Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Biệt Thự Longbourn

Những nhân vật chính trong Biệt thự Longbourn chỉ hiện diện về mặt tinh thần trong Kiêu hãnh và Định kiến. Họ tồn tại để phục vụ gia đình Bennet. Họ gửi thư và đánh xe ngựa; họ làm việc vặt khi không ai muốn ra khỏi nhà - họ là “những người được ủy thác” để đi lấy những bông hồng đính giày cho buổi dạ hội ở Netherfield dưới cơn mưa rào. Nhưng họ - ít nhất trong tâm trí tôi - cũng là con người.  Biệt thự Longbourn đào sâu vào quá khứ của các nhân vật này, và kéo dài sau cả cái kết hạnh phúc của Kiêu hãnh và Định kiến; nhưng ở những sự kiện trùng lặp trong cả hai cuốn sách, chúng được mô tả chính xác như trong cuốn sách của Jane Austen. Khi một bữa ăn được dọn ra trong Kiêu hãnh và Định kiến, nó đã được chuẩn bị ở gian bếp của Biệt thự Longbourn. Khi những tiểu thư nhà Bennet đến dự vũ hội trong cuốn sách của Austen, họ đã rời cỗ xe ngựa trong cuốn sách này. Tôi chỉ đặt tên cho những nhân vật vô danh - người hầu, người đánh xe, cô hầu gái - và dành vai trò nấu nướng kiêm quản gia cho bà Hill; sự sắp xếp như vậy là khá phổ biến trong những gia đình với quy mô và vị thế như vậy. Nhưng những gì xảy ra ở gian nhà dưới giữa các gia nhân, khi Elizabeth và Darcy còn bận rộn yêu đương trên nhà chính, thì tôi nghĩ hoàn toàn tùy thuộc vào họ. - Jo Baker - *** BIỆT THỰ LONGBOURN (JO BAKER) - NGOẠI TRUYỆN ĐẶC SẮC CỦA "KIÊU HÃNH VÀ ĐỊNH KIẾN" Không ai có thể nói trước được rằng cuộc đời chúng ta, những chọn lựa của chúng ta là sai hay đúng, và sai đúng ấy ở mức độ như thế nào... Nhưng cuộc tình giữa Elizabeth Bennet và Fitzwilliam Darcy trong Kiêu Hãnh và Định Kiến đã thành công, không chỉ nhờ sự vượt qua các rào cản từ phía họ, mà chính còn bởi những xung lực ngầm, những sự trợ giúp, những tác động rất nhỏ theo hiệu ứng cánh bướm, từ những người thân chung quanh. Trong đó, có các gia nhân của Biệt Thự Longbourn. Nhưng đồng thời, một người đọc không phải là độc giả của Jane Austen vẫn có thể đọc Biệt Thự Longbourn mà không cần quan tâm hay biết trước về cốt truyện của Kiêu Hãnh và Định Kiến. Đó chính là điểm độc đáo của một cuốn sách tiếp nối sự sáng tạo và thành công của một kiệt tác trước đó. *** Cuộc đời những nhân vật vô danh trong 'Kiêu hãnh và định kiến. Khi Elizabeth và Darcy trong "Kiêu hãnh và định kiến" đang mải tán tỉnh nhau trên lầu, những người hầu cận cũng đang bận rộn với chuyện tình cảm của riêng họ. Biệt thự Longbourn của tác giả Jo Baker đã đưa ra những góc nhìn khác về các sự kiện trong Kiêu hãnh và định kiến thông qua câu chuyện của hai người hầu vô danh.  Cuốn sách xoay quanh một phần cuộc đời của Sarah - cô hầu gái ở Longbourn, biệt thự của gia đình Bennet. Gia đình Bennet có 5 con gái và họ là nhân vật chính trong tiểu thuyết nổi tiếng Kiêu hãnh và định kiến của Jane Austen. Sarah đem lòng cảm mến chàng người hầu kỳ lạ có tên James. Cuộc tình của họ diễn ra song song với cuộc tình của Elizabeth và Darcy. Tuy nhiên, vì bí ẩn thân thế của James, cuộc tình của hai người hầu gặp nhiều sóng gió hơn. Quá khứ phức tạp của James dẫn anh đến nhiều rắc rối. Khi Wickham, một sĩ quan quân đội, người mà sau này trở thành chồng của Lydia (cô em út nhà Bennet) phát hiện ra quá khứ của James, anh phải lặng lẽ rời đi mà không để lại lời từ biệt cho Sarah.  Cô nàng Sarah, vì tình yêu của đời mình, đã từ bỏ công việc hầu gái cho cô chủ Elizabeth ở biệt thự của Ngài Darcy để bước vào cuộc hành trình đầy gian khổ đi tìm James.  Cuốn sách Biệt thự Longbourn được Jo Baker xuất bản năm 2013, bao gồm đủ cốt truyện của Kiêu hãnh và định kiến để một người dù từng đọc tác phẩm kinh điển này hay chưa đọc, đều không cảm thấy bị lạ lẫm. Thậm chí, một người say mê Jane Austen cũng có thể hài lòng với những gì được miêu tả trong cuốn sách này. Khi được hỏi về ý tưởng viết nên cuốn sách, tác giả Jo Baker đã chia sẻ: "Những nhân vật chính trong Biệt thự Longbourn chỉ hiện diện về mặt tinh thần trong Kiêu hãnh và định kiến. Họ tồn tại để phục vụ gia đình Bennet.  Họ gửi thư và đánh xe ngựa. Họ làm việc vặt khi không ai muốn ra khỏi nhà. Họ là "những người được ủy thác" để đi lấy những bông hồng đính giày cho buổi dạ hội ở Netherfield dưới cơn mưa rào. Nhưng họ - ít nhất trong tâm trí tôi - cũng là con người. Biệt thự Longbourn đào sâu quá khứ của các nhân vật này, và kéo dài sau cả cái kết hạnh phúc của Kiêu hãnh và định kiến. Nhưng ở những sự kiện trùng lặp trong cả hai cuốn sách, chúng được mô tả chính xác như trong cuốn sách của Jane Austen.  Khi một bữa ăn được dọn ra trong Kiêu hãnh và định kiến, nó đã được chuẩn bị ở gian bếp của Biệt thự Longbourn. Khi những tiểu thư nhà Bennet đến dự vũ hội trong cuốn sách của Austen, họ đã rời cỗ xe ngựa trong cuốn sách này.  "Tôi chỉ đặt tên cho những nhân vật vô danh - người hầu, người đánh xe, cô hầu gái - và dành vai trò nấu nướng kiêm quản gia cho bà Hill. Sự sắp xếp như vậy là khá phổ biến trong những gia đình với quy mô và vị thế như vậy. Nhưng những gì xảy ra ở gian nhà dưới giữa các gia nhân, khi Elizabeth và Darcy còn bận rộn yêu đương trên nhà chính, tôi nghĩ hoàn toàn tùy thuộc vào họ", tác giả cho biết. *** Người quản gia… Bà Hill và hai người giúp việc. Quần áo thì chắc chắn phải được giặt trước khi mặc, cũng như không thể ra ngoài đường mà không mặc đồ, ít nhất là ở Hertfordshire này, đặc biệt là vào tháng Chín. Ngày giặt giũ là không thể tránh khỏi, nhưng viễn cảnh gột rửa đống đồ vải của gia đình hằng tuần vẫn khá ảm đạm trong mắt Sarah. Trời vẫn lạnh buốt vào lúc bốn giờ ba mươi sáng, khi cô bắt đầu làm việc. Cần gạt nước bằng sắt lạnh như băng, mặc dù đã đeo găng nhưng những vết nẻ trên tay cô vẫn nhói đau khi cô bơm nước từ dưới lòng giếng tối om lên và đổ vào cái xô để sẵn bên cạnh. Còn cả một ngày dài phía trước, và công việc này mới chỉ là khởi đầu mà thôi. Mọi thứ xung quanh đều tĩnh lặng. Đàn cừu chậm rãi đi thành từng cụm trên sườn đồi; những con chim nấp trong bờ rào xù lông như những nùi bông kế; trong rừng, một con nhím bò qua đám lá vàng tạo nên tiếng kêu sột soạt; dòng suối phản chiếu ánh sáng lấp lánh lên những tảng đá. Dưới kia, trong khu chuồng gia súc, lũ bò đều đặn phả ra những làn hơi trắng mờ, còn ở chuồng bên, cô lợn nái nằm khụt khịt trong lúc đàn con tranh nhau bú mẹ. Bà Hill và chồng bà đang chìm trong giấc ngủ vì kiệt sức trên căn gác xép nhỏ bé; và ở dưới đó hai tầng, trong phòng ngủ chính, ông bà Bennet