Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đại Thắng Mùa Xuân

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nam Ông Mộng Lục
Hồ Nguyên Trừng (1374-1446 tự Mạnh Nguyên, hiệu Nam Ông, người Đại Lại 1 , tỉnh Thanh Hóa. Tổ tiên ông ở hương Bào Đột đất Diễn Châu, đến đời Hồ Liêm mới dời đến Đại Lai. Vì Hồ Liêm làm con nuôi Tuyên úy Lê Huấn nên đổi họ là Lê. Hồ Nguyên Trừng do vậy còn được sử cũ chép là Lê Trừng. Ông là con trưởng của Hồ Quý Ly nhưng không kế cha làm vua, mà chỉ giữ chức Tư đồ Tả tướng quốc. Trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, quân Minh đã bắt được ông vào năm 1407, đưa về Bắc Kinh cùng cha là Hồ Quý Ly, em là Hồ Hán Thương và cháu là Nhuế (con Hồ Hán Thương . Vì biết chế tạo súng "thần cơ", một thứ vũ khí có sức sát thương lớn, vượt hẳn các loại súng đương thời, Hồ Nguyên Trừng được nhà Minh tha không giết và sai trông coi việc chế tạo vũ khí 2 . Từ chức công bộ doanh thiện ty thanh lại ty Chủ sự, ông dần dần được thăng làm Lang trung, rồi Công bộ Hữu thị lang, Công bộ Tả thị Lang (1436 , Công bộ Thượng thư (1445 . Ông mất vào tháng 7 năm Chính thống (1446 , thọ 73 tuổi. Nam Ông mộng lục được viết xong vào năm Mậu Ngọ (1438 , là tác phẩm duy nhất hiện còn của Hồ Nguyên Trừng. Đầu sách có bài tựa của Hồ Huỳnh, một quan Thượng thư đồng triều với Hồ Nguyên Trừng, viết năm Chính Thống 5 (1440 . Tiếp đến là bài tựa của chính Hồ Nguyên Trừng viết vào năm Chính Thống 3 (1438 . Rồi đến phần chính của sách gồm 31 thiên truyện. Cuốn sách có bài Hậu tự của Tống Chương, người Việt Nam, làm quan triều Minh, viết năm Chính Thống 7 (1442 . Các truyện trong Nam Ông mộng lục là: 1. Nghệ Vương thủy mạt; 2. Trúc Lâm thị tịch; 3. Tổ linh định mệnh; 4. Đức tất hữu vị; 5. Phụ đức trinh minh; 6. Văn tang khí tuyệt; 7. Văn Trinh ngạnh trực; 8. Y thiện dụng tâm; 9. Dũng lực thần dị; 10. Phu thê tử tiết; 11. Tăng đạo thần thông; 12. Tấu chương minh nghiệm; 13. Áp Lãng chân nhân; 14. Minh Không thần dị; 15. Nhập mộng liệu bệnh; 16. Ni sư đức hạnh; 17. Cảm khích đồ hành: 18. Điệp tự thi cách; 19. Thi ý thanh tân; 20. Trung trực thiện chung; 21. Thi phúng trung gián; 22. Thi dung tiền nhân cảnh cú: 23, Thi ngôn tự phụ; 24. Mệnh thông thi triệu; 25. Thi chí công danh: 26. Tiểu thi lệ cú; 27. Thi cửu kinh nhân; 28. Thi triệu dư khánh (khương ; 29. Thi xứng tướng chức; 30. Thi thán trí quân; và 31. Quý khách tương hoan. Nhưng nay chỉ còn lại 28 thiên (mất các thiên 24, 25 và 26 , hiện được in trong các bộ sưu tập cổ của Trung Quốc như Kỷ lục vựng biên; Thuyết phu tục quyển thập tứ; Ngũ triều tiểu thuyết đại quan; phần Hoàng Minh bách gia tiểu thuyết; Hàm phân lâu bí kíp đệ cửu tập; Tùng thư tập thành sơ biên, phần Sử địa loại v.v... 3 Theo lời tựa của Tác giả, Nam Ông mộng lục được biên soạn một là để "biểu dương các mẩu việc thiện của người xưa"; hai là để "cung cấp điều mới lạ cho bậc quân tử" (Nam Ông mộng lục tự . Đối với chúng ta ngày nay, Nam Ông mộng lục là một nguồn tư liệu quý để nghiên cứu về văn học và sử học nước ta đời Lý Trần, một giai đoạn mà sách vở còn lại rất ít. Dưới đây, chúng tôi dịch và giới thiệu bài tựa của Hồ Huỳnh, bài tựa của Hồ Nguyên Trừng, bài hậu tự của Tống Chương, cùng 28 thiên hiện còn, theo bản chữ Hán chép ở bộ tùng thư Hàm phân lâu bí kíp; Thư viện Viện thông tin khoa học xã hội; ký hiệu P.521 (2 . Bài tựa thứ nhất ở sách "Nam Ông Mộng Lục" Kìa mặt trời, sao tỏa sáng, mây ráng phô màu, đó là vẻ đẹp của trời: núi non bủa vây, cỏ cây hoa trái, đó là vẻ đẹp của đất; danh hiệu điển chương, lễ nhạc giáo hóa, đó là văn minh của người. Khắp trong trời đất biết bao nhiêu nước, không đâu là không có nền văn minh. Nay ông Lê Trừng, tự Mạnh Nguyên, người Giao Nam 4 đang giữ chức Tả thị lang ở Bộ Công là người tư chất thông minh, tài học xuất sắc, với tôi lại là bạn cùng triều, mới rồi có đem cuốn Nam Ông mộng lục đưa cho tôi xem và nhờ viết tựa. Tôi đọc khắp một lượt, biết "Nam Ông" là tên hiệu của Mạnh Nguyên; văn ông ngắn gọn mà nghiêm cẩn, cao nhã mà hòa hợp, theo tình cảm kể việc, theo ý nghĩa đặt lời, vừa thú vị, vừa thiết thực, không truyện nào là không nhằm trình bày thứ bậc giữa vua tôi, làm rõ cái lành mạnh của luân thường đạo lý, thuyết minh chỗ thẳm sâu của tính mệnh đạo thuật, ghi chép con đường dẫn tới sự hưng phế của nước nhà. Đến như ca ngợi tiết nghĩa thì bừng bừng cảm khái, có thể lấy đó mà uốn nắn phong tục; biểu dương thuật tác thì siêu thoát thanh tân, có thể lấy đó mà nuôi dưỡng tính tình. Với câu nói sau đây của Mạnh Nguyên kể lại nguồn phúc trạch đã hun đúc nên ông: "Ra tự hang sâu, dời đến cây cao 5 , (... sống gập triều thánh 6 tắm gội nhân Nghiêu, mà có