Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuộc Tội

Vào một ngày hè nóng nhất năm 1935, cô bé mười ba tuổi Briony Tallis bất chợt trông thấy chị gái Cecilia trút bỏ áo quần rồi lao mình xuống bể đài phun nước trong khu vườn rộng trước nhà. Cùng chứng kiến cảnh ấy, là Robbie Turner, người bạn của nàng từ thuở nhỏ, và cũng như nàng vừa trở về từ đại học Cambridge.  Đến cuối ngày hôm ấy cuộc đời của cả ba người đã vĩnh viễn thay đổi. Robbie và Cecilia sẽ vượt qua một biên giới mà họ chưa từng hình dung rằng có tồn tại, và trở thành nạn nhân của trí tưởng tượng của cô bé mười ba tuổi kia. Còn Briony, em đã chứng kiến những chuyện bí ẩn và phạm phải một tội ác mà để chuộc lại thì có lẽ cần nhiều hơn một đời người.  Chuộc tội được làm nên bằng từng chi tiết được khắc họa tỉ mỉ đến tinh xảo, những nhân vật và tâm hồn nhân vật được xây dựng cá biệt nhưng thống nhất cao độ, những khám phá cơ hồ thanh tân về sự dối trá của vẻ bề ngoài và sự ngây thơ ẩn tàng diệt hủy, tất cả đặt trong một kết cấu độc nhất vô nhị - dàn trải mà vẫn tập trung, phi tuyến tính nhưng hoàn toàn logic. Vẫn những chủ đề quen thuộc như tình yêu và tội lỗi, giận dữ và thứ tha, nhưng Chuộc tội đã được tạo tác tuyệt vời đến mức không gì trong cuốn sách đem lại cho người đọc cảm giác cũ mòn. Phảng phất u tối nhưng quyến rũ kỳ lạ, cho đến nay đó thực sự là tác phẩm viên mãn nhất của McEwan, xứng đáng với giải thưởng cao quý National Book Critics Circle Award dành cho thể loại tiểu thuyết vào năm 2002.   "Một tiểu thuyết tuyệt tác" - Independent "Những khám phá xuất sắc về dòng chảy của tội lỗi, nỗi hổ thẹn và sự giận dữ..." - Scotsman *** Ian McEwan sinh ngày 21/6/1948 tại Aidershot, Anh. Ông từng học ngành Văn học Anh tại Đại học Sussex và tốt nghiệp cử nhân năm 1970, sau đó lấy tiếp bằng Thạc sĩ Văn học Anh tại Đại học East Anglia. Các tác phẩm của McEwan được giới phê bình thế giới đánh giá cao. Ông đã giành giải thưởng Somerset Maugham Award năm 1976 cho tập truyện ngắn First Love, Last Rites; giải Whitbread Novel Award (1987) và Prix Femina Etranger (1993) cho tác phẩm The Child in Time; đồng thời giành được cả giải Germany’s Shakespeare Prize vào năm 1999. Ông đã nhiều lần lọt vào danh sách đề cử chốt của giải Man Booker Prize và đến năm 1998 đã giành được giải thưởng cao quý này cho tác phẩm Amsterdam. Cuốn tiểu thuyết Atonement đã giành được giải WH Smith Literary Award (2002), giải National Book Critics’ Circle Fiction Award (2003) của giới phê bình Anh, giải Los Angeles Times Prize dành cho thể loại hư cấu (2003) và giải Santiago Prize dành cho Tiểu thuyết Châu Âu (2004). Năm 2000, ông cũng được trao giải CBE, giải thưởng cao quý của Hoàng gia Anh dành cho những người có cống hiến xuất sắc. Năm 2006, cuón tiểu thuyết Saturday của ông đã giành được giải James Tait Black Memorial Prize. Còn tại lẽ trao giải British Book Awards 2008, Trên bãi biển Chesil đã giành được giải Book of the Year (Cuốn sách của năm) đồng thời đem lại cho tác giả của nó danh hiệu Author of the Year (Tác giả của năm). McEwan đã kết hôn hai lần. Người vợ thứ hai của ông, Annalena McAfee, từng là biên tập viên cho mục Bình luận của tờ The Guardian danh tiếng. Ngoài sự nghiệp, ông còn khá nổi tiếng trên mặt báo khi vào năm 1999 người vợ đầu tiên của ông bắt cóc đứa con trai 13 tuổi khi tòa trao quyền giám hộ con chỉ cho mình ông. Tiểu thuyết Chuộc tội cũng từng bị cáo buộc là đạo văn từ cuốn No Time for Romance của Lucilla Andrews. Tuy nhiên McEwan công khai khẳng định mình vô tội trên tờ The Guardian, lý do là trong ghi chú cuối tiểu thuyết của mình, ông đã nêu rõ tác phẩm của Andrews. Bộ phim cùng tên dựng lại từ tác phẩm Chuộc tội của McEwan đã được đề cử bảy giải Oscar quan trọng và giành được giải Nhạc nền xuất sắc nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 80 năm 2008. Cùng năm đó, bộ phim cũng đồng thời giành được giải Phim hay nhất ở cả giải Quả cầu Vàng và giải British Academy Film Awards của Viện Điện ảnh Anh Quốc. Hiện Website chính thức của tác giả tại địa chỉ www.iannicewan.com. *** Review Thu Hoài - Trạm Đọc: Bất cứ lúc nào bàn về tội ác ấu dâm, người ta cũng chỉ nói đến nỗi đau thể chất và tinh thần của người bị hại, thế còn tinh thần của những người chứng kiến thì sao? Khi mà xã hội ngoài kia đang sôi sục về những vụ ấu dâm thì tôi cũng đọc được một câu chuyện ấu dâm khác trong thời Thế chiến thứ Hai, khi con người ta còn nhiều nỗi lo hơn so với cái xã hội rảnh như bây giờ. Bất cứ lúc nào bàn về tội ác ấu dâm, người ta cũng chỉ nói đến nỗi đau thể chất và tinh thần của người bị hại, thế còn tinh thần của những người chứng kiến thì sao?  Cấu trúc truyện lồng trong truyện trong cuốn sách Chuộc tội của Ian McEwen kể về lời khai của một cô bé mười ba tuổi khi là nhân chứng duy nhất trong vụ cưỡng hiếp người chị họ, kèm theo nỗi đau tinh thần đã kéo dài hơn sáu mươi năm, và một lời thú tội muộn màng. Mùa hè 1935, Robbie Turner bị bắt vì tội cưỡng hiếp cô bé Lola mười lăm tuổi,  một người họ hàng của gia đình Tallis. Nhân chứng và lời khai duy nhất của vụ án là con gái út mười ba tuổi, Briony Tallis, người đã chắc chắn khẳng định hung thủ là Turner, khi cô tình cờ bắt gặp cảnh tượng khủng khiếp ấy trong đêm tối tại khu vườn gần nhà. Turner là con trai người hầu và người giúp việc của gia đình Tallis, đồng thời cũng là người bạn ấu thơ của Cecilia Tallis. Qua lời tố cáo của Briony, Turner cũng là người đã bắt Cecilia cởi bỏ đồ trước mặt hắn, viết bức thư dâm đãng gửi và tra tấn Cecilia trong thư viện. Trong thời chiến tranh, để huy động hết lực lượng quân số, những người mang trọng tội như Turner đã được cho phép đi lính thay vì ngồi trong tù của chính phủ Anh.  