đang ngáy đều đều dưới tấm chăn thêu. Những tiểu thư trẻ, năm người cả thảy, đều đang ngủ trên giường, mơ về những gì mọi cô gái trẻ vẫn mơ. Và từ trên cao kia, ánh sao lạnh lùng chiếu xuống mái nhà lợp đá, khoảng sân lát đá, căn nhà phụ, bụi dâu và cả khu đất hoang nhỏ bên kia bãi cỏ, xuống bầy gà lôi đang túm tụm với nhau, và xuống Sarah, một trong hai gia nhân ở Longbourn, người đang kéo cần gạt nước, đổ đầy xô và vần nó sang một bên. Lòng bàn tay cô lúc này đã nhức nhối, nhưng cô vẫn kéo một cái xô khác sang để đổ đầy nó. Trên những ngọn đồi phía đông, bầu trời đã chuyển sang màu chàm trong trẻo. Sarah ngước nhìn lên, kẹp hai bàn tay vào nách, vừa thở ra khói vừa mơ về vùng đất hoang dã cuối chân trời kia, nơi mà mặt trời đã lên chiếu sáng rực rỡ, và khi ngày của cô kết thúc, nó vẫn tiếp tục chiếu sáng ở một nơi nào đó khác, như Barbados, Antigua và Jamaica, nơi những người đàn ông da đen cởi trần làm việc; chiếu lên toàn bộ châu Mỹ, nơi những người da đỏ hầu như không mặc quần áo, và do đó có rất ít đồ phải giặt; và một ngày nào đó, cô sẽ đến những vùng đất ấy và không bao giờ phải giặt đồ lót cho người khác nữa. Bởi vì, cô nghĩ trong khi đang móc những xô nước vào hai đầu đòn gánh, cúi xuống đỡ lấy nó rồi loạng choạng đứng thẳng lên, thực sự là không ai đáng phải giặt đống quần áo bẩn của người khác. Các tiểu thư có thể cư xử như những bức tượng thạch cao mịn màng và kín kẽ dưới lớp quần áo lượt là, nhưng khi họ vứt những bộ đồ lấm lem chờ được đem đi giặt xuống sàn phòng ngủ, bản chất yếu đuối, dơ dáy, cộc cằn của họ sẽ bị phơi bày. Có lẽ đó là lý do vì sao họ thường ra lệnh cho cô từ phía sau khung thêu hay khi đang cúi mặt đọc sách; cô là người đã vò sạch những mảng ố do mồ hôi, vết bẩn hay máu đến tháng của họ; cô biết họ không phải là những thiên thần tinh khôi như người ngoài vẫn nghĩ, và vì thế họ không dám nhìn thẳng vào mắt cô. Đống xô nước chao nghiêng khi Sarah loạng choạng đi qua sân; cô vừa bước tới bên cánh cửa phòng giặt thì trượt chân và mất thăng bằng. Khoảnh khắc ấy như được kéo dài, đủ để cô nhìn thấy đống xô nước vụt bay lên và văng ra, tuột khỏi đòn gánh, hất hết nước ra ngoài, khiến những gì cô làm nãy giờ bỗng chốc trở về số không, và cô còn kịp nhận ra khi sắp tiếp đất, cơn đau đang đón chờ cô. Rồi thì những cái xô rơi xuống đất và nảy lên, làm cho những con quạ đậu trên mấy cây dẻ gai giật mình kêu quang quác, còn Sarah thì đập mạnh người xuống nền sân lát đá. Cô đã đánh hơi ra thủ phạm làm cô trượt chân: bãi phân lợn phía dưới. Con lợn nái đã xổng ra ngày hôm qua, cả đàn lợn con đã chạy theo nó và chưa ai kịp dọn dẹp sau đó vì chẳng ai có thời gian. Công việc mỗi ngày đều bị dồn ứ đến ngày hôm sau, và không có việc nào được hoàn thành cả, vì vậy chẳng ai có thể nói câu: “Xem này, công việc hôm nay đã xong hết rồi.” Mọi việc cứ dồn ứ lại, uể oải và ngổn ngang để khiến bạn giẫm lên chúng và trượt chân vào buổi sáng. Sau bữa sáng, bên bếp lửa, Lydia vừa thu hai chân lên xếp bằng, vừa nhâm nhi ly sữa có đường và phàn nàn với bà Hill. “Bà không biết bà may mắn thế nào đâu, bà Hill. Được giấu mình ở nơi ấm áp và đẹp đẽ thế này.” “Đấy là cô nghĩ vậy thôi, cô Lyddie.” “Ồ, tôi nghĩ vậy thật đấy! Bà có thể làm gì tùy thích đúng không, mà không có ai lượn lờ xung quanh và chỉ trích bà. Chúa ơi! Nếu như tôi phải nghe thêm giọng điệu cảnh cáo của Jane một lần nữa - và đấy là tôi mới chỉ thử quậy một chút…” Ở phòng kế bên, cạnh những bậc thang dẫn lên phòng giặt đồ, Sarah đang còng lưng trên tấm ván giặt, vò sạch phần viền áo đã bị ố. Chiếc váy lót ngập sâu ba thước trong bùn mà cô nhặt lên từ sàn phòng ngủ của các cô gái đã được ngâm một đêm trong dung dịch kiềm. Xà phòng không lay chuyển được vết bẩn, nhưng lại gặm nhấm đôi bàn tay giờ đã nẻ và nứt toác của cô, khiến chúng nhức nhối. Sarah vẫn nghĩ, nếu Elizabeth phải tự giặt váy lót của mình, thì chắc chắn cô ấy sẽ cẩn thận hơn khi mặc chúng. Chiếc thùng hấp bốc hơi nghi ngút, một lô quần áo đang được ngâm trong đó, ngay cạnh khung cửa sổ mờ hơi nước trước mặt cô. Sarah cẩn thận bước từ ván giặt cạnh chậu rửa sang ván giặt cạnh nồi hấp, qua sàn đá trơn trượt và xỉn màu. Cô thả bộ váy lót vào thùng nước đang nổi bong bóng, nhấc cái gậy giặt lên và nhấn bộ đồ lót chìm xuống để những bóng khí thoát ra, rồi khuấy đều. Cô đã được dạy - và cô cũng phải tin như thế - rằng những bộ đồ lót cần phải được tẩy cho thật trắng trước khi chúng lại bị vấy bẩn trong lần mặc tiếp theo. Polly đang nhúng ngập khuỷu tay trong bồn rửa lạnh buốt, chà mạnh những cái nơ áo của Ngài Bennet trong nước, sau đó nhấc từng chiếc ra rồi lại nhúng vào nước lạnh lần nữa để giũ sạch chúng. “Ta còn bao nhiêu đồ phải giặt nữa nhỉ, chị Sarah?” Sarah nhìn quanh và ước lượng. Những cái chậu đang ngâm đầy đồ vải, những đống đồ sũng nước ở các công đoạn giặt giũ khác nhau. Ở một số nơi khác, người ta thuê thêm người phụ việc trong ngày giặt giũ. Nhưng ở đây thì không. Tại biệt thự Longbourn, họ luôn tự giặt đồ vải bẩn. “Vẫn còn ga trải giường, vỏ gối, và cả quần áo của chúng ta nữa…” Polly lau tay vào tạp dề và giơ tay lên đếm những đống đồ còn lại, nhưng khi thấy tay mình đã ửng đỏ, cô bé cau mày và xoay bàn tay lại, xem xét chúng như thể chúng rất thú vị và không hề liên quan đến cô. Hẳn là chúng đã tê dại rồi, ít nhất là vào lúc này. “Và còn cả đống khăn ăn nữa.” Sarah nói thêm. Giờ đang là khoảng thời gian khó khăn nhất của mỗi tháng, khi mọi người phụ nữ trong nhà đều trở nên nóng nảy, hậu đậu và dễ khóc hơn, chưa nói tới việc đến tháng. Những chiếc khăn ăn đang được ngâm trong chậu riêng, bốc lên thứ mùi đặc trưng không hề dễ chịu - cửa hàng bán thịt; chúng sẽ được đun sôi cuối cùng, lẫn với đống cặn trong thùng đồng trước khi bị đổ đi. “Chị nghĩ chúng ta còn năm chồng đồ nữa cần giặt.” Sarah thở dài rồi kéo kéo phần đường may dưới ống tay áo. Dưới lớp váy mà cô rất ghét, mồ hôi của cô đang tuôn ra như tắm. Đó là bộ váy vải thô mà bà Hill cho là có màu xanh của nước sông Nile, nhưng theo Sarah, nó có màu dịch mật thì đúng hơn; nhưng màu sắc khó chịu của bộ váy này không phải là vấn đề lớn, bởi sẽ chẳng có ai nhìn ngắm cô trong bộ đồ này cả, vấn đề nằm ở các đường may ấy. Nó vốn được may cho cô Mary, để quấn quanh cánh tay mềm mại, chuyên dùng để thêu thùa hoặc đánh đàn dương cầm. Nó không thoải mái và linh hoạt để phù hợp với những công việc đòi hỏi sức lực, và Sarah chỉ mặc bộ váy này bởi bộ đồ còn lại của cô, bộ bằng vải bông pha len xám xịt đã bị ngâm sũng nước và đang được treo trên dây phơi để chờ mùi phân lợn hôi thối bay đi. “Bỏ lượt tiếp theo vào đi.” Cô nói. “Em khuấy nhé, còn chị sẽ vò.” Như thế sẽ đỡ cho đôi bàn tay nhỏ của em, Sarah nghĩ bụng, mặc dù tay của cô cũng mất hết cảm giác rồi. Cô lùi lại khỏi thùng đồng, bước lên ván giặt cạnh bồn rửa để nhường lối cho Polly đi qua. Rồi cô dùng cái kẹp quần áo để lôi một chiếc nơ áo ra khỏi đống bột hồ và quan sát nước keo nhỏ giọt lại vào trong chậu. Polly vừa khuấy cây gậy trong thùng bằng đồng, vừa bóc da môi bằng phần móng tay đã bị cắt cụt lủn. Mắt cô bé vẫn còn sưng đỏ sau khi bị bà Hill mắng vì đã không dọn sân cẩn thận. Buổi sáng ấy, cô đã phải dậy nhóm lửa, xách nước, rồi thì chuẩn bị cho bữa tối ngày Chủ nhật; và khi mọi người ăn xong thì trời đã tối rồi, ai có thể dọn đống phân lợn dưới ánh sao mờ mịt được chứ? Mà chẳng phải lúc đó cô cũng đang phải ngồi cọ đống xoong chảo đấy thôi? Mười đầu ngón tay của cô đã xước hết sau khi cọ những vết cháy sém. Hơn nữa, nếu nghĩ lại thì chẳng phải đó là lỗi của người đã không khép cửa chuồng cẩn thận, khiến cho con lợn nái chỉ cần huých nhẹ là thoát được ra sân hay sao? Họ cũng không nên đổ lỗi cho Polly đáng thương việc Sarah bị ngã và công việc thì bị đình trệ - cô nhìn quanh rồi hạ giọng thì thầm để ông Hill không nghe thấy - mà nên trách chính ông ta, người chịu trách nhiệm trông coi chuồng lợn. Ông ta mới phải chịu trách nhiệm dọn dẹp sân sau chứ? Nhiệm vụ của ông già lôi thôi đó là gì? Tại sao khi cần thì chẳng thấy mặt ông ta đâu? Chẳng phải họ vẫn cứ càm ràm chuyện cần thêm người phụ giúp đấy thôi? Sarah gật đầu đồng tình và thở dài, mặc dù cô đã không còn lắng nghe nữa rồi. Lúc đồng hồ ở sảnh đánh lên tiếng chuông thứ tư, ông bà Hill đang phục vụ mọi người món ăn nhẹ vào ngày giặt giũ: thịt quay còn thừa từ Chủ nhật; hai cô hầu gái thì đang đứng ngoài bãi cỏ để phơi đồ, những tấm vải ướt vẫn còn bốc khói trong khí chiều mát mẻ. Một trong những vết nẻ của Sarah đã nứt toác và đang chảy mủ, khiến cô phải đưa lên miệng và liếm máu đi để không làm bẩn đồ vải. Cô đứng lặng người mất một giây để cảm nhận rõ cái nóng từ lưỡi mình chạm vào làn da lạnh tái, cái nhức nhối của vết nẻ, vị mặn của máu và hơi ấm của môi; vì vậy cô đã không thấy rõ, và có thể cô đã nhìn nhầm, nhưng trong thoáng chốc, cô nghĩ mình đã thấy thứ gì đó di chuyển trên con đường cắt ngang ngọn đồi đối diện, con đường nối giữa đường vận chuyển gia súc cũ tới London và làng Longbourn, và xa hơn nữa là trạm đóng quân Meryton mới. Mời các bạn đón đọc Biệt Thự Longbourn của tác giả Jo Baker & Phương Anh, Việt Anh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bao Điều Không Nói
"Lydia đã chết. Nhưng gia đình cô vẫn chưa biết điều này.”  Đó là mở đầu của cuốn tiểu thuyết về một gia đình lai Mỹ - Á sống tại thị trấn nhỏ ở Ohio năm 1970. Lydia là đứa con mà ông bà Lee rất mực yêu thương, và cô được kỳ vọng sẽ hoàn thành những giấc mơ dang dở của cha mẹ mình. Nhưng cuộc đời không phải luôn bằng phẳng. Cái chết của Lydia đã làm đảo lộn mọi dự định cũng như phá vỡ sự cân bằng mong manh của gia đình cô.Trong quá trình đi tìm manh mối về cái chết của Lydia, những bí mật của gia đình Lee dần được hé lộ… Cuốn tiểu thuyết không đơn thuần kể về một án mạng, nó còn là câu chuyện xúc động về gia đình, về ước mơ, khát khao và lầm lỗi. Đặc biệt, sự giằng xé trong những thân phận ngụ cư, loay hoay tìm giấc mơ nơi "Miền đất hứa", cũng là một điểm nhấn kéo dài âm ỉ trong suốt mạch truyện, đầy day dứt và xót xa. *** Lydia chưa biết bơi. Dù cô đã đi tập bơi suốt cả mùa hè với anh Nath. Lydia rất muốn thỏa cái cảm giác nổi lơ lửng trên mặt nước là như thế nào. Nhưng đấy phải là lúc cô còn sống cơ. Nhìn từ bên ngoài, nhà Lee là một gia đình hạnh phúc. Ông chồng James là một giáo sư được yêu mến tại trường đại học, bà vợ Marilyn giỏi nấu nướng và đảm đang. Ba người con của họ đều tài giỏi, đứa lớn Nath thì được nhận vào trường Harvard, đứa thứ hai Lydia là học sinh xuất sắc ở trường, đứa út Hannah lại là một cô bé cực kỳ ngoan ngoãn. Nhưng trong tâm trí của mỗi thành viên lại có những suy nghĩ riêng mà không ai hiểu được. James vật lộn trong đống bài vở của đám sinh viên, ông chỉ mong muốn được hơi ấm phụ nữ ôm lấy mình. Tuy nhiên ông lại không nói với vợ con. Marilyn ngày đêm mơ đến lớp Hóa - Sinh vẫn còn đang dang dở tại trường đại học, giấc mơ trở thành bác sĩ vẫn ám ảnh bà. Khi biết mình không còn cơ hội nào, Marilyn dồn giấc mơ đó cho đứa con gái bà yêu quý nhất, Lydia. Nhưng bà cũng không nói những điều đó với chồng con. Kể từ xem chương trình khoa học trên TV, Nath bắt đầu đam mê thiên văn học, cậu muốn sau này trở thành phi hành gia hoặc làm việc trong NASA. Vậy mà trong nhà không một ai quan tâm đến điểm A môn Vật lý cậu giành được, hay lá thư trường Harvard gửi về mời cậu nhập học. Nath ghét bố mẹ, ghét cả cô em gái cậu từng rất yêu thương Lydia, và chỉ muốn nhanh chóng thoát khỏi căn nhà này. Cuối cùng Nath vẫn không biến những suy nghĩ đó thành lời nói. Hannah giống như một đứa trẻ vô hình trong gia đình. Họ quên bày bát đĩa của cô, không bao giờ hỏi chuyện học ở trường, không dẫn cô đi tập bơi, và thậm chí đôi khi cũng quên mất sự tồn tại của cô trên đời. Thú vui duy nhất của Hannah là trộm đồ đạc trong nhà, cô cất giữ chiếc bật lửa của bố, dây chuyền của chị Lydia và vô số đồ lặt vặt khác. Nhưng cô không bao giờ kể chuyện đó cho ai biết. Còn Lydia rất muốn nói cho bố rằng cô không hề có bạn bè nào trong suốt nhiều năm qua, nói với mẹ rằng cô không còn hiểu được các công thức Vật lý phức tạp kia, và đừng mua thêm sách cho cô nữa. Lydia muốn tâm sự với Nath rằng cô không muốn anh rời đi, khi ngôi nhà này ngột ngạt quá đến mức cô không thể chịu đựng nổi. Lydia cũng luôn muốn dặn Hannah, nếu em thực sự muốn điều gì, em phải nói ra, nếu không em sẽ hối hận cả đời. Tuy vậy, chính Lydia lại không làm được điều đó. Tất cả những điều họ không nói đã trở thành ác mộng. Xác của Lydia được tìm thấy đáy hồ, mất một nửa mặt vì bị ngâm quá lâu trong nước. Một cái xác câm lặng nhưng phơi bày hết một thứ gì đó đã mục ruỗng từ lâu trong chính nhà Lee, những người Trung Quốc duy nhất trong thị trấn này. Lấy bối cảnh những năm 1970 tại một thị trấn nhỏ nước Mỹ, Bao điều không nói của Celeste Ng đã vẽ nên một bức tranh nhức nhối ẩn đằng sau vẻ bên ngoài yên bình giả tạo. Cái chết