Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thân Phận Con Người

Năm 1933 quyển La Condition humaine (“Thân phận con người”) ra đời. Quyển tiểu thuyết thứ ba của Malraux lấy lại bối cảnh là cuộc đấu tranh cách mạng tại Trung quốc, vào thời kỳ xảy ra cuộc tranh chấp giữa quân đội Quốc Dân đảng của Tưởng Giới Thạch và những lực lượng cộng sản trong thời kỳ manh nha. Quyển tiểu thuyết chấm dứt vào thời điểm xảy ra cuộc tàn sát các đảng viên cộng sản do quân đội Tưởng Giới Thạch tiến hành, trước khi Mao Trạch Đông quyết định cuộc trường chinh về phía Bắc để bảo toàn lực lượng. Một lần nữa, tiểu thuyết của Malraux không phải là một tài liệu lịch sử, kể lại cuộc xung đột giữa các lực lượng Quốc Dân đảng và cộng sản năm 1927. “Thân phận con người”, sau quyển “Những kẻ chinh phục”, lại dùng bối cảnh lịch sử để trình bày quan điểm của tác giả về con người và ý nghĩa cuộc sống. Thay vì có một, hai nhân vật chính chi phối toàn bộ tác phẩm, quyển “Thân phận con người” dựng lên hàng chục nhân vật có tầm quan trọng ngang nhau: những chiến sĩ cách mạng, vài tên khủng bố quá khích, một nhà hiền triết Nhật, một nhân vật lập dị sống trong ảo tưởng và thêu dệt những câu chuyện hoang đường, một nhà tư bản Âu châu v.v. Một số nhân vật này vẫn bị dằn vặt bởi những lo âu siêu hình: niềm đơn độc lẻ loi, nhận thức về sự phi lý của cuộc đời… và mỗi người tìm một phương cách giải thoát riêng cho mình. Nhưng điều mới là sự xuất hiện của những nhân vật anh hùng cách mạng. Những nhân vật này không còn bị ám ảnh vì những thắc mắc siêu hình, mà họ tìm thấy lẽ sống trong việc đấu tranh để đem lại hạnh phúc, danh dự và phẩm giá cho đồng loại của mình. Hành động có một mục đích lịch sử, trở thành một phương tiện để thay đổi trật tự xã hội, hoàn trả lại danh dự làm người, không phải cho một anh hùng đơn độc, mà cho toàn thể những người sống trong một cộng đồng. Với quyển “Thân phận con người”, trong tác phẩm của Malraux xuất hiện một triết lý nhân bản cách mạng. Từ tình trạng suy đồi do thương tích, bệnh tật, gây ra khiến cho con người phải chịu khuất phục trước định mệnh, đến một tình trạng suy đồi do cực khổ khốn cùng, khiến con người mất hết nhân cách. Trật tự xã hội của người giàu khiến cho nhân phẩm bị chà đạp. Danh dự của người hùng cách mạng của Malraux là đứng lên chống lại một trật tự xã hội chối bỏ nhân phẩm và tìm thấy ý nghĩa cuộc sống trong cuộc chiến đấu này. Quyển “Thân phận con người” được giải thưởng Goncourt cuối năm 1933, và sau này được công nhận là một trong những tác phẩm lớn nhất của nền văn học thế giới thế kỷ 20. Nhà văn 32 tuổi bỗng nhiên nổi danh, với một hào quang là kẻ trở về từ châu Á sôi sục, xa xôi và bí hiểm. Đối với xã hội Pháp vào những thập niên 1920-30, châu Á còn là một một lục địa xa vời, huyền bí, chìm trong màn sương mù của huyền thoại, tượng trưng cho phiêu lưu mạo hiểm… Những người có óc phiêu lưu đều bị thu hút, mê hoặc bởi vùng đất còn bí hiểm này. Nhiều huyền thoại được thêu dệt quanh tác giả quyển “Thân phận con người” (người đã tham gia vào hoạt động cách mạng tại Trung Quốc, là ủy viên chính trị cạnh Borodine trong cuộc cách mạng Trung quốc…). Tác giả im lặng không đính chính, và huyền thoại kéo dài trong mấy thập niên, cho đến khi một học giả Hoa Kỳ, Walter Langlois, nghiên cứu tường tận về thời gian Malraux ở Đông Dương và quyển tiểu sử André Malraux do Jean Lacouture viết, xuất bản năm 1973, cho biết sự thật về thời gian nhà văn ở châu Á trong các năm 1924-1925. Cho đến năm Malraux viết quyển “Thân phận con người”, ông chỉ biết có Việt Nam, và thời gian ông đặt chân lên đất Trung Quốc là chỉ vỏn vẹn mấy ngày vào mùa thu 1925 khi ông đến Hương Cảng mua bộ chữ in để có thể tiếp tục in tờ báo đối lập Indochine. Kinh nghiệm kể lại trong “Thân phận con người” về những người dân đen sống trong cảnh bần cùng, bị áp bức và chà đạp, là những kinh nghiệm sống tại Việt Nam, khi André Malraux chứng kiến những bất công và cách đối xử đàn áp mà chính quyền thực dân dành cho người dân bị trị. Quyển “Thân phận con người” chấm dứt một bộ ba tác phẩm được gọi là thuộc “thời kỳ châu Á” trong văn nghiệp của Malraux. Một năm hoạt động báo chí tại Sài Gòn chưa đủ để cho André Malraux một danh hiệu là chiến sĩ cách mạng, nhưng đã chuyển hướng ý nghĩ và hành động của ông khiến cho từ nay, André Malraux sẽ dành phần lớn cuộc đời và tác phẩm của mình cho cuộc chiến đấu cho công bằng xã hội, chống lại sự áp bức, chà đạp phẩm giá con người… V.