chuyện kỳ ngộ này" 7 tôi hiểu được tấm lòng của Mạnh Nguyên và cho rằng ông là dấu tích lạ của một phương trời, nay được phô trương ở Trung Hạ 8 , nổi tiếng khắp quận ấp, hoặc giả còn để lại thanh danh tới đời sau. Giá không được thánh triều ban cho trọng nhiệm Á khanh thì những chuyện ghi chép trong sách sẽ mai một ở chốn hoang xa, không ai hay biết. Nay nhờ tri ngộ mà sách này sẽ được mãi mãi lưu truyền, há chẳng phải là dịp may lớn đã cứu vãn được một nguy cơ mất mát? Vì đánh giá cao việc biểu dương cái thiện, dốc lòng vào chuyện nhân hậu, nên tôi đã không từ chối, viết vài lời vào đầu thiên sách này. Ngày rằm tháng 10 năm Canh Thân niên hiệu Chính Thống 9 5 (1440 . Hồ Huỳnh, tên chữ là Côn Lăng, giữ các chức tước: Tư đức đại phu, Chính trị thượng khanh, Thượng thư Bộ Lễ. Bài tựa thứ hai ở sách "Nam Ông Mộng Lục" Sách Luận ngữ từng nói: "Trong cái xóm mười nhà, thế nào cũng có người trung tín như Khâu này vậy" 10 , huống hồ nhân vật cõi Nam Giao 11 từ xưa đã đông đúc, lẽ nào vì ở nơi hẻo lánh mà vội cho là không có nhân tài! Trong lời nói việc làm, trong tài năng của người xưa có nhiều điều khả thủ, chỉ vì qua cơn binh lửa, sách vở bị cháy sạch, thành ra những điều đó đều bị mất mát cả, không còn ai được nghe, há chẳng đáng tiếc lắm sao? Nghĩ tới điểm này, tôi thường tìm ghi những việc cũ, nhưng thấy mất mát gần hết, trong trăm phần chỉ còn được một hai; bèn góp lại thành một tập sách, đặt tên là "Nam Ông mộng lục", phòng khi có người đọc tới; một là để biểu dương các mẩu việc thiện của người xưa, hai là để cung cấp điều mới lạ cho người quân tử, tuy đóng khung trong vòng tiểu thuyết, nhưng cũng là để góp vui những lúc chuyện trò. Có kẻ hỏi tôi rằng: "Những người ông ghi chép đều là người thiện, vậy thì trong các chuyện bình sinh ông nghe thấy, lại chẳng có chuyện nào bất thiện ư?" Tôi trả lời họ rằng: "Chuyện thiện tôi rất mê nghe, nên có thể nhớ được; còn chuyện bất thiện thì không phải không có, chẳng qua tôi không nhớ đấy thôi". Họ lại hỏi: "Sách lấy tên là ‘mộng’ ý nghĩa ở chỗ nào?" Tôi trả lời: "Nhân vật trong sách, xưa kia rất phong phú, chỉ vì đời thay việc đổi, dấu tích hầu như không để lại, thành ra còn mỗi một mình tôi biết chuyện và kể lại mà thôi, thế không phải ‘mộng’ là gì? Các bậc đạt nhân quân tử có thấu cho chăng? Còn ‘Nam Ông’ là tiếng Trừng tôi tự gọi mình vậy!". Ngày Trùng cửu 12 năm Mậu Ngọ, niên hiệu Chính Thống 3 (1438 . Lê Trừng tên chữ Mạnh Nguyên, người xứ Nam Giao, tước Chính Nghị đại phu, chức Tư trị doãn, Công bộ Tả thị lang đề tựa. Mời các bạn đón đọc Nam Ông Mộng Lục của tác giả Hồ Nguyên Trừng.
Khói Sẽ Làm Mắt Tôi Cay
Những trang văn như lời kể nhỏ nhẹ, thủ thỉ, vô cùng thấm thía. Người cùng quê thể nào cũng bị cay mắt vì nhung nhớ. Những ai xa quê sẽ bị mềm lòng bởi những câu chuyện giản dị, những chuyện quen thế mà đọc vẫn thấy mới lạ, đọc là khó rời. Những người không cùng quê thì ngạc nhiên vì sao có thể bẫy chim xong rồi thả, chuyện trai gái tìm chọn nhau phiên chợ Tết, cánh bướm như hoa mùa xuân, trăng vàng mùa thu, tiếng dế ca mùa hạ, và nhất là mặt sông rực sáng đêm rằm trong ngọn khói thơm mỗi mùa… tất cả đều là nhân vật, là bạn, cùng với ông nội, các o trong xóm, các mệ ngoài chợ hay các cô gái duyên dáng của làng mình và làng bên. Không chỉ là mang lại cảm xúc, mỗi trang văn của Hoàng Công Danh cho biết rất nhiều điều, nhiều câu chuyện của một vùng đất nước. Đây là cuốn thứ hai của tác giả trẻ Hoàng Công Danh, sau Cõng nhau trong một cõi người. Nhưng là những trang viết đầu tiên, khi còn đang học tại nước ngoài, Belarus. Anh hiện đang làm việc ở chính quê mình Quảng Trị, sau khi nhận bằng thạc sỹ Vật lý lượng tử. Tác giả tâm sự “đây là tập sách tôi rất muốn được in, kể từ lúc mới viết. Vì nó có những điều tôi muốn gửi gắm.” *** “Buổi chiều tôi lên đê một mình, lặng lẽ gom lại một ít hương xưa cất vào đâu đó trong sự bộn bề tuổi trẻ. Cỏ may cứ dùng dằng níu lại. Dăm con bò còng lưng cõng gió, vài cánh cò nhẫn nại hớp sương. Thế là thành quê hương. Giản đơn và hồn hậu. Có ngần ấy thôi nhưng coi hoài không thấy chán. Chiều nay bạn từ xa về, bạn nói đặt chân xuống làng một cái tự dưng mình hết muốn bon chen. Bạn nói quê hương luôn đẹp đối với những ai biết đủ.” Đoạn văn trên được trích trong bài “Men dọc triền đê”, một trong số ba mươi bảy bài tùy bút ngắn được gói gọn trong cuốn “Khói sẽ làm mắt tôi cay” của Hoàng Công Danh. Tôi đã bị cuốn hút bởi văn phong giản dị mà thâm thúy, lối miêu tả đơn giản nhưng độc đáo, và đặc biệt hơn hết là tôi có thể cảm được tình yêu nồng nàn của tác giả dành cho quê hương Quảng Trị. Tôi muốn giới thiệu đến các bạn quyển sách này vì với tôi đây