dưới hồ của một cô gái có thể là chủ đề bàn tán cho cả thị trấn trong suốt thời gian dài, nhưng quan trọng hơn đó là một cô gái Trung Quốc mắt xanh. Sự phân biệt chủng tộc ngầm len lỏi qua cộng đồng nhỏ bé này là một cái tát thẳng vào mặt những kẻ ngoại tộc ở đây. Với mạch truyện chậm rãi và buồn thảm, Bao điều không nói thử thách sự kiên nhẫn cực độ của người đọc. Nếu cuốn sách được chuyển thể, độc giả có thể mường tượng được màu sắc u tối và xám xịt trong từng cảnh của phim hiện ra như thế nào. Nhưng trên tất cả, cuốn sách là bài học giáo dục sâu sắc dành cho các bậc phụ huynh, người trước giờ vẫn luôn ảo tưởng rằng mình đã hiểu hết tâm tư của những đứa trẻ. *** Lydia đã chết. Nhưng gia đình cô vẫn chưa biết điều này. Năm 1977, ngày 3 tháng năm, lúc 06:30 sáng, không ai thấy có gì bất thường ngoài một thực tế vô thưởng vô phạt: Lydia muộn bữa ăn sáng. Như mọi khi, bên cạnh bát ngũ cốc, mẹ của Lydia đặt một cây bút chì mài nhọn và sáu bài tập Vật lý về nhà đã được đánh dấu nháy nhỏ cho cô. Đánh xe đến chỗ làm, bố của Lydia quay đĩa số về WXKP, Kênh Tin tức Hay nhất Tây Bắc Ohio, bực mình bởi tiếng rè rè của sóng vô tuyến. Trên cầu thang, anh trai của Lydia ngáp ngắn ngáp dài, đắm mình trong cơn mơ ngủ. Trên chiếc ghế trong góc bếp, em gái của Lydia khòm người, tròn mắt nhìn đĩa ngũ cốc bắp, cố hút từng miếng một, chờ Lydia xuất hiện. Rốt cuộc, cô cũng lên tiếng: “Lydia đang làm mất thời gian hôm nay rồi đấy.” Tầng trên, Marilyn mở cửa phòng con gái mình và trông thấy chiếc giường trống không: mấy góc chăn bông vẫn được xếp gọn gàng, mặt gối vẫn mịn và căng phồng. Mọi thứ vẫn ở yên vị trí của nó. Mớ đồ nhung kẻ màu mù tạt nằm ngổn ngang dưới sàn, cạnh một chiếc vớ sọc cầu vồng. Hàng ruy băng Giải thưởng Khoa học treo trên tường, một tấm bưu thiếp của Einstein. Chiếc túi du lịch nhàu nát trên sàn tủ quần áo. Chiếc cặp đựng sách màu xanh lá nằm rũ trên bàn. Lọ Baby Soft trên nóc tủ với mùi hương phấn dịu ngọt mềm mại vẫn còn đọng trong không khí. Nhưng không có Lydia. Marilyn nhắm mắt lại. Có lẽ, khi bà mở mắt ra, Lydia sẽ ở đó, phủ chăn quá đầu như thường lệ, suối tóc dài xòa xuống. Một giọng điệu gắt gỏng phát ra từ dưới tấm ga trải giường mà, vì lí do nào đó, bà mặc kệ. Con đang trong phòng tắm, mẹ ơi. Con xuống dưới lầu uống nước rồi. Con nằm đây nãy giờ mà. Tất nhiên, khi bà đưa mắt nhìn xung quanh, chẳng có gì thay đổi cả. Các rèm cửa khép kín hắt ánh sáng như một màn hình tivi trống. Xuống cầu thang, bà dừng lại ở cửa nhà bếp, bàn tay đặt lên mỗi bên khung cửa. Sự im lặng của bà đã nói lên tất cả. “Mẹ sẽ kiểm tra bên ngoài” - cuối cùng, bà nói. - “Có thể có lí do nào đó…”. Bà nhìn chằm chằm vào sàn nhà rồi lại hướng về phía cửa trước, như thể dấu chân của Lydia đã bị thảm lau mất dấu vết. Nath nói với Hannah: “Lydia ở trong phòng nó tối qua mà. Anh nghe có tiếng radio. Lúc 11:30.” Cậu ngừng nói, sực nhớ ra cậu đã không chúc em gái ngủ ngon. “Mười sáu tuổi thì có còn bị bắt cóc được nữa không ạ?” - Hannah vặn vẹo. Nath dùng muỗng khuấy bát thức ăn của mình. Ngũ cốc bắp nát ra rồi chìm vào lớp váng sữa. Mẹ chúng trở vào bếp, và vì một khoảnh khắc an nhiên trong lòng, Nath thở hắt ra nhẹ nhõm với ước nguyện: Em đây rồi, Lydia, vẫn bình an vô sự. Điều này thỉnh thoảng vẫn xảy ra - gương mặt anh em chúng giống nhau đến nỗi dù đã nhìn thật chăm chú nhưng bạn vẫn sẽ nhầm lẫn đứa này với đứa khác: chiếc cằm xinh xắn, xương gò má cao và lúm đồng tiền bên má trái giống nhau, bờ vai thon gọn y hệt. Chỉ có màu tóc là khác biệt, tóc Lydia đen nhánh như màu mực trong khi mẹ chúng lại có mái tóc xoăn màu mật ong. Nath và Hannah lại giống bố. Có một lần, một người phụ nữ dừng lại trước chúng trong một cửa hàng tạp hóa và sẵng giọng hỏi: “Người Trung Quốc à?” Và khi chúng vừa kịp trả lời vâng, bà ta không thiết nghe tiếp câu nói dang dở đã gật gật đầu ra chiều hiểu biết. “Nhìn đôi mắt đó là biết ngay mà.” Bà ta nói rồi kéo dài đuôi mắt với một ngón tay. Nhưng Lydia, bất chấp di truyền, bằng cách nào đó sở hữu đôi mắt màu xanh biếc của mẹ, và chúng biết điều này là một trong nhiều lý do Lydia rất được mẹ cưng chiều. Và bố của chúng cũng vậy. Khi Lydia đặt tay lên trán thì trông cô càng giống mẹ hơn nữa. “Chiếc xe vẫn còn ở đây” - bà nói, Nath biết trước như vậy rồi. Lydia không thể lái xe; con bé thậm chí còn chưa có giấy phép lái xe. Tuần trước, nó đã khiến cả nhà kinh ngạc khi thì rớt, và bố nhất định sẽ không để con bé ngồi ở ghế lái khi không có bằng. Nath khuấy ngũ cốc đang dần đặc quánh lại ở đáy bát của mình. Đồng hồ trong sảnh kêu tích tắc, điểm bảy giờ ba mươi phút. Không một ai di chuyển. “Hôm nay chúng ta vẫn đến trường chứ?” - Hannah hỏi. Marilyn lưỡng lự. Sau đó, bà vào lấy ví và chùm chìa khóa với một vẻ mặt tươi tỉnh. “Hai con muộn xe buýt rồi. Nath, lấy xe của mẹ và tiện thể thả Hannah xuống trên đường con đi nhé.” Rồi bà nói tiếp: “Đừng lo lắng. Bố mẹ sẽ tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra.” Bà không nhìn bọn trẻ. Chúng cũng không hề quay lại nhìn bà. Khi hai đứa con đi khỏi, bà lấy ra một chiếc cốc từ chạn bếp, cố giữ bàn tay khỏi run rẩy. Cách đây rất lâu, khi Lydia còn là một đứa bé, Marilyn đã từng để Lydia một mình trong phòng khách, chơi trên một cái chăn, và đi vào nhà bếp để pha một tách trà. Con bé chỉ mới mười một tháng tuổi. Marilyn nhấc ấm nước ra khỏi bếp và quay sang tìm Lydia đang đứng ở ngưỡng cửa. Vừa xoay đi, bà đã đặt nhầm bàn tay trên bếp nóng. Một vết bỏng đỏ au, hình xoắn ốc hiện lên trên lòng bàn tay, rồi bà chạm nó lên môi và nhìn con gái mình qua làn nước mắt. Lydia đứng đó, hoạt bát lạ thường, tựa như đây là lần đầu tiên cô vào nhà bếp. Marilyn đã không nghĩ về những thiếu sót trong bước đầu tiên nuôi dạy con trẻ, hoặc giả con gái mình đã lớn đến nhường nào. Ý nghĩ hiện lên trong tâm trí bà không phải là Mình đã bỏ rơi con bé ra sao? Mà là Con đang che giấu điều gì khác? Nath đã biết rướn người, loạng choạng lật mình và đi chập chững ngay trước mặt bà, nhưng bà lại không nhớ Lydia đã bắt đầu tập đứng khi nào. Dù con bé trông có vẻ rất vững vàng trên đôi chân trần, những ngón tay bé nhỏ hé ra từ gấu áo của bộ đồ yếm. Marilyn thường quay lưng lại, mở tủ lạnh hoặc ủi quần áo. Lydia có thể đã bắt đầu biết đi từ nhiều tuần trước, trong lúc bà mải cúi người làm bếp, và không hề biết điều gì đang diễn ra. Mời các bạn mượn đọc sách Bao Điều Không Nói của tác giả Celeste Ng & Thảo Lê (dịch).