Đ Review *** André Malraux ( 3 tháng 11, 1901 tại Paris - 23 tháng 11, 1976 tại Créteil, Val-de-Marne) là một nhà văn (từng đoạt Giải Goncourt), nhà phiêu lưu Pháp, và chính trị gia (từng làm Bộ trưởng Pháp 1959-1969). Gia đình ông không đầm ấm, ông nội và cha đều tự tử vì phá sản và chán đời. Thuở nhỏ ông thích đọc sách, thăm viếng các viện bảo tàng. Nội chiến Tây Ban Nha bùng nổ, Malraux chạy sang giúp phe Cộng hòa, thuyết phục chính phủ Pháp giao cho ông một đội phi cơ để chống lại phe Francisco Franco, nhưng chỉ mấy tháng sau phi đội ấy tan rã. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Malraux gia nhập vào đội kỵ binh ở Provins. Nước Pháp thua trận, đầu hàng. Malraux bị giam ở Sens, rồi vượt ngục và trốn xuống vùng tự do tại Roquebrune. Tháng 4 năm 1944, Malraux tự xưng là đại tá Berger và cố gắng tập hợp kháng chiến quân trong vùng Tây Nam. Bị thương hồi tháng 7, bị giam ở Toulouse, ông được lực lượng kháng chiến FFI giải thoát. Do các hệ thống kháng chiến vùng Tây Nam đã có người đảm trách nên Malraux đề nghị cầm đầu quân du kích vùng Alsace-Lorraine, nằm dưới quyền của tướng De Lattre. Ông trở thành Tổng trưởng Thông tin, rồi Tổng trưởng Văn hoá trong các chính phủ của Tổng thống Charles de Gaulle. Tác phẩm văn học Lunes en papier, 1921 La Tentation de l'Occident, 1926 Les Conquérants, 1928 Royaume-Farfelu, 1928 La Voie royale, 1930; đoạt giải thưởng Interallié 1930 La Condition humaine / Thân phận con người, 1933, đoạt giải thưởng Goncourt. Le Temps du mépris, 1935 L'Espoir, 1937 Sierra de Teruel, phim, 1939, (1945 tái bản với tựa L'Espoir), đoạt Giải thưởng Điện ảnh Louis Delluc 1945 La Lutte avec l'ange, 1943 tại Thụy Sĩ, 1948 với tựa đề Les Noyers de l'Altenbourg tại Pháp Le Démon de l'Absolu, 1946 Esquisse d'une psychologie du cinéma, 1946 Psychologie de l'Art: Le Musée imaginaire - La Création artistique - La Monnaie de l'absolu, 1947-1948-1950 Les Voix du silence, 1951 Le Musée Imaginaire de la sculpture mondiale: La Statuaire - Des Bas-reliefs aux grottes sacrées - Le Monde Chrétien"", 1952-1954 La Métamorphose des dieux, 1957, sau đó với tựa đề Le Surnaturel Antimémoires, 1967 (phần đầu của Miroir des Limbes) Les Chênes qu'on abat..., 1971 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) Oraisons funèbres, 1971 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) La Tête d'obsidienne, 1974 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) Lazare, 1974 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) Hôtes de passage, 1975 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) La Corde et les souris, 1976 (phần 2 của Miroir des Limbes) Le Miroir des Limbes, 1976 (I. Antimémoires + II. La Corde et les souris và Oraisons funèbres) Le Surnaturel, (1977, hiệu đính và bổ sung cuốn La Métamorphose des Dieux L'Irréel, La Métamorphose des Dieux. II, 1975 L'Intemporel, La Métamorphose des Dieux. III, 1976 L'Homme précaire et la littérature, 1977 Mời các bạn đón đọc Thân Phận Con Người của tác giả André Malraux.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Không Khóc Ở Kuala Lumpur
ĐỌC “KHÔNG KHÓC Ở KUALA LUMPUR” CỦA LINH LÊ Nếu Malaysia phải chọn một người để quảng bá du lịch cho Kuala Lumpur và cho đất nước Hồi giáo này, người đó sẽ không phải là Linh Lê. Hình ảnh Kuala Lumpur trong Không khóc ở Kuala Lumpur đầy ám ảnh, những trận mưa, sấm chớp kinh hoàng, những bi kịch nặng nề và ám ảnh, cả tiếng quạ kêu. Những tình tiết éo le đến mức không thể tin đó là sự thực. Những nhân vật sống bản năng đến khó tin. Nhưng rồi người đọc lại bị thuyết phục bởi một giọng văn rất thực, một tình cảm rất thực, thực tưởng như chính những trải nghiệm của nữ tác giả tuổi đời còn rất trẻ này. Không kỹ thuật, không tính toán, tả chân một cách như vô tình, lại đem đến cho tác phẩm một nét riêng, nhiều lúc sa đà vào chi tiết, nhưng nhiều lúc chính chi tiết làm cảm xúc như dồn nén, thậm chí nghẹt thở. Dường như với Linh Lê, không có chỗ cho những cá tính hời hợt. Tất cả đều được phơi bày. Cũng không có chỗ cho những cảm xúc bâng quơ. Hoặc là hạnh phúc ngất ngây, hoặc là đau khổ đến tột cùng. Và ở tận cùng của nỗi đau, khóc hay không khóc, dường như cũng không có gì khác biệt. Có cảm giác từng đoạn, từng đoạn, tác giả như “lên đồng” cùng tác phẩm và độc giả cũng bị dẫn dụ vào những dòng chữ đầy ám ảnh đó, có rất nhiều đoạn ám ảnh như vậy trong Không khóc ở Kuala Lumpur. Đọc liền một mạch, lật đến trang cuối cùng, gập lại cuốn sách, tôi liên tưởng tới một bộ phim Sitcom trên truyền hình, thể loại phim mà mọi diễn biến chỉ xảy ra trong bốn bức tường. Chỉ có điều, Sitcom gây