Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF Hà Đồ và Lạc Thư - Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ

Trong các sách Dịch, bao giờ cũng có những hình mô tả Hà Đồ, Lạc Thư, nhưng bàn về Hà, Lạc thì lại hết sức vắn gọn. Chúng ta cần phải khai triển cho rõ ràng hơn.Hà Đồ, và Lạc Thư đều bàn về lẽ sinh thành của vũ trụ quần sinh, đều chủ trương lẽ Thiên Địa vạn vật đồng nhất thể, và Nhất Thể tán vạn thù, Vạn thù qui Nhất Thể, đều chủ trương Vạn vật phát xuất từ một Tâm Điểm, phóng phát ra ngoài, rồi cuối cùng lại qui hướng về Tâm Điểm ấy.Tục truyền đời vua Phục Hi 伏 羲, có con Long Mã, hiện ra nơi sông Mạnh Hà, trên lưng có mang một hình đồ, và vì vậy gọi là Hà Đồ.Hà Đồ nguyên thuỷ có 55 điểm đen trắng , phân phối như sau:Vua Phục Hi, nhân đó tạo ra Tiên Thiên Bát Quái và Lục Thập Tứ Quái.Lạc Thư, theo Kinh Thư, thời sau khi vua Đại Võ trị thuỷ thành công đã được Trời ban Lạc Thư cho, và nhân đó vua sáng chế ra Hồng Phạm Cửu Trù 洪 範 九 疇 tức là phép cai trị xã hội nhân quần.Văn Vương 文 王 nhân đó tạo ra Hậu Thiên Bát Quái.Sau này các Đạo Gia nghiên cứu thêm và cho rằng Lạc Thư cũng còn dạy lẽ Qui Nguyên Phản Bản.Lạc thư nguyên thuỷ được trình bày như sau:Hà Đồ sinh Tiên Thiên Bát Quái, đi theo chiều thuận. Lạc Thư sinh Hậu Thiên Bát Quái, đi theo chiềunghịch. Thuận là Thuận chiều kim đồng hồ, Âm Dương không bao giờ chống đối lẫn nhau, lấy TìnhThương yêu, nhân nghĩa làm tiêu chuẩn. Nghịch là ngược chiều kim đồng hồ, lấy mâu thuẫn, ghen ghét kình chống nhau làm căn bản. Khi Trời sinh ra con người đã trao cho hai sứ mạng:1. Làm người.2. Làm Trời, Phật, Thánh, Tiên.Sứ mạng thứ 2, hay hạng người thứ 2 hiện nay rất hiếm, vì con người đã dần dần làm mất Lương Tâm, mất Tiên Cách của mình. Hạng người này theo Tiên Thiên, sống hồn nhiên, tiêu sái, vô tư vô dục, thương yêu lẫn nhau, coi người như mình. Các Đạo lớn trong thiên hạ đều dạy con người tìm lại Thiên Đạo này để mà theo, mà giữ. Đạo này vốn hằng hữu trong ta không cần nhập cảng. Chính vì thế mà Trung Dung viết: Đạo bất khả tu du li dã 道 不 可 須 臾 離 也 (Đạo không rời ta một phút giây). Đó là Đạo Tiên Thiên dạy ta đi theo chiều Thuận, nghĩa là phải Thuận Thiên, sống theo ý Trời như vậy mới có thể PHỐI THIÊN (Trung Dung chương 26, ĐĐK, chương 68, Nirvana (phối Thiên). Ta có đi theo chiều kim đồng hồ, thì mới theo được đúng thời giờ, mới Qui Nguyên Phản Bản được. Như vậy chúng ta sẽ tiến hoá về Nguyên Bản, về Trời. Thật là vô cùng quý giá.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

CÁC BIỂU TƯỢNG CỦA NỘI GIỚI - HAY CÁCH ĐỌC TRIẾT HỌC VỀ KINH DỊCH