Áo Khoác Lông Chồn
Ngay từ lần xuất bản đầu tiên vào năm 1935, Áo khoác lông chồn đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất nước Mỹ. Nhà văn John O'Hara - tác giả của tiểu thuyết - đã lấy cảm hứng từ thông báo tìm thấy xác một cô gái trẻ đẹp trôi dạt vào bãi biển Long Island. Đây có thể chỉ là một tai nạn, một vụ giết người hay tự tử? Không ai biết được sự thật về cái chết ấy, nhưng John O'Hara đã chộp lấy tấn thảm kịch này và tưởng tượng ra cuộc đời đầy thăng trầm của một người con gái ở New York vào đầu những năm 1930. Nhà văn O'Hara đã khéo léo khắc họa chân dung cuộc sống của cô gái Gloria Wandrous trẻ đẹp từ giây phút cô tỉnh dậy trên một chiếc giường lạ đến khoảnh khắc cuộc đời của cô chấm dứt. Với sự chân thực đến xấc xược và sự thính nhạy độc đáo, Áo khoác lông chồn đã bóc trần những sự thật thường là xấu xa và được che giấu, ẩn nấp dưới cái vẻ bên ngoài của một xã hội quay cuồng vì ảnh hưởng của cuộc Đại Suy thoái. Có thể nói đây là một tuyệt phẩm trên văn đàn nước Mỹ. *** Một nước Mỹ năm 1935 được miêu tả: "Nhiều đam mê ngấm ngầm, nhiều quy tắc bất thành văn. Có nhiều người giàu không kể xiết và có những anh hùng không được tôn vinh…" Tên sách: Áo khoác lông chồn Tác giả: John O’Hara Dịch giả: Đinh Thị Thanh Vân NXB Văn hóa Sài Gòn   Nhắc đến John O’Hara, người ta thường nghĩ ngay tới cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Appointment in Samarra” (Hẹn gặp ở Samarra) – tác phẩm đầu tay gắn với tên tuổi của tác gia nước Mỹ này chưa bao giờ rời khỏi danh sách 100 tiểu thuyết hay nhất mọi thời đại. Nếu như “Hẹn gặp ở Samarra” từng được đánh giá là đạt đến vẻ đẹp kinh điển của một tác phẩm hiện thực trong thế kỷ 20 thì có một tiểu thuyết khác của ông lại được ví như cuốn “biên niên sử của nước Mỹ”. Tác phẩm ấy là “BUtterfield 8” – được xuất bản ở Việt Nam dưới cái tên “Áo khoác lông chồn”. “Áo khoác lông chồn” ra mắt lần đầu năm 1935, thời điểm mà theo tác gia Fran Lebowitz là lúc nền văn hóa cũng như kinh tế của nước Mỹ đang hồi nhiễu loạn: “Năm 1935, nhiều sự việc không nói ra thì tốt hơn. Nhiều đam mê ngấm ngầm, nhiều quy tắc bất thành văn. Có nhiều người giàu không kể xiết và có những anh hùng không được tôn vinh… Năm 1935, chỉ số Dow Jones đóng cửa ở mức 144.13, không những cho thấy tác động của nạn Đại Suy thoái, mà còn truyền đạt một ý nghĩa đặc biệt, đây là một giai đoạn có không ít việc buôn bán ngoài luồng. Năm 1935, Luật cấm buôn bán rượu mới hết hiệu lực được hai năm, sau khi kéo dài mười ba năm liền. Trong nhiều thành công khác, nó còn có tác dụng dân chủ hóa hoàn toàn và rất quái đản tính chất vụng trộm của nền đạo đức, chi phối các cuộc ngoại tình của tầng lớp thượng lưu Mỹ…” Trong bối cảnh ấy, John O’Hara đã tái hiện lại một cuộc đời đầy những biến động của cô gái trẻ Gloria Wandrous. Mồ côi cha từ rất sớm, Gloria sống trong sự bao bọc của một người mẹ mẫu mực và người bác ruột hết lòng yêu thương, chiều chuộng cô. Nhưng rồi bi kịch thứ nhất xảy đến. Gloria bị lạm dụng tình dục bởi thiếu tá Boam – bạn quân ngũ của bác cô. Cô gái 12 tuổi rơi vào tình trạng rầu rĩ và suy nhược, nên buộc phải chuyển đến New York. Từ một thiếu nữ xinh đẹp, thông minh, có giáo dục, Gloria trở thành một kẻ say xỉn, “nhẵn mặt” hầu hết các quán rượu lậu ở New York. Ở tuổi 20, Gloria đã trở thành người đàn bà sành sỏi chốn tình trường. Bước ngoặt lớn thứ hai trong cuộc đời Gloria là gặp gỡ và quen biết Liggett – một người đàn ông đã có vợ và hai con.   Từ một mối quan hệ qua đường, cô gái trẻ đem lòng yêu người đàn ông đáng tuổi bố mình. Rồi trong một lần ở cùng nhau, bị chi phối bởi phút bốc đồng của những đam mê nhục dục, Liggett đã xé rách chiếc váy dạ hội của Gloria. Điều này tiếp tục đẩy cuộc đời Gloria vào một bi kịch mới: Bi kịch đánh cắp chiếc áo khoác lông chồn trị giá 6.000 đô la và được bảo hiểm với giá 3.000 đô la.   Chẳng phải ngẫu nhiên mà tác phẩm mang tên “Áo khoác lông chồn”. Thứ đồ xa xỉ ấy cũng giống như bộ mặt của giới thượng lưu Mỹ trong thời Đại Suy thoái. Nó là thứ vỏ bọc bên ngoài đẹp đẽ và hào nhoáng, nhưng phù phiếm và vô giá trị về mặt tinh thần. Nó là món quà người chồng tặng cho vợ mình để minh chứng tình yêu nhưng thực chất chính anh ta lại là kẻ ngoại tình đáng khinh nhất.   Nó – chiếc áo lông chồn ấy cũng vẫn là vật cuối cùng mà Liggett tìm đến sau khi chạy trốn như một kẻ tội phạm khỏi con tàu mà Gloria tội nghiệp đã bỏ mạng. Vẫn theo Fran Lebowitz thì John O’Hara đã: “hiểu rõ hơn bất cứ nhà văn Mỹ nào khác rằng, giai tầng có thể vừa bộc lộ vừa nhào nặn lên tính cách, sự hời hợt có thể trọn vẹn đến vô cùng, và quần áo có thể thực sự làm nên con người ra sao”.   John O’Hara viết “Áo khoác lông chồn” ở tuổi 29. Điều này giúp lý giải một cách thấm thía rằng giọng điệu từng trải, thông thái và lối văn chương chân thực mà tinh tế ấy không phải được tạo nên bởi một ngòi bút nhiều trải nghiệm mà bởi một tài năng đáng ngưỡng mộ, cộng với một tầm hiểu biết sâu sắc.   Cũng bởi thế mà tờNew York Times từng có lời khen tặng: "O’Hara chiếm giữ vị trí độc nhất trong nền văn học đương đại của Mỹ. Ông là nhà văn Mỹ duy nhất tái hiện xã hội Mỹ trong cái cách mà nó đã được thể hiện trong tác phẩm của Henry James về nước Mỹ, hay dưới ngòi bút của Proust về nước Pháp". “Áo khoác lông chồn” xứng đáng được coi là một tuyệt phẩm trên văn đàn nước Mỹ. Năm 1960, tác phẩm này đã được chuyển thể thành phim với sự tham gia của hai ngôi sao điện ảnh hàng đầu Elizabeth Taylor và Laurence Harvey. Bộ phim mang về cho huyền thoại Elizabeth Taylor giải Oscar Nữ diễn viên xuất sắc nhất. *** John O’Hara (1905-1970) viết “Áo khoác lông chồn” năm ông mới 29 tuổi. Tác phẩm trở thành kiệt tác và gần công chúng hơn khi được chuyển thể thành phim với sự tham gia diễn xuất của hai ngôi sao điện ảnh hàng đầu: Elizabeth Taylor và Laurence Harvey năm 1960. Áo khoác lông chồn được cho là “biên niên sử của nước Mỹ”. Ngòi bút sinh động và thực tế của John O’Hara đã bóc trần đời sống xã hội Mỹ những năm 30 với những suy thoái về kinh tế và sự chao đảo về đạo đức.   Nhân vật chính của câu chuyện là Gloria Wandrous. Cha cô là một nhà hoá học đã chết vì phóng xạ, Gloria sống cùng mẹ và bác ruột tên là Vandanm. Tuổi thơ của Gloria diễn ra trong tình yêu thương, sự hy vọng của mẹ và bác trai. Nhưng bất hạnh bắt đầu đổ ập xuống cuộc đời của Gloria từ khi thiếu tá Boam - một người bạn quân ngũ của bác cô - sau một lần đến nhà chơi đã giở trò lạm dụng tình dục đối với cô. Giống như nhiều nạn nhân của bi kịch bị lạm dụng tình dục khác, cô bé 12 tuổi Gloria có những biểu hiện khác thường: hay rầu rĩ, hơi suy nhược. Cuộc đời Gloria thực sự rẽ sang một hướng khác. Cô buộc phải chuyển đến môi trường mới để tiếp tục sống và học tập những mong quên đi bi kịch của mình. Nhưng cô đến New York đúng thời điểm nước Mỹ đang trên đà đại suy thoái về kinh tế và đạo đức, lối sống của xã hội Mỹ đang bị chao đảo nặng nề. Gloria chỉ là nạn nhân, nhiều cô gái trẻ khác cũng chỉ là nạn nhân. Sau một lần nạo thai vì vui vẻ với chàng sinh viên trường Yale, Gloria dần dần trở thành người đàn bà sành sỏi chốn tình trường. Cho đến khi gặp Ligget, gã đàn ông đã có vợ và hai cô con gái, thì cô lún sâu hơn vào bùn lầy không thể rút chân ra được. Để thoả mãn đam mê nhục dục, Ligget đã xé toang váy áo của cô. Chính hành động lúc say tình này mà Ligget đã vô tình đẩy cô đến bi kịch khác: Bi kịch của kẻ ăn cắp chiếc áo khoác lông chồn đắt tiền, chiếc áo có giá trị tới 10.000 USD và được đóng bảo hiểm tới 4.000 USD. Chiếc áo khoác lông chồn bị mất, cuộc hôn nhân của gia đình Ligget bị dồn đến bên bờ vực thẳm. Nhưng có điều Ligget thấy kỳ lạ, ông vừa thấy ghê sợ Gloria nhưng lại thấy đam mê cô khủng khiếp. Điều này ông chỉ nhận ra khi phải đứng ở lằn ranh của cuộc hôn nhân đổ vỡ. Người đàn ông thứ hai của Gloria và luôn sát cánh bên cô là Eddie Brunner. Anh cũng nhiều lần muốn có được Gloria nhưng luôn bị ám ảnh rằng cô là mẫu đàn bà dễ dãi và từng chung đụng với nhiều người tình. Eddie Brunner được tác giả xây dựng như một người đàn ông tình nghĩa, một người bạn đích thực. Anh biết mọi bi kịch, sự đổ đốn của Gloria nhưng vẫn luôn âm thầm bảo vệ và xót thương cho cô. O’Hara đã tạo nên nhân vật của mình với sự chân thực đến táo bạo, sự thính nhạy độc đáo đã bóc trần thói xấu xa được che giấu, ẩn nấp dưới cái vẻ bề ngoài của một xã hội quay cuồng bởi Đại suy thoái. T.T. Review Mời các bạn mượn đọc sách Áo Khoác Lông Chồn của tác giả John O'Hara & Đinh Thị Thanh Vân (dịch).