Đọc đến đây, bạn có thể nói “Đáng đời hắn, những kẻ vô nhân tính như hắn đáng phải đền tội” hay những câu tương tự như vậy. Tôi cũng phần nào đồng cảm với bạn. Nhưng lời khai của một đứa trẻ tuổi vị thành niên có đáng tin không? Nếu là thời nay chắc cảnh sát và truyền thông còn phải mổ xẻ rất nhiều tình tiết trong lời khai ấy. Nhưng khi ấy, cảnh sát và quân đội Anh còn phải lo về thuốc súng đạn dược trong cuộc chiến tranh với Đức, ai rảnh đâu đi điều tra lời nói của một đứa bé. Họ thậm chí còn mừng thay khi có một nhân chứng, và nhân chứng ấy lại vô cùng quả quyết, chắc chắn về những gì mình nhìn được. Briony có lẽ còn xứng đáng trở thành anh hùng trong lòng các cô gái trẻ ấy chứ.  Ấy vậy mà, người “anh hùng” của chúng ta, Briony lại sống trong những năm tháng đau khổ và dằn vặt suốt phần đời còn lại của mình. Năm năm sau, cô trở thành y tá thực tập trong bệnh viện London thay vì đi học tại Cambridge. Những lần chứng kiến thời khắc cuối cùng của người lính, cô thường nghĩ đến số phận của Robbie ngoài chiến trường. Cô cũng đã viết rất nhiều bức thư gửi chị gái Cecilia, người đã từ bỏ gia đình sau khi Robbie bị bắt và trở thành y tá, nhưng chưa bao giờ nhận được hồi âm. Cô đã lo sợ nếu không gặp được chị gái, cô sẽ không bao giờ có thể nói được lời xin lỗi, vì sự thật mà cô tiết lộ vô cùng đau lòng. Hung thủ mà Briony nhìn thấy năm năm trước hóa ra lại không phải là Robbie Turner.  Đối với cô khi ấy, Robbie là một con quỷ dâm dục nhưng trước đó cũng là người mà cô vô cùng cảm mến. Briony đã từng liều mình nhảy xuống hồ chỉ để xem liệu Robbie có cứu mình không, và để nói lời yêu với anh. Nhưng hỡi ôi, một cô bé ngây thơ và nông nổi trong thâm tâm không muốn người mình yêu ở bên cạnh chị cô nên đã sẵn sàng nói dối dù đã mười mươi nhìn thấy hung thủ là ai, một lời nói dối đủ làm thay đổi cuộc đời của cả ba con người. Trong suốt những năm tháng làm y tá, Briony vẫn viết, nhưng không còn là những tiểu thuyết mộng mơ như thuở nhỏ nữa. Ngồi cô độc đánh máy trong những đêm lạnh tại bênh viện, Briony đã viết một lời thú tội chân thành không màu mè, hoa mỹ cho những người đã tin vào những lời nói dối năm xưa của cô. Lời thú tội đó sau cùng trở thành cuốn tiểu thuyết cuối đời của cô, cuốn sách mang tên Chuộc Tội.  Nhưng rốt cuộc đó vẫn chỉ là sự hèn nhát sau cuối của Briony, khi tất cả những người liên quan đều đã chết, họ mãi không được biết sự thật. Dù có viết bao nhiêu cuốn sách cũng không thể bù đắp lại được cuộc đời hạnh phúc cho Robbie và Cecilia. Vở kịch đầu tiên của Briony xuất hiện ở cuối truyện giống như nhắc lại cuộc đời hai con người ấy suy cho cùng cũng chỉ là vở kịch mà người khác dựng lên.  Briony đã nhận sai, nhưng vẫn tiếp tục làm sai, vẫn chỉ là con người hèn nhát không giống như trong cuốn tiểu thuyết kia.  Briony đã đi đến cuối đời bằng nỗi tuyệt vọng và tự lừa dối chính mình bằng ảo tưởng hạnh phúc. Không có gì sai khi lên tiếng trước một tội ác, chỉ là đừng như Briony, hãy làm người hùng thật đúng cách để không bao giờ phải nhận lấy đau khổ khi đứng trước sự thật mà thôi. *** Vở kịch - mà vì nó Briony đã thiết kế áp phích, tờ chương trình và vé, dựng quầy bán vé từ một bình phong xiêu vẹo quây lại và lót hộp thu tiền bằng giấy kếp đỏ - được em viết trong hai ngày sáng tác vũ bão, khiến em bỏ mất một bữa sáng và một bữa trưa. Khi mọi chuẩn bị đã chu tất, em chỉ còn việc thưởng ngoạn bản thảo hoàn chỉnh và đợi các em họ từ phương Bắc xa xôi đến. Sẽ chỉ có một ngày duy nhất để diễn tập trước khi anh trai em về. Lúc ớn lạnh xương tủy, khi buồn đau bén ngọt, vở kịch kể một câu chuyện của trái tim mà thông điệp được của nó, được chuyển tải trong phần mào đầu có vần điệu là tình yêu không được dựng xây trên nền tảng lý trí thì rồi sẽ lụi tàn. Nỗi đam mê bồng bột của nhân vật chính Arabella dành cho một tên bá tước ngoại quốc gian ác đã bị vận rủi trừng phạt: nàng mắc phải bệnh tả khi bốc đồng lao đến một thị trấn ven biển cùng kẻ ngỡ là sẽ cưới ấy. Bị hắn và hầu như hết thảy mọi người ruồng bỏ, nằm liệt giường trên một căn phòng gác xép, nàng khám phá ra tự trong mình khiếu hài hước. Số phận đem lại cơ hội thứ hai cho nàng xuất lộ dưới hình hài một vị thầy lang bần hàn - thực ra là chàng hoàng tử vi hành tự nguyện lao động giữa những người cùng khổ. Được chàng chữa lành bệnh, Arabella lần này chọn lựa một cách sáng suốt, và được đáp đền bằng cuộc đoàn tụ với gia đình và lễ cưới với chàng hoàng tử-thầy lang trong “một ngày xuân ngập tràn nắng và gió”. Bà Tallis đọc bảy trang vở kịch Những gian nan của nàng Arabella trong phòng ngủ, tại bàn trang điểm, với vòng tay của tác giả choàng qua vai suốt thời gian ấy. Briony chăm chú theo dõi từng dấu hiệu biến đổi cảm xúc trên khuôn mặt mẹ, và Emily Tallis chiều lòng con bằng vẻ mặt khi thảng thốt, lúc khúc khích hân hoan, rồi cuối cùng, nụ cười khích lệ và những cái gật đầu lịch duyệt, tán thành. Bà vòng tay ôm con gái vào lòng - ôi, cái cơ thể nhỏ nhắn mịn màng ấm nóng bà nhớ từ khi còn đỏ hỏn này, vẫn còn chưa lìa khỏi bà, chưa lìa hẳn - và bảo vở kịch thật “tuyệt diệu”, rồi ngay lập tức thì thầm vào vành tai đang căng ra của con gái đồng ý cho phép trích dẫn từ này lên tấm áp phích sẽ treo trên giá dựng ở tiền sảnh cạnh quầy vé. Khi đó Briony cơ hồ chưa biết, nhưng lời nhận xét ấy chính là cực điểm thành công của công trình này. Không gì đem lại cảm giác thỏa nguyện hơn thế, tất cả còn lại chỉ là mộng mơ và thất vọng. Có những khoảnh khắc chiều hè chạng vạng, khi ánh sáng phòng lụi tắt, vùi mình trong sự ảm đạm ngọt ngào của chiếc giường bốn cọc màn, em khiến tim mình rộn lên bằng những tưởng tượng lung linh, khao khát, mang trong chúng những vở kịch ngắn nho nhỏ, từng vở một đều có vai chính là Leon. Ở vở này, khuôn mặt to, hiền lành của anh nhăn lại vì đau đớn khi Arabella rơi vào cảnh cô đơn và quẫn bách. Ở vở kia, kìa anh đó, ly cocktail trên tay tại một