không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật mà đó là cả một nền văn hóa của người Việt. Một tác phẩm “ngược dòng” Tôi xin mạn phép gọi Hoàng Công Danh là anh, vì tác giả chỉ lớn hơn tôi có ba tuổi (anh sinh năm 1987). Tôi không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra điều đó, vì anh còn quá trẻ để viết được những dòng văn mà với tôi là khá “cứng”. Trong khi những cây bút trẻ khác hồ hỡi chạy theo những chuyện tình ướt át, ủy mị, những tản văn miên man, đầy chất teen và hiện đại thì anh lại đi ngược chiều. Đó cũng là nét độc đáo của tác giả. Những nhân vật của anh là những người đã cùng anh trải qua tuổi thơ thần tiên tại quê nhà như bạn bè, ông nội, cô bé chăn trâu, con bò, con nhái, chim én, ánh trăng,… Một điều đặc biệt nữa là do Hoàng Công Danh là Thạc sỹ Vật lý Lượng tử tại Belarus, nên có một số chi tiết nhỏ anh đã giải thích bằng các quy luật vật lý. Điều đó không làm cho văn của anh nhàm chán mà ngược lại làm cho người đọc thích thú hơn. Từ đầu đến cuối quyển sách, người đọc chỉ thấy một tình yêu mãnh liệt với quê hương của tác giả, thỉnh thoảng có xen lẫn một vài cảm xúc bất chợt của tình yêu đôi lứa. Người đọc như được chạm đến địa danh Triệu Phong một cách chân thực vì lối miêu tả chi tiết, sống động và sắc nét. Ví như khi một đọc đoạn miêu tả hoa mười giờ trong bài “Đất nở hoa”sẽ thấy cái nghệ thuật so sánh của Hoàng Công Danh: “Hoa mười giờ hồng thắm và có một bố cục xếp cánh chặt chẽ. Mỗi cánh hoa mang hình một cánh bướm điệp màu. Lối khai hoa của nó cũng bất ngờ như cách xòe cánh họ nhà bướm. Độ gần trưa, chỉ cần nắng vỗ nhẹ thì tất cả búp bất ngờ bung ra đồng loạt. Nếu chạy đi đâu đó một chút rồi quay lại thì cả vườn hoa đã loát hồng lên. Từ đó tôi gọi hoa mười giờ là hoa của sự bất ngờ. Cái bất ngờ như nụ hôn của gã lưu vong từ độ nào trở về lại gặp người tình xưa cũ, chưa nói năng chi đã vồ lấy đôi má muồi duyên.” Việt Nam đậm nét trong từng câu chữ Tác giả viết quyển tùy bút trong thời gian du học tại Belarus từ năm 2007 đến 2010. Có lẽ trong thời gian đó, Hoàng Công Danh đã rất nhớ quê, nên cảnh vật tái hiện trong anh rất rõ nét, và có thể nói đó cũng chính những hình ảnh đặc trưng nhất của nông thôn Việt Nam. Tác giả đã vẽ ra một bức tranh hoàn mỹ dẫn người đọc đi từ cồn Mai đến chòi sĩ tửrồi đứng dưới cây khế sau nhàvà ngẩn ngơ ngồi dưới thềm trăng. Ngoài ra, anh cũng đã chiếu một đoạn phim ngắn về những hoạt động ngày Tết rất mộc mạc như đi chợ Tết, hái lá mai, đón ông bà, nấu bánh, đốt pháo,…. Nếu ai đang xa xứ thì đây quả là liều thuốc tuyệt vời để chữa bệnh nhớ thương quê hương. Còn với những ai được sinh ra và lớn lên nơi thành thị tấp nập, thì đây sẽ là một bản đồ văn học dẫn đường bạn đến với nông thôn hiền dịu. Hay với những ai vẫn còn luyến tiếc tuổi thơ ngây dại thì đây sẽ là chiếc vé vô thời hạn để quay về bất cứ lúc nào. “Cho đến khi trở lại quê nhà, mỗi hoàng hôn đều cho tôi được tắm gội lại màu nắng năm xưa, khơi gợi lại cảnh cũ. Quê hương đổi thay nhiều, nhưng cứ vào hoàng hôn thì mọi hình dáng năm xưa lại trở về, đơn giản bởi cái lũy tre bao bọc phía sau làng, hay là những nóc nhà đều chỉ còn lại một màu xám đen ngược sáng…” [Hoàng hôn quê nhà] Hãy cùng tác giả bước từng bước trên miền quê Quảng Trị Hãy một lần cùng Hoàng Công Danh nếm trải “Pháo Tết ngày xưa”; “Rơm rạ quê mùa”; “Hạt lúa sau mùa”; hay “Nếp tranh xưa”; để được chơi những con tò he, được nghe tiếng nhái râm ran hay được đi tát nước dưới trăng. Và còn tuyệt hơn nữa vì bạn sẽ được tác giả mời một bữa cơm mới – “… Bữa cơm đầu tiên nấu từ hạt lúa mới gặt. Trong một buổi chiều chạng vạng, bên thềm hiên, mùi cơm mới thơm hương vị cánh đồng, nguyên vị sữa ngọt và cái dẻo mềm đến nỗi mỗi hạt cơm lùa vào miệng đều dính ngay ở đó. Người ta bảo cái dẻo của cơm lúa mới là để mình ngậm mà nghe, cảm nhận thành quả sau một vụ mùa.” [Câu chuyện mùa hạ]. Để rồi thả lòng hòa quyệt với thiên nhiên, để thấm đẫm cái hồn dân tộc, để uống cạn những giọt tinh hoa của nông thôn đất Việt. Tôi không định phân tích hết cuốn sách vì trình độ văn chương của bản thân không đủ, và một lẽ nữa là vì tôi không muốn làm mất đi sự tò mò của các bạn. Mong muốn duy nhất của tôi là bài viết có thể mang đến cho những con người yêu sách biết thêm về quyển tùy bút tuyệt vời này. Quyển sách là một tác phẩm sâu sắc dành cho những ai “…vô tình bỏ quên ánh trăng để đến với những ngọn đèn đường, bỏ quên cái thanh bình để tìm đến sự đô hội. Để một hôm thèm sự dân dã, dịu dàng, thơ mộng, chợt nhớ ra còn có một thềm hiên ngồi đón trăng về.” [Ngồi dưới thềm trăng]. Thụy Yên Review Mời các bạn đón đọc Khói Sẽ Làm Mắt Tôi Cay của tác giả Hoàng Công Danh.