Đứa Con Của Thời Tiết
Tình thơ, gặp gỡ và chia ly là những vòng sóng đồng tâm trong thế giới Shinkai Makoto. Từng có cô Yuki chia tay Takao ở Khu vườn ngôn từ để đến dạy văn cho Mitsuha ở Your Name. Nay lại có Mitsuha và Taki chia tay Your Name. để sang ĐỨA CON CỦA THỜI TIẾT, gặp gỡ các tâm sóng mới là Hina và Hodaka.   Đứa con của thời tiết phác ra thương yêu cô đọng giữa hoang mang của đô thị lớn và ngặt nghèo hơn, là giữa hoang mang của một thời đại biến đổi khí hậu bấp bênh.   Vì một sự cố tình cờ, Hina được tạo hóa ban cho năng lực đặc biệt: làm nắng. Năng lực ấy càng thêm nhiệm màu khi đặt vào bối cảnh Nhật Bản hứng mưa triền miên, mưa đến mức vòm trời âm u trở thành cơm bữa, nước dâng gặm dần các đảo, và Tokyo có nguy cơ biến thành đô thị kênh đào.   Nhưng đến đây, phong cách song hành nhất quán của Shinkai lại trỗi dậy. Trong lạc có bi, trong hạnh phúc sẵn chia ly, được ban phép màu ắt phải đánh đổi. Đứa con của thời tiết cũng không thể tùy ý tắt bật nắng mưa mà không phải trả giá gì. Theo sau một lần làm nắng, là chất chứa hàng chuỗi ăn mòn, hối hận, mạo hiểm, giải cứu, và đằng đẵng cách xa.   Cũng như Your Name, ĐỨA CON CỦA THỜI TIẾT tiếp tục đan cài giữa truyền thống và hiện đại, huyền thoại và thực tế, nguy cơ và mộng ước, thiên tai và con người… nhưng có điểm khác là, lần đầu tiên hạnh phúc cá nhân đã được nhấn mạnh, nhân vật đã bứt mình khỏi tâm thế bao la vì mọi người. *** SHINKAI MAKOTO Sinh năm 1973 ở Nagano. Là đạo diễn phim hoạt hình. Năm 2002, bộ phim ngắn Tiếng gọi từ vì sao xa do anh tự thực hiện đã thu hút rất nhiều sự chú ý. Sau đó các tác phẩm Bên kia mây trời, là nơi hẹn ước, 5 centimet trên giây, Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, Khu vườn ngôn từ, Your Name. lần lượt ra đời và nhận được khá nhiều giải thưởng trong nước. Tiểu thuyết do anh chấp bút, dựa trên nội dung của những bộ phim anh đạo diễn như 5 centimet trên giây, Khu vườn ngôn từ, Your Name. cũng được đánh giá cao.   IPM xuất bản: • 5 centimet trên giây • Khu vườn ngôn từ • Your Name. • Tiếng gọi từ vì sao xa (Shinkai Makoto, Ooba Waku) • Bên kia mây trời, là nơi hẹn ước (Shinkai Makoto, Kanoh Arata) • Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú (Shinkai Makoto, Akisaka Asahi) *** Chuyện cậu kể Tiếng còi ngân dài dưới màn mưa tháng Ba báo hiệu phà sắp rời bến. Rung động mạnh khi thân phà to lớn rẽ biển băng về phía trước lan từ mông lên khắp cơ thể. Vé của tôi là vé phòng hạng hai, nằm sát đáy phà. Chuyến hải trình tiến ra Tokyo kéo dài hơn mười tiếng đồng hồ, đến tối phà mới cập bến. Đây là lần thứ hai trong đời tôi đón chuyến phà này ra Tokyo. Tôi đứng dậy, bước tới cầu thang dẫn lên boong. “Hình như tên đó có tiền sự…” “Nghe đâu cậu ta vẫn bị cảnh sát theo dõi…” Sau vụ việc xảy ra tại Tokyo cách đây hai năm rưỡi, tôi bắt đầu nghe mấy lời đồn như thế ở trường. Bị nói này nói nọ cũng chẳng hề gì (thật ra tôi còn thấy đồn đại là tất nhiên), song tôi vẫn không hé răng với ai trên đảo về vụ việc xảy ra ở Tokyo hè năm đó. Tôi từng đề cập vài chi tiết, nhưng chưa bao giờ nhắc đến phần quan trọng nhất, kể cả với bố mẹ, bạn bè hay cảnh sát. Một mực giữ riêng câu chuyện của mùa hè ấy, tôi tìm đến Tokyo lần thứ hai. Giờ tôi đã 18 tuổi. Lần này đi là để sống tại thành phố ấy. Và để gặp lại người ấy. Cứ nghĩ đến đây là ngực tôi lại nóng ran, mặt như có lửa đốt. Tôi leo nhanh hơn để mau ra hứng gió biển. Đặt chân lên boong, tôi liền bị gió lạnh và mưa quất mạnh vào mặt. Như muốn thu hết chúng vào người, tôi hít thở thật sâu. Gió vẫn lạnh nhưng đã nức hơi xuân. Cuối cùng cũng tốt nghiệp cấp ba… Giờ này cảm giác đó mới rộn lên trong lòng tựa bản thông báo đến muộn. Chống khuỷu tay lên thanh vịn, tôi trông về phía hòn đảo đang dần lùi xa rồi ngước nhìn vùng trời cuồn cuộn gió. Vô vàn hạt mưa nhảy múa nơi xa hút tầm mắt. Vào khoảnh khắc ấy, tôi bỗng rùng mình, toàn thân nổi gai ốc. Lại nữa rồi. Tôi bất giác nhắm chặt mắt, bất động. Nước mưa táp vào mặt, tiếng mưa không ngừng dội vào màng nhĩ. Mưa vẫn rơi ở đó suốt hai năm rưỡi nay. Tựa nhịp đập con tim không thể lặng im dù có cố nín thở. Tựa đôi mắt không bao giờ chìm hẳn vào bóng tối dù gắng nhắm thật chặt. Tựa cõi lòng không cách nào bình yên dù nỗ lực trấn tĩnh. Tôi chậm rãi thở ra và mở mắt. Mưa. Mưa liên tục bị hút xuống mặt biển đen thẫm, nhấp nhô như hít thở. Chẳng khác nào trời và biển bắt tay nhau, nghịch ngợm xô đẩy mặt nước. Tôi bỗng thấy sợ. Từng đợt run rẩy dâng lên từ thẳm sâu cơ thể. Tôi ngỡ mình sắp bị xé rách, sắp rã thành từng mảnh. Bám chặt thanh vịn, tôi hít vào thật sâu qua mũi. Hình ảnh người ấy lại hiện về như mọi khi. Cô gái với đôi mắt to, biểu cảm sinh động, tông giọng biến hóa liên tục và mái tóc dài buộc thành hai chùm. Rồi tôi nghĩ, “Sẽ ổn thôi.” Cô ở đó. Cô đang sống ở Tokyo. Chừng nào còn có cô, tôi còn được gắn kết với thế giới. “… Vậy nên Hodaka à, đừng khóc.” Đêm ấy, trong khách sạn ở Ikebukuro nơi chúng tôi ẩn nấp, cô đã nói thế. Tiếng mưa giội xuống trần nhà nghe như tiếng trống vọng tới từ xa. Tóc cô thơm mùi dầu gội hai đứa dùng chung, giọng nói dịu dàng như thể sẵn sàng thứ tha tất cả, làn da ánh sắc trắng xanh giữa bóng tối. Tất cả quá đỗi sống động, đến độ tôi bỗng có cảm giác lúc này mình vẫn đang ở đó. Phải chăng chúng tôi quả thật vẫn ở khách sạn, và tôi chỉ tình cờ gặp hiện tượng kí ức ảo giác mà tưởng tượng cảnh bản thân ở tương lai đi phà? Phải chăng lễ tốt nghiệp hôm qua lẫn chuyến phà hôm nay đều là ảo giác, còn tôi thực sự vẫn nằm trên giường khách sạn? Rồi sớm mai thức dậy, mưa đã tạnh, cô vẫn ở bên tôi, diện mạo thế giới vẹn nguyên như trước giờ, và một ngày như mọi ngày lại bắt đầu? Còi hú vang. Không, không đúng. Tôi xác nhận xúc giác khi nắm lấy thanh vịn sắt, xác nhận mùi thủy triều, xác nhận hòn đảo dần khuất bóng nơi chân trời. Nhầm rồi, giờ không phải buổi tối. Chuyện đã lùi xa vào quá khứ. “Tôi” đang lắc lư trên phà này là tôi thực sự. Ngẫm kĩ đi. Nhớ lại từ đầu đi. Tôi vừa nhìn màn mưa chăm chăm vừa nghĩ. Trước khi gặp lại cô, phải hiểu hết những việc đã xảy đến với hai đứa. Không, dẫu không hiểu cũng phải suy nghĩ cho cặn kẽ. Chuyện gì đã xảy đến với chúng tôi? Chúng tôi đã lựa chọn gì? Còn tôi, sắp tới nên nói gì với cô? Căn nguyên của mọi việc… Phải, có