Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Bí Ẩn Khoác Áo Hồng Y

"Người bí ẩn khoác áo Hồng y là tác phẩm được nhà văn Alexandre Dumas viết vào giai đoạn cuối cùng của văn nghiệp. Tác phẩm kể về chuyện xảy ra ở triều đại Louis XIII, vào thời điểm nối tiếp sau câu chuyện về những nhân vật có lẽ chẳng còn xa lạ với độc giả: hiệp sĩ d'Artagnan cùng ba người bạn thân của chàng, Athos,vPorthos và Aramis. Lẽ cố nhiên, bạn đọc sẽ không tìm thấy những chàng hiệp sĩ ấy ở truyện này nữa, tuy vẫn còn đó hai con người quan trọng: Hồng y De Richelieu và Quốc vương Louis XIII. Khung cảnh của chuyện cũng hoàn toàn đổi khác, thay cho bầu không khí sôi nổi của những người cầm kiếm là chuỗi màn đấu trí gay cấn giữa những người mưu sâu kế hiểm. Trong truyện này, bạn đọc sẽ gặp gỡ Bá tước Moret, chàng hoàng tử hào hoa, lãng mạn, một nhân vật mà thời lượng nhà văn dành cho chàng là bằng ngang với Hồng y De Richelieu. Tác phẩm này, vì vậy, ở những lần xuất bản khác nhau tại Pháp cũng được biết đến với tựa đề Bá tước Moret. Là tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, đa phần nhân vật trong truyện đều là những tên tuổi có thật thời bấy giờ, được hư cấu tài tình vào cốt truyện đậm tính hấp dẫn, sống động và khôi hài đặc trưng của nhà văn Dumas. “‘NGƯỜI BÍ ẨN KHOÁC ÁO HỒNG Y’ quả là một tuyệt tác! Vô số âm mưu hiểm độc và những màn lật ngược tình thế, những cuộc đấu tay đôi, niềm đam mê, lãng mạn, yêu thương và thù hận, đầy chất thơ và cũng không kém phần gay cấn. Chưa bao giờ người đọc lại cảm thấy dễ bị cuốn hút đến như vậy.” - Trang đánh giá Historical Novels Review “‘NGƯỜI BÍ ẨN KHOÁC ÁO HỒNG Y’ như được phủ lên mình một sức sống mới và tỏa sáng lộng lẫy trong phiên bản này. Những màn tranh đấu kịch tính đi kèm với sự hóm hỉnh nhưng cũng đầy châm biếm sâu cay. Phiên bản mới sẽ khiến người đọc phải thay đổi cách nhìn về nó: Một tuyệt tác cũ nay đã được nâng lên một tầm cao hoàn toàn mới.” - Tổ chức tin tức Quốc tế Christian Science Monitor" *** Lời giới thiệu Độc giả yêu văn học chẳng mấy ai chưa từng biết đến đại văn hào người Pháp Alexandre Dumas cùng những tác phẩm để đời của ông, Bá tước Monte Cristo và Ba chàng lính ngự lâm. Hẳn bạn đã đọc Ba chàng lính ngự lâm hay chí ít cũng đã xem qua một trong nhiều phiên bản của truyện này phỏng dựng thành phim điện ảnh hoặc phim truyền hình, và rất đỗi quen thuộc với chàng d’Artagnan dũng cảm cùng những vị bằng hữu: Athos, Porthos, và Aramis. Có lẽ bạn biết rằng bộ truyện ấy đã đưa đến sự ra đời của biết bao chuyện kể tiếp nối theo sau, mà đỉnh cao là tác phẩm lừng danh nhất từ trước đến nay, truyện Người đàn ông mang mặt nạ sắt, một tác phẩm đã được chuyển thể thành phim khá nhiều lần. Vậy thì, lý do gì mãi tận ngày nay bạn vẫn chưa hề nghe đến cái tên ‘Người bí ẩn khoác áo Hồng y’, nhất là vào khi nó được cho là “câu chuyện nối dài của Ba chàng lính ngự lâm” như những gì đã quảng cáo? Để tôi kể bạn nghe một chuyện. Nhân vật chính trong chuyện của chúng ta là một người đàn ông có sức sống mãnh liệt và tài năng xuất chúng, một nhân vật mà tầm vóc và sự nghiệp của ông đã vang danh trên thế giới. Ông sống hào hoa và yêu không giới hạn, dồn dập mang về của cải rồi ném cả vào nhà hát và nhà xuất bản, phí hoài cho lâu đài và cho cả mỹ nữ nhân tình, hân hoan trong cuộc đời đầy biến đổi, đắm chìm vào thú ẩm thực xa hoa, và say sưa làm chính trị. Tên của ông, tất nhiên rồi, là Alexandre Dumas. Bắt đầu sự nghiệp cầm bút vào