quán bar thành phố thời thượng, đang lớn tiếng huênh hoang với đám bạn: Phải, em gái tớ đấy, văn sĩ Briony Tallis, các cậu hẳn đã nghe tiếng rồi. Vở thứ ba, anh đắc chí đấm tay vào không khí khi sân khấu hạ màn, mặc dù chẳng có tấm màn nào hết, cả khả năng tồn tại một tấm cũng không. Vở kịch em viết không phải để dành cho mấy đứa em họ, nó dành cho anh của em, để chào mừng anh trở về, để khơi dậy ở anh lòng ngưỡng mộ và hướng anh tránh xa khỏi hàng loạt cô bạn gái kế tiếp nhau một cách thiếu suy nghĩ, đến hình mẫu người vợ chân chính, người vợ sẽ thuyết phục anh về sống ở vùng quê, người vợ sẽ dịu dàng đề nghị Briony làm phù dâu cho lễ cưới. Em là đứa trẻ bị ám ảnh bởi nỗi khát khao biến thế giới thành nơi trật tự tuyệt đối. Trong khi phòng chị em là mớ hổ lốn những sách không gấp, áo quần không xếp, giường không dọn, gạt tàn không đổ, thì phòng Briony là một thánh đường cho vị thần thích kiểm soát trong em: mô hình trang trại đồ chơi trải ra trên bậu cửa sổ sâu vào phía trong, gồm những súc vật quen thuộc, nhưng tất cả đều hướng về một phía - chủ nhân của chúng - như thể toan cất lời đồng ca, và ngay cả đàn gà mái trên sân trại cũng được quây lại gọn ghẽ. Mà thực ra, phòng Briony là căn phòng ngăn nắp duy nhất ở tầng trên trong nhà. Các em búp bê lưng được đặt thẳng đứng trong biệt thự nhiều phòng của chúng dường như tuân theo một chỉ thị nghiêm ngặt là không được phép chạm vào tường; vô vàn các con giống đồ chơi to cỡ ngón tay cái trên bàn trang điểm - những chàng cao bồi, những thợ lặn biển sâu, những chú chuột hình người - được sắp xếp theo hàng lối ngay ngắn và cách nhau đều đặn như một đạo dân quân đang chờ lệnh. Thích vật thu nhỏ là một khía cạnh của tinh thần ngăn nắp. Một khía cạnh khác là đam mê bí mật: trong chiếc tủ đánh véc ni quý giá có một ngăn kéo bí mật chỉ mở ra được bằng cách nhấn vào thớ gỗ của cái mộng đuôi én khớp lại một cách khéo léo, ở đó em cất giấu cuốn nhật ký khóa bằng móc gài, và cuốn sổ viết bằng thứ mật mã do em tự chế ra. Trong cái két đồ chơi mở bằng mật mã sáu số, em lưu thư từ và bưu thiếp. Một hộp thiếc cũ đựng tiền nhỏ xíu được giấu dưới một tấm ván sàn cạy lên được dưới gầm giường em. Trong hộp là kho báu em tích trữ được trong bốn năm qua, bắt đầu từ lần sinh nhật chín tuổi: một quả sồi đôi đột biến, viên quặng pyrit, một bùa làm mưa mua tại hội chợ giải trí, một cái sọ sóc nhẹ bẫng như chiếc lá. Nhưng ngăn kéo bí mật, nhật ký khóa cài và hệ thống mật mã không che được cho Briony một sự thật giản dị: em chẳng hề có bí mật nào. Khát khao vươn tới một thế giới trật tự hài hòa tước khỏi em khả năng bốc đồng làm điều sai trái. Phá hỏng và hủy diệt là những thứ quá hỗn loạn không phù họp với sở thích của em, và bản tính em cũng không phải là người ác nghiệt. Thân phận thực tế là đứa trẻ duy nhất trong nhà, cộng với việc ngôi nhà gia đình Tallis khá hẻo lánh, đã khiến em, ít ra là trong suốt những ngày nghỉ hè dài dặc, không tham dự vào các trò con gái với đám bạn. Không gì trong cuộc sống em đủ độ hấp dẫn hay đáng xấu hổ đến mức phải giấu đi; không ai biết về cái sọ sóc dưới gầm giường, mà cũng chẳng ai buồn biết. Không gì trong số những điều vừa kể là nỗi ưu phiền gì đặc biệt; có chăng chỉ phảng phất vậy khi hồi cố lại, mà khi đó, giải pháp đã được tìm ra. Năm mười một tuổi, em viết câu chuyện đầu tay - một chuyện tình xuẩn ngốc, mô phỏng đến quá nửa tá truyện dân gian và thiếu, sau này em nhận ra, sự hiểu biết thiết yếu về cách thế giới vận hành để buộc độc giả phải ngưỡng phục. Nhưng thử nghiệm vụng về đầu tiên này mở ra cho em biết trí tưởng tượng, chỉ riêng nó thôi, đã là cả một nguồn sản sinh bí mật: một khi em bắt đầu một câu chuyện, sẽ không ai biết gì cả. Ngụy tạo thế giới bằng ngôn ngữ là việc quá không chắc chắn, quá yếu ớt, quá xấu hổ không thể để ai biết được. Ngay cả viết ra những cô nói, những và rồi cũng khiến em nhăn mặt, và thấy mình thật ngốc nghếch khi tỏ vẻ hiểu cảm xúc của một sinh vật tưởng tượng. Tự phơi bày chính mình là điều không thể tránh khỏi khi em miêu tả sự yếu mềm của nhân vật; độc giả buộc phải ngờ rằng em đang miêu tả chính em. Em còn có tư cách nào khác nữa chứ? Chỉ khi câu chuyện kết thúc, mọi số phận được dàn xếp ổn thỏa và toàn bộ vấn đề đã hoàn toàn khép lại để giống như, ít nhất ở khía cạnh này, mọi câu chuyện có kết thúc khác trên thế giới, thì em mới cảm thấy yên tâm, và sẵn sàng đục lỗ trên lề, dùng dây đóng các chương lại, vẽ bìa bằng màu hay chì đen, rồi mang tác phẩm hoàn tất đến khoe với mẹ, hoặc cha, khi ông có nhà. Mời các bạn đón đọc Chuộc Tội của tác giả Ian McEwan.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chó Dẫn Đường Phiêu Lưu Ký Tập 1 - Mikhail Samarsky
Mikhail Samarsky sinh năm 1996, Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống văn chương (bố là nhà soạn kịch, mẹ là nhà văn chuyên viết truyện trinh thám), từ năm 12 tuổi, Mikhail Samarsky đã bắt đầu đam mê sáng tác. Năm 12 tuổi cô xuất bản cuốn truyện đầu tiên. Tác phẩm là sự đồng cảm sâu sắc với những người kém may mắn trong cuộc sống khi không nhìn thấy ánh sáng, phải sống trong bóng đêm lặng lẽ. Chính vì lẽ đó, ngay khi vừa ra đời, Chuyện Cảm Động Không Đến Từ Con Người nhanh chóng tạo được tiếng vang tại Nga và được ấn hành bằng chữ nổi với các ngôn ngữ như Đức, Czech, Bulgaria, Thụy Điển và đang được dựng thành phim truyện nhựa. ***         Trong tác phẩm này, Mikhail Samarsky đã dùng một thủ pháp độc đáo khi để chú chó Trison kể lại những gì diễn ra trong thế giới loài người. Qua cái nhìn và suy nghĩ của Trison, xã hội loài người hiện lên một cách sống động với đầy đủ hỉ, nộ, ái, ố. Ở đó, có không ít kẻ tham lam, toan tính, bon chen, phản phúc và vô cảm.         