Hơn Nửa Đời Hư
Hiểu theo trong Nam Hơn nửa đời hư, có nghĩa là hơn phân nửa đời người, chưa làm gì nên thân. Giọng hàng tôm, giặm mắm muối, rõ ràng hơn; đã quá nửa đời người, hổng nên thân gì ráo trọi! Hơn nửa đời, biết làm sao mà định? Bốn mươi năm mươi cũng được, quá sáu bảy mươi cũng biết đâu chừng? Thôi thì để đó, khi đập nắp quan sẽ hiểu. Chuyện tôi viết, bắt đầu từ năm sanh (1902) đến năm đi dạy học ở Huế về (1967), thấy nhộn quá nên ở nhà, chớ dư sức hoạt động. Con đường đã trải, cũng dài khá bộn, kể tuổi đầu cho đến nay đã trên bảy mươi, như vậy lẽ đáng nên gọi, nếu mai nầy chết, là “trọn một đời hư”, mới phải. Như con bạc trúng một canh bài về khuya, đủ gỡ vốn lời, vì “nên” được vào mấy ngày chót vậy xin cho tôi ghi “Hơn nửa đời hư” làm nhan sách. Tưởng “viết để lại cho con là Bảo” nhưng nay in thành sách có nhiều mắt cùng xem, như vậy “Hơn nửa đời hư” là phải. Ngoài trời mưa, đêm vẫn lạnh. Gió mướt tỉ tê, mắt già mi ướt. Tôi chuốc đôi hài nhung, mặc thêm một lớp áo ấm, lại ngồi bàn viết: “Đêm nay gió bấc mưa dầm, Đèn khuya một bóng, bóng lầm với đêm” Dưới Mái Tây, ngọn đèn điện cứ reo vui với mấy con thiêu thân tự sát. Song cửa mở sương che mất khu phố mấy từng cao. Con mèo tam thể đi ăn vụng bị hàng xóm chém tét móng chân trước, đang nằm rên hì hì trên đầu tủ sách. Vừa viết đến đây, tôi đọc lớn. Con mèo nhướng mắt tưởng tôi ngỏ lời an ủi, nên hoà âm mấy tiếng hừ hừ, tợ chiếc ấm gần sôi. Bỗng tôi đổi sang giọng lớn, không mấy êm tai, tôi thấy vành tai con miêu đang xụ lại vành lên, trán con miêu nhăn nhăn, tam thể tựa hồ bụng bảo dạ: “Lão Vương nầy chướng, chúng cho về hưu cũng phải: Lão lai nhai những gì rỗng tuếch, chẳng bù má Năm, nói những lời đáng giá, hứa cho ăn thì no bụng đến phát ách, hăm đánh đòn thù nhừ tử nên thân; Bữa nay lão viết giống gì nữa đây, chỉ hại tốn giấy?” Ấy đó, trên bảy mươi mà còn bị chó mèo xài xể, hỏi phải hư chưa? Lúc nhỏ vì mê đọc văn Anatole France nên vướng cái nghiệp của lão già Ba Tri nầy. Tuy không hiểu hết những câu sâu sắc của lão, nhưng lại thích cái giọng trịch thượng nửa đùa nửa thật, hơi cay một tí thôi, vừa nhẹ vừa thâm, hiểu được mớ nào, thấm ý đánh đùi cái chát? Thú vị nhứt, đọc mãi không chán là bộ “Le crime de Sylvestre Bonnard”, và đoạn ly kỳ nhứt trong sách là chỗ diễn tả cách báo ân đáp nghĩa của chị ả huê khôi, nửa đời tài sắc trước nghèo xơ xác đến nỗi phải trú ngụ trên gác thượng của lão hàn lâm nầy, rồi sau đụng một ông hoàng giàu sang không mấy hồi, trực nhớ ơn xưa lão hàn tặng một chén xúp khi đói lạnh, nay biết lão ham sách bèn sai con ôm đến nhà đêm No-en dâng cho lão một cuốn sách quí đựng trong bộng một khúc gỗ củi chuyện đọc thật là khoái trá. Chương trong sách tựa là “La buche de Noel”, ai muốn thường thức hãy tìm mà đọc. Nay tôi mượn ý viết tập nầy mở đầu truyện “Anh Vương tự thuật”. “Dừng chén ngoảnh lại trời non nước, Một mảnh tình riêng: ta với ta”. (Thơ Bà huyện Thanh Quan “Qua Đèo Ngang”) Đêm nay, cớ sao hai câu thơ trên như thôi miên tôi, như vương vấn tâm hồn, ngâm đi ngâm lại mãi không biết chán. Buổi đầu hôm ăn mừng sinh nhựt, lễ trung thọ thất thập tam tuế, Năm dâng chén rượu mừng khiến cảm động, đóc giọng còn cay. Nếu đời quen lấy trăm năm làm hạn, thì kiếp sống mình kể đã hơn nửa độ đường, trời cho thêm được ngày nào, kể như là lãi. Phần còn lại, không nên tham nhiều. Ô hay! Lên chói đỉnh tự hồi nào? Và sẽ lần dốc xuống triền được bao lâu nữa? Thật là không sao nhớ xiết Và xiết bao bồi hồi. Lên đến chót đỉnh tất đã đăng cao. Lên cao rồi phải hạ. Mai nầy cất bước dò lần đường xuống. Tức nhiên câu thơ tức cảnh Đèo Ngang bà Thanh Quan làm sẵn mà nó phù hợp với cảnh ngộ của mình làm sao? Ám ảnh là phải. Đêm đã về khuya, tư bề lặng lẽ; rất phải dịp cho mình chiêm nghiệm việc đời. Thử bỏ bàn toán tính sổ: lỗ hay lời, trước giờ gác đầu về núi, ta phải biết để mà lo liệu. Nhà hiện thời đang ở, truyền đến tôi đã hơn ba đời. Thế mà mình vẫn tưởng là một dịch đình tạm, dừng chén đêm nay để mai nầy trẩy bước. Nơi phòng bên cạnh, mẹ con chúng đang ngon giấc. Hơi thở đều đều của một mớ tóc bông của người hiền phụ và làn môi son của trẻ. Nhớ đến trẻ, cục máu thâm tình duy nhứt, đứa con muộn màng mà cũng là cái mốc ăn chịu với đời của tôi. Bao nhiêu tình yêu buổi thanh xuân đã như giọt sương buổi sáng bao nhiêu người thương cũ đã rớt rơi hoặc nằm yên nơi bên kia triền dốc: mẹ tôi mất năm 1913, tôi biết khóc tiếc người hiền mẫu khi tuổi độ vừa mười một. Năm tản cư 1946 khi hồi cư về nhà thì chịu tang cậu tôi. Nhưng chưa thảm bằng năm ấy mất đứa em trai mười chín tuổi, Vương Hiển Vinh, tuy khác mẹ nhưng xem dường ruột thịt. Làm thanh niên tiền phong, lánh giặc Tây rút chân theo đồng chí, đang cữ rét hành, trốn lính Tây nhảy vào bụi ô rô, Tây đi mất là tử thần vội đến, Vinh thở hơi cuối cùng, nay nắm xương lạc loài còn vùi đâu đó nơi cù lao Dung lạnh lẽo, chưa được mang về. Thời gian mãi như vầy, khi hết chiến tranh, dễ gì tìm thấy xác. Ba tôi tám mươi sáu tuổi, mất năm 1961, là người thân yêu khoá tạm cuốn sổ nầy. Hồn mẹ có linh, phách Ba dầu hiển, lại với mấy dì và mười đứa em trai sanh chưa kịp đặt tên đã trở về âm cảnh, bao nhiêu ấy là cốt nhục tình thâm nay gom lại làm mười mấy núm mộ nằm lúp xúp trên đất nhà ở Sốc Trăng, xin hãy về cùng tôi