cuối những năm 1820, chàng trai trẻ Dumas khi ấy vừa là thi sĩ vừa là kịch tác gia; vở kịch Melo đầu tay của ông sáng tác vào năm 1829 đã gây hiệu ứng đủ mạnh giúp ông dấn bước hẳn vào con đường văn nghiệp, để rồi suốt những năm 1830 ông sáng tác hết vở kịch này sang vở kịch khác, vở sau bao giờ cũng gây bất ngờ và tỏa sức hấp dẫn át hẳn vở trước. Ban đầu, kịch của ông lấy bối cảnh đương đại, nhưng sau đó ông chuyển sang dùng các nguồn sử liệu để sáng tác, và đến cuối thập niên 30 ông lại đổi hướng thành văn xuôi. Thời bấy giờ, những tập san phát hành tiểu thuyết dài kỳ đã bước vào giai đoạn thịnh hành, và hình thức viết theo kết cấu chương hồi là mảnh đất màu mỡ để kẻ vốn điêu luyện với văn phong biên kịch như Dumas thỏa sức sáng tạo nên những khung cảnh sống động, được điểm tô bằng lời thoại ngắn gọn mà hàm chứa ý tưởng dồi dào. Sau vài thành công khiêm tốn với truyện văn xuôi dài kỳ, năm 1844 ông cho ra đời tuyệt tác Ba chàng lính ngự lâm, và năm sau đó là Bá tước Monte Cristo. Cả hai tác phẩm này đã gây tiếng vang rộng khắp trên thế giới, và suốt mười lăm năm tiếp theo ông đều đặn hái quả ngọt từ sức sáng tác không hề biết đến sự mệt mỏi; ông viết truyện sau tiếp lấy thành công từ truyện trước, trong đó phải kể đến những tiểu thuyết lừng danh như Huynh đệ người Corsica, Cuộc chiến giữa những người đàn bà, Chuỗi hạt của vương hậu, Hoa tulip đen, bộ ba tác phẩm về dòng họ Valois, và một truyện mang tựa đề Bóng chim câu, viết về Bá tước Moret, người em chung nửa huyết thống của Quốc vương Louis XIII. Những tác phẩm này đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng và được độc giả ở mọi thị trường xuất bản mến mộ, gồm cả Vương quốc Anh và đặc biệt là Hoa Kỳ. Nhưng Dumas là người giao du rộng rãi ngoài xã hội, kẻ không sao ngăn được mình đừng dính líu vào đời sống chính trị; và tài nói chuyện hài hước vừa sắc sảo vừa không kiêng dè khiến ông chuốc lấy thù oán với nhiều người. Năm 1851, người đỡ đầu của ông là Vua Louis-Philippe bị truất ngôi bởi Louis-Napoléon Bonaparte; mà vị tân Tổng tài này của nước Pháp thì không có thiện cảm với Dumas, nên nhà văn tính chuyện tốt nhất là rời bỏ đất nước để tìm sang xứ khác. Ông sang sinh sống ở nước Bỉ, rồi lại lạc bước đến nước Nga, và cuối cùng là nước Ý, nơi đây ông lại xía vào bầu không khí náo nhiệt của phong trào độc lập Italia. Ông không hề ngừng viết, có điều sản phẩm của ông được đón nhận càng ngày càng ít đi, thậm chí tại nước Pháp doanh thu từ sách của ông đã suy giảm đến mức chỉ còn nhỏ giọt. Ở đất nước quê hương, kẻ một thuở danh nổi như cồn nay đã trở thành… một gã lỗi thời. Năm 1864, ông trở về Paris, lòng quyết tâm tìm lại tiếng tăm và sự giàu có. Bấy giờ tuy đang viết về những cuộc hành trình đến nước Nga và nước Ý, ông vẫn cho rằng mình nên quay lại những câu chuyện phiêu lưu lịch sử, vốn là nguồn thành công lớn nhất của ông. Năm 1865, chủ bút tuần báo Les Nouvelles là Jules Noriac ướm hỏi Dumas về một bộ truyện dài kỳ thăm lại bối cảnh trong tác phẩm hút khách đầu tay của ông là Ba chàng lính ngự lâm. Dumas, còn chưa nguôi niềm mê say với vương triều Louis XIII cùng vị Hồng y Tể tướng Richelieu, nghe vậy liền sốt sắng nhận lời. Thế là ra đời một thiên truyện nhiều kỳ với nhan đề Bá tước Moret, một câu chuyện phiêu lưu kể về Quốc vương Louis, về người em cùng cha khác mẹ và ưa thích phiêu bồng của ông là Moret, về người tình Isabelle de Lautrec của chàng Moret, và về vị chính khách lỗi lạc là