Mikhail Samarsky đã dựng nên một hành trình đầy cao cả và thú vị của chú chó Trison. Trước khi về nhà Sashka, Trison từng có thời gian làm công việc dẫn đường cho ông cụ Ivan Savelievich, một người mà theo đánh giá của Trison: “Đó là một con người tuyệt vời và là một người bạn tốt của tôi”. Khi cụ ông Ivan Savelievich qua đời, Trison được chuyển về trường huấn luyện và tại đây, Sashka cùng mẹ và bà đã tới đón Trison về nhà. Không chỉ hấp dẫn, lôi cuốn với nhiều tình tiết độc đáo đầy kịch tính,Chuyện Cảm Động Không Đến Từ Con Người còn là lời nhắc nhở về tình thương và lòng nhân ái, khi mà trong xã hội hiện đại ngày càng thưa vắng dần sự quan tâm, đồng cảm với những con người tật nguyền, bất hạnh… *** “Chúng tôi có đôi mắt đã chết, nhưng trái tim vẫn đang sống”. Lần đầu tiên tôi nghe câu nói này năm 12 tuổi, từ miệng một cậu bé mù mà tôi tình cờ làm quen trong công viên. Câu chuyện của cậu bé ấy về cuộc đời mình làm xao động lòng tôi, đến nỗi tôi quyết định thử đóng vai người mù để chiêm nghiệm nỗi đau tinh thần mà cậu phải chịu đựng hàng ngày, hàng giờ. Đợi đến kỳ nghỉ hè, tôi quyết “cất giấu” đôi mắt của mình trong vài ngày. Kết quả là tôi sống được ba ngày với dải băng đen bịt mắt. Không có một ngoại lệ nào cả - suốt 72 giờ tôi sống cuộc sống của người mù. Ăn uống, đi dạo trong sân, chơi với con chó cưng của mình, thay sách thường bằng sách nói, nghe tivi… Xin nói ngay – rất dễ sợ. Thỉnh thoảng có cảm giác không thể chịu đựng nổi. Ngay trong ngày đầu tiên (ôi, ngày mà nói làm gì – ngay giờ đầu tiên), tôi đã muốn giật phắt cái mảnh băng đen ấy ra và không bao giờ tiến hành những cuộc thử nghiệm như thế nữa. Xin nói thực lòng, chính tôi cũng không biết làm sao tôi có thể vượt qua được ba ngày “đen tối” đó. Nhưng dù sao điều đó cũng không giúp cảm nhận được đến tận cùng những gì người mù phải chịu đựng. Bởi vì tôi biết rằng một ngày, hai ngày rồi ba ngày sẽ trôi qua và tôi sẽ lại được nhìn thấy mẹ, thấy bầu trời xanh, bãi cỏ xanh, ráng chiều hồng nhạt. Một lần, trong đầu tôi xuất hiện ý nghĩ: “Nếu bỗng cứ thế này vĩnh viễn thì sao?”. Lòng dạ trở nên bồn chồn bất an. Đêm cuối cùng, tôi nằm hoài không sao ngủ được, không chỉ chực khóc thầm mà còn muốn khóc ầm lên. Có một chuyện tôi không sao lý giải nổi – hoặc đó là ảo ảnh, hoặc chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên: ngay sau khi tháo băng bịt mắt, tôi ngước mắt nhìn lên bầu trời và trông thấy một chiếc cầu vồng. Tôi rất thích ngắm nhìn cầu vồng và thường buồn tiếc khi nó biến mất. Nhưng hôm đó không hiểu tại sao tôi không cảm thấy hứng thú cho lắm. Ý nghĩ đầu tiên vụt đến trong đầu: người bạn của tôi không bao giờ có thể nhìn thấy vẻ đẹp lung linh ấy. Và lúc đó tôi tự hứa với lòng mình: “Một khi còn sống trên đời, tôi còn nỗ lực giúp đỡ người mù!”. Một học sinh có thể làm gì để giúp người khiếm thị? Tôi bắt đầu thu thập tư liệu, làm quen với các huấn luyện viên dạy chó dẫn đường, liên hệ thư từ với những người khiếm thị và cuối cùng, tôi viết nên cuốn sách về một cậu bé mù và người bạn bốn chân của cậu – con chó dẫn đường Trison thuộc giống Labrador. Tất nhiên, tôi đặt tên cho cuốn sách là “Cầu vồng tặng bạn” (Bản dịch tiếng Việt có tựa đề “Chó dẫn đường phiêu lưu ký”). Sau khi xuất bản ở Nga, cuốn sách lập tức được dịch ra tiếng Đức và được Hội các nhà văn sáng tác bằng tiếng Nga của Cộng hòa Séc cho đăng tải trên tạp chí Prague chuyện cảm động không đến từ con người Parnas, sau đó còn được dịch sang tiếng Bulgaria, tiếng Anh và tiếng Thụy Điển. Một số nhà hảo tâm đã tài trợ cho kế hoạch xuất bản cuốn “Cầu vồng tặng bạn” ở Nga bằng chữ nổi Braille trên giấy. Hiện cũng đang có dự án xuất bản cuốn sách này bằng phiên bản điện tử để người khiếm thị có thể đọc qua màn hình chữ nổi. Đây là một dự án rất tốn kém. Tuy nhiên, Quỹ “Những trái tim đang sống” do tôi đề xướng hiện đang phát triển rất mạnh, đã quyên được một số tiền khá lớn, đủ để thực hiện một số dự án có mục đích giúp đỡ người khiếm thị ở Nga. Nhưng có một điều đáng tiếc, không phải tất cả những người khiếm thị đều có chương trình phần mềm đặc biệt để đọc sách điện tử, không phải ai cũng có khả năng tài chính để có thể sở hữu màn hình chữ nổi Braille. Vì thế, rất nhiều người khiếm thị yêu cầu xuất bản sách nói. Đối với họ, đó là phương thức duy nhất để tiếp cận với nền văn học cổ điển và đương đại. Xin hãy tin rằng người khiếm thị cũng là những con người giống hệt chúng ta. Trong số họ có không ít tài năng sáng tạo – những nhà thơ, nhạc sĩ, ca sĩ, nhà sáng chế và thậm chí có cả những họa sĩ, vận động viên thể thao. Giống như chúng ta, họ cũng biết yêu thương, vui mừng, buồn chán, đồng cảm – tóm lại, mắt họ đã chết nhưng tim họ vẫn sống. Xin hãy chia sẻ với họ một phần trái tim của mình và đặt lên đó một chiếc cầu vồng dành tặng những người khiếm thị! Nhân dịp những cuốn sách của tôi được xuất bản bằng tiếng Việt, với tất cả trái tim mình, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn Công ty First News và dịch giả Phạm Bá Thủy về những nỗ lực to lớn nhằm giới thiệu những tác phẩm của tôi đến bạn đọc. Hi vọng, đây là bước khởi đầu thuận lợi cho mối quan hệ hợp tác lâu dài. Tôi rất mừng vui khi sách của tôi đã tìm được bạn đọc ở đất nước Việt Nam hiếu hiền, tươi đẹp. Tôi cũng hi vọng sẽ có một ngày, bản dịch tiếng Việt những cuốn sách nói về con chó dẫn đường của tôi sẽ đến được với người khiếm thị Việt Nam qua phiên bản sách nói hoặc sách điện tử. Hẹn gặp lại cùng hai cuốn sách tiếp theo của tôi về chú chó Trison dũng cảm mà tôi vừa mới hoàn thành. Với tất cả lòng kính trọng chân thành và niềm hi vọng vô biên. - Mikhail Samarsky Chó Dẫn Đường Phiêu Lưu Ký gồm có hai tập: Chuyện Cảm Động Không Đến Từ Con Người Người Bạn Tri Kỷ Vượt Qua Rào Cản Ngôn Ngữ Mời các bạn đón đọc Chó Dẫn Đường Phiêu Lưu Ký Tập 1: Chuyện Cảm Động Không Đến Từ Con Người của tác giả Mikhail Samarsky.
