Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kẻ Gây Hấn

XIN MỜI QUÝ BẠN ĐỌC THỬ NGAY CUỐN SÁCH NÀY ĐỂ ĐƯỢC SỐNG HAI GIỜ TUYỆT THÚ CHƯA TỪNG CÓ, NHƯ CẦM TRÊN TAY MỘT QUẢ BOM NỔ CHẬM Nguyên tác “Le Provocateur” của Maurice Ellabert Bồ Giang dịch thuật Tác phẩm thứ 1 của TỦ SÁCH BỒ-GIANG In lần thứ nhất: Tháng 4-1974   LỜI TỰ GIỚI THIỆU CỦA TỦ SÁCH BỒ-GIANG Để giúp Quý Bạn thuộc mọi giới công tư chức, quân nhân, sinh viên và học sinh một vài giờ giải trí đầy những bất ngờ vừa kinh hoàng vừa lý thú, chúng tôi xin gửi đến Quý Bạn Tủ Sách Bồ Giang mà tác phẩm đâu tiên là “KẺ GÂY HẤN” của Maurice Ellabert, tác phẩm đã đoạt Giải Thưởng Tiểu Thuyết Phiêu Lưu Hay Nhất Năm 1967 tại Pháp. Sau đó, Tủ Sách Bồ-Giang sẽ lần lượt phát hành những tác phầm lừng danh khác đã từng chiếm những giải thưởng đặc biệt trong lãnh vực văn chương trinh thám và khoa học giả tưởng trên khắp thế giới như: ♦ Giải Thưởng Edgar của Hiệp Hội Các Nhà Văn Bí Mật Mỹ Châu: ♦ Giải Thưởng Nebula và Hugo của Hiệp Hội Các Nhà Văn Khoa Học Giả Tưởng Mỹ Châu. ♦ Các Giải Thưởng Quai des Orfèvres. Tiểu Thuyết Phiêu Lưu Hay Nhất Năm, Tiểu Thuyết Trinh Tham Hay Nhất Năm, ♦ Giải Thưởng Văn Chương Trinh Thám tại Pháp ♦ Các Giải Thưởng Văn Chương Trinh Thám khác tại Anh, Bắc Âu... Bên cạnh đó, còn có những tác phẩm kỳ tuyệt khác tuy không chiếm giải thưởng nào nhưng vẫn sôi động không kém, sẽ khiến cho độc giả mỗi khi cầm lên tay là phải đọc một hơi từ đầu đến cuối. Đó là trường hợp của TUẦN TRĂNG MẬT THẢM KHỐC của Lawrence Block, tác phẩm thứ 2 trong Tủ Sách Bồ Giang sẽ phát hành vào đầu tháng sau. Trong giai đoạn đầu tiên, Tủ Sách Bồ Giang sẽ xuất bản mỗi tháng một cuốn. Về sau nếu hoàn cảnh thuận tiện hơn chúng tôi sẽ xuất bản mỗi tháng hai cuốn hoặc nhiều hơn. Muốn vậy, trong trường hợp Quý Bạn vừa ý với tác phẩm đầu tiên này của Tủ Sách Bồ Giang, chúng tôi ước mong Quý Bạn giúp chúng tôi một việc mọn: Giới thiệu cuốn sách này với hai người bạn thân cùng sở thích mê đọc sách, nhất là loại kinh dị. Được như thế, Tủ Sách Bồ-Giang mới có hy vọng sống còn trong giai đoạn cực kỳ khó khăn này và sẽ tiếp tục phục vụ tận tình với Quý Bạn trong những tác phẩm khác càng ngày càng thêm hấp dẩn từ hình thức đến nội dung. Chúng tôi xin thành khẩn ghi ơn Quý Bạn. Gia định, ngày 11-4-1974 BỒ GIANG và Nhóm Bằng Hữu *** CHƯƠNG 1 Người chủ khách sạn của tôi đang chăm chú làm việc tựa hồ cố tính toán để dùng số tiền dành dụm mua lại nhà hàng Ritz hoặc Crillon. Tuy nhiên ông ta vẫn ngẩng đầu lên khi tôi đi qua và cất tiếng gọi tôi: - Ông Charmoy! Sáng nay có người đến thăm dò tôi về ông. Tôi quay bước