Hồng y Richelieu. Đặc biệt là Hồng y Richelieu; nhân vật được cuốn tiểu thuyết đề cập ở mật độ ngang bằng với mật độ dành cho Bá tước Moret, và cuối cùng thì tác phẩm này được người ta biết đến nhiều hơn với cái tên là Người bí ẩn khoác áo Hồng y. Sự chú ý được dồn vào vị Hồng y lý giải vì sao ở truyện này Dumas từ chối đưa vào sự hiện diện của d’Artagnan cùng ba vị ngự lâm quân bạn thân của chàng, khi mà họ rõ ràng chẳng có gì để lưu luyến với cốt truyện nơi đây. Vả chăng, Dumas đã sáng tác dễ đến cả triệu từ về d’Artagnan cùng đồng đội, ông đâu cần phải nói đi nói lại những gì mình đã viết cả rồi. Thế là Dumas trở lại thời của triều đình Louis XIII và bắt tay vào viết. Cảm hứng tuôn trào, qua sáu tháng ông đã nặn ra một truyện về phiêu lưu, chính trị luận và tình cảm lãng mạn mang phong cách cổ điển nhưng thời gian qua nhiều chục năm đã trở thành gánh nặng tuổi tác, người văn sĩ nay là kẻ đau ốm già nua, còn tờ Les Nouvelles thì số ra như nấc cụt rồi dừng hẳn. Câu chuyện bấy giờ cũng vậy: sau khi viết được chín phần mười, Dumas không bao giờ xong nốt phần còn lại. Người đời sẽ cho rằng sau biết bao khắc khoải, và sau quá nhiều thành công lẽ ra Dumas đã có thể tập trung nỗ lực để hoàn tất bộ truyện ngõ hầu giúp nó tìm đến sự xuất bản, giống như rất nhiều tác phẩm trước đó. Song ông chỉ đơn giản là mãi mãi không tìm ra một cái kết cho truyện này. Đó là sự suy đoán nhìn từ góc độ của người làm công việc biên tập cuốn sách đang nằm trên tay bạn, nhưng riêng tôi thì cho rằng mình biết được một lý do hấp dẫn lý giải vì sao. Theo cách nghĩ của tôi thì vấn đề ấy Dumas vốn đã giải quyết từ lâu, khi ông viết truyện Bóng chim câu vào mười lăm năm trước đó. Trong truyện kể riêng lẻ, hoàn chỉnh ấy, ông đã trình bày phần kết cho câu chuyện về Richelieu, về Bá tước Moret cùng người tình Isabelle de Lautrec của chàng. Bóng chim câu, tuy ít người biết đến vì dung lượng truyện quá ngắn nên khó lòng được xuất bản, song đã mang đến cho số phận của Moret và Isabelle một cái kết có hậu. Vậy thì ông đã làm xong điều ấy. Tại sao ông phải lặp lại những gì mình vốn đã viết ra? Trong ấn bản này, lần đầu tiên độc giả có thể tìm thấy thiên tiểu thuyết vĩ đại cuối đời của Alexandre Dumas, Người bí ẩn khoác áo Hồng y trở nên trọn vẹn và hoàn chỉnh hơn khi có thêm phần ngoại truyện Bóng chim câu. Chắc chắn bạn đọc sẽ hứng thú với truyện này. *** Lời người dịch Người bí ẩn khoác áo Hồng y là tác phẩm được nhà văn Alexandre Dumas viết vào giai đoạn cuối cùng của văn nghiệp. Tác phẩm kể về chuyện xảy ra ở triều đại Louis XIII, vào thời điểm nối tiếp sau câu chuyện về những nhân vật có lẽ chẳng còn xa lạ với độc giả: hiệp sĩ d’Artagnan cùng ba người bạn thân của chàng, Athos, Porthos và Aramis. Lẽ cố nhiên, bạn đọc sẽ không tìm thấy những chàng hiệp sĩ ấy ở truyện này nữa, tuy vẫn còn đó hai con người quan trọng: Hồng y De Richelieu và Quốc vương Louis XIII. Khung cảnh của chuyện cũng hoàn toàn đổi khác, thay cho bầu không khí sôi nổi của những người cầm kiếm là chuỗi màn đấu trí gay cấn giữa những người mưu sâu kế hiểm. Trong truyện này, bạn đọc sẽ gặp gỡ Bá tước Moret, chàng hoàng tử hào hoa, lãng mạn, một nhân vật mà thời lượng nhà văn dành cho chàng là bằng ngang với Hồng y De Richelieu. Tác phẩm này, vì vậy, những lần xuất bản khác nhau tại Pháp cũng được biết đến với tựa đề Bá tước Moret. Là tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, đa phần nhân vật trong truyện đều là những