Trong Thẳm Sâu Tâm Hồn - Jacquelyn Mitchard
Là cuốn đầu tiên được nữ hoàng truyền hình Oprah Winfrey chọn để khởi đầu cho Câu lạc bộ sách Oprah. Cuốn sách đã được dịch ra hơn 14 thứ tiếng. Trong thẳm sâu tâm hồn với tựa gốc The deep end of the ocean là một trong những cuốn tiểu thuyết nổi bật nhất của Jacquelyn Mitchard, đưa bà từ một nhà báo trở thành một trong những tiểu thuyết gia hàng đầu thế giới. Cuốn sách kể về một gia đình nhỏ ở bang Illinois. Beth, một người vợ, một người mẹ trẻ dường như luôn cảm thấy quá sức khi phải cùng lúc làm cả hai việc: chăm sóc ba đứa con và theo đuổi đam mê nhiếp ảnh. Trong một dịp gia đình đi du lịch, Beth vô tình để lạc mất Ben - đứa con trai thứ của cô và cũng là đứa mà cô yêu thương nhất trong ba đứa con mình. Từ đó, cô bắt đầu bước vào cuộc sống đầy bi kịch với nỗi tuyệt vọng trong cuộc tìm kiếm Ben kéo dài ròng rã những năm tiếp theo sau đó. Cuốn tiểu thuyết với một cốt truyện xuất sắc và giọng kể tài tình đã chiếm được tình yêu của bao trái tim độc giả. Trên tất cả, đây đích thực là một câu chuyện về tình yêu: tình yêu lớn lao mà Beth dành cho các con đã giúp cô nhận ra cô không chỉ có mình Ben mà còn có Vicent và đứa con gái nhỏ; tình yêu chồng vợ đã khiến chồng cô chấp nhận lặng lẽ ở bên cô suốt 9 năm, cùng cô chờ đợi không mệt mỏi, không một lời oán than; tình yêu anh em đã khiến Vicent dũng cảm đối mặt với quá khứ để giúp em trai mình lấy lại ký ức bị mất… Trong thẳm sâu tâm hồn đã gửi đến hàng triệu độc giả thông điệp lớn nhất của cuốn sách: tình yêu thương dù bị giấu kín tận nơi sâu thẳm nào đó của tâm hồn, vẫn sẽ có ngày được nhìn thấy, và chính nó sẽ cứu vãn mọi thứ, hàn gắn mọi thứ đổ vỡ và đau khổ. Tạp chí People từng viết nhận xét về cuốn sách: “Một câu chuyện xúc động với cảm giác hồi hộp của một cuốn tiểu thuyết ly kỳ, chạm đến nơi lắng sâu nhất của tình gia đình thiêng liêng gắn bó.” *** Jacquelyn Mitchard là một nhà báo, đồng thời là tác giả best seller của New York Times. Bà được biết đến với những tác phẩm như The most wanted (được đề cử giải Britain's Orange Prize for Fiction), tác phẩm Cage of stars  (được đề cử giải Britain's Spread The Word Prize)... *** Tháng Mười Một, 1995 Tất cả là mười năm, mười năm tròn, từ buổi sáng tháng Tám nóng như thiêu đó khi Beth bỏ cái phong bì đầy những hình vào ngăn kéo cho đến buổi chiều thu lành lạnh khi cô lấy nó ra đặt từng tấm một trên bàn làm việc của mình. Thật vậy, mười năm và biết bao thay đổi. Mùa hè vừa qua đã đánh dấu một năm tròn kể từ khi Beth biết những gì đã xảy ra cho Ben, con trai cô. Và nếu cô tính cả chập chùng những hình ảnh của tất cả các diễn biến sau đó thì thật ra phải là gần mười một năm. Chỉ mới cách đây vài tuần thôi, vào tháng Mười, một câu truyện với cái tít “Phần kết cho Ben” đã xuất hiện trên trang nhất tờ USA Today – một nỗ lực trễ tràng cả “một năm sau” dựa trên vài lời trích đã xưa lắc xưa lơ từ vài người ít ỏi vẫn muốn trả lời cho báo giới. Nhưng đó không phải là câu chuyện gợi cho Beth nhớ đến mấy bức hình. Chỉ đơn giản là một sáng nọ cô thức giấc và biết. Cô muốn nhìn thấy chúng. Ngày hôm đó trời mưa suốt, một ngày tháng Mười Một u ám lạnh lẽo. Đã nhiều năm nay mưa vẫn làm Beth sợ, khiến cô phải tập trung vào một loạt những công việc quen thuộc hằng ngày. Nhưng hôm đó thậm chí mưa cũng không ngăn cản cô được. Có thể nói là cô đang vội, như thể việc nhìn vào mấy tấm hình đó sẽ đặt một dấu chấm hết vào cuối một câu đã được viết thật dài trên trang giấy. Beth đặt mấy tấm hình xuống, chỉ có mười sáu tấm – một cuộn phim ngắn, vì Pat đã dùng cái máy chụp ảnh Instamatic nhỏ nhắn rẻ tiền đó, cái máy ảnh luôn làm Beth xấu hổ. Cô úp chúng xuống, giống như một phụ nữ già ngồi chơi xếp bài một mình nơi cửa sổ. Rồi cô nhắm mắt lại và sờ vào từng tấm một. Nó không rung lên. Không có chút điện áp nào. Cô chỉ cảm nhận được đó là giấy Kodak, thật láng với một lớp bụi mỏng. Chẳng có gì huyền bí. Beth thở phào nhẹ nhõm. Tất cả những năm tháng đó. Dấu niêm phong vẫn còn nguyên, giống như những mép giấy vẫn dính vào nhau, với dấu mực đã hoen mờ hiển thị ngày tháng trên đó, một lời tiên tri thật đáng kinh ngạc. Ngày mùng ba tháng Sáu, và cái năm. Mùng ba tháng Sáu, một ngày thứ Bảy, vì Pat đã bỏ cuộn phim ở tiệm rửa ảnh vào đúng ngày cô đi dự buổi họp lớp. Khi anh nhớ ra để đi lấy ảnh thì đã là cuối mùa hè đầu tiên, Pat vừa đi vào nhà vừa khóc nức nở và đưa chúng cho Beth, như thể anh mong cô sẽ ôm lấy anh, an ủi anh bằng một cách nào đó để có thể chịu đựng được cái chứng tích ấy. Thay vì thế, cô chỉ ép cái phong bì đựng ảnh thật chặt giữa hai bàn tay rồi đem chúng đến bàn