Toàn bộ các chương của tiểu luận này bình giải, hoặc gần hoặc xa, một phần của cuốn Điển thư; chương đầu là sự giới thiệu chung về kết cấu của cuốn sách và cách thức vận hành của nó bắt nguồn từ các đoạn trích từ Hệ từ (Grand Connentaire) hay “Những hình thức phụ trợ - so sánh với Philastre - §1132s), đồng thời cũng là các diễn giải đầu tiên về tính tổng thể của công trình mà nó là một bộ phận của cái tổng thể đó; bốn chương tiếp theo, khi phân tích các trường hợp của các biểu tượng đặc trưng cũng như khi chuyển hoá nó, đều được đặt trong quan hệ với văn bản của các quẻ kép khác nhau được chỉ ra trong tiêu đề; ba chương cuối, kết cục, trở lại phần đầu của Hệ từ nhằm đưa ra cách đọc có tiếp liền theo một số đoạn trích: các đoạn này sẽ tạo ra chuỗi các suy tư được mở ra về tương lai và về cái nội tại. Toàn bộ các chương của tiểu luận này bình giải, hoặc gần hoặc xa, một phần của cuốn Điển thư; chương đầu là sự giới thiệu chung về kết cấu của cuốn sách và cách thức vận hành của nó bắt nguồn từ các đoạn trích từ Hệ từ (Grand Connentaire) hay “Những hình thức phụ trợ - so sánh với Philastre - §1132s), đồng thời cũng là các diễn giải đầu tiên về tính tổng thể của công trình mà nó là một bộ phận của cái tổng thể đó; bốn chương tiếp theo, khi phân tích các trường hợp của các biểu tượng đặc trưng cũng như khi chuyển hoá nó, đều được đặt trong quan hệ với văn bản của các quẻ kép khác nhau được chỉ ra trong tiêu đề; ba chương cuối, kết cục, trở lại phần đầu của Hệ từ nhằm đưa ra cách đọc có tiếp liền theo một số đoạn trích: các đoạn này sẽ tạo ra chuỗi các suy tư được mở ra về tương lai và về cái nội tại. Sự phối thuộc này trong tương quan với các văn bản điển quy không tránh khỏi việc dẫn tới những đối chiếu. Sự phối thuộc này trong tương quan với các văn bản điển quy không tránh khỏi việc dẫn tới những đối chiếu.
TÁM CHỮ HÀ-LẠC & QUỸ ĐẠO ĐỜI NGƯỜI! - XUÂN CANG
Cuốn sách “ Tám chữ hà lạc và quỹ đạo đời người ” là một trong các phương pháp Dự đoán học có nguồn gốc từ Trung Hoa có một khả năng kỳ diệu, vạch ra và dự báo những bước đường đời của một con người và chỉ dẫn cho con người những cách xử thế tối ưu để thành đạt, hoặc ít ra biết chủ động trước những bước gian truân, những hiểm hoạ không tránh được trên một quỹ đạo đời người. Cuốn sách “Tám chữ hà lạc và quỹ đạo đời người” là một trong các phương pháp Dự đoán học có nguồn gốc từ Trung Hoa có một khả năng kỳ diệu, vạch ra và dự báo những bước đường đời của một con người và chỉ dẫn cho con người những cách xử thế tối ưu để thành đạt, hoặc ít ra biết chủ động trước những bước gian truân, những hiểm hoạ không tránh được trên một quỹ đạo đời người. Tám chữ Hà Lạc là một thuật toán mà đề toán ra chỉ gồm có tám chữ thuộc Can Chi của một con người cụ thể. Thuật toán này dựa trên cơ sở những mã số Hà Lạc và 64 quẻ Kinh Dịch. Số Hà Lạc là hai hệ thống số học phản ánh những Quy luật của Trời và Đất giao hội với Quy luật sự sống Con Người. Hệ thống số Hà, còn gọi Hà Đồ do được sắp xếp thành biểu đồ và các ký hiệu biểu diễn, tương truyền là của Vua Phục Hy (4477 – 4363 trước CN) phát minh trong khi nghiên cứu trên sông Hoàng Hà. Với thuật toán này chúng ta sẽ có lời giải cho toàn bộ quỹ đạo cuộc đời của một người, từng chặng đường đời, cho tới năm, tháng, ngày, giờ.
