Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khi Chiếc Yếm Rơi Xuống - Trương Tửu (NXB Minh Phương 1940)

Ông Lê Ta tức Nguyễn Thứ Lễ tức Thế Lữ, thi sĩ đáng kính của phong trào thơ Mới, vào những năm 1938, 1939 đã đăng trên báo Ngày nay – cơ quan của Tự Lực văn đoàn mà ông là thành viên, vài mẩu tin “văn…vắn” rất thú vị. Bằng cái giọng tưng tửng, châm biếm nhẹ nhàng, Lê Ta nêu đích danh một số hiện tượng phổ biến trong làng văn chương sách vở thời đó mà ông đặt câu hỏi là “dấu hiệu của thời đại đó chăng ?” Hiện tượng đầu tiên là việc các nhà văn thi nhau đặt tên sách “phải thực kêu” nhằm hút mắt độc giả. Lê Ta dẫn ra một vài ví dụ: – Người đàn bà trần truồng – Bão táp trong chiếc quần đùi – Mốt áo pardessus – Sự thổn thức của quả tim non – Đùa với ái tình – Khi chiếc yếm rơi xuống.

Nhìn qua thì thấy, thời đó, xu hướng đặt tên sách cũng đánh mạnh vào thói háo sexy lắm thay! Xã hội An Nam hẳn đang trải qua cơn bão Âu hóa, thời trang và tình ái là những thiết chế bị/được cái mới nâng lên thành sản phẩm thời thượng, phù hợp với tâm thế của “con nhà tân thời” vui vẻ trẻ trung đang trên đà thắng lợi. Sức hấp dẫn của văn chương, vì vậy, không thể tránh khỏi chuyện yêu đương, áo quần, thể thao… và đặc biệt là cái nhìn mới/khác về cơ thể người nữ. Không phải ngẫu nhiên mà các tác phẩm văn chương thời đó, kể cả xu hướng “tả chân tiểu thuyết” hay “ái tình tiểu thuyết”, đều hướng đến việc xây dựng câu chuyện liên quan đến người nữ với các mã số quen thuộc: vẻ đẹp cơ thể, tình yêu, tình dục, cuộc đấu tranh giữa đức hạnh nề nếp cũ và tinh thần giải phóng tự do… Nếu Lê Ta công bằng hơn thì cũng có thể nêu ra một vài cái tên như Đời mưa gió, Hồn bướm mơ tiên, Gánh hàng hoa của TLVĐ… “kêu” chẳng kém gì Kĩ nghệ lấy Tây hay Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng mà ông khéo léo nhắc tới.