cười và như một món giải trí nhẹ nhàng, trôi tuột trước khi đi ngủ. Còn với tiểu thuyết đầu tay này của Linh Lê, chúng ta bị ám ảnh. Một sự pha trộn giữa trong sáng và từng trải, ngây thơ và sâu sắc. Đó là những gì mà độc giả có thể cảm nhận được về tác giả trong tiểu thuyết đầu tay này của cô. Với những gì có trong Không khóc ở Kuala Lumpur, với một sự tinh tế và nhạy cảm hiếm có ở một nữ tác giả tuổi đời còn rất trẻ, văn học trẻ chào đón một hơi thở mới, thổi về từ Kuala Lumpur. BTV Lê Quang Minh - Đài truyền hình Việt Nam *** Không khóc ở Kuala Lumpur là truyện đầu tay của tác giả trẻ Linh Lê. Tác phẩm kể về những câu chuyện tình yêu của giới trẻ với muôn vàn sắc màu, có yêu thương, có hạnh phúc và không thể thiếu những buồn đau. Các bạn có thể tìm đọc cuốn sách trên trang đọc sách waka.  Truyện xoay quanh Việt An – một cô gái thông minh, sắc xảo, có ý thức cao về vẻ bề ngoài của mình. Ở cô tỏa ra vẻ đẹp kiêu ngạo, tràn đầy sức sống tuổi trẻ. Mười sáu tuổi, An quen một chàng trai tên Kiên. Anh học giỏi, đẹp trai, đã thu hút cô với dáng vẻ hiền lành của mình. Họ yêu nhau thắm thiết bằng tất cả sự nồng nhiệt, chân thành dành cho mối tình đầu thơ dại. Thế nhưng thanh xuân mấy ai giữ trọn được duy nhất một mối tình. Cô và Kiên chia tay. Mối tình ấy để lại vết sẹo đau đớn mà thỉnh thoảng vẫn nhói lên trong lòng An. Bước chân vào đại học, An nhanh chóng hòa nhập vào môi trường mới. Cô kết bạn với Hiên Lam và Chu Minh. Chu Minh là người thật thà, tốt bụng. Hiên Lam lại khác. Cô toát ra dáng vẻ bất cần, từng trải vì những vấp ngã trong quá khứ. Bộ ba thân thiết với nhau từ những ngày đầu vào đại học. Rồi Minh và An yêu nhau. Và ba người họ cùng nhau sang Kuala Lumpur du học. Học tại đất nước xa lạ, nhóm bạn bị cuốn vào không khí hiện đại của môi trường mới. Lam lao vào những cuộc yêu vô thưởng vô phạt để chơi bời cho bớt nhàm chán. Ngược lại An và Minh nảy sinh mâu thuẫn trong mối quan hệ. Hai người đứng trước bờ vực của sự chia tay. Trong hoàn cảnh đó, Ken xuất hiện. Giữa sự mệt mỏi trong mối quan hệ với Minh, Ken mang đến cho An cảm giác nhẹ nhõm. Sự mới lạ từ Ken đã cuốn hút An và làm sống dậy những nhiệt huyết, xúc cảm trong lòng An từ lâu đã bị chôn vùi sau mối tình với Kiên. An quyết định chia tay Minh để đến với Ken. Không chịu được sự tuyệt tình của An, Minh lựa chọn tự tử. Mọi chuyện chưa kịp lắng xuống, An lại phát hiện một sự thật bàng hoàng mà Ken che giấu. Ken và Lam vụng trộm. Một người là người yêu, một người là bạn thân, vậy mà hai người họ lại lén lút yêu đương sau lưng An. Hai người họ đến với nhau chỉ trong giây phút bốc đồng nhất thời. Ken vốn thuần khiết và ngay thẳng, nhưng phần bản chất đàn ông bên trong Ken đã không kịp khống chế nên mới lao vào cuộc vui với Lam. Hai người họ quyết định chấm dứt mối tình này bằng một chuyến đi du lịch. Đó cũng là chuyến du lịch cuối cùng trong cuộc đời họ. Ken và Lam chết vì tai nạn giao thông. Ken, Lam hay Chu Minh đều là một phần thanh xuân, là tuổi trẻ của An. Dẫu họ có đối xử với cô không công bằng nhưng họ đã sát cánh bên cô trong thời gian tươi đẹp nhất. Họ đã chứng kiến An vấp ngã và trưởng thành. Vậy mà giờ đây, tất cả đều đã ra đi, bỏ mặc An một mình trên cõi đời này. Tuổi thanh xuân của An cũng chấm dứt từ đây. Cái chết của những người bạn cũng chính là cái chết tâm đối với An. Không khóc ở Kuala Lumpur là thế giới những con người trẻ tuổi, trẻ lòng. Họ vốn là một tờ giấy trắng, không có gì trong tay nhưng họ có nhiệt huyết, hết lòng trong tình yêu, tình bạn. Họ sống hết mình với những khát khao cháy bỏng để cho dù đến chết cũng không hối tiếc. Nhưng bên cạnh đó, trong tâm hồn họ cũng lẩn khuất những góc tối không muốn ai biết đến. Ví dụ như với An là mối tình ngây dại đánh đổi tất cả ngây thơ, trong trắng với Chu Minh. Chính sự sứt mẻ, không hoàn hảo đã tạo dựng nên con người, đặc biệt là người trẻ. Ngây thơ làm nên thất bại. Nhưng từ những tổn thương ấy họ mới có thể trưởng thành. Với Không khóc ở Kuala Lumpur, Linh Lê đã tái hiện lại một thành phố Á Đông rực rỡ phù hoa. Nổi bật trên cái nền đó là cuộc sống của những du học sinh đầy khó khăn, luôn bị cám dỗ bởi những điều mới lạ. Ở nơi đấy, tuy có những buồn đau nhưng cũng có những kí ức tươi đẹp của sự trưởng thành. Tác giả đã tái hiện lại cuộc sống của những người trẻ bằng lối kể tự nhiên, dễ hiểu. Nhân vật được xây dựng có cá tính riêng. Tất cả tạo nên những sắc màu rực rỡ có vui, có buồn, có vấp ngã, có trưởng thành của tuổi trẻ. *** Mời các bạn đón đọc Không Khóc Ở Kuala Lumpur của tác giả Linh Lê.