CHỮ BÁT TRONG KINH DỊCH - BÁT TRẠCH CHÁNH TÔNG
Nói về địa lý, phần đông ai có học chữ Nho và có đọc Kinh Dịch thì mới hiểu Bát Trạch là quý báu vì sách Bát Trạch là rút một phần trong muôn phần của bộ Kinh Dịch mà làm ra. Dịch có nghĩa là thay đổi biến chuyển theo hai thể Âm và Dương (tối và sáng), do đó mà truy nguyên sự biến hoá vô cùng của vũ trụ gồm cả muôn sự vật trong đời. Nói về địa lý, phần đông ai có học chữ Nho và có đọc Kinh Dịch thì mới hiểu Bát Trạch là quý báu vì sách Bát Trạch là rút một phần trong muôn phần của bộ Kinh Dịch mà làm ra.Dịch có nghĩa là thay đổi biến chuyển theo hai thể Âm và Dương (tối và sáng), do đó mà truy nguyên sự biến hoá vô cùng của vũ trụ gồm cả muôn sự vật trong đời. Bổn sách này, tác giả lựa sẵn tuổi, tuổi nào hạp về phương hướng nào để cất nhà, theo số của Hà Đồ và Lạc Thơ trong Kinh Dịch. Nhà làm sách Bát Trạch quán thông thiên văn, rành Địa lý, am hiểu vụ trụ biến hoá, phải hiểu cả Âm Dương thuộc Ngũ Hành sanh và khắc mới làm ra được. Có lắm người biết chữ Nho và cũng có sách Bát Trạch nhưng không ai chỉ dẫn thì cũng không làm sao mà phân tách tuổi nào biết cung nào tốt hay xấu. Cuốn sách này nhằm giúp quý vị nào có cần đến cũng khỏi thắc mắc khi muốn gây dựng một ngôi nhà đúng Phương hướng theo địa lý. Cuốn sách được sắp đặt rành rẽ từ tuổi Giáp Tý cho đến Quý Hợi là 60 tuổi mà trong sách gọi là Lục Giáp. "Khắp nơi chúng ta lúc nào cũng bị nhuần thấm trong luồng tạm gọi là Vũ trụ tuyển kết hợp bằng hàng triệu vi phân tử khác nhau xuyên qua ta hằng ngày, trong suốt đời chúng ta".  (Trích trong bài tựa của Maurice de Boglie - Quyển "Les Rayons Cosmique" tác giả Le Prince Ringnet, chương 7). "Chúng ta nên khám phá ra những sự huyền vi của tạo vật có ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta thì chúng ta rất thích chí, chẳng khác nào vị thuyền trưởng khi ra biển mà trong tay đã có sẵn chiếc Địa bàn"  (Viên Tài Hà Tấn Phát)Bổn sách này, tác giả lựa sẵn tuổi, tuổi nào hạp về phương hướng nào để cất nhà, theo số của Hà Đồ và Lạc Thơ trong Kinh Dịch.Nhà làm sách Bát Trạch quán thông thiên văn, rành Địa lý, am hiểu vụ trụ biến hoá, phải hiểu cả Âm Dương thuộc Ngũ Hành sanh và khắc mới làm ra được.Có lắm người biết chữ Nho và cũng có sách Bát Trạch nhưng không ai chỉ dẫn thì cũng không làm sao mà phân tách tuổi nào biết cung nào tốt hay xấu. Cuốn sách này nhằm giúp quý vị nào có cần đến cũng khỏi thắc mắc khi muốn gây dựng một ngôi nhà đúng Phương hướng theo địa lý. Cuốn sách được sắp đặt rành rẽ từ tuổi Giáp Tý cho đến Quý Hợi là 60 tuổi mà trong sách gọi là Lục