đêm nay nhấp chén mừng trung thọ. Nhưng xin đừng làm động giấc ngủ ngây thơ phòng bên cạnh. Hiền thê và Bảo con, hãy ngủ cho ngon, mai nầy chúng mình sẽ trẩy một khúc đường mới lạ còn dài lắm. Tôi khoác thêm áo ấm, kéo ghế tránh bóng đèn, đêm nay nguyện thức viết cho thật nhiều, kể lại cuộc đời đã qua, lưu lại cho vợ hiền con thơ được biết. Ô hô? Tuổi chẳng chờ ta... Tôi nghe nhiều người phàn nàn, cho rằng không hơi đâu nhắc lại chuyện cũ. Cái gì đã qua, hãy để cho nó qua. Hãy nhìn tới tương lai mới phải. Tương lai! Tương lai! Cách nay ba chục năm, tôi cũng say mê về tương lai, về ngày mai sẽ đến. Nhưng trải qua nhiều biến cố, từ năm 1945 cho đến nay, tuổi mòn chồng chất, tuy chưa đến độ chồn chân mỏi gối, tuy vẫn còn đi bộ hàng cây số không mệt, ngồi đánh máy suốt ngày không đau lưng, nhưng quay đầu ngó lại buổi đã qua, mới thấy cái hay của dĩ vãng. Đời vẫn không cay nghiệt gì với tôi. Tôi phải biết ghi ân rằng đời đã dành riêng cho tôi khá nhiều hạnh phúc. Nhưng khi ai kia nhắc đến buổi tương lai, bỗng khiến tôi lại bùi ngùi lo sợ. Bất giác tôi lại hồi tường tới chuyện đâu đâu. Tôi đã hết trông cậy vào tương lai, và nếu phải ước mong, hoạ là gởi hết vào cái đầu non và mớ tóc xanh của trẻ đang say giấc nồng bên cạnh. Xin ơn trên ban tôi thêm vài tuổi, có thì giờ đủ thấy đứa trẻ nên người.     2. Kiếng họ Vương ở Sóc Trăng     Lai lịch Họ Vương của chúng tôi, chỉ ở Sốc Trăng, vốn xuất thân từ tay trắng. Xét cho kỹ, không làm gì có gia phả để lại. Sự ấy cũng dễ hiểu:       a) Ông tổ của chúng tôi, - chỉ biết được đến đời ông sơ, tức không hơn năm đời - từ Trung Quốc sang đất Miên rồi đất Việt một khi tách bước ra đi trên con đường vô định - nói ra không sợ xấu đã dấn thân trên đường lưu lạc, phiêu lưu, đi tha hương cầu thực, đi để tìm lẽ sống mà tại nơi nhau rúm không sao tìm thấy, nói thẳng ra, đi hoang làm vậy, thì cần gì đem theo gia phả? Giắt lưng cái tờ tộc phái ấy chỉ thêm bận chân vướng cẳng, ích gì? Và thương thay cho những người lang thang trên bước giang hồ,       b) Đến đời ông nội chúng tôi, sẵn tánh bần bạch kiêu nhân, dám đứng làm tùa-hia (đại ca) của chi nhánh Thiên Địa Hội tại Sốc Trăng, thì càng không nên cất giữ gia phả trong nhà. Nơi xứ lạ quê người, thù nhiều bạn ít, đã quyết chí chống triều đình Mãn Thanh, thì dẫu có bao nhiêu gia phả cũng phải thủ tiêu, để tránh liên luỵ gia đình thê tử.       c) Họ Vương, tiếng rằng sang, kêu lắm, giòn lấm, nhưng có giàu chăng là giàu hai chữ “thanh bần”. Từ ông sơ xuống đến ông cố, lang bạt kỳ hồ, làm miễn đủ ăn là đủ mừng, đèo bòng chi cái gia phả, chúng cười: “sang không phải chỗ”,       d) Thuở đó, trước đây một thế kỷ, sống trên đất lạ, vùng Sốc Trăng vừa mới phát, việc khai hoang chưa hoàn thành, ở chung đụng với người Miên người Thổ, họ quen dùng bùa ngải tà thuật, khi thư da trâu vô đầy bụng mà chết, khi trù ẻo dùng thiên linh cái bắt hồn, để tránh các tai hoạ dữ kia, muốn sống yên lành vô sự, tất nhiên phải giấu tên giấu họ, mai danh ẩn tích là hơn. Cho nên nói chung, tại Miền Nam chúng tôi không có tục lập gia phả, vì xét rằng tờ tộc phái có ghi tên họ năm sanh năm tử của ông bà để lại rủi lọt vào tay kẻ thù muốn hại mình thì quả là lợi ít hại nhiều, nên không lập. Tờ gia phả xét kỹ ra, chỉ dành cho các dòng họ lớn nào sống nơi thái bình yên định, không gặp cảnh loạn ly. Tuy vậy không phải người miền Nam không biết quý trọng tổ tiên, duy không chép ra thành sách. Người tộc trưởng của một họ thường thuộc nằm lòng để truyền khẩu giữa con cháu hoặc kỹ hơn, dùng thẻ giữ kín ghi những ngày kỵ huý giỗ quải, và ít khi bằng lòng lấy ra cho người ngoại tộc xem. Sau đây, tôi xin tóm tắt những gì tôi từng nghe phụ thân tôi thuật lại về chi họ Vương ớ Sốc Trăng, dòng ông Vương Thoại là ông cố của chúng tôi.      a) Kể về chi lớn, thì được biết vẫn ở tại Phước Kiến (Trung Hoa), và có thể nói, gồm trong mười lăm chữ: “Phước kiến tỉnh, Tuyền Châu phủ, Đồng Ân huyện, Lâm Mễ thôn, Quan Khảo lý”. Như vậy, không phải bất cứ người nào hễ sanh tại Phước Kiến và cùng một họ Vương là một dòng với chúng tôi. Phải sanh từ Lâm Mễ thôn, từ Quan Khảo lý mới đủ điều kiện. Bây giờ thử hỏi: Một người như tôi, máu Hoa pha máu Việt đã bốn đời, không nói được tiếng Phước Kiến, giá thử có dịp qua bên ấy, vậy chớ có nhìn đồng tông đồng tánh với người bên ấy được chăng? Giấy tờ chứng minh không có, nói miệng tài ai tin vả lại nhìn bà con ở xa mút bên Tàu để làm gì? Khi đã xa cách nhau suốt nhiều đời, dẫu tình đậm cũng hoá lợt; thêm vấn đề ngôn ngữ bất đồng, phong tục cách ăn thói ở không giống, “y ăn xì-dầu, tôi húp nước mắm”, lại nữa tỉnh Phước Kiến là đất tiêm nhiễm lâu năm chủ nghĩa khác với tôi. Vương nầy Vương kia, tôi tưởng gặp nhau e không dám ngó ngay mặt chớ đừng nói chi chuyện bất tay nhau nhìn một họ một dòng. Gặp nhau, câu thi Học Lạc ngâm suông: “Hoá An-nam, lữ khách trú”... rồi huề. Không nói thêm được nửa lời. Không phải cốt ý để khoe khoang, nhưng Ba tôi có thuật lại rằng xưa kia kiếng họ Vương ở Phước Kiến vốn có địa vị khá. Giữa triều Thanh đang thịnh cũng không bị bạc đãi. Một chi tiết nhỏ: Thuở ấy, cặp lồng đèn giấy treo trước cửa, được phép kẻ một chữ Vương duy nhất, thay vì các họ khác phải viết kèm chữ “phủ”, tỷ dụ Phạm phủ, Trần phủ, Quách phủ, v.v... Và đó