Chiếc May Bay Tiêm Kích Zéro
Tiếng động cơ đến dai dẳng, điên loạn của chiếc máy bay chiến đấu Zéro vào một ngày tháng Tư năm 1945 đã gieo rắc cái chết xuống chiếc tàu chở máy bay Maryland tại Okinawa. Tiếng rú mà Laura Carlson gắng chịu như cô gắng chịu cái chết của người cha mà cô chưa từng gặp mặt - cứ đeo đuổi cô ngày đêm, đến ngay cả tình yêu cũng không mang lại sự bình yên cho cô. Cái tiếng vo vo đó là hiện thân của chiến tranh. Nó đã khiến cho cha cô phải chết. Vậy mà giờ đây, bao năm sau khi cuộc chiến đã kết thúc, nó vẫn còn gây họa cho cô. Kẻ gây ra cái chết và nạn nhận của nó đều đã nằm dưới mồ, còn cô trước mặt vẫn có cuộc sống đang đợi cô. *** Pascale Roze sinh ra tại Sài Gòn năm 1954.   Nữ tiểu thuyết gia người Pháp này đã được nhận giải Goncourt 1996 cho tiểu thuyết đầu tay Le Chasseur Zéro.   Các tác phẩm chính:  Histoires dérangées, recueil de nouvelles, Julliard, 1994  Le Chasseur Zéro A. Michel, 1996  Ferraille, Albin Michel, 1999  Lettre d'été, Albin Michel, 2000  Parle-moi, Albin Michel, 2003  Un homme sans larmes, Stock, 2005  L'Eau rouge, Gallimard, 2007  Itsik, Stock, 2008   Các tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:  Chiếc máy bay tiêm kích Zero, NXB Phụ Nữ, 1997  Nước đỏ, NXB Phụ Nữ, 2008 *** Ngay từ sáng sớm, trước khi mặt trời mọc, chiếc máy bay tiêm kích đã lên đường. Thân sơn đen, tải trọng giết người xếp trong bụng, nó nổ máy. Tiếng động cơ vù vù trong tĩnh lặng của bình minh. Cánh quạt quay. Chiếc may bay rung lên, đèn tắt, nó lăn bánh trên đường băng, nó nâng mũi lên và bắt đầu cất cánh. Với một sức đẩy đều đặn, nó lên tới năm nghìn mét và giữ ổn định ở đó. Trời đã sáng. Từ biển, từ trên trời, từ bốn phương, chiếc máy bay tiêm kích ở trong tầm nhìn. Tôi tên là Laura Carlson. Tôi sinh ngày 10 tháng Mười - 1944 tại New York. Cha tôi mất ngày 7 tháng Tư - 1945 tại Okinawa.   Tôi chỉ có hai tấm ảnh của ông. Trên một tấm, cha tôi đứng nghiêm bên cạnh những người của ông, trên boong con tàu Maryland. Gương mặt ông im lìm, thản nhiên, căng thẳng trong sự tuân phục như thể đã đi về cõi chết. Trên tấm bia ông quàng tay ngang người mẹ tôi ở Central Park. Trời nắng, ông mỉm cười. Mẹ cũng mỉm cười. Tôi không biết gì về nước Mỹ. Khi mẹ trở về Pháp, tôi chưa đầy hai tuổi. Mẹ đến gõ cửa căn hộ to lớn phố Bienfaisance, căn hộ thời thơ ấu của mẹ, cái thời mẹ muốn quên đi. Ông bà đón tiếp cô con gái hư và cái con bé nửa lạ nửa thân là tôi, còn nó thì lăn vào tay ông bà. Chắc là ông bà có hỏi vài câu. Mẹ tôi không trả lời. Đó là tự kiêu, nhiều năm sau này bà tôi còn nói vậy.   Thời thơ ấu của tôi rất chán. Căn hộ tôi cũng chán, ông bà tôi cũng chán còn mẹ tôi thì chìm sâu vào một cõi tĩnh lặng thê thảm. Thoạt đầu mẹ cố gắng làm việc. Theo gợi ý của bà, mẹ tôi dạy tiếng Anh tại trường trung học ở đó mẹ đã từng theo học. Mẹ vất vả đấu tranh chống chứng suy nhược thần kinh. Lẽ ra mẹ có thể đến gặp bác sĩ, nhưng không ai nghĩ đến việc đó. Một ngày kia, mẹ không còn can đảm chuẩn bị bài giảng của mẹ và đối đầu cái nhìn thương cảm của bạn đồng nghiệp của mẹ. Bà đến giải thích với bà hiệu trưởng. Người ta cất gánh nặng công việc cho mẹ, và từ đó mẹ sử dụng những ngày dài nhàn rỗi để chơi trò chơi chắp hình, suốt ngày như vậy. Ông bà tôi gánh lấy trách nhiệm giáo dục tôi và chăm sóc con gái giống như  người ta chăm sóc một đứa trẻ chậm phát triển. ... Mời các bạn đón đọc Chiếc May Bay Tiêm Kích Zéro của tác giả Pascale Roze.