Giáp."Khắp nơi chúng ta lúc nào cũng bị nhuần thấm trong luồng tạm gọi là Vũ trụ tuyển kết hợp bằng hàng triệu vi phân tử khác nhau xuyên qua ta hằng ngày, trong suốt đời chúng ta". "Chúng ta nên khám phá ra những sự huyền vi của tạo vật có ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta thì chúng ta rất thích chí, chẳng khác nào vị thuyền trưởng khi ra biển mà trong tay đã có sẵn chiếc Địa bàn" 
KINH DỊCH LƯỢC GIẢI - DƯƠNG ĐÌNH KHUÊ
Chúng tôi đã may mắn mượn được quyền CHU DỊCH của cụ Phan Bội Châu tự Sào Nam, và quyển 1 CHING của Alfred Douglas. Cụ Phan thì chuyên về giảng triết lý kinh Dịch, không cho biết cách bóI Dịch, vấn đề mà Douglas đã bổ khuyết rất đầy đủ. Về ý nghĩa của mỗi quẻ và mỗi hào, cuốn của cụ Phan rất chi tiết, giải thích từng chữ từ nghĩa đen đến nghĩa bóng, và tuy đôi khi cụ cũng mở rộng sự giải thích của cổ thánh hiền bằng cái sở học của một nhà nho tân tiến (như đem các biến cố cận đại của Đông, Tây làm ví dụ), nhưng vẫn câu nệ vào văn tự của các lời đoán, truyện và hào từ, mà không tự giải thích theo những nguyên lý của Dịch mà chính cụ đã nói qua, như thuộc chất của âm dương, vị trí của mỗi hào, sự tương quan giữa các hào, v. v. Đến cuốn của A. Douglas lại còn kém xa, chỉ tóm tắt nguyên văn của kinh Dịch trong vài câu quá ngắn ngủi thành ra thiếu mạch lạc, nên càng thêm bí hiểm. Rồi chúng tôi tham khả thêm những cuốn viết về kinh Dịch của các học giả Âu-Mỹ (lulian K.Shcitkii, John Blofeld, Sam Reifler, James Legge) hy vọng tìm thấy ở đó một tia sáng của lý luận khoa học, nhưng vô ích, vì họ đều là những học giả chuyên nghiên cứu Hán tự và văn hóa Hán, chỉ có mục đích diễn tả thật trung thành nguyên lý của cổ thánh hiền Trung Hoa. Riêng chỉ có cuốn Méthode Pratique de Divination chinoise par le Yi King của Charle Canone đã viết theo lời giảng của đạo sĩ Nguyên Quang (Yuan Kuang) là bớt nô lệ vào các lời bàn của cổ thánh hiền, và giải thích mỗi quẻ và mỗi hào một cách giản dị hơn, nhưng vẫn chưa biết dùng lý luận chắc chắn để dẫn dắt lời giảng.Đó là một trong những điều thắc mắc đã vấn vương trí óc của chúng tôi sau khi đọc đi đọc lại các tài liệu tham khảo nói trên. Rồi chúng tôi nghiền ngẫm cố gắng tự mình giải quyết những thắc mắc của chính mình.Tập biên khảo này là công phu suy nghĩ trong gần ba năm. Nó không giải quyết được mọi thắc mắc, và ngay cả khi tưởng rằng đã giải quyết được cái nào, thì cũng chưa chắc là đúng. Biết vậy, nhưng chúng tôi cứ làm vì biển học mênh mông, tiến được bước nào (hoặc tưởng thế) thì cứ tiến, chứ làm sao dám có ảo vọng đạt tới chân lý tối hậu?!