tên tuổi có thật thời bấy giờ, được hư cấu tài tình vào cốt truyện đậm tính hấp dẫn, sống động và khôi hài đặc trưng của nhà văn Dumas. Người bí ẩn khoác áo Hồng Y, nguyên bản tiếng Pháp, được xuất bản lần đầu vào những năm 1860 dưới dạng tiểu thuyết đăng báo dài kỳ. Sau này, người ta tìm thấy bản hoàn chỉnh trong một căn gác nhỏ sau khi tác giả qua đời. Trên tay độc giả là bản Việt dịch từ bản Anh ngữ của phiên bản ấy. Với mong mỏi mang đến với bạn đọc một tác phẩm giá trị và đặc sắc của văn hào mà tên tuổi của ông đã quá thân thuộc ở rất nhiều quốc gia trên thế giới, dịch giả cố gắng chuyển tải một cách tốt nhất ý văn của tác giả thông qua bản Anh ngữ, đối chiếu với bản gốc Pháp ngữ cho những điểm quan trọng, giữ nguyên một số thán từ bằng tiếng Pháp như chúng vốn vậy ở bản tiếng Anh, và sử dụng các đại từ đã được Việt hóa theo thời gian, nay tuy đã là từ cũ, nhưng xét thấy phù hợp cho câu chuyện thuộc khung cảnh của những năm 1600. Một bản dịch qua hai lần ngôn ngữ thì thiếu sót khách quan lẫn chủ quan hẳn nhiên là điều không tránh khỏi. Rất mong bạn đọc lượng thứ và góp ý cho một bản dịch tốt hơn sau này. Trân trọng, Nguyễn Đăng Thuần Dịch giả Mời bạn đón đọc Người Bí Ẩn Khoác Áo Hồng Y của tác giả  Alexandre Dumas & Nguyễn Đăng Thuần (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bông Hồng Mất Tích
Câu chuyện kể về Diana, một thiếu nữ trẻ trung xinh đẹp mười bảy tuổi khát khao nhận được sự tán dương từ người khác. Chính điều này đã khiến cô từ bỏ giấc mơ trở thành nhà văn và từ bỏ cả những giá trị của chính mình. Trong giây phút lâm chung, mẹ của Diana đã thú nhận rằng Diana còn một người em song sinh nữa - một người khát khao được gặp mẹ, dám chống đối lại những người khác để thực hiện nguyện ước của cô là đi tìm mẹ. Lời mẹ khẩn cầu Diana hãy đi tìm gặp em gái đã thôi thúc Diana thực hiện một cuộc hành trình bí ẩn. Cuộc hành trình dẫn cô đến khu vườn hoa hồng kỳ lạ ở Istanbul, và chính nơi đó, cô đã trò chuyện được với những bông hồng... Serdar Ozkan sẽ đưa chúng ta đến với cuộc hành trình tìm kiếm điều gì đó tưởng như vô cùng đơn giản - HẠNH PHÚC. Nhưng, để có được hạnh phúc chẳng đơn giản chút nào. Để rồi khi chạm tới điểm cuối của hành trình, chúng ta chợt nhận ra rằng, hạnh phúc, nó tựa như một món đồ ta để quên trong ngăn kéo kí ức hóc khóa và chờ đợi bàn tay tỉ mẩn, kiên trì của một ai đó tìm lại mà thôi. *** Ephesus! Thành phố của sự đối ngẫu Là nơi có cả đền thờ nữ thần Artemis lẫn tòa thánh thờ Đức mẹ Maria. Nơi đây là hiện thân của cái tôi bản ngã lẫn chiều sâu tâm hồn. Đây cũng là hình ảnh thu nhỏ của những thứ cao khiết hư ảo lẫn những điều trần tục thấp hèn, là nơi kết hợp cả chế độ nô dịch lẫn sự tự do, phóng khoáng. Ephesus – Là sự hòa quyện của những điều đối lập. Bản thân thành phố ấy cũng có tâm hồn như mỗi con người chúng ta. Một buổi chiều muộn tháng Mười, có hai người ngồi bên cạnh con suối Meles gần thành phố cổ Ephesus. Mặt trời đang khuất dạng dần sau ngọn núi Buldul, nhuộm hồng cả một góc trời. Với những ai am hiểu ngôn ngữ của bầu trời thì chắc hẳn sẽ sớm hân hoan đón chào cơn mưa. “Thánh Paul đang giảng đạo cho mọi người về Mẹ Maria đấy”, cô gái trẻ nói. “Anh có nghe thấy đám đông phẫn nộ đang gào thét, phản đối và nguyền rủa ông ấy không? Hàng nghìn người nổi loạn chống lại tôn giáo mới - thứ tôn giáo ngăn cấm họ thờ nữ thần của mình. Hãy nghe tiếng những bước chân đang giậm trên nền đất và tiếng họ la hét kìa, ‘Chúng tôi không muốn Maria! Chúng tôi tôn thờ nữ thần Artamis!’ “Artemis ư?” Chàng trai trẻ hỏi lại. “Mội nữ thần sao? Nữ thần Diana của La Mã?” “Đừng quan tâm đến bà ấy làm gì”, cô gái trẻ đáp lời, “Bà ấy chẳng là gì ngoài một ảo tưởng đã được hình hài hóa và được người ta tôn thờ.” “Em có vẻ biết nhiều về bà ấy nhỉ?” “Em hiểu rõ bà ấy như chính bản thân mình ấy chứ.” “Được rồi, vậy sao em không kể cho anh nghe về bà ấy nhỉ?” “Bà ấy là nữ thần săn bắn,” cô gái bắt đầu kể. “Đó là một nữ thợ săn thực thụ - người dùng cung tên của mình để đem đến cho kẻ thù một cái chết đột ngột và ngọt ngào. Đó là một tâm hồn tự do bị cầ tmù, một người phụ thuộc nhưng rất đỗi kiêu hãnh. Nhờ có cây oliu mà mẹ bà – bà Leto đã sinh ra bà cùng với…” Sau khi đã hít một hơi sâu, cô gái nói thêm “người em song sinh của bà…” Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Mất Tích của tác giả Serdar Ozkan.
A
“A.” - Một câu chuyện tình... Hẳn là như vậy, bởi theo tác giả Kira Tenisheva, cuốn sách này chính là “câu chuyện về tình yêu, trong hình dung của tôi…” nhưng tại sao lại là “trong hình dung của tôi” – một lời nói mang tính nước đôi như vậy? Đây có lẽ là một “bí mật” khác mà cuốn sách dành riêng cho từng người đọc (!). Còn bây giờ xin mời bạn trở lại câu chuyện của “A.”. Cuốn sách nhỏ nhắn với số trang rất khiêm tốn, chỉ lấy duy nhất một chữ “A.” làm tựa, có lẽ cũng khơi dậy trong bạn đọc một chút ham muốn được khám phá. “A.” hoàn toàn không phải là một cuốn sách dễ đọc, nó “đánh đố” chúng ta ngay từ cái tựa. “A.” là ai? Là “chiếc khăn tay từ lâu đã phai mùi nước hoa của em có chữ “A.” thêu nổi ở góc? Hay “A.” chính là tên gọi của nữ thần sắc đẹp và tình yêu trong thần thoại Hy Lạp: Aphorodite? Cũng có thể “A.” chính là cô gái hoang dã Amazon?… Hình như đấy không phải là một con người cụ thể mà là biểu tượng của tình yêu đẹp mà chàng trai đi tìm. Một chuyến đi mãi mãi, bỏ lại sau lưng thành phố quen thuộc, địa vị và sự nổi danh nhất định. Chàng trai đi tìm ánh rực rỡ của tình yêu ở quảng trường, trên bãi biển, trên những con đường lộng gió. Chàng mãi đi tìm người ấy, cho dù người ấy đã già hoặc chết đi trong một làng ở vùng miền núi Alpes hẻo lánh, thậm chí đấy là một con người chưa bao giờ tồn tại (!)… Nếu so với những cuốn tiểu thuyết Trung Quốc đang “làm mưa, làm gió” trên thị trường sách Việt Nam hiện nay, có lẽ “A.” không phải là cuốn sách được ưa chuộng, bởi nó không có những “chuyện ầm ĩ” để bàn, để tán. “A.” là câu chuyện phi thời gian, vượt thoát không gian cụ thể; đấy cũng chẳng phải là câu chuyện của quá khứ hay tương lai. Song, nếu nói rằng “A.” là câu chuyện thời hiện tại thì cũng không phải. Tóm lại, điều mà “A.” muốn đề cập chính là sự vĩnh hằng với những mẫu sống, tình yêu huyền thoại luôn lưu chuyển âm thầm trong vũ trụ. Những nhân vật gần như không có thật, những cảnh trí không có trong đời thường, những thành phố vĩ đại nhưng không có tên, được đánh dấu bằng các chữ cái… Và, có một chút gì đó của văn học hậu hiện đại, khi tên của các nhân vật nổi tiếng, những niên đại, các biểu tượng… được “cài đặt” đây đó trong tác phẩm, bắt buộc người đọc phải vận dụng “trí học” của mình. Tuy nhiên, nếu bạn không phải là người “chịu khó” thì cũng không sao bởi “A.” là một câu chuyện tình yêu giản dị! Hãy dành vài giờ nhẹ nhõm, tạm quên những vấn đề của bản thân để dành cho cuốn sách này – đấy là lời gợi ý mà Kira Tenisheva gửi đến bạn đọc Việt Nam. Tôi đã làm theo cách ấy và tôi đã