Chuyện Tình Lúc Nửa Đêm
‘’Những tờ giấy trắng bay tung giữa không trung, phấp phới trong một chiều hè đầy giông bão, chẳng khác nào cảnh tượng một đàn bồ câu bất ngờ vỗ cánh bay đi ‘’ Tình yêu luôn xuất hiện một cách đầy bất ngờ, khó tưởng tượng nhất với mỗi chúng ta và khi những tờ giấy nhạc bay trong không trung, khi tiếng móng ngựa xé gió lao tới cũng là lúc tình yêu của Kate đã đến bên nàng. Một câu chuyện tình yêu giữa cô gái mồ côi, thông minh, dạy nhạc luôn khao khát tìm ra thân thế thực sự của mình và niềm tin rằng luôn có ai đó yêu thương nàng. Người ấy không ngờ lại là một người bị coi là ‘’không tim’’ – Hạ sĩ Thorne nổi tiếng lạnh lùng và khó hiểu đã khiến nàng phải căm ghét, phải xao xuyến, phải rung động, phải choáng váng và phải yêu. Nhưng giữa hai người họ là những bí mật động trời bị che giấu mà một khi đã khơi ra sẽ tạo thành sóng gió không thể vãn hồi… Với những trang văn đầy hấp dẫn, lôi cuốn Tessa Dare đưa người đọc từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Những say đắm cuồng nhiệt trong câu chuyện tình yêu tuổi trẻ, sự đồng cảm với những thân phận bị chối bỏ và hơn hết là niềm tin sẽ luôn có ai đó yêu bạn. *** FAN CỦA TIỂU THUYẾT LÃNG MẠN LỊCH SỬ KHÔNG THỂ BỎ QUA TESSA DARE Tessa Dare là tác giả của mười bốn cuốn tiểu thuyết thuộc dòng lãng mạn lịch sử và được gọi là ‘’ngôi sao mới của dòng sách lãng mạn lịch sử ‘’. Bà đã hai lần được nhận giải thưởng RITA danh giá dành cho các nhà văn lãng mạn của Mỹ. Đọc Tessa Dare, bạn không thể bỏ lỡ “Bảy ngày phiêu lãng”, “Chuyện tình lúc nửa đêm”, “Thử thách và tình yêu”. Cả ba cuốn sách này đều đang được BachvietBooks giảm tới 30% tại Hội sách.   “Bảy ngày phiêu lãng” kể về chuyện tình giữa Minerva Highwood, một cô nàng không màng đến yêu đương của Vịnh Spindle, cần đến Scotland. Và đối tượng của nàng là Colin Sandhurt – Huân tước Payne, một kẻ phóng đãng bậc nhất, đếm từng ngày để rời khỏi Vịnh Spindle. Họ trở thành đối tác một cách thần kì và bất đắc dĩ. Trong vòng một tuần, họ giả vờ bỏ trốn cùng nhau để thuyết phục họ gia đình và bạn bè tin rằng họ đang ‘’yêu’’. Họ thoát khỏi những hiểm nguy vào ban ngày và vượt qua cơn ác mộng vào ban đêm, cứ thế du hành bốn trăm dặm mà không giết chết nhau. Họ không có thời gian để ý rằng sự thu hút lẫn nhau đang ngày càng lớn dần, từ lúc nào đã trở thành đam mê. Bất ngờ, một tuần dường như vừa đủ cho cuộc phiêu lưu đầy phiền phức và đủ cho tình yêu của chính họ.   Còn “Thử thách và tình yêu” là câu chuyện về chàng trai Bramwell Victor, hai mươi chín tuổi, điển trai, cao to, oai vệ, nghiêm khắc, từng trải với đôi mắt rất thu hút. Anh cũng là một trung tá bộ binh của quân đội Anh và khi bị thương ở đầu gối, anh buộc phải rời chiến trường. Anh tìm đến ngài Finch Lewis, đang sống cùng cô con gái Finch Susanna ở vịnh Spindle, như một tia hy vọng cuối cùng. Susanna là một cô gái hai mươi lăm tuổi, xinh đẹp, mảnh mai, cao ráo, thông minh, giỏi giang và bản lĩnh, chưa yêu lần nào. Cô chăm sóc cho người dân ở vịnh Spindle và tiếp đón các quý cô từ những nơi khác đến vịnh Spindle để nghỉ dưỡng. Ngay lần gặp đầu tiên, họ đã có cảm tình với nhau và Bram đã trao cho Susanna nụ hôn đầu đời. Anh yêu cô bằng một tình yêu mãnh liệt, một sự thiếu thốn tình cảm, và cả sự chiếm hữu. Cô đáp lại anh bằng một tình yêu trong sáng, một sự khao khát thầm kín, và sự cảm thông. Nhưng liệu tình yêu có đủ sức giữ họ lại bên nhau, đọc “Thử thách và tình yêu” để tự tìm đáp án cho bạn nhé. Tình yêu luôn xuất hiện một cách đầy bất ngờ, khó tưởng tượng nhất với mỗi chúng ta và khi những tờ giấy nhạc bay trong không trung, khi tiếng móng ngựa xé gió lao tới cũng là lúc tình yêu của Kate đã đến bên nàng. “Chuyện tình lúc nửa đêm” là câu chuyện tình yêu giữa cô gái mồ côi, thông minh, dạy nhạc luôn khao khát tìm ra thân thế thực sự của mình và niềm tin rằng luôn có ai đó yêu thương nàng. Người ấy không ngờ lại là một người bị coi là ‘’không tim’’ – Hạ sĩ Thorne nổi tiếng lạnh lùng và khó hiểu đã khiến nàng phải căm ghét, phải xao xuyến, phải rung động, phải choáng váng và phải yêu. Nhưng giữa hai người họ là những bí mật động trời bị che giấu mà một khi đã khơi ra sẽ tạo thành sóng gió không thể vãn hồi… Với những trang văn đầy hấp dẫn, lôi cuốn Tessa Dare đưa người đọc từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Những say đắm cuồng nhiệt trong câu chuyện tình yêu tuổi trẻ, sự đồng cảm với những thân phận bị chối bỏ và hơn hết là niềm tin sẽ luôn có ai đó yêu bạn. *** Mùa hè năm 1814. Hạ sĩ Thorne có thể khiến phụ nữ phát run, dù anh ta ở bất cứ nơi đâu trong căn phòng. Đúng là có năng khiếu gây phiền toái, Kate Taylor thầm nghĩ. Anh ta thậm chí còn chẳng cần phải nhọc công cố gắng, nàng nhận ra điều đó với một nỗi ngậm ngùi phiền