Khi Chiếc Yếm Rơi Xuống

NXB Minh Phương 1940

Trương Tửu

54 Trang

File PDF-SCAN

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Cười Gượng 2 Quyển PDF (NXB Đức Lưu Phương 1935) - Hồ Biểu Chánh
Năm 1928, là lúc bắt đầu thuật truyện nầy, thì thím giáo Điểu đã được 39 tuổi, còn đứa con gái lớn của thím, tên là Đặng Thị Hảo, được 18 tuổi, đứa con trai giữa, tên Hòa được 12 tuổi và đứa con trai út, tên Hiếu, được 7 tuổi. Đặng thị Hảo ở nhà một mình, cô buồn nên nằm trên võng đưa cọt-kẹt, mặt buồn hiu. Tuy cô là con nhà nghèo, thường ngày phải nấu cơm, xách nước, bửa củi, quét nhà, đến mùa làm ruộng lại còn phải phụ với mẹ mà cấy gặt, song cô đã sẵn có dung nhan tuấn tú, nước da trắng đỏ, cặp mắt sáng ngời, gò má như miếng bầu, chơn mày như bán nguyệt, bàn tay dịu nhĩu mà ngón lại thon như mũi viết, mái tóc đen thui mà hơi quăn như dợn sóng, tướng đi yểu điệu, tiếng nói trong ngần, bởi vậy dầu cô lam lũ mà sắc cô không phai, hết thảy đờn bà trong làng ai cũng trầm trồ khen cô là gái đẹp. Cô đã có sắc, mà lúc còn nhỏ nhờ có cha kềm dạy, nên cô lại biết chữ nho, biết làm thi nôm, sự học thức ấy làm cho cao phẩm giá của cô, bởi vậy những con nhà nghèo, hoặc con hương-chức nhỏ trong làng không có một mặt nào dám gắm ghé.Cười Gượng (2 Quyển)NXB Đức Lưu Phương 1935Hồ Biểu Chánh172 TrangFile PDF-SCAN
Mài Dao Giậy Vợ PDF (NXB Minh Tuân 1951) - Hải Lân
Đây là truyện cũ từ ngàn xưa lưu lại, người ta hằng thuật cho nhau nghe trong những khi nhàn rỗi. Truyện này cũng như nhiều câu truyện cổ khác của Việt Nam là truyện luân lý để răn đời. Vốn là truyện truyền khẩu nên người ta thuật lại thường khác nhau nhưng đầu đề và mục đích vẫn là một. Với cái đầu đề Mài Dao Giậy Vợ ta có hai truyện được lưu lại. Ở đây chúng tôi xin chép ra cả hai truyện ấy.Mài Dao Giậy VợNXB Minh Tuân 1951Hải Lân52 TrangFile PDF-SCAN
Một Linh Hồn Đàn Bà PDF (NXB Tân Dân 1940) - Lê Văn Trương
Nhà văn Lê Văn Trương (1906-1964), bút hiệu Cô Lý, là nhà báo, nhà văn Việt Nam thời tiền chiến. Ông sinh tại làng Đồng Nhân, nay là khu phố Thịnh Yên, quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội. Cha ông gốc người Hà Đông, lên lập nghiệp ở Bắc Giang. Trước Cách mạng Tháng Tám, Lê Văn Trương làm rất nhiều nghề: Công chức Sở Dây thép, khai khẩn đồn điền, thầu khoán, buôn bò, buôn ngọc, buôn lậu... ở nhiều nơi, có khi sang tận Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc. Song, về sau, ông cộng tác với nhiều báo như: Trung Bắc tân văn, Tiểu thuyết thứ Bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Ích hữu, Truyền bá, Việt Nam hồn… Sau Cách mạng Tháng Tám, ông theo kháng chiến, làm Chủ tịch Ủy ban Đãi vàng Bắc Bộ, vào bộ đội, công tác ở Tiểu ban Văn nghệ, Ban Tuyên huấn thuộc Phòng Chính trị Liên khu III. Sau bị bệnh, ông xin phép về Hà Nội chữa bệnh. Đầu năm 1954, ông vào Sài Gòn làm thầu khoán, viết báo, tái bản sách cho đến cuối đời.Những Tác Phẩm HayMột Linh Hồn Đàn BàNXB Tân Dân 1940Lê Văn Trương195 TrangFile PDF-SCAN
Kẻ Làm Người Chịu 4 Cuốn PDF (NXB Tín Đức Thư Xã 1929) - Hồ Biểu Chánh
Tố Nga bị vướng một mối sầu riêng trong lòng, nên biếng nói biếng cười, ăn rồi cứ nằm dàu dàu hoài mà hễ thấy mặt Cẩm Vân thì có sắc thẹn thùa. Cách bốn năm trước chồng đánh chửi, tuy giận không thèm ở chung với chồng nữa, song vì sợ mang lỗi với vong hồn của cha, nên nàng không nỡ dứt nghĩa cang thường. Năm nay vì máu ghen sôi sùng sục làm cho nàng quên hết quấy phải, không kể hư nên, muốn đem một việc bậy lại mà đối với việc bậy của chồng cho đã nư giận, chằng dè chừng làm lỡ rồi mới giựt mình, chừng nghe em dâu chỉ vẽ đường chánh nẻo tà mới hay rằng, cái bậy mình làm đặng đối với chồng đó nó chẳng hại chi đến chồng mà nó lại làm ố mảnh gương trong, làm lem vừng tuyết trắng, là cái danh dự của đàn bà con gái.Kẻ Làm Người Chịu 4 Cuốn NXB Tín Đức Thư Xã 1929Hồ Biểu Chánh176 TrangFile PDF-SCAN