Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khổng Tử Và Luận Ngữ (Nguyễn Hiến Lê)

Vài lời thƣa trƣớc

Trong bài Lời nói đầu cuốn Khổng tử, cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết đôi điều về việc dịch lại bộ Luận ngữ như sau:

“Tôi đã bỏ ra hơn hai tháng đọc lại những sách về Khổng tử mà tôi có hoặc mượn được (như của Lữ Chấn Vũ: Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc; Hầu ngoại Lư: Tư tưởng cổ đại Trung Quốc; Quan Phong và Lâm Duật Thời: Bàn về Khổng Tử - đều do ngoài Bắc dịch); đọc lại các bản dịch và chú giải Luận ngữ của mình, và của Trung Hoa (như Luận ngữ độc bản của Thẩm Tri Phương và Tưởng Bá Tiềm, Luận ngữ dịch chú của Triệu Thông; lại bỏ ra hơn hai tháng nữa để dịch lại bộ Luận ngữ, vừa dịch vừa phân loại theo đề tài lập bảng tra tên người, tên đất.”

Trong cuốn Luận ngữ này, cụ Nguyễn Hiến Lê có nói rõ là bài XVI.1 được dịch lại: trong chú thích bài đó, cụ viết: “Bài này chúng tôi dịch trong cuốn Nhà giáo họ Khổng (Cảo Thơm, 1972), nay dịch lại.”

Ngoài bài XVI.1 đã dẫn trong cuốn Nhà giáo họ Khổng được cụ dịch lại, còn nhiều bài khác nữa đã được cụ dẫn trong một số tác phẩm khác cũng được cụ dịch lại mặc dầu trong cuốn Luận ngữ này cụ không nêu ra, ví dụ như (mỗi tác phẩm tôi chỉ chọn một bài): Tìm mua: Khổng Tử Và Luận Ngữ TiKi Lazada Shopee

Bài II.2: Trong bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc, câu “Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi, viết: Tư vô tà”, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: “Cả 300 thiên trong Kinh Thi, chỉ một câu có thể trùm được, là: không nghĩ bậy”. Trong cuốn Luận ngữ, cụ dịch lại, đặc biệt là ba chữ “tư vô tà”, như sau: “Kinh Thi có ba trăm thiên, một lời đủ bao quát tất cả, là tư tưởng thuần chính.”

Bài VI.8: Trong bộ Mặc học, câu “Vô chi, mệnh hĩ phù? Tư nhân dã nhi hữu tư tật dã!”, cụ dịch là: “Con [tức Bá Ngưu] sắp mất. Số mệnh đó thôi. Người như vậy mà bệnh như vậy!”; Trong cuốn Luận ngữ, cụ hiểu chữ “vô” theo một nghĩa khác, và cả câu đó được lại thành: “Vô lí! Do mệnh trời chăng? Con người như vậy mà bị bệnh đó!”

Bài VIII.3: Trong bộ Trang tử - Nam hoa kinh, câu “Nhi kim nhi hậu, ngô tri miễn phù, tiểu tử” (lời của Tăng tử), cụ dịch là: “Từ đây về sau ta mới biết chắc rằng ta giữ được (thân ta) khỏi các điều hư hỏng, tàn tật đó các trò”. Trong cuốn Luận ngữ, cụ dịch lại là: “Từ nay về sau, ta mới biết thoát khỏi hình lục, đó các trò” (cụ đã hiểu hai chữ “miễn phù” theo một nghĩa khác).

Bài XVIII.6: Trong bộ Đại cương triết học Trung Quốc, câu “Thao thao giả thiên hạ giai thị dã, nhi thuỳ dĩ dịch chi”, hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê dịch là: “Ùa ùa như nước chảy một chiều, thiên hạ đều thế cả, ai mà theo mình để sửa đổi việc loạn ra trị”. Trong cuốn Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch lại (đặc biệt là hai chữ “thao thao”): “Khắp thiên hạ đâu đâu cũng là dòng nước (đục) cuồn cuộn, ông Khổng Khâu sẽ cùng với ai mà sửa thiên hạ?”

Lý do khác biệt trong hai lần dịch bài VI.8 là do chữ 亡 trong nguyên văn. Trong bộ Mặc học, cụ Nguyễn Hiến Lê đọc chữ đó là “vong” và dịch theo nghĩa của chữ 亡 là “chết mất”; còn trong cuốn Luận ngữ cụ đọc là “vô” và dịch theo nghĩa của chữ “vô” 無 là “không”[1].