có được sự nhẹ nhõm kéo dài, để hiểu thêm những vấn đề của bản thân mình cùng cuộc sống mà mình đang tham dự… “A.” – tác giả: KIRA TENISHEVA; bản dịch: KIỀU VÂN, NXB HỘI NHÀ VĂN – TRUNG TÂM VĂN HÓA – NGÔN NGỮ ĐÔNG TÂY ấn hành năm 2005. TRẦN NHÃ THỤY *** Lời tác giả Gửi bạn đọc Việt Nam ! Một lần cầm bút lên, tôi hiểu mình không muốn viết về những chuyện đang xảy ra hàng ngày. Khi xung quanh có quá nhiều vấn đề, khi trên các trang sách vẫn là những máu me, nhơ nhớp, bạo lực, là sự vô liêm sỉ và tăm tối như những gì vẫn phô bày ra trên màn ảnh truyền hình, có cảm giác chỉ muốn bứt mình khỏi cái vòng đó và dù không lâu, được thoát ra ngoài thời gian và không gian này. Không phải quá khứ, cũng chẳng phải tương lai khiến tôi quan tâm, điều cuốn hút tôi là cái phi thời gian. Cái Vĩnh hằng. Ví dụ như tình yêu - điều đã luôn khiến cảm động và sẽ mãi làm cảm động nhân loại. Mà thực ra, đâu có gì đáng ngạc nhiên trong chuyện một phụ nữ quyết định viết về tình yêu? Nhưng việc viết cuốn sách này, một cách nghịch lý, đối với tôi hóa ra lại không là sự rời bỏ hiện thực, mà là tiếp cận nó từ một hướng khác. Không là sự lìa bỏ đời sống, mà hoàn toàn ngược lại, chính là sự quay về nơi đó xuyên qua một vùng huyền thoại vẫn còn lưu dấu trong mình nguyên mẫu của thế giới. Điều mô tả trong cuốn truyện không mấy gợi nhắc đến đời thường. Những cảnh trí quá rực rỡ, những nhân vật quá rực rỡ, có phần được cách điệu hóa, giống các nhân vật đeo mặt nạ trên sân khấu; họ không có tên và du hành qua những thành phố vĩ đại, nhưng không được gọi tên, chỉ được đánh dấu bằng các chữ cái như những ẩn số trong phương trình. Sự bí ẩn đó để làm gì ư? Đơn giản chỉ vì không gian diễn ra câu chuyện và không gian mà các nhân vật thuộc về không chỉ là châu Âu của thế kỷ 20, mà là một không gian ước lệ nào đó của cõi huyền thoại tình yêu. Mà trước tình yêu thì tất cả mọi người đều ngang nhau, và vô số những nhân vật vô danh của nó - những người khổng lồ hay nhỏ bé, những con người xinh đẹp hay quặt quẹo, quý tộc hoặc là thường dân - đời này sang đời khác, nhân danh tình yêu đang lặp lại cùng một những chiến công hay điều tội lỗi như nhau. Nhưng nếu như vậy, nếu chúng ta, những con người đã quần tụ lại bởi dù ta có là ai và ở đâu đi nữa, tất cả chúng ta đều yêu, đau khổ và hướng đến hạnh phúc, thì những tên người và địa danh ở đây đã chẳng còn có ý nghĩa quan trọng gì. Nói tóm lại, A là câu chuyện về tình yêu. Trong hình dung của tôi là vậy, nhưng bạn đọc hoàn toàn có thể nhìn thấy trong nó một điều gì đó không giống vậy. Còn về khuynh hướng văn chương, tôi cảm thấy thật khó xác định. Tôi không quy bản thân thuộc về một trào lưu văn học hiện đại nào cả, mà nếu cần bằng một cách nào đó làm sáng tỏ sự lựa chọn của tôi, thì tôi xin nói: điều quan trọng nhất đối với tôi là ngôn ngữ, phong cách, và với tư cách một người đọc tôi rất yêu sáng tác của các bậc thầy ngôn ngữ như Boris Pasternak và Vladimir Nabokov. Còn phải nói thêm điều gì nữa nhỉ? Tôi ước giá như có ai đó trong số các bạn sẽ dành ra vài giờ đồng hồ nhẹ nhõm để đọc cuốn sách này, tạm quên đi những vấn đề của bản thân. Và cùng với tôi thán phục vẻ đẹp của thế giới chúng ta đang sống. Tôi hạnh phúc với cuộc gặp gỡ này cùng bạn đọc Việt Nam và vui vì có dịp chúc cho dân tộc yêu lao động, dũng cảm và thiện tâm của các bạn được hạnh phúc và bình yên. Xin gửi tới các bạn lời chào thân ái! Kira Tenisheva Mời các bạn đón đọc A của tác giả Kira Tenisheva.
