọc 64 quẻ bạn nên thường tra lại chương IV và khi đọc xong 64 quẻ, bạn nên coi lại Chương IV, lúc đó bạn sẽ hiểu những chỗ đã đánh dấu ở ngoài lề mà lần đầu tiên bạn chưa hiểu. - Phần I: Giới thiệu, có 6 chương, từ I đến VI- Phần II: Kinh và truyện: Kinh thì dịch tròn 64 quẻ, Truyện thì chỉ dịch Hệ từ truyện.Phần I:- Chương I và II quan trọng, bạn nên đọc kĩ.- Chương III đọc để nhớ và hiểu được ý nghĩa Kinh Dịch.- Chương IV rất quan trọng, nên đọc rất kĩ, chỗ nào không hiểu thì đánh dấu ở ngoài lê để sau coi lại.Đọc xong Chương IV rồi, nên hãy tạm nhảy Chương V và VI mà đọc tiếp ngay bản dịch 64 quẻ trong phần II.Mỗi ngày chỉ đọc 2,3 quẻ thôi, đọc kĩ cho hiểu, Đọc được độ mươi quẻ thì những quẻ sau sẽ thấy dễ hiểu.Chương IV giúp bạn hiểu 64 quẻ, mà 4 quẻ cũng giúp bạn hiểu thêm chương IV, vì vậy trong khi đọc 64 quẻ bạn nên thường tra lại chương IV và khi đọc xong 64 quẻ, bạn nên coi lại Chương IV, lúc đó bạn sẽ hiểu những chỗ đã đánh dấu ở ngoài lề mà lần đầu tiên bạn chưa hiểu.MUA SÁCH (TIKI)
Hướng dẫn đọc Chu Dịch và dự đoán học - Thiệu Vĩ Hoa
Sau khi cuốn Chu Dịch và dự đoán học ra đời, tôi và Thiệu Vĩ Hoa đã lần lượt được nhận hơn 4 bạn bức thư của bạn đọc, nội dung thư gửi vì không ngoài hai loại: xin bói và xin học. Ở đây; tạm không nói về người xin bói, chỉ những người cầu học đề xuất cũng đã sôi nổi, lắm vẻ. Lúc đó, tôi đang lãnh nhiệm vụ Phó trưởng ban thường vụ Hội nghiên cứu Dịch học Thiểm Tây. Tôi đã nói với ông Bàng Tài Hưng xem có thể viết cuốn hướng dẫn học "Chu Dịch và dự đoán học" giúp cho người có trình độ văn hóa tiểu học cứ thế mau chóng đọc hiểu, học biết được. Ông Hưng cũng có ý nghĩ như vậy.  Thế là chúng tôi bắt tay ngay vào đi sâu giải quyết hàng vạn thắc mắc được nêu lên trong thư gửi về của bạn đọc. Mấy năm sau, sách "Hướng dẫn học Chu Dịch dự đoán học" của Thiệu Vĩ Hoa hoàn thành bản thảo. Sau khi đọc chúng tôi hết sức phấn khởi, cảm thấy đạt được ý nguyện về viết cuốn sách này.Hướng dẫn đọc Chu Dịch và dự đoán họcTác giả: Thiệu Vĩ HoaNgười dịch: Ngô Tử Tấn, Trần Văn HữuNXB Văn hóa Thông tinSố trang: 436MUA SÁCH (TIKI) MUA SÁCH (TIKI)
Hi Di (Trần Đoàn) khảo luận
Lý số học, theo tương truyền được đạo sĩ Trần Đoàn, tự là Đồ Nam, hiệu là Hi Di, ở núi Vũ Dương sáng lập ra vào cuối đời Đường, đầu nhà Tống ở Trung Quốc. Trong dân gian còn được gọi là Tử Vi, gọi theo tên ngôi sao đứng đầu các sao trong môn học này.Môn học này đã được truyền vào Việt Nam hơn 1000 năm nay và được người Việt Nam tiếp nhận một cách sáng tạo, có thể nói, trường phái Lý số học Việt Nam đã có những khác biệt nhất định so với Trung Quốc. Kể cũng kỳ lạ, hiện nay Lý số học không còn được thịnh hành lắm ở Trung Quốc. Người Trung Quốc bây giờ thường hay dùng Tử Bình và bốc Dịch để giải lý xem số! Điều này phải chăng cũng cảy ra giống quy luật lan truyền văn hóa, lan truyền đạo Phật, là truyền từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam.Những bí ẩn về Lý số học chắc chắn chưa thể khai thác hết, vì môn học này liên quan chặt chẽ đến thiên văn, địa lý và cấu trúc con người ở tầm vũ trụ, ở tầm tâm linh. Cũng vì thế mà nó mang một dáng dấp mơ hồ, vì cơ sở khoa học của nó dường như vẫn còn nằm trên ngưỡng nhận thức của khoa học hiện đại, nhưng cũng vì thế có nhiều phiên bản sáng tạo một cách chủ quan hạn hẹp đã xuất hiện, phủ lên cho nó một tấm áo dị đoan. Nhưng hàng nghìn năm tồn tại của nó đã chứng minh sức sống mạnh mẽ của một cốt lõi có giá trị thật.Hi Di (Trần Đoàn) khảo luậnDương Thành sưu tầm và biên soạnNXB Lao ĐộngSố trang: 439