muộn. Anh ta chỉ cần sải bước vào quán Bull Blossom, ngồi lên chiếc ghế đẩu, dán mắt vào chiếc cốc vại bằng thiếc và quay tấm lưng to rộng, vững chãi lại với căn phòng. Và không một lời… cũng không thèm liếc nhìn… anh ta đã khiến cô Elliott tội nghiệp phải run tay trên phím dương cầm. “Ôi, em không thể”, cô gái thì thầm. “Bây giờ thì em không hát được. Khi anh ta còn đang ở đây”. Và thế là một buổi học nhạc nữa lại bị phá hỏng. Cho tới năm ngoái, Kate chưa từng gặp phải rắc rối kiểu này. Khi ấy, vịnh Spindle là một ngôi làng xinh đẹp với đa phần là phụ nữ. Và Bull Blossom là một quán trà duyên dáng, phục vụ món bánh kem lạnh và bánh táo phết mứt. Nhưng kể từ khi người ta sắp xếp lại lực lượng dân quân địa phương, quán trở thành nơi thưởng trà của các quý cô, đồng thời là chốn nhậu của các quý ông. Kate không phản đối việc chia sẻ này - nhưng rõ là không nên “chia sẻ” với Hạ sĩ Thorne. Sự hiện diện đầy nghiêm nghị, pha chút tư lự của anh ta thành ra lại khuấy động cả căn phòng. “Chúng ta hãy thử một lần nữa nhé”, Kate giục cô học trò trong lúc cố gắng phớt lờ cái hình bóng đáng sợ vẫn lờ mờ ở phía xa. “Lần trước, chúng ta đã gần làm được rồi mà”. Elliott đỏ bừng mặt và gõ gõ ngón tay lên đùi. “Em sẽ không bao giờ làm được đâu”. “Em sẽ làm được. Vấn đề chỉ là luyện tập thôi. Và em đâu chỉ có một mình. Chúng ta sẽ tập cùng nhau và sẽ sẵn sàng cho buổi trình diễn thử vào thứ Bảy tới”. Khi Kate nhắc tới từ “trình diễn”, đôi má cô gái lại đỏ hồng lên. Annabel Elliott là một tiểu thư trẻ trung, xinh đẹp, tinh tế và lịch thiệp. Duy chỉ có một điểm đáng tiếc là cô dễ bị xúc động quá. Mỗi khi Elliott xúc động hay căng thẳng, hai gò má vốn nhợt nhạt của cô lại đỏ bừng lên như thể chúng vừa bị tát rất mạnh vậy. Và Elliott thường xuyên bị xúc động hoặc căng thẳng. Một số phụ nữ trẻ tìm đến vịnh Spindle để chữa tính nhút nhát, để phục hồi sau một chuyện tai tiếng hoặc một trận ốm. Còn Elliott được gửi tới đây với một hi vọng khác: liều thuốc chữa trị chứng sợ sân khấu. Kate đã hướng dẫn Elliott đủ lâu để nhận ra rằng khó khăn của cô không phải do thiếu tài năng hay sự chuẩn bị. Elliott chỉ cần tự tin lên mà thôi. “Có lẽ một vài bản nhạc mới sẽ có tác dụng tốt”, Kate gợi ý. “Âm nhạc mới mẻ, tươi vui thậm chí còn tốt cho tinh thần của cô hơn nhiều so với một chiếc mũ mới”. Một ý tưởng bỗng lóe lên. “Cô sẽ tới Hastings tuần này và xem xem có thể tìm thấy gì”. Thực sự thì Kate đã lên kế hoạch tới Hastings với mục đích hoàn toàn khác. Nàng có một cuộc hẹn ở đó - cuộc hẹn mà nàng đã trì hoãn. Mua bản nhạc mới là lý do tuyệt vời cho chuyến đi. “Em không hiểu sao em lại ngớ ngẩn tới vậy”, cô gái trẻ có gương mặt vẫn đỏ hồng than thở. “Bao năm qua, em đã được dạy dỗ tử tế. Và em cũng rất thích chơi đàn. Thực sự rất thích. Nhưng khi có người khác lắng nghe, em gần như đông cứng lại. Em đúng là hết thuốc chữa rồi”. “Không đâu. Em vẫn còn cơ hội. Chuyện gì rồi cũng có cách giải quyết thôi”. “Cha mẹ em…” “Cha mẹ em không tin rằng em hoàn toàn vô vọng. Nếu không, họ đã chẳng gửi em đến đây”, Kate ngắt lời. “Họ muốn em có được một màn ra mắt giới thượng lưu thành công. Nhưng cô không biết áp lực lớn mà họ bắt em phải chịu đâu. Cô Taylor, cô không hiểu nổi cảm giác đó như thế nào”. “Không”, Kate thú nhận. “Đúng là có thể cô không hiểu được”. Elliott ngước mắt lên, dường như bị tác động mạnh bởi câu nói của Kate. “Em xin lỗi. Vô cùng xin lỗi. Em không có ý xúc phạm gì đâu. Em thật vô tâm quá”. Kate gạt đi lời xin lỗi. “Đừng ngốc thế chứ. Sự thật là thế mà. Cô là một đứa trẻ mồ côi. Em hoàn toàn đúng - Cô có thể không biết được cảm giác khi cha mẹ đặt quá nhiều mong muốn và kỳ vọng vào mình”. Mặc dù tôi có thể đánh đổi bất cứ thứ gì để trải nghiệm cảm giác đó, dù chỉ trong một ngày thôi. Kate tiếp tục. “Nhưng cô biết chắc chắn rằng em sẽ thấy lần này thật khác biệt vì em đang được sống giữa bạn bè. Đây là vịnh Spindle. Ở đây, tất cả chúng ta đều có gì đó hơi khác thường. Hãy nhớ rằng, mọi người trong làng đều ủng hộ em”. “Tất cả mọi người ư?” Câu hỏi đến cùng với một cái liếc vội vàng, thận trọng của Elliott hướng về phía người đàn ông cao lớn, đơn độc ngồi ở phía quầy bar. “Anh ta thật cao lớn”, Elliott thì thầm. “Và trông rất đáng sợ nữa. Mỗi lần em bắt đầu chơi đàn, em có thể thấy anh ta cau mày”. “Không cần thiết phải suy diễn thế đâu. Anh ta là quân nhân và em biết đấy, những lần bom nổ có thể khiến cho đầu óc người ta hơi lộn xộn đôi chút”. Kate vỗ nhẹ lên cánh tay Elliott tỏ ý động viên. “Đừng bận tâm tới anh ta làm gì. Hãy ngẩng cao đầu, nở một nụ cười tươi và tiếp tục chơi đàn”. “Em sẽ cố, nhưng anh ta… thật khó phớt lờ anh ta”. Đúng thế. Đúng là rất khó để không chú ý tới anh ta.   Mời các bạn đón đọc Chuyện Tình Lúc Nửa Đêm của tác giả Tessa Dare.