Dòng Sông Thơ Ấu
Hai Quang bị xã hội cũ đẩy vào tầng lớp lưu manh, làm dân anh chị ở bến xe rồi bị tù.Tuy nhiên bản chất là người lương thiện nên những hành động anh chị của Hai Quang đều có nét hào hiệp. Được cách mạng giác ngộ, anh trở thành một chiến sĩ kiên cường. Ông Tư Ghe vốn là học trò thầy giáo cách mạng Châu Văn Liêm, ông đã từng dẫn đầu các đoàn biểu tình và phanh ngực ra trước mũi giặc: “Cái ngực đồng của tau đây nè, bắn đi!”. Thế mà khi cách mạng thoái trào, anh em bị khủng bố thì ông theo Hòa Hảo, hãnh tiến và cuồng tín trong “sứ mệnh” truyền đạo của mình. Hai nhân vật chính của thiên tiểu thuyết, với những mâu thuẫn về quan điểm sống và chịu tác động của dòng đời đưa đẩy, là hai số phận điển hình trong thời Kháng chiến. Từ góc nhìn của nhân vật, tác giả đã khéo trình bày những sự kiện lịch sử và những đấu tranh trong lòng người thay đổi theo thời gian, như con sông khi trôi khi đục, chảy đi mang theo tất cả. "Bức tranh quê hương trong tiểu thuyết Dòng Sông Thơ Ấu sở dĩ sinh động vì đều là những hồi ức có thật. Tui theo kháng chiến 30 năm, mỗi khi nghe trên thế giới có dòng sông cạn thì tui lại nghĩ không biết dòng sông bên nhà mình ra sao. Dòng sông thời nhỏ của tui trải qua hai cuộc chiến tranh vẫn tràn trề sức sống. Ban đầu, tui viết dòng sông đó trong Đất lửa, Nguyễn Tuân chê "hiền quá". Sau ngày miền Nam giải phóng, tui đưa Nguyễn Tuân về ngồi nhậu trước nhà tui ngó ra dòng sông. Chỉ nghe loáng thoáng vài câu chuyện sông nước thôi, Nguyễn Tuân đã nhắc: 'Dòng sông là nguồn cảm hứng của văn chương Nam Bộ đấy, viết tiếp đi!' Năm 1980 tui viết những chữ mở đầu Dòng Sông Thơ Ấu..." - nhà văn Nguyễn Quang Sáng *** "Trong sự nghiệp văn chương, Nguyễn Quang Sáng là một trong những nhà văn xuất sắc của Việt Nam. Các truyện ngắn của ông giản dị và dễ đi vào lòng người. Nó chứa đựng tất cả các yếu tố để làm nên vẻ đẹp cho một cậu chuyện: ngôn ngữ đối thoại, cách dựng truyện, lựa chọn nhân vật...Trong các tác phẩm ấy, ông kể câu chuyện xúc động, thật đến mực giống như không phải ông đang viết văn mà là kể cho chúng ta nghe những câu chuyện của chính cuộc đời của ông vậy" (Nguyễn Quang Thiều) "Chỉ mãi đến cuối năm 1977, về làm việc ở Tuổi Trẻ, tôi mới "bắt đầu" tìm hiểu nền văn học cách mạng qua những cuốn sách ở thư viện, với những Mẫn và tôi (Phan Tử), Hòn Đất (Anh Đức), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)...Trong các truyện tôi thích Chiếc Lược Ngà nhứt, vì lối viết đơn giản như kể chuyện, thật tình, đẫm chất Nam Bộ. Nhân vật trong các truyện đều gần gũi, giản dị, sống phóng khoáng, rất anh hùng mà cũng rất đời thường..."   (Nguyễn Đông Thức) *** Nguyễn Quang Sáng còn có bút danh là Nguyễn Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ. Cảnh vật, con người và hơi thở nhịp sống trong tác phẩm Nguyễn Quang Sáng đậm đặc màu sắc Nam Bộ. Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn Nguyễn Quang Sáng.Ông để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại. Các tập truyện ngắn: "Con chim vàng", "Người quê hương", "Chiếc lược ngà", "Bông cẩm thạch", "Người con đi xa" … Tiểu thuyết có: "Đất lửa", "Mùa gió chướng", "Dòng sông thơ ấu". Ngoài ra ông còn có một số kịch bản phim, lưu giữ trong lòng người "một thời để nhớ, một thời để yêu".    Nguyễn Quang Sáng viết truyện ngắn "Chiếc lược ngà" vào tháng 9 năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ trong những tháng ngày sôi sục đánh Mĩ. Tác phẩm: Con chim vàng (tập truyện ngắn, 1956) Người quê hương (tập truyện ngắn, 1968) Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1961) Đất lửa (tiểu thuyết, 1963) Câu chuyện bên trận địa pháo (truyện vừa, 1966) Chiếc lược ngà (tập truyện ngắn, 1966) Bông cẩm thạch (tập truyện ngắn, 1969) Cái áo thằng hình rơm (truyện vừa, 1975) Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975) Người con đi xa (tập truyện ngắn, 1977) Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985) Bàn thờ tổ của một cô đào (tập truyện ngắn, 1985) Tôi thích làm vua (tập truyện ngắn, 1988) 25 truyện ngắn (1990) Paris – tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990) Con mèo của Foujita (tập truyện ngắn, 1991) Nhà văn về làng (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2008) Mời các bạn đón đọc Dòng Sông Thơ Ấu của tác giả Nguyễn Quang Sáng.