làm việc của mình. Beth chưa hề biết chính xác tại sao, nhưng cứ như thể việc cô luôn biết vị trí của những bức ảnh đó là điều quan trọng lắm, dù đôi khi nó cũng làm cô rất khó chịu. Ví dụ có những lần Beth thoáng thấy chiếc phong bì khi cô mở ngăn kéo ra để lấy mấy cái kẹp giấy hay mấy tờ nhãn có địa chỉ của cô. Beth làm việc đó thật nhanh, như ngày xưa cô luôn phải hít một hơi thật sâu trước khi chạy qua bức tranh của Goya vẽ Kronos đang trệu trạo nhai một đứa bé mà không hiểu vì sao bà ngoại Kerry của cô cứ treo mãi trên tường cầu thang. Lần nào cô cũng có chính xác cái cảm giác ngộp thở đó khi cô đóng ngăn kéo lại để không nghĩ đến cái hình ảnh gớm guốc kia nữa. Nhưng đôi khi cô vẫn nhìn cái phong bì, và vài lần cô còn thật sự lấy mấy ngón tay phủi bụi cho nó nữa. Và khi họ đã chuẩn bị hành lý xong xuôi để đi Chicago thì Beth còn cố ý bước đến ngăn kéo như thể cô sẽ lấy những bức ảnh đó ra ngắm. Nhưng cô đã không làm thế. Lúc đó cô thấy còn quá sớm. Quá sớm để ngắm, quá sớm để vứt chúng đi. Và còn những vật dụng khác của Ben nữa, những thứ mà Beth đã dần dà thu thập đủ can đảm để vứt đi hay gói lại đem cất. Vào những ngày mưa, những ngày ngột ngạt, cô thậm chí đã đập vỡ tan tành vài món trong những vật dụng đó – một hộp nhạc, một khung đựng hình bằng gốm được trang trí với những khối gỗ xinh xinh dành cho trẻ nhỏ. Cô chưa từng nghĩ mình sẽ làm thế với những tấm ảnh. Xét cho cùng thì Beth là một nhiếp ảnh gia; đối với cô những bức ảnh là những lá bùa. Nhưng cô cũng có cảm giác rằng đến một lúc nào đó cô sẽ yêu quý những bức ảnh, đặc biệt là bức cuối cùng trong cuộn phim, với cái hàng hiên nhà cô. Bước chân đơn giản của thời gian, hay tôn giáo, hay sự nhẫn nhục, sẽ biến nó thành niềm vui ngọt ngào lẫn đắng cay của cô, một bức ảnh của Ben lần cuối cùng cô thấy thằng bé – à, cũng không phải lần cuối cô thấy nó, mà là lần cuối cô thấy nó đúng với bản chất của nó, thằng con trai đơn giản, đang hớn hở tươi cười, đứa con không bao giờ xuất hiện trong những giấc mơ của cô, dù cô thường vừa khóc vừa cầu xin để được thấy nó, với ý nghĩ rằng ít nhất thì cô cũng không phải sợ nó trong giấc ngủ của mình. Và vì thế, một ngày nào đó, có lẽ khi cô gần đất xa trời và biết chắc rằng mình sẽ nhanh chóng bị lãng quên, sẽ không phải kéo lê cuộc đời thêm nữa, cô mới muốn ngắm những bức ảnh đó thường xuyên, có lẽ là hằng ngày. Vì thế cô đã muốn giữ chúng luôn bên mình. Nếu không cô sẽ mất chúng. Chỉ vài tuần sau buổi họp lớp, cô nhận ra ngay rằng mình bắt đầu đánh mất mọi thứ rất dễ dàng, chìa khóa, ngân phiếu, tiền nong cứ tuột khỏi tay cô như thể chúng có cuộc sống sinh học riêng vậy. Trong bếp, khi mở túi đựng thực phẩm ra hay khi xếp quần áo để đem bỏ giặt, Beth thường đứng đờ ra mà không thể nào nhớ được túi nào là bột ngũ cốc hay cái nào là khăn trải giường. Cô dần phải chấp nhận đó là một dị tật suốt đời sau một tai nạn. Chỉ khi nhìn lại tiến trình của nó thì Beth mới có thể thấy sự khiếm khuyết của mình là một chọn lựa chủ tâm, không phải một màn sương tạm thời sẽ mau tan biến khi cô hồi phục trở lại và nhìn mọi việc rõ ràng hơn. Sự khiếm khuyết đó là do cô tự tạo ra, từng bước từng bước một. Cô buộc mình phải nhớ lại những lề thói học đường đã phôi pha, và chỉ cần một kỷ niệm về Ben, hay về ngày hôm đó, cũng có thể phá tung được những vỏ bọc bên ngoài. Beth biết mình không thể chịu đựng được những suy nghĩ đó; và không thể hồi phục như xưa mà không nhớ về chúng. Vì thế giờ đây khi nhìn lại, dường như cô đã chọn lựa để không hồi phục. Thay vào đó, cô cố sống trong tình trạng hiện tại quanh cái miệng núi lửa mỏng manh, di chuyển thật nhẹ nhàng và tránh những điều đối với cô chẳng khác gì một trận tuyết lở. Beth đã cố giải thích với chồng cái trận tuyết lở đó và nhu cầu phải xua tan nó đi nhưng anh vẫn không hiểu được. Cô đã gắng hết sức và càng cố thì càng giống như một kẻ ngốc khi nói cho anh biết về những người mắc bệnh đó – hội chứng Korsakov – căn bệnh chia nhỏ trí nhớ ra thành nhiều khoảng thời gian. Những bệnh nhân như thế, phần lớn là những người nghiện rượu, có thể đi gặp bác sĩ hay một nhân viên công tác xã hội và, trong nhiều phút, nói chuyện rất thông minh về thời tiết, về sức khỏe của họ, những câu chuyện trên trang nhất của một tờ báo đang trải ra trên bàn làm việc. Nhưng nếu vị bác sĩ hay người nhân viên nọ rời khỏi phòng, thậm chí chỉ một phút thôi, thì những nạn nhân của hội chứng Korsakov sẽ không nhớ họ đã từng gặp một người nào như thế cả. Và quá trình tự giới thiệu sẽ phải lặp đi lặp lại nhiều lần. ... Mời các bạn đón đọc Trong Thẳm Sâu Tâm Hồn của tác giả Jacquelyn Mitchard.