trở lui, có vẻ thú vị. - Một ký giả chứ gì? - Chắc không phải. Một người muốn biết rõ tư cách của ông. Tôi liền bảo: - Tôi hết lòng tin cậy ở ông. Vì thanh danh khách sạn của ông, lẽ ra ông nên nhờ một tên giết mướn thanh toán bọn nghèo đói như tôi. - Ông ta cũng đặc biệt lưu ý đến hoạt động kịch nghệ của ông. - Chắc ông đã hết lời khai ra rằng hiện giờ tôi vô cùng nhàn rỗi? Viên chủ khách sạn cằn nhằn: - Đâu có phải vì tôi mà lúc này ông không có việc làm? Người đó đã hỏi tôi hiện giờ ông có bận tập một vở kịch gì hay đang quay một cuốn phim nào không. Tôi đã ngầm nói cho ông ta hiểu rằng ông không đến nỗi bận rộn lắm. - Như thế thì kỳ lạ thật. Không lẽ ông ta đi thăm dò để lập gánh hát? - Ông sẽ hiểu rõ nếu người ta đề nghị với ông một giao kèo đóng phim với Brigitte Bardot. Tôi trở về phòng và cố suy đoán nguyên do chính xác về vụ xâm phạm đời tư của tôi một cách kỳ lạ này. Giả thuyết cho rằng đây là một cuộc điều tra để tìm diễn viên sân khấu hoặc màn ảnh tôi thấy không hẳn là vô lý. Thật tình tôi có một bản chất lạc quan và tôi sẵn sàng đón nhận những thất vọng của cuộc đời với tất cả bình tĩnh, kể từ khi ban giám khảo Trường Quốc Gia Kịch Nghệ cấp cho tôi một giấy ban khen, đúng với lời ông thầy tử vi đã tiên đoán tôi sẽ đoạt Giải Nhất về ngành hài kịch. Tôi đã để lại hình và địa chỉ cho khá nhiều nhà sản xuất điện ảnh và các vị giám đốc đoàn ca kịch nên rất có thể một người nào đó vì không tin, vì thận trọng hoặc vì theo một thủ tục bắt buộc, đã đi thăm dò kỹ về tôi trước khi ký hợp đồng với tôi. Tôi ngủ thiếp đi với những nhận định này. Ngày hôm sau, những tư tưởng đó bỗng trở về trong tâm trí tôi khi tôi nghe nói có ai điện thoại. Tôi vội vàng chạy xuống chiếc tủ được ngụy trang thành một buồng điện thoại. Tôi nói vào máy bằng một giọng ung dung của kẻ không chờ một ai cả. - Tôi là Pierre Charmoy, đang nghe đây. - Tôi muốn nhờ ông giúp một việc. Tôi không hy vọng lạc quan của mình thành sự thật một cách nhanh chóng như thế. Tôi bảo: - Mình sẽ cùng nhau bàn tính. Xin lỗi ông là ai? Người ở đầu dây đằng kia trả lời ngay: - Ông dù có biết cũng không lợi gì. Vì vậy xin ông cho tôi được giấu danh tánh, Tôi chưa kip trình bày nỗi kinh ngạc của tôi thì người kia lại tiếp: - Vì lẽ nghề nghiệp của ông là đóng những vở kịch vui, tôi muốn đem đến cho ông một vai trò đặc biệt và hết sức bất ngờ. Đây không phải là một màn trên sân khấu mà ở ngoài đường phố. Tôi xin giải thích: ông hãy đến lưu ngụ trong một đô thị nhỏ, suốt ngày hãy xuất hiện quan sát thiên hạ và giả vờ tò mò muốn tìm hiểu các hành vi và cử chỉ của họ để làm cho họ phải khó chịu