lẽ là hôm đó. Ngày cô chứng kiến hiện tượng kia lần đầu tiên. Sự việc mà sau này cô kể tôi nghe chính là khởi đầu của tất cả. * Mẹ cô hôn mê suốt nhiều tháng nay. Trong phòng bệnh nhỏ chỉ có âm báo điện từ đều đặn phát ra từ màn hình theo dõi bệnh nhân, tiếng tút dài của máy thở và tiếng mưa dai dẳng đập vào cửa sổ. Cùng với đó là bầu không khí tách biệt đặc trưng của những phòng bệnh có bệnh nhân nằm lâu ngày. Ngồi trên ghế đẩu cạnh giường bệnh, cô nắm chặt bàn tay chỉ còn da bọc xương, dõi theo chiếc mặt nạ oxy đều đặn chuyển màu trắng mờ theo nhịp thở, đăm đăm ngắm hàng mi khép chặt của mẹ. Dầu bị nỗi bất an đè nặng, cô vẫn một lòng cầu nguyện. Cầu cho mẹ tỉnh lại. Cầu cho gió mạnh thổi tới như vị anh hùng xuất hiện giữa lúc nguy nan, quét sạch những thứ u ám và nặng nề, bất kể u uất, lo lắng hay mây đen, rồi gia đình ba người lại có thể tươi cười sánh bước dưới trời quang. Tóc cô chợt lay động. Tiếng nước tong tong nho nhỏ vẳng vào tai. Cô ngẩng đầu. Cửa sổ vốn khép chặt, vậy mà rèm vẫn khẽ đung đưa. Ánh mắt cô bị hút về phía khoảng trời ngoài khung cửa. Vầng dương đã chiếu rọi tự khi nào. Mưa chưa ngừng, nhưng một khe hở nhỏ đã xuất hiện giữa tầng mây. Những tia sáng mảnh lách qua khe hở, soi sáng một điểm trên mặt đất. Cô căng mắt nhìn. Vô số tòa nhà trải dài hút tầm mắt. Duy có sân thượng của một trong số đó bừng sáng tựa diễn viên đứng dưới ánh đèn sân khấu. Như thể nghe ai gọi, cô chạy ào khỏi phòng bệnh. Cô dừng bước trước một tòa nhà bỏ hoang. Các kiến trúc lân cận đều mới toanh, riêng tòa nhà phức hợp này mục nát, xám xịt như bị thời gian lãng quên. Hàng loạt biển hiệu gỉ sét phai màu, nào “Bi-a”, “Cửa hàng kim khí”, nào “Lươn”, “Mạt chược”… treo tứ phía. Cô ngẩng đầu, nhìn qua lớp ô nhựa trong suốt. Nắng quả thật đang rọi xuống sân thượng. Liếc sang hông tòa nhà, cô thấy bãi đỗ xe nhở cùng cầu thang thoát hiểm hoen gỉ cũ kĩ dẫn lên sân thượng. Hệt một vũng ánh sáng. Leo hết cầu thang, cô sững lại giây lát, mê mẩn ngắm cảnh sắc trước mắt. Sân thượng có lan can bao quanh, rộng chừng phân nửa hồ bơi dài 25 mét. Gạch lát nền vỡ gần hết, phủ một lớp cỏ dại xanh mướt. Ở góc sân có một cổng torii[1] nhỏ đứng im lìm như nằm trong lòng bụi cây. Nắng xuyên qua tầng mây, chiếu thẳng xuống cổng. Dưới chùm nắng, màu đỏ tươi ánh lên lấp lánh bên những hạt mưa. Đây là nơi duy nhất rạng rỡ giữa thế giới mưa phủ mờ này. Cô chậm rãi băng qua sân, tiến về phía cổng. Cứ mỗi bước giẫm trên lớp cỏ mùa hè đẫm mưa, âm thanh loạt soạt êm tai lại vang lên cùng cảm giác đàn hồi dễ chịu. Những tòa cao ốc trắng đục vươn mình thẳng tắp sau màn mưa. Không gian ríu rít tiếng chim non. Dường như đâu đây có tổ chim. Thoảng trong đó là âm thanh tuyến Yamanote xa xôi tựa hồ vẳng đến từ thế giới khác. Cô đặt ô xuống đất. Cái lạnh của cơn mưa ve vuốt đôi gò má mịn màng của cô. Sau cổng torii có một ngôi miếu nhỏ bằng đá, hoa tím li ti mọc kín xung quanh. Không biết ai đã đặt hai cỗ xe ngựa vong hồn[2] dùng cho lễ Obon[3] tại đó. Trông chúng như bị vùi vào vạt hoa. Một bằng cà tím, một bằng dưa chuột, đứng trên bốn que tre mảnh. Gần như vô thức, cô chắp tay, khẩn thiết cầu nguyện. Cầu cho mưa tạnh. Cô chậm rãi khép mi, vừa cầu nguyện vừa bước qua cổng. Cầu cho mẹ tỉnh lại và cùng cô bước đi dưới trời quang. Qua khỏi cổng torii, không khí lập tức thay đổi. Tiếng mưa ngừng bặt. Và rồi cô mở mắt… giữa bốn bề là trời xanh. Gió lớn thổi cô bay bồng bềnh trên tầng không cao vời vợi. Không, chính xác là cô đang rẽ gió rơi xuống. Tiếng gió hú trầm thăm thẳm chưa từng nghe trong đời cuộn xoáy xung quanh. Cứ mỗi nhịp thở ra, hơi thở lại đông trắng, lấp lánh bay lượn giữa vùng trời xanh thẳm. Vậy mà cô không hề sợ hãi, cảm giác kì lạ như thể đang mơ trong khi vẫn tỉnh táo. Dưới chân là những cột mây vũ tích trông như cây súp lơ khổng lồ trôi lơ lửng. Mỗi đám mây phải rộng đến mấy kilomet, tạo nên một khu rừng trên không tráng lệ. Cô chợt nhận thấy sắc mây đang biến đổi. Từng đốm xanh nối nhau xuất hiện trên đỉnh những đám mây, nơi bằng phẳng như đồng bằng và tiếp giáp với không khí. Cô mở to mắt theo dõi cảnh tượng ấy. Giống thảo nguyên quá. Những chấm màu xanh lục nhộn nhịp hiện ra rồi biến mất trên đỉnh mây, nơi mà người dưới đất chắc chắn không thể nhìn thấy. Để ý kĩ, cô còn thấy thứ gì đó bé xíu tựa sinh vật sống tập trung thành đàn khắp bốn bề. “… Cá?” Quần thể khoan thai uốn lượn thành hình xoáy ấy giống hệt đàn cá. Cô vừa rơi vừa nhìn không chớp mắt. Vô số cá đang bơi lội giữa bình nguyên trên mây. Đột nhiên, ngón tay cô chạm phải thứ gì đó. Cô kinh ngạc nhìn xuống tay. Quả nhiên là cá. Những chú cá nhỏ với cơ thể trong suốt bơi qua ngón tay và tóc cô như những cơn gió có trọng lượng. Có con vây dài ve vẩy, có con tròn như sứa, có con lại mảnh dẻ như cá sóc. Bầy cá trong suốt muôn hình muôn vẻ lấp lánh như lăng kính dưới nắng. Chẳng rõ tự khi nào, cô đã bị vây giữa đàn cá trời. Trời xanh, mây trắng, màu xanh lục lao xao, đàn cá ánh sắc cầu vồng. Cô đang hiện diện giữa thế giới trên không đẹp đẽ và kì lạ, chưa từng nghe qua mà cũng chưa từng tưởng đến. Cuối cùng, mây đen vần vũ dưới chân cô dần biến mất như thể tan chảy. Phố phường Tokyo mênh mông hiện ra dưới tầm mắt. Từng tòa nhà, từng chiếc xe, từng tấm kính cửa sổ tắm mình dưới nắng, kiêu hãnh rực sáng. Cô cưỡi gió, chầm chậm đáp xuống thành phố vừa tái sinh sau khi được mưa gột rửa. Cảm giác hợp thể lạ lùng từ từ lan đi khắp người. Bằng một dạng giác quan tồn tại trước cả ngôn từ, cô hiểu rằng mình là một phần của thế giới. Mình là gió, là nước, là xanh, là trắng, là trái tim, là nguyện ước. Niêm hạnh phúc cùng nỗi day dứt lạ thường xâm chiếm châu thân. Và rồi, ý thức dần tan biến tựa hồ lún sâu vào tấm đệm dày.. * “Cảnh tượng đó… Có thể những gì tớ thấy khi ấy đều là mơ…” Cô từng nói với tôi như thế. Song đó không phải mơ. Giờ đây chúng tôi đã biết đó là thật. Sau ngày cô kể tôi nghe, hai đứa còn tận mắt chiêm ngưỡng khung cảnh tương tự một lần nữa, chiêm ngưỡng thế giới trên trời không ai biết đến. Vào mùa hè tôi cùng cô trải qua năm ấy, trên bầu trời Tokyo, chúng tôi đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của thế giới. Mời các bạn mượn đọc sách Đứa Con Của Thời Tiết của tác giả Shinkai Makoto & Mỹ Trinh (dịch).