Mùa Gió Chướng
Tác phẩm Mùa Gió Chướng này được ông viết vào năm 1975. Cuốn sách mô tả tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam chống lại sự đàn áp, ý đồ dời dân lập ấp của kẻ địch. Cuộc đấu tranh đó đã trải qua nhiều gian nan, thử thách, biết bao hy sinh mất mát. Tiểu thuyết Mùa gió chướng đã từng được dịch sang tiếng Nga. Tác phẩm này cũng được đạo diễn Hồng Sến dựng thành phim. *** "Trong sự nghiệp văn chương, Nguyễn Quang Sáng là một trong những nhà văn xuất sắc của Việt Nam. Các truyện ngắn của ông giản dị và dễ đi vào lòng người. Nó chứa đựng tất cả các yếu tố để làm nên vẻ đẹp cho một cậu chuyện: ngôn ngữ đối thoại, cách dựng truyện, lựa chọn nhân vật...Trong các tác phẩm ấy, ông kể câu chuyện xúc động, thật đến mực giống như không phải ông đang viết văn mà là kể cho chúng ta nghe những câu chuyện của chính cuộc đời của ông vậy" (Nguyễn Quang Thiều) "Chỉ mãi đến cuối năm 1977, về làm việc ở Tuổi Trẻ, tôi mới "bắt đầu" tìm hiểu nền văn học cách mạng qua những cuốn sách ở thư viện, với những Mẫn và tôi (Phan Tử), Hòn Đất (Anh Đức), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)...Trong các truyện tôi thích Chiếc Lược Ngà nhứt, vì lối viết đơn giản như kể chuyện, thật tình, đẫm chất Nam Bộ. Nhân vật trong các truyện đều gần gũi, giản dị, sống phóng khoáng, rất anh hùng mà cũng rất đời thường..."   (Nguyễn Đông Thức) *** Nguyễn Quang Sáng còn có bút danh là Nguyễn Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ. Cảnh vật, con người và hơi thở nhịp sống trong tác phẩm Nguyễn Quang Sáng đậm đặc màu sắc Nam Bộ. Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn Nguyễn Quang Sáng.Ông để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại. Các tập truyện ngắn: "Con chim vàng", "Người quê hương", "Chiếc lược ngà", "Bông cẩm thạch", "Người con đi xa" … Tiểu thuyết có: "Đất lửa", "Mùa gió chướng", "Dòng sông thơ ấu". Ngoài ra ông còn có một số kịch bản phim, lưu giữ trong lòng người "một thời để nhớ, một thời để yêu".    Nguyễn Quang Sáng viết truyện ngắn "Chiếc lược ngà" vào tháng 9 năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ trong những tháng ngày sôi sục đánh Mĩ. Tác phẩm: Con chim vàng (tập truyện ngắn, 1956) Người quê hương (tập truyện ngắn, 1968) Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1961) Đất lửa (tiểu thuyết, 1963) Câu chuyện bên trận địa pháo (truyện vừa, 1966) Chiếc lược ngà (tập truyện ngắn, 1966) Bông cẩm thạch (tập truyện ngắn, 1969) Cái áo thằng hình rơm (truyện vừa, 1975) Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975) Người con đi xa (tập truyện ngắn, 1977) Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985) Bàn thờ tổ của một cô đào (tập truyện ngắn, 1985) Tôi thích làm vua (tập truyện ngắn, 1988) 25 truyện ngắn (1990) Paris – tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990) Con mèo của Foujita (tập truyện ngắn, 1991) Nhà văn về làng (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2008) Mời các bạn đón đọc Mùa Gió Chướng của tác giả Nguyễn Quang Sáng.