Mạt Lộ
Đó là lần đầu tiên tôi rời thành phố vào chiến khu. Trước năm 1975 ở  Nam Việt Nam chuyện ấy chẳng có gì lạ, vì hàng ngàn phụ nữ trẻ như tôi cũng từng làm như vậy. Họ đã chiến đấu, đã bị thương, đã chết, đã bị bắt làm tù binh hay đã chiến thắng trở về trong chiến dịch Hồ Chí Minh như trường hợp của tôi. Vì thế câu chuyện của tôi sẽ không có gì đáng nói nếu lúc ở chiến khu tôi không gặp ông già ấy. Ông không phải là một người bình thường. Ông là một nhân vật đầy quyền lực của "R". "R", một cái tên huyền thoại, một thánh địa cách mạng, vừa là nỗi ám ảnh vừa là món nợ của nước Mỹ. Nhưng "R" là gì? Có thể nó được viết tắt từ chữ "Rừng". Nhưng khu rừng mà tôi đến cũng không có gì ghế gớm, không có gì bí ẩn. Nó chỉ là một vùng cây cối rậm rạp, bằng phẳng, hoang sơ và thầm lặng. Nhưng ở đó có một căn nhà đặc biệt. Đó là căn nhà của ông già ấy. Tuy nó cũng đơn sơ như những căn nhà khác nhưng nó vừa là Tử cấm thành vừa là Hậu cung của ông ta. Nó nằm giữa một khu vực cực kỳ bí mật và vô cùng quan trọng mà người ta quen gọi là Trung Ương Cục Miền Nam, tức "R". Và người đàn ông năm mươi tuổi ấy, tuy không là hoàng đế nhưng quyền lực của ông bao trùm thiên hạ. Người ta quen gọi ông là "vương gia". Việc tôi lọt vào hậu cung của ông không phải là vận may mà là một tai họa. Về sau này nó đã dồn tôi vào những bi kịch liên tiếp mà tôi không biết phải chống đỡ như thế nào. Ít ai được thấy mặt vương gia. Ông như cái bóng chập chờn sau tấm vách nylon mờ đục. Rừng thì đen kịt, ngửa bàn tay không thấy, nhưng trong căn lều của ông, ngọn đèn dầu vẫn in rõ cái bóng lên vách. Ông đi lại. Ông nghe đài. Ông đọc báo cáo. Ông uống trà. Và ông chờ tôi. Lúc ấy tôi đang ở mé rừng. Trời mới chạng vạng. Giao liên bàn giao tôi cho "người dẫn đường". Đó là một người đàn ông lạnh lùng. Một chiếc quần kaki sờn rách. Áo bà ba đen và một cái khăn rằn quấn quanh cổ. Khẩu AK mang sau lưng, mũi súng chĩa xuống đất. Anh ta ngồi đợi trên doi đất nhỏ cạnh mé nước. - Chào đồng chí, tôi nói. Nhưng anh ta làm thinh, ra hiệu cho tôi đi theo. Hai người băng qua những vườn xoài thấp. Trong bóng tối, lối mòn châu thổ vẫn ánh lên một màu trắng đục vì thế chúng tôi đi khá nhanh. Tới một cái chốt kiểm soát, người dẫn đường nói mật khẩu rồi đi qua cây cầu khỉ. Thấy người đàn ông lầm lì quá, tôi bắt chuyện: - Đồng chí là người ở đây? - Không. Tôi là bắc kỳ. - Bộ đội? - Không phải bộ đội. Bắc kỳ di cư. Câu trả lời lạ quá làm tôi không dám hỏi nữa. Đột nhiên có tiếng động cơ rất lớn từ sông cái tràn vô. Người dẫn đường ra hiệu dừng lại, nghe ngóng. Tiếp theo là tiếng loa phóng thanh vang trên mặt sông: - Hỡi các cán binh cộng sản. Các anh đã bị bao vây. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa sắp tấn công càn quét khu căn cứ này. Hãy ra hàng, nếu không các anh sẽ bị tiêu diệt. Lập tức trực thăng quần đảo ngay trên đầu. Người dẫn đường nắm tay tôi chạy nhanh đến một chốt vũ trang. - Cho cô này xuống HBM. Tổ trưởng vũ trang nói: - Còn một cái cuối cùng. Hai đồng chí xuống đi. Anh ta đỡ tôi xuống rồi nhảy theo. Kéo nắp hầm đậy lại. Hơi đất ẩm và bóng tối làm tôi ngộp thở. Người dẫn đường nói: - Bây giờ không phải lúc ngại ngùng đâu. Đừng đứng sát vách đất. Hãy nép vào tôi đi. Sẽ thấy dễ thở hơn. Đó là kinh nghiệm chiến trường. Bao giờ một nam một nữ ở chung hầm bí mật cũng có nhiều hy vọng sống sót hơn là hai người đồng giới tính. Quả nhiên hơi ấm của tấm lưng người đàn ông làm tôi thấy dễ chịu hơn. Trên mặt đất súng nổ lẻ tẻ. Chỉ một lúc sau đại liên từ trên trực thăng bắn xuống áp đảo. Cành xoài gãy răng rắc. Tiếng chân chạy nặng nề ngang qua miệng hầm. Cũng may, căn cứ này đóng trên một địa hình sông nước nên xe tăng không vào được. Có tiếng chân nhiều