là đặc ân dường như do bà Tây Thái Hậu ban ra, vì bà cho rằng hễ Vương thì ở phủ là cố nhiên, hà tất viết dư chữ “phủ”. Một giai thoại khác thuật luôn là cũng bà Tây Hậu khi sắp hạng những mười tám tỉnh dâng lễ khánh thọ cho bà, thì tỉnh Phước Kiến được sắp đứng đầu vì chữ “Phước” không thể sắp sau chữ khác. Một đặc ân khác dành cho chi họ Vương quán ở Quan Khảo lý, là được dùng bốn chữ “Khai Mân đệ nhứt” là biển treo nhà, vì tương truyền họ nầy xưa kia có công khai phá mở mang đất Mân (Phước Kiến), biến hoang địa thành lương điền. Nói để nghe chơi chớ không dám vẽ viên nhiều, bằng sắc đâu có hòng chứng minh, khoác lác là tội. Không nên “thấy người sang, bắt quàng làm họ”,       b) Nay nói về chi thứ là chi xuất dương, vốn cùng một đầu ông sơ. Hiện biết có ba chi ở ba chỗ khác nhau: chi Nam Vang, chi Gia Định, chi Sốc Trăng. Nhưng đã tản lạc, chưa thấy ngày trùng phùng.      1) Ông sơ (?-?) . Khuyết danh, khuyết ngày sanh, ngày tử. Giỗ chung với bà sơ, huý nhựt: ngày hai mươi lăm tháng chạp âm lịch. Theo Ba tôi kể lại, ban đầu ông sang ngụ đất Nam Vang, nhưng kể từ năm nào không rõ. Về sau, chi nầy tách ra một nhánh xuống định cư ở đất Gia Định. Hiện chi nầy ở đâu? Khi lên viếng Sài Gòn độ năm 1901, Ba tôi có gặp, hai đàng nhìn nhau mừng mừng tủi tủi rồi cũng chia tay từ đó rồi bặt vô âm tín, cũng không biết địa chỉ để liên lạc, nay kể như thất lạc, mất còn chẳng hay. Từ ngày tôi lên ở Gia Định, tôi cố gắng hỏi thăm nhưng chưa gặp một ai chỉ bảo. Ông sơ chúng tôi ở Nam Vang một thời gian không biết bao nhiêu lâu, bỗng nhớ chén cơm lưu lạc động gót giang hồ, lại một gói một xách, một thân một mình, cất bước lên đường một phen nữa. Có lẽ nghe lời đồn đãi nên chuyến nầy, ông xuống Miền Ba Thắc (nay có miếu thờ ở Chợ Cũ Bãi Xàu), Thổ gọi Sroc Bassac, hoặc sroc khléang, là tên cũ xứ Sốc Trăng (nay là Khánh Hưng, Ba Xuyên). Thuở đó, vừa hơn một thế kỷ, vùng nầy là một đồng ruộng mênh mông, người thưa rừng nhiều, đất tốt “làm không hết” cá tôm, thịt rừng khỏi mua mạnh ai nấy bắt, đời sống dễ dãi như cảnh thiên đàng, khiến ông lưa gót lại đây, lập thêm một gia đình nữa với bà sơ chúng tôi. Ở như vậy bao lâu không biết, rồi đến lúc tuổi già sức yếu, biết đã gần ngày quay đầu về núi, ông bèn “qui cố hương” rồi mất luôn bên ấy. Có nên trách ông hai lần tạo lập gia đình rồi bỏ về chết ở bên Tàu không? Xin đáp rằng không. Ông vả chăng là người Phước Kiến. Tháp cánh bay xa để thử sức, khi sức kiệt thì bay về ổ cũ. “Phú quý không về làng thì khác nào áo gấm mặc đêm”. Người Âu khi xưa đĩ lập Tân thế giới cũng thế. Nếu đã trót để lại hai nơi hai giọt máu tươi, thì may thay trời sanh trời dưỡng, hai giọt ấy hoa đơm kết trái cháu chất nối dòng, bổn phận kẻ sau phải nhớ câu “mộc bổn thuý nguyên”. Dẫu tôi quá hư, cũng không dám buộc tội ông, duy dám hỏi “Sao ông không nói cũng không để lại dấu tích nào?” Họ tên để khuyết, vậy xin giỗ ông chung với bà. Mộ ông ở bên Tàu, có còn hay đã san bằng lấy chỗ trồng rau cỏ? Mộ có người giữ gìn ấm cúng hay đã xiêu lạc mồ hoang? Ông hãy yên giấc ngàn thu. Tại Sốc Trăng, chúng tôi vẫn giữ nhang khói đều đều và giỗ quải không sơ sót. Bà sơ (?-?) - Cũng không biết họ tên và không biết luôn năm sanh năm tử, duy nghe dặn lại ngày giỗ là ngày hai mươi lăm tháng chạp. Nhờ một chi tiết nhỏ có thể truy nguyên năm mất là Ba tôi có nói bà từ trần đúng năm ông nội chúng tôi được mười lăm tuổi đầu. Vả chăng ông nội tôi sanh năm 1848. Cộng thêm mười lăm năm nữa là năm 1863. Ba tôi kể lại lịch sử của bà chỉ có chạy giặc: hết giặc Thổ dậy đến giặc Tây qua lấy nước. Việc nầy trùng hợp, vì năm Tây xâm chiếm ba tỉnh Miền Tây đúng là năm 1862. Tội nghiệp bà chạy mãi thở chưa hết mệt, kế bà gặp một trận bão to bồi tiếp. Thân già sức mòn, tài nào chịu nổi? Phần thì lạnh, phần thì sợ, phần thiếu thuốc men, thiếu săn sóc, nên bà sơ chúng tôi tất hơi thở trong cảnh hãi hùng, duy bà khỏi thấy nước nhà mất độc lập, lọt vào tay Tây. Chị em bà cả thảy bốn người: bà là chị cả, kế là mẹ vợ ông Châu Đức, kế nữa là mẹ ông Lưu Hỷ, và út chót là mẹ vợ xã Sức. Con của Số là xã Kóln, người nầy có lập một gánh hát dù kê tức hát cải lương Khmer. Như vậy chi ngoại nầy có một nhánh trở về nguồn, trở lại Khmer. Đó là những gì Ba tôi thuật lại về bốn chị em của bà sơ chúng tôi, còn họ tên là gì, Ba tôi cũng không biết. Nay mộ của bà vẫn nằm lên sở đất của mẹ vợ ông Châu Đức. Cuộc đất giồng (cương) nầy, Thổ gọi sốc Phno Tin, cách xa chợ Sốc Trăng độ bảy tám cây số ngàn. Phải chăng đây là vị trí xóm xưa bà ở? Phải chăng đây là quê ngoại của ông nội chúng tôi? Năm trước đây, nhơn dịp lễ Thanh Minh, tôi có về tảo mộ thì thấy thì thấy cuộc đất nầy đã thay đổi chủ. Con cháu ông Châu Đức đã sang nhượng cho một Huê kiều tên là Xiều (Thiều). Ông nầy lập nơi đây một sanh phần vĩ đại, may sao ngôi mộ lúp xúp của bà sơ chúng tôi không án, nên được chủ đất mới để nằm yên chỗ cũ. Không như các mộ tổ tiên khác chôn nơi Trường đua, vốn là đất nghĩa địa thí, nhưng đến năm 1964, chánh quyền cần mở rộng sân phi trường và ra lịnh sung công, buộc lòng chúng tôi phải hốt cốt đem về đất nhà nơi miếng rẫy sau chùa bà Tu Định, đường cũ đi Bạc Liêu, an táng lại. Phen nầy cầu xin nằm đó được vĩnh viễn. Mời các bạn đón đọc Hơn Nửa Đời Hư của tác giả Vương Hồng Sển.