Cũng có trường hợp đọc khác nhưng ý nghĩa cũng vậy như chữ 哂 trong bài XI.25, trong cuốn Cổ văn Trung Quốc, cụ đọc là “sẩn” (Thiều Chửu cũng đọc là “sẩn”); còn trong cuốn Luận ngữ, cụ đọc là “thẩn”, nhưng nghĩa cũng vẫn là “mỉm cười”. Nhân vật Nhụ Bi trong bài XVII.20 cuốn Luận ngữ, chữ Hán là 孺悲, trong cuốn Nhà giáo họ Khổng (bài Dương Hoá - 19) gọi là Nhũ Bi.

Cũng trong cuốn Cổ văn Trung Quốc, cụ Nguyễn Hiến Lê tỏ ý ngờ rằng thiên Hương đảng (thiên X) là do người sau chép thêm; cụ bảo: “(…) hình như cũng có vài chỗ do người đời sau viết thêm, chẳng hạn như thiên Hương đảng”. Nhưng trong cuốn Luận ngữ này và trong cuốn Khổng tử nữa, chúng ta không thấy cụ nhắc lại ý nghi ngờ đó nữa.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Hiến Lê":Kinh Dịch - Đạo Của Người Quân Tử7 Bước Đến Thành CôngĐắc Nhân TâmMạnh TửSống 365 Ngày Một NămMột Lương Tâm Nổi LoạnRèn Nghị Lực Để Lập ThânSống ĐẹpKhổng Tử Và Luận NgữGiải Nghĩa 64 Quẻ Kinh DịchBảy Ngày Trong Đồng Tháp MườiHồi Ký Nguyễn Hiến LêNhững Vấn Đề Của Thời ĐạiRèn Luyện Tình CảmTrang Tử Nam Hoa KinhÝ Cao Tình ĐẹpBảy Bước Đến Thành CôngDạy Con Theo Lối MớiGương Chiến ĐấuGương Hy SinhHàn Phi TửLiêt Tử Và Dương TửNghề Viết VănSăn Sóc Sự Học Của Con EmSử Trung QuốcTổ Chức Gia ĐìnhVài Nét Sơ Lược Về Sự Phát Triển Của Triết Học Trung HoaĐường, Tống Bát Đại GiaLão Tử Đạo Đức Kinh - Nguyễn Hiến LêGương Kiên NhẫnCon Đường Thiên Lý

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Khổng Tử Và Luận Ngữ PDF của tác giả Nguyễn Hiến Lê nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Mười Tôn Giả - Đại Đệ Tử Của Đức Phật (Lê Sỹ Minh Tùng)
Trong suốt 45 năm giáo hóa, từ Thành đạo đến Niết Bàn, Phật quy tụ xung quanh hào quang của Ngài một số đệ tử cả xuất gia lẫn tại gia. Trong số này, những bậc xuất sắc ưu tú, chứng được thánh quả A La Hán gồm có 1250 vị. Đặc biệt có 10 vị được mệnh danh là Thập Đại Đệ tử. Trong 10 vị này, mỗi vị đều có sở trường riêng, sở chứng riêng và đạo hạnh riêng. Mười vị Đại Đệ tử của Phật là: Tôn Giả Đại Ca Diếp: Đầu Đà Đệ Nhất, Tôn Giả Xá Lợi Phất: Trí Huệ Đệ Nhất, Tôn Giả Mục Kiền Liên: Thần Thông Đệ Nhất, Tôn Giả Ca Diên Chiên: Luận Nghị Đệ Nhất, Tôn Giả A Nan Đà: Đa Văn Đệ Nhất, Tôn Giả A Na Luật: Thiên Nhẫn Đệ Nhất, Tôn Giả La Hầu La: Mật Hạnh Đệ Nhất, Tôn Giả Tu Bồ Đề: Giải Không Đệ Nhất, Tôn Giả Phú Lâu Na: Thuyết Pháp Đệ Nhất, Tôn Giả Ưu Ba Ly: Trì Giới Đệ Nhất. Chính các vị là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật trong việc hoàng pháp độ sinh, làm cho Phật pháp hưng thịnh trên khắp lãnh thổ Ấn Độ thời đó, và còn lưu truyền mãi đến ngày nay. Sách 10 Đại Đệ Tử Phật là tập hợp 124 câu chuyện về Thập Đại Đệ tử của Phật từ khi sinh ra với những năng lực ưu việt khác thường, quá trình tu hành hạnh đạo để gia nhập cõi Phật, tiếp tục tu thành chánh quả tại cõi Niết Bàn và đem công sức giúp ích cho đời, cho người.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Lê Sỹ Minh Tùng":Kinh Thủ Lăng Nghiêm Giảng GiảiBát Nhã Tâm Kinh Giảng Giải Vô Thượng Niết BànKinh Duy Ma Cật Giảng GiảiKinh Pháp Hoa Giảng GiảiPhá Mê Khai NgộThanh Tịnh TâmĂn Mày Cửa PhậtVài Nét Về ThiềnMười Tôn Giả - Đại Đệ Tử Của Đức PhậtChữ Không Trong Nhà PhậtLục Độ Ba La MậtĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mười Tôn Giả - Đại Đệ Tử Của Đức Phật PDF của tác giả Lê Sỹ Minh Tùng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Vài Nét Về Thiền (Lê Sỹ Minh Tùng)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Vài Nét Về Thiền PDF của tác giả Lê Sỹ Minh Tùng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Truyện Lục Tổ Huệ Năng (Ngô Trọng Ðức)
Đại sư Huệ Năng (Năng, zh. huìnéng/ hui-neng 慧能, ja. enō), 638-713, là một vị Thiền sư vĩ đại trong lịch sử Thiền Tông Trung Hoa. Sư kế tiếp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, trở thành vị Tổ thứ 6 của Thiền Tông Trung Quốc. Trước Huệ Năng, Thiền còn mang nặng ảnh hưởng Ấn Độ nhưng đến đời Sư, Thiền bắt đầu có những đặc điểm riêng của Trung Quốc. Vì vậy mà có người cho rằng sư mới thật sự là người Tổ khai sáng dòng Thiền tại đây. Huệ Năng không chính thức truyền y bát cho ai, nên sau đó không còn ai chính thức là truyền nhân. Tuy nhiên sư có nhiều học trò xuất sắc. Môn đệ chính là Thanh Nguyên Hành Tư và Nam Nhạc Hoài Nhượng là hai vị Thiền sư dẫn đầu hầu như toàn bộ các dòng Thiền về sau. Sư được coi là người sáng lập Thiền Đốn Ngộ (Thiền Nam Tông)- với chủ trương đạt giác ngộ trực tiếp, nhanh chóng. Sư tác giả của tác phẩm chữ Hán duy nhất được gọi là "Kinh", một danh từ thường chỉ được dùng chỉ những lời nói, bài dạy của chính Phật Thích-ca, đó là Lục tổ đại sư pháp bảo đàn kinh, một tác phẩm với ý nghĩa rất sâu xa về thiền. Cũng nhờ Pháp bảo đàn kinh mà người ta biết được ít nhiều về Huệ Năng.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Truyện Lục Tổ Huệ Năng PDF của tác giả Ngô Trọng Ðức nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Truyện Lục Tổ Huệ Năng (Ngô Trọng Ðức)
Đại sư Huệ Năng (Năng, zh. huìnéng/ hui-neng 慧能, ja. enō), 638-713, là một vị Thiền sư vĩ đại trong lịch sử Thiền Tông Trung Hoa. Sư kế tiếp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, trở thành vị Tổ thứ 6 của Thiền Tông Trung Quốc. Trước Huệ Năng, Thiền còn mang nặng ảnh hưởng Ấn Độ nhưng đến đời Sư, Thiền bắt đầu có những đặc điểm riêng của Trung Quốc. Vì vậy mà có người cho rằng sư mới thật sự là người Tổ khai sáng dòng Thiền tại đây. Huệ Năng không chính thức truyền y bát cho ai, nên sau đó không còn ai chính thức là truyền nhân. Tuy nhiên sư có nhiều học trò xuất sắc. Môn đệ chính là Thanh Nguyên Hành Tư và Nam Nhạc Hoài Nhượng là hai vị Thiền sư dẫn đầu hầu như toàn bộ các dòng Thiền về sau. Sư được coi là người sáng lập Thiền Đốn Ngộ (Thiền Nam Tông)- với chủ trương đạt giác ngộ trực tiếp, nhanh chóng. Sư tác giả của tác phẩm chữ Hán duy nhất được gọi là "Kinh", một danh từ thường chỉ được dùng chỉ những lời nói, bài dạy của chính Phật Thích-ca, đó là Lục tổ đại sư pháp bảo đàn kinh, một tác phẩm với ý nghĩa rất sâu xa về thiền. Cũng nhờ Pháp bảo đàn kinh mà người ta biết được ít nhiều về Huệ Năng.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Truyện Lục Tổ Huệ Năng PDF của tác giả Ngô Trọng Ðức nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.