Trái Tim Ngọt Ngào
Với một cơ thể đầy thương tích, một tâm thần chìm sâu trong ám ảnh và một trái tim đau khổ, Archie Sheridan quay về với cuộc sống cùng hai đứa con và người vợ cũ mà anh từng yêu thương nồng nàn… Nhưng dường như càng cố gắng anh càng chìm sâu hơn trong nỗi ám ảnh với Gretchen Lowell! Trở lại với công việc, anh gặp ngay một tình huống tương tự vụ án đầu tiên lúc mới vào nghề: Thi thể một cô gái trẻ bị phân hủy được tìm thấy trong công viên, trùng khớp địa điểm phát hiện ra nạn nhân đầu tiên của Gretchen. Và rồi một điều không thể tưởng tượng nổi đã xảy ra: Gretchen trốn thoát khỏi nhà tù. Liệu Archie có bắt được ả để kết thúc tất cả, dù biết rằng mình có thể trở thành nạn nhân cuối cùng của Mỹ nhân đoạt mạng - Gretchen Lowell? *** Chelsea Cain Archie và Gretchen- Kẻ Săn Đuổi và Cơn Ác Mộng của cuộc đời. Mối quan hệ giữa Archie và Gretchen là một câu hỏi lớn cho những ai theo đuổi series này. Đó là một mối quan hệ mập mờ, không rõ ràng theo nhiều khía cạnh và hơn hết, là một mối quan hệ vô cùng khó chịu, khiến người ta vừa bực bội bất lực, lại vừa bị cuốn hút sâu sắc. Gretchen xâm nhập vào cuộc đời của Archie từ lúc nào, ngay chính anh ta cũng không hề biết, nhưng ả là một cơn ác mộng thực sự, phá hoại cuộc đời, sự nghiệp và cả gia đình nhỏ êm ấm của anh. Archie là một nhân vật được xây dựng khác biệt, một con người tồn tại hai thái cực khiến người đọc vừa thương vừa ghét – một cảnh sát thương thiện có trách nhiệm nhưng là một gã đàn ông tồi. (Thật ra từ tồi này, tôi đã giản lược gấp đôi so với nỗi bức xúc của tôi về nhân vật này, với phương diện là một người phụ nữ.) Gretchen giết người từ rất sớm, không biết từ khi nào và lý do vì sao. Ả là một bí ẩn cuốn hút đáng nguyền rủa, một dấu chấm hỏi to bự về thân thế và cuộc đời của ả. Nạn nhân đầu tiên của Gretchen (theo sự nhận định của cảnh sát) là một cô gái tên Heather Gerber, cô gái điếm không thân thích và bị sát hại dã man, xác vứt ở một khu rừng. Đây là cái xác đầu tiên trong cuộc đời làm cảnh sát của Archie, và anh ta ngàn lần không ngờ đến, đó sẽ là vụ án thay đổi hoàn toàn số mệnh của mình. Mười hai năm lần theo dấu vết Gretchen Lowell, Archie dần dần bị ả huỷ hoại đến cùng cực từ tâm hồn đến thể xác. Ả như một con giòi có ánh vàng, bên ngoài đẹp đẽ bao nhiêu, bên trong thối nát bấy nhiêu và không ngừng luồn lách và đục khoét bất kỳ người nào có lợi cho mục đích của ả. Gretchen tàn nhẫn và máu lạnh, ả giết người không chùn tay, ả tìm niềm vui trong sự giết chóc. Ả thú nhận: “Nó là vấn đề làm phong phú cảm xúc trong em. Nó là quyền năng.” Chính thế, Gretchen vờn Archie như Mèo vờn Chuột, vờn anh ta mất cả lá lách, sẹo đầy rẫy người và phải sống bằng thuốc giảm đau, ả vờn anh ta, và chơi trên đầu trên cổ cả lực lượng cảnh sát, chỉ để thoã mãn cái “quyền năng” trong tư tưởng của ả. Còn Archie? Anh ta tập họp mọi ưu điểm và khuyết điểm của một người đàn ông, một cảnh sát tốt và một “con mồi có trách nhiệm”. Archie luôn ý thức được rằng anh ta cần săn đuổi Gretchen Lowell, giam ả sau song sắt, moi ra mọi thông tin về các nạn nhân của ả và buộc ả nhận mọi tội danh đã gây ra. Archie luôn mang một tín niệm rất lớn rằng đó là nhiệm vụ của riêng anh ta, và đặt nó lên hàng đầu. Anh ta không ảo tưởng về việc thực thi công lý với lý tưởng anh hùng, anh ta làm thế bởi cảm thấy một sự liên hệ vô hình với những vụ án mở chưa có lời giải và trách nhiệm công vụ luôn mang trên mình. Nhưng theo một hướng nào đó, việc săn đuổi Gretchen là minh chứng cho sự hấp dẫn của ả đối với anh ta, sự hấp dẫn chết chóc nhưng đầy ma mị mà anh ta không cách nào thoát khỏi. Ả không cần phải câu dẫn Archie theo cái cách của những phụ nữ tầm thường thích chen chân vào gia đình người khác. Ả ngọt ngào và quấn quít khi gần khi xa như mùi tử đinh hương, len lỏi vào tâm trí Archie và ngự trị xúc cảm của con mồi, đẩy anh ta xa ra khỏi gia đình và trói buộc anh ta vĩnh viễn trong lời nguyền và tội lỗi. Về phần Archie, anh ta trượt dài vào cái hố bùn và lún sâu trong sự tuyệt vọng một cách tự nguyện, anh ta sẵn sàng huỷ hoại bản thân để buộc Gretchen vào vòng lao lý, nhưng vẫn ôm ấp ảo mộng và nhục dục dành cho ả. Đó là sự lựa chọn tồi tệ và đốn mạt của một gã vừa mang chứng PTSD, vừa mắc hội chứng Stockholm, nghiện nặng thuốc giảm đau với lá gan trên bờ vực cấy ghép. Cũng như Sự Im Lặng Của Bầy Cừu, series Tim nói chung và tập Trái Tim Ngọt Ngào nói riêng, sở hữu một lực lượng cảnh sát khá mờ nhạt và vô dụng, nhưng bù lại, nhân vật phản diện chính là “spotlight” to bự nhất, cuốn hút nhất. Ở Gretchen có một sự điềm tĩnh biến thái như Hannibal, với cái đầu nhanh nhạy nguy hiểm, thích điều khiển tâm lý người khác, và đôi tay khát máu. Mặt khác, cô ả cũng mang một chút tuỳ hứng và điên loạn như Harley Quinn, hứng thú giết chóc bệnh hoạn của Dexter Morgan, khả năng điều khiển người khác phạm tội như Moriaty và để lại nỗi ám ảnh kinh hoàng trong bóng đêm như Jack Đồ Tể. Sự nguy hiểm của Gretchen không dừng lại ở những cái xác nát bét, hay những miếng thịt bị cắt rời khỏi cơ thể, mà còn là ở khả năng thấu hiểu tâm lý và nét duyên dáng quyến rũ chết người. Tuy có nhiều vấn đề tiêu cực tồn tại trong tính cách nhân vật Archie Sherridan nhưng cuốn sách cực kỳ lôi cuốn với những tình tiết hồi hộp. Chính những vấn đề ấy chính là điểm thu hút khiến tác phẩm đi theo hướng khác và nổi bật so với các câu chuyện truy bắt thường thấy. Các tình tiết vụ án đủ đen tối và máu me, nhưng ngôn từ miêu tả không bị biến đổi theo hướng bạo lực. Tình tiết các khẩu súng phải tránh xa lũ trẻ và cảnh sát hành xử có chừng mực khi tập kết ngôi trường tiểu học khá được lòng độc giả có con nhỏ. Tập Trái Tim Ngọt Ngào khép lại sau một đợt bầm dập khác của Archie Sherridan, sau những nỗ lực truy đuổi cơn ác mộng mang tên Gretchen. Một ngày không xa, ta lại mong chờ những cuộc đối đầu khác. Gigi Bui Mời các bạn mượn đọc sách Trái Tim Ngọt Ngào của tác giả Chelsea Cain & Orkid (dịch).