Sài Gòn - Chuyện Đời Của Phố (Tập 4)
Thỉnh thoảng lại có vài bạn trẻ hỏi tôi: “Vì sao anh chỉ thích viết về chuyện xưa ở Sài Gòn?”. Điều các bạn muốn nói là Sài Gòn bây giờ mới thật đáng sống, phát triển hơn nhiều so với Sài Gòn cũ kỹ trong các bức ảnh xưa. Có lẽ những người trẻ và nhiều nhà quản lý đô thị hiện nay muốn Sài Gòn phát triển giống Singapore hay Bangkok. Một số kiến trúc cổ ở khu trung tâm đã hoặc sẽ bị đập đi để xây trung tâm thương mại, trụ sở mới. Nhưng tôi nghĩ rằng, hơn bao giờ hết, Sài Gòn cũng cần phải giữ lại những gì đã tạo nên vẻ đẹp của nó trong quá khứ. Trong một lần đến Sài Gòn, giáo sư Namakayma Osamu, hiệu trưởng trường Đại học Reitaku (Nhật) đã chia sẻ: “Trước đây, người Nhật từng cho rằng, để tồn tại trong xu thế toàn cầu hóa thì làm cho nước Nhật trở nên giống nước Mỹ là được. Nhưng giờ thì chúng tôi nhận ra đó là sai lầm. Thực tế, càng toàn cầu hóa thì mỗi quốc gia lại càng phải giữ gìn giá trị riêng của mình, như vậy thế giới mới tồn tại và đứng vững được”. Nhận định đó khiến tôi liên tưởng đến Sài Gòn và hướng đi của nó trong tương lai. Rõ ràng, Sài Gòn cần xây dựng giá trị riêng của mình, và bên cạnh việc dần tạo dựng giá trị mới, điều cần làm ngay là tìm lại, khôi phục, mài dũa những giá trị truyền thống, những giá trị đã và sẽ tạo nên bản sắc riêng của đô thị có lịch sử ba trăm năm này. Đó không chỉ là những tòa nhà xưa rất đẹp nằm trên các con đường rợp bóng cây, đình chùa miếu mạo rải rác khắp Chợ Lớn, Gia Định cũ mà còn là tinh thần “dấn thân yêu đời” (chữ của giáo sư Thanh Lãng) của người Sài Gòn từ bao đời nay. Vì yêu đời mà dấn thân, vì yêu đời nên dấn thân và cảm thấy vui sướng. Yêu đời nên yêu người, sẵn sàng giúp đỡ người gặp khó khăn, mở tủ thuốc từ thiện, bơm vá xe cho người khuyết tật, mở quán cơm từ thiện giá rẻ, người nghèo mua gạo giúp người nghèo hơn mình... Khi tìm tài liệu để viết bộ sách Sài Gòn, chuyện đời của phố, tôi thấy đầy ắp tinh thần cố gắng xây dựng một xã hội nhân văn của người Sài Gòn xưa. Như chương trình Thế giới của trẻ em trên sóng truyền hình từ năm 1967 của nhạc sĩ Lê Văn Khoa, một cố gắng trong hoàn cảnh đất nước đang có chiến tranh, để “... đem tiếng cười thơ ngây gắn trở về gương mặt hồn nhiên của trẻ thơ. Bom đạn, hỏa tiễn đã phá nát thiên đàng tuổi thơ rồi. Bây giờ mình cố giữ một chút gì còn lại để thấy thế giới này còn... biết cười thật lòng”. Khi đọc những dòng tâm sự của ông, tôi thấy xúc động. Tôi tin rằng đó cũng là mong muốn của bà Kiều Hạnh khi làm chương trình ca nhạc thiếu nhi Tuổi Xanh, đem lời ca tiếng nhạc trong sáng giúp trẻ thơ hướng thiện. Đó cũng là tâm nguyện của ông Khai Trí, vợ chồng nhà văn Nhật Tiến và Đỗ Phương Khanh khi làm báo Thiếu Nhi; của ông Nguyễn Trường Sơn khi xây dựng tủ sách Tuổi hoa với vai trò cố vấn của nhà văn Minh Quân. Họ lo lắng cho tâm hồn trẻ thơ thời chiến, khi cha mẹ lo kiếm sống, khi không có mặt người cha ở nhà và lũ trẻ lớn lên bị cuốn vào cơn lốc tiêu thụ, lo sợ và chán chường cho tương lai, yêu cuồng sống vội. Trên dưới nửa thế kỷ trước, Sài Gòn đã có trung tâm thương mại, siêu thị, vận hành không khác ngày nay. Người dân Sài Gòn đã tổ chức triển lãm và biểu diễn thời trang bằng hàng vải nội hóa. Họ tổ chức biểu diễn ca nhạc, diễn kịch, tuồng, thi hoa hậu. Họ tổ chức tour tham quan thành phố, du lịch trong và ngoài nước. Họ lập trường đại học công và tư với nhiều ngành đào tạo. Họ làm tới đâu học tới đó, không biết thì cắp sách ra nước ngoài học, vừa làm vừa nghe ngóng tình hình chiến sự. Người ở thành phố làm thay việc của thầy giáo, công nhân bị bắt lính phải ra chiến trường, vẫn dựng sạp biểu diễn cải lương khi chiến tranh áp sát thành phố, xoay xở khi giấy in báo tăng giá, để con nít có báo mà đọc. Đó chính là những di sản tinh thần của Sài Gòn một thời, đang ngày càng bị thời gian vùi lấp. Chiến cuộc làm mất mát nhiều tư liệu, hình ảnh. Đến ký ức cũng không còn khi nhân chứng ra đi. Tôi tiếc không gặp được nghệ sĩ Bắc Sơn để nghe kể nguyên do ông làm chương trình Quê ngoại đầy cảm xúc, với những ca khúc đậm chất quê hương như Em đi trên cỏ non, Còn thương rau đắng mọc sau hè,... kịch bản tự nhiên, chân tình làm rơi nước mắt người tạm cư. Tôi muốn tìm lại dấu vết dàn nhạc Đại hòa tấu Sài Gòn hồi cuối năm 1959, ban nhạc Tiếng Tơ Đồng, ban thi văn Tao Đàn lừng danh, nhìn được hình ảnh ông già Louis Vidal làm hương