Ngày Cuối Tuần Định Mệnh - Henry Denker
Một tiếng gọi khẩn thiết vang lên làm rung cả mấy bức tường của khoa Cấp cứu: - Cho xin bác sỹ Forrester! Có người bị trúng đạn! Khẩn cấp đấy! Ngay lúc ấy, hai hộ lý nhao vào phòng cấp cứu ở đầu hành lang. Trong một buồng dành làm chỗ khám, bác sỹ Kate đang khám cho một bệnh nhân. Cô ngẩng đầu và quay về phía một nữ y tá: - Tôi xong rồi đây. Cô đưa mẫu máu này đến khoa Xét nghiệm và báo cho tôi ngay khi có kết quả. Kate Forrester lao ra khỏi buồng và chạy dọc hành lang. Mái tóc vàng xổ ra bao quanh khuôn mặt không trang điểm và chiếc blu nhàu nát chứng tỏ cô đã nhiều giờ liền làm việc không ngơi tay ở phòng cấp cứu. Trong bệnh viện lớn này của New York, những đêm thứ bảy và chủ nhật luôn luôn là những đêm bận rộn vất vả, nhất là đêm nay lại càng bận, vì bác sỹ trực cùng với Kate bị một cơn cảm cúm quật ngã đã phải nằm liệt giường. Người được phân công đến giúp Kate thì giờ này vẫn chưa có mặt. Giống như nhiều bạn đồng nghiệp trẻ trong những trường hợp tương tự, Kate đành tự mình xoay xoả, cố gắng làm hết sức mình trong những điều kiện làm việc có nhiều khó khăn không ai có thể tin nổi. Khi Kate chạy ngang qua buồng C, một nữ y tá gọi giật giọng: - Bác sỹ Kate, khi nào chị rảnh tay một chút … Nhưng Kate không dừng lại mà chạy thẳng tới buồng cấp cứu, nơi có một cậu con trai mười bốn tuổi đang mất máu. Chẳng may cho cậu bé, lại tình cờ đứng giữa làn đạn của hai tay anh chị đang xung đột với nhau ở một phố không xa bệnh viện. Biết rằng bác sỹ Forrester cùng một lúc chỗ nào cũng có người gọi, nữ y tá Adélaide Cronin quay về buồng C để hỏi sơ qua một bệnh nhân nữ mới đến một số câu. Là một y tá giỏi đã có hơn mười sáu năm trong nghề, Cronin muốn nói chuyện riêng với bệnh nhân - một cô gái mười chín tuổi có bộ tóc nâu. Nhưng không hiểu sao, mẹ cô cứ nhăm nhăm ở bên cạnh, không chịu rời con nửa bước lấy cớ để trông nom cô. Sau khi đã cân nhắc, bà Cronin hỏi cô gái: - Xin cô cho biết cô bị đau ra sao? Lập tức bà mẹ cắt ngang: - Tôi muốn chị mời một bác sỹ đến đây ngay. Con tôi cần phải được hưởng những chăm sóc tốt nhất. - Tôi đã báo bác sỹ Forrester. - Không, tôi yêu cầu con tôi phải được bác sỹ trưởng trực tiếp khám. Tốn kém bao nhiêu, chúng tôi cũng có thể trả! Chị hiểu chứ? - Tôi e rằng vào giờ này, nhất lại là tối thứ bảy, ông ta sẽ không đến - bà Cronin phản bác lại - Và bây giờ - Bà quay ra nói với cô gái - cô hãy nói điều gì đã khiến cô phải tới đây? - Con tôi đau do những cơn nôn oẹ - Bà mẹ vội giải thích. Thông cảm những sợ hãi do quá lo cho con của bà mẹ, bà Cronin ngoảnh về phía bà ta với vẻ mặt ân cần, khoan dung. - Thưa bà … - Stuyvesant - Bà mẹ cô gái tiếp lời - Bà Claude Stuyvesant. Cái tên đủ nổi tiếng để bà Cronin nhận ra ngay lập tức. Tuy nhiên, hiểu rằng mình sẽ phải làm gì, bà vẫn không thay đổi thái độ. - Bà Stuyvesant, những lời khai này sẽ được đưa vào hồ sơ bệnh án của con bà. Cho nên chừng nào cô ấy còn nói được thì tốt hơn hết là bà cứ để cô ấy tự nói, bằng chính những lời của mình. Bởi như thế sẽ càng chính xác hơn thôi. Bác sỹ sẽ cần đến nó để tiến hành chẩn đoán, vì vậy tôi xin bà … - Mong bà thứ lỗi. Bà mẹ rời khỏi bàn khám, nơi con bà đang được đặt nằm. Tóc cô gái trẻ xoã ra bết vào trán đang rịn mồ hôi, hơi thở cô nhè nhẹ, từng hồi đứt khúc, người cô căng ra. Trong khi lẳng lặng ghi nhận những triệu chứng suy sụp cả thể chất lẫn tinh thần ấy, bà Cronin nắm tay cô bắt mạch và đo huyết áp. ... Mời các bạn đón đọc Ngày Cuối Tuần Định Mệnh của tác giả Henry Denker.
Pháo Đài Trắng
Pháo đài Trắng, cuốn tiểu thuyết mang lại tên tuổi cho Orhan Pamuk, là câu chuyện về một học giả trẻ tuổi người Ý. Bị cướp biển bắt ở giữa Venice và Naples, anh bị đem ra bán đấu giá ở chợ nô lệ Istanbul. Một nhà bác học Thổ Nhĩ Kỳ muốn học hỏi các tiến bộ khoa học và tri thức phương Tây đã mua anh về. Nhưng rồi họ khi họ bị ràng buộc bởi những tội lỗi và bí mật của nhau, khi mối quan hệ của họ trở nên ngày càng phức tạp, cả chủ nhân và nô lệ bỗng phát hiện ra rằng họ đều là thành viên của quân đội Hoàng gia, và rằng cả hai đều đang trong cuộc hành trình rồi cuối cùng sẽ dẫn họ tới Pháo đài Trắng.  *** Nhận định   “Một ngôi sao mới đang lên ở phương Đông—Orhan Pamuk. Pháo đài Trắng là một trong số rất ít những tiểu thuyết tạo ra được một thế giới hoàn chỉnh và độc lập bằng tài năng khác thường… Ông là một người kể chuyện tài hoa như Sê-hê-ra-zát vậy.” - New York Times “Lịch lãm và có sức nặng… Sẽ không ngoa chút nào nếu so sánh Pamuk với Kafka và Calvino; cũng nghiêm túc như thế, cũng duyên dáng, cũng tinh tế như vậy. Ta có mọi bằng chứng về điều đó” - Independent “Tiểu thuyết gia tiên phong của Thổ Nhĩ Kỳ và ở bất cứ đâu cũng là một trong những nhân vật thú vị nhất trong làng văn… Một người kể chuyện hàng đầu.” Times Literary Supplement “Pháo đài Trắng tuyệt vời không phải bởi nó đã tái hiện một thời đại, mà vì nó đã khám phá bí mật cá nhân con người và trên hết vì Pamuk đã gói gọn những suy tư đó trong một câu chuyện đơn giản đến nhường ấy.” - Guardian ‘Một cuốn sách kỳ lạ và tài tình về sự đau đớn trong quá trình tự khám phá bản thân. Và trong suốt thiên tiểu thuyết, người ta có thể chứng kiến sự pha trộn siêu việt của những gì Pamuk thực sự thấy bằng con mắt của một kẻ quá hướng về Tây phương trong khi bề ngoài lại quá thiên về Trung Đông. Trong khoảnh khắc, Đông- Tây đã gặp gỡ.” New York Times ‘Cuốn tiểu thuyết xuất sắc của Orhan Pamuk về những ảnh hưởng ngoại lai… đã đem đến cho chúng ta một cái nhìn điềm tĩnh và thành kiến một cách tao nhã vào kết quả của phát tán văn hóa. Tác phẩm phảng phất âm hưởng của Calvino, nhưng cách viết và thế giới quan của tác giả lại gần hơn với Kazuo Ishiguro.” - Independent *** Mùa Hè năm 1982, tôi tìm được tập bản thảo viết tay ấy dưới đáy một chiếc rương bụi bặm ở Gebze (một thành phố gần Istanbul, thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ), khi lục lọi hàng tuần theo thói quen trong đám "hồ sơ" lộn xộn của chính quyền thành phố, ngập đầy những sắc lệnh, chiếu chỉ, văn tự, biên bản tòa án và các báo cáo công vụ. Với tấm bìa trang nhã bằng thứ giấy vân cẩm thạch có những hoa văn mơ hồ, gợi nhớ về giấc mộng nào đó, được viết bằng nét chữ rõ ràng, dễ đọc, tập bản thảo ấy nổi bật hẳn lên giữa đám công văn giấy tờ bạc phếch và lập tức khiến tôi chú ý. Bàn tay ai đó, chắc là có chủ ý, muốn khêu