người khuấy động mặt đất bên trên. Người dẫn đường rút chốt lựu đạn cầm ngay trước ngực. Anh nói nhỏ vào tai tôi: - Nếu tụi nó "xăm" trúng miệng hầm thì tôi sẽ bung nắp hầm lên, ném lựu đạn và dzọt lẹ ra bờ sông nhé. Cô biết bơi không? Nhưng những bàn chân mang giày "xô" đã đi xa dần. Một đợt trực thăng nữa đảo tới. Đạn M60 lại trút xuống như sấm sét. Nắp hầm rung chuyển. Tôi co rúm lại. Không biết trận càn kéo dài bao lâu vì sự gầm thét của bom đạn đã làm lu mờ mọi khả năng phán đoán. Khi chiến trường im tiếng súng, người dẫn đường hé nắp hầm nhìn lên thì thấy trời đã sáng. Chúng tôi lại lên đường. Người đàn ông lấy lương khô đưa cho tôi. Lúc hai người đối mặt nhau tôi ngạc nhiên khi nhận ra một chàng trai đẹp đẽ, nho nhã. Tôi hỏi: - Anh tên gì? - Trần Vũ. - Sao buồn quá vậy? - Không sao. Lại cắt rừng mà đi. Rừng sáng. Thưa thớt. ° Sau bữa cơm chiều, nhà văn Đức Hải đến gặp tôi: - Sao? Ở luôn đây được không? - Mọi người ở được thì em ở được. - Vậy mà có người muốn chiêu hồi đấy. Cô phải cẩn thận chớ nên tiếp xúc nhiều. - Ai vậy? Ông nhà văn liếc nhìn về phía Trần Vũ lúc đó đang nằm trên võng hút thuốc lá. Tôi nói: - Đồng chí ấy có vẻ bí ẩn. Đức Hải cười khô một tiếng rồi quay lưng đi. Mười Thảo tiến lại chỗ tôi. - Em cho chị cây đèn dầu. Ở trong rừng phải có 3 chữ Đ. Đó là Đèn, Đài và Đùng. - Đùng là gì? - Là súng. Rồi chị cũng sẽ có một khẩu. Tôi hỏi: - Anh Trần Vũ là nhà văn hả? - Ảnh là trung úy ngụy đấy. Tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt nhưng ghét Mỹ ngụy nên bỏ vô đây. Ban đầu ảnh viết văn, viết báo hăng lắm. Rất phong độ. - Sao thấy ảnh buồn? - Người ta không tin ảnh. Bị theo dõi. Bị ông Đức Hải bắt khai lý lịch hoài. - Tại sao? - Không biết. Ảnh nói với em là lúc đầu ảnh rất tự hào về sự chọn lựa. Bây giờ thì tấn thoái lưỡng nan. Em thấy ảnh như bị thất chí, bị trầm cảm. Em nghĩ tại sao người ta lại đối xử với ảnh như vậy? Người bình thường theo cách mạng thì "tốt" có một lần. Người bên kia chiến tuyến mà theo cách mạng thì phải "tốt đến hai lần". Chị có đồng ý với em không? - Chị chưa hiểu nhiều về ảnh. ° Đèn trong căn nhà lợp lá trung quân ấy được thắp sáng đầu tiên. Vương gia đang ngồi uống trà. Hình như trên tay có cầm một cuốn sách. Theo lịch làm việc, tối nay tám giờ tôi phải đi gặp ông. Tôi nghĩ nếu mình bước vô căn phòng ấy thì mình cũng sẽ là một cái bóng. Những người đứng bên ngoài cũng sẽ nhìn thấy bóng tôi in trên bức vách làm bằng tấm nylon xám đục. Tuy nhiên khi tôi bước vô thì ngọn đèn dầu đã được dịch ra sát của sổ, vì thế ở ngoài nhìn vào chỉ thấy có vùng sáng của ngọn đèn. Vương gia ngồi trên cái ghế tre, ra hiệu cho tôi ngồi đối diện. Ông hỏi tôi về công tác thanh niên ở đô thị, và đặc biệt chú ý đến những cán bộ Đoàn đang hoạt động dưới danh nghĩa Phật giáo. Tuyệt nhiên ông không đả động gì đến chồng tôi hiện bị tù Côn Đảo. Ông chỉ nói: - Rất tiếc là cháu đã bị lộ. Chú đã bố trí một đồng chí khác về thay chỗ của cháu. Cháu sẽ đảm nhiệm công tác khác, quan trọng hơn. Còn bây giờ đã đến đây thì mọi việc có chú lo. Chú coi cháu như con nuôi vậy. Ông đứng lên, đưa tay ra. Tôi bắt tay ông. Ông vuốt tóc tôi bằng những ngón tay dịu dàng. Tôi không dám cưỡng lại. Tôi để yên một lúc rồi bước ra ngoài đêm. Lúc ấy ngoài mé rừng nhà văn Đức Hải xách đèn pin đi rảo một vòng khu lán trại. Bao giờ ông ta cũng dừng lại chỗ gốc cây bằng lăng cách võng của Trần Vũ chừng bốn mét. Và lắng nghe. Mọi tối, giờ này, Trần Vũ thường nghe đài BBC nhưng bữa nay hắn nghe cái đài quái gì lạ hoắc. Đức Hải nhích tới mấy bước, cũng không nghe được, bèn tới sát võng. - Ông nghe cái gì vậy? *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. Mời các bạn đón đọc Mạt Lộ của tác giả Đào Hiếu.