cả làng Phú Nhuận thời Pháp thuộc, bận áo dài khăn đóng, nhai trầu, ăn nước mắm, lấy vợ Việt. Chẳng nơi nào trên đất nước này có nhiều người nhập cư như Sài Gòn. Nhưng rồi từ Sài Gòn, trong nửa thế kỷ gần đây đã có rất nhiều người bỏ nó ra đi. Tôi tin rằng nếu không vì những biến động thời cuộc, không người dân Sài Gòn nào, dù là cố cựu hay ngụ cư muốn ra đi cả. Khi rời xa, họ mang theo cả những hiểu biết về đời sống một thời. Nó sẽ mất luôn khi họ nằm xuống. Bên cạnh đó, có những điều vẫn được tiếp nối dù gặp không ít thử thách. Sau sự bỡ ngỡ và lo lắng ban đầu, những người ở lại Sài Gòn trong thời kinh tế bao cấp sau 1975 lại một lần nữa “dấn thân, yêu đời”. Họ sống tằn tiện, lấy vỏ xe làm dép, chế biến mực bút bi, dùng than thay xăng chạy xe, nghĩ ra và dạy nhau cách chế biến mì sợi, ăn khoai lang, bột mì, bo bo, cá xô,... để sống qua ngày, chờ lúc tươi sáng hơn. Họ ngạo nghễ đối diện khó khăn, đùm bọc nhau, không thích khoanh tay nhìn rồi than trách mà luôn xoay xở để khá hơn, luôn cho rằng “còn da lông mọc, còn chồi nẩy cây”. Lụt miền Trung, miền Tây năm 1978, dù khó mấy vẫn gửi quần áo cũ, lương thực giúp đỡ người khác khổ hơn mình. Cứ thế, họ giữ gìn cái chất “kiến nghĩa bất vi…” của con người Sài Gòn – Gia Định. Kể cả khi rời Sài Gòn ra đi thì người Sài Gòn cũng không quên ngoảnh lại, nhanh chóng chuyển tiền của giúp thân nhân và giúp vốn cho cả thành phố vực dậy kinh tế thời đổi mới. Rồi Sài Gòn lại tiếp tục được bổ sung thêm nhân lực từ tứ xứ, góp những con người ưu tú nhất của quê hương cho mảnh đất này. Với truyền thống đùm bọc đồng hương, họ hình thành các cộng đồng nhỏ cùng quê và hòa nhập vào đất Sài Gòn. Tài năng, tính hiếu học, sự cần cù của họ đã đóng góp quan trọng tạo nên sức mạnh của thành phố, không khác chi lớp dân cư miền Bắc vào đây năm 1954 và xa xưa hơn, là những người Minh Hương. Chính những điều đó đã “tiếp sức” cho Sài Gòn, nhờ đó mà các “mối nối” làm nên giá trị của nó không bị đứt gãy, giúp Sài Gòn có thể “vượt thoát”. Tôi mong rằng sẽ có nhiều cuốn sách, bài báo viết về những tháng năm bi tráng ấy, khi người Sài Gòn không chiến đấu với kẻ thù mà là chiến đấu với cái nghèo, cái bó buộc của tư duy ấu trĩ, để khẳng định chất Sài Gòn. Và cũng phải thừa nhận rằng những hình ảnh, câu chuyện, ký ức của cuộc sống một thời vừa qua ấy cũng đang mất dần, mất dần... Ông Hiroike Chikuro, người sáng lập Viện Nghiên cứu và Thực hành đạo đức Nhật Bản từng nói: “Người áp dụng cùng một phương pháp cho lập nghiệp và gìn giữ sự nghiệp thì sẽ mất nó. Lập nghiệp không cần đức, nhưng để giữ gìn sự nghiệp đó thì không có đạo đức không xong!”. Bất cứ cái gì muốn trường tồn đều phải có đạo đức làm cốt lõi. Để gây dựng tầm vóc và giữ gìn sự trường tồn cho một thành phố như Sài Gòn cũng vậy, không có đức không xong. “Ôn cố tri tân”, có những giá trị nằm sẵn trên mảnh đất này, và những điều tốt đẹp trong bốn mươi năm qua đã chớm dậy đợi chúng ta tìm kiếm, đúc kết, để tiếp nối và hoàn thiện. Đó là quan niệm về thiện và ác, công bằng và trách nhiệm, lương tâm và lòng tự trọng... Tìm tòi, lục lọi, giữ gìn ký ức, hình ảnh của Sài Gòn một thời đã qua, trăm năm hay chỉ mới vài chục năm trước, soi rọi mình trên dòng sông thời gian, từ đó tìm ra được những giá trị tinh thần, đạo đức của người Sài Gòn – Gia Định một thời là việc cần làm và nên làm. Tìm thấy để tự hào về một nơi từng rất đáng sống, đã từng sống đàng hoàng, có tình có nghĩa. Từ niềm tự hào đó, chúng ta sẽ gắng sống đàng hoàng cho hôm nay và mai sau. Phạm Công Luận (Tuổi Trẻ cuối tuần số Tất niên, ngày 31/1/2016) *** Phạm Công Luận sinh năm 1961 tại Sài Gòn. Hiện làm việc tại báo Sinh Viên Việt Nam - Hoa Học Trò, cơ quan đại diện tại TP.HCM. Anh là tác giả của nhiều tựa sách best-seller, những trang viết của anh tìm được mối giao cảm với bạn đọc bằng chất suy tư của một người từng trải, và sự tinh tế, u hoài, tao nhã trong mỗi lời văn. Tác phẩm tiêu biểu: - Những sắc màu Nhật Bản, 1998 (viết chung với Asako Kato)  - Nếu biết trăm năm là hữu hạn, 2011 (bút danh Phạm Lữ Ân, đồng tác giả với Đặng Nguyễn Đông Vy)  - Những lối về ấu thơ, 2011 (bút danh Phạm Lữ Ân, đồng tác giả với Đặng Nguyễn Đông Vy)  - Sài Gòn - Chuyện đời của phố, 2014 (NXB Hội Nhà Văn) - Trên đường rong ruổi, 2014 (NXB Hội Nhà Văn) Mời các bạn đón đọc Sài Gòn - Chuyện Đời Của Phố (Tập 4) của tác giả Phạm Công Luận.