gợi tính tò mò của tôi, đã viết trên trang thứ nhất cái tựa đề: "Con nuôi người thợ làm chăn". Tôi hài lòng đọc nhanh hết tập sách mà bên lề các trang giấy có những hình người đầu bé xíu vẽ bởi bàn tay con trẻ, mặc những bộ y phục đính chi chít cúc. Tập bản thảo khiến tôi rất thích thú, nhưng vì lười chép lại, nên lợi dụng sự tin cậy của người nhân viên, vốn rất trọng nể tôi và chẳng hề theo dõi, tôi giấu nó vào trong cặp, đơn giản là tôi đã đánh cắp quyển sách ấy trong đám giấy tờ mà ngay cả vị kaimakam (người đứng đầu một tỉnh hoặc một khu vực (tiếng Thổ) trẻ tuổi cũng không dám gọi là "hồ sơ lưu trữ". Thời gian đầu, tôi đọc đi đọc lại quyển sách nhiều lần mà không biết phải làm gì với nó. Sự hoài nghi của tôi đối với lịch sử vẫn còn chưa hết, nhưng tôi chú ý đến bản thảo không chỉ từ phương diện khoa học, văn hóa hoặc lịch sử, mà còn bởi rất thích lối hành văn của nó. Rồi điều đó khiến tôi phải nghĩ về tác giả của bản thảo. Khi tôi và các đồng sự buộc phải rời trường Đại học Tổng hợp, tôi quay về nghề cũ của ông tôi, vốn là một người từng xuất bản các bách khoa thư, và chính khi đó tôi đã nghĩ tới chuyện đưa một bài về tác giả tập bản thảo mà tôi tìm được vào cuốn bách khoa thư Những người nổi tiếng mà tôi phụ trách phần lịch sử. Tôi bắt đầu dành cho việc đó tất cả những giây phút rảnh rỗi, ngoại trừ thời gian làm bách khoa thư và nhậu nhẹt. Tôi tra cứu các nguồn tư liệu về giai đoạn ấy và thấy một số sự kiện được phản ánh trong sách không tương ứng với thực tế lịch sử. Chẳng hạn, trong thời gian năm năm Koprulu (Pasha Koprulu Mehmet (1575-1661): đại tể tướng dưới triều Mehmet IV) giữ chức tể tướng, đúng là ở Istanbul đã xảy ra một trận đại hỏa hoạn, điều đó cũng được phản ánh trong các tư liệu thành văn, nhưng trận dịch hạch được bản thảo đề cập đến, mà lại lây lan rộng đến mức tưởng chừng như đáng được ghi vào lịch sử, thì trong các văn bản ấy lại chẳng có lời nào nhắc đến. Tên tuổi nhiều vị đại thần được nêu không đúng, hoặc nhầm lẫn, một số vị bị thay tên đổi họ. Họ tên của các vị đại sư chiêm tinh không tương ứng vởi tên họ ghi trong Biên niên sử vủa triều đình, nhưng tôi không chú tâm lắm vào những chi tiết này, vì cho rằng đây là chủ ý của tác giả. Mặt khác, phần lớn các sự kiện lịch sử nêu trong bản thảo đều được khẳng định, có một số sự kiện còn trùng hợp khá chi tiết, chẳng hạn như vụ ám sát đại sư chiêm tinh Huseyn Etendi, diễn ra trong chuyến đi săn thỏ của hoàng đế Mehmet IV (Mehmet IV (1642-1693): vị sultan thứ 19 của đế quốc Ottoman (1299- 1923), tức Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, trị vì trong quãng thời gian 1648-1687), tại khu rừng gần cung điện Mirahor, điều đó cũng được sử gia Naimai ((1655-1716): nhà sử học Ottoman) nhắc đến. Tôi cho rằng tác giả bản thảo hẳn là một người mơ mộng và ham đọc sách, khi làm việc đã sử dụng các tư liệu tương ứng, đã đọc vô số sách vở và sau đó đưa một số chi tiết vào các ghi chép của mình. Những trước tác của Evlyia Chelebi mà tác giả có nhắc đến, rõ ràng là chỉ được ông ta đọc lướt, nhưng qua bản thảo thì chẳng rõ hai người có quen biết nhau hay không. Tôi vẫn không mất hy vọng tìm ra dấu vết của tác giả, nhưng các truy cứu trong những thư viện Istanbul đã khiến cho niềm hy vọng đó tan thành mây khói. Tôi không kiếm được một tài liệu hay quyển sách nào đã hiến tặng hoàng đế Mehmet IV trong khoảng thời gian từ năm 1652 đến năm 1680, cả ở thư viện trong cung điện Topkapi (cung điện hoàng gia ở Istanbul - thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ, nay là Viện Bảo tàng) cũng như các thư viện khác mà tôi đồ rằng chúng có thể đã được chuyển đến. Tài liệu duy nhất mà tôi đã gặp được trong các thư viện ấy là công trình của "nhà thư pháp thuận tay trái", được nhắc đến trong bản thảo. Tôi cố gắng theo dõi số phận của những công trình ấy, gửi vô số thư từ đến các trường đại học tổng hợp Ittaly, nhưng chỉ nhận được những hồi âm bực mình, còn những mưu toan tìm kiếm trong các nghĩa địa Gebze, Jennethisar và Uskudar con người đã viết nên cuốn sách mà không lưu lại tên họ mình đều chẳng mang lại kết quả mong muốn. Tôi chấm dứt các cuộc tìm kiếm và ngồi viết một bài cho bách khoa thư, dựa trên nội dung của bản thảo. Đunrg như tôi đoán trước, bài viết không được chấp nhận, không phải vì nó thiếu cơ sở khoa học, mà bởi người tôi đề cập đến là một nhân vật khuyết danh. Có thể chính vì thế mà mối quan tâm của tôi đối với quyển sách lại càng lớn hơn. Thậm chí tôi còn muốn thôi việc, mặc dù tôi rất yêu công việc và các đồng nghiệp của mình. Có thời, gặp ai tôi cũng nói về quyển sách, như thể không phải tôi phát hiện được, mà chính tôi đã viết ra nó. Để khêu gợi chú ý, tôi nói về ý nghĩa biểu trưng của quyển sách đó, nói rằng nó giống với hiện thực ngày nay, rằng càng đọc quyển sách ấy tôi càng hiểu thêm thời đại bây giờ. Sau những lời như vậy, đám thanh niên, chủ yếu là những người quan tâm đến chính trị, các mối quan hệ Đông-Tây và nền dân chủ đã chú ý đến quyển sách đó, nhưng chẳng bao lâu sau những người trẻ tuổi ấy, cũng như bạn bè tôi, đã quên lãng nó. Một ông giáo sư, bạn của tôi, đã đọc xong cuốn sách vì tôi chèo kéo, khi mang trả có nói rằng những câu chuyện như thế đầy rẫy trong các bản thảo chồng chất tại những ngôi nhà gỗ cũ kĩ trên các ngõ phố Istanbul. Cư dân của những ngôi nhà đó, nếu coi sách là Thánh thư Koran, thì sẽ cất nó lên nóc tủ, còn không, họ sẽ xé rời từng tờ ra để nhóm bếp lò. Và thế là, đọc đi đọc lại bản thảo hết lần này đến lần khác, được khích lệ bởi một cô gái đeo kính, điếu thuốc không lúc nào rời môi, tôi quyết định đem nó đi xuất bản. Độc giả sẽ thấy rằng khi dịch ra tiếng Thổ hiện đại, tôi đã không hề chú trọng đến phong cách, tôi cứ đọc vài câu trong nguyên bản để trên bàn, sau đó tôi đi sang một phòng khác, đến bên chiếc bàn khác, nơi tờ giấy trắng đang đợi, tôi ngồi xuống ghế và cố gắng diễn đạt nội dung vừa đọc bằng ngôn ngữ thời nay. Nhan đề quyển sách không do tôi đặt ra, mà là của nhà xuất bản đã đồng ý in nó, Chắc có người sẽ hỏi tôi, có ý nghĩa gì đặc biệt trong những lời đề từ in ở trang nhất hay không. Tôi cho rằng, thói quen tìm kiếm một mối liên hệ nào đó trong tất cả mọi thứ là căn bệnh của thời đại chúng ta. Và chính bởi cũng ngả theo căn bệnh chung ấy, tôi đã cho xuất bản câu chuyện này.   FARUK DARVINOGL Mời các bạn đón đọc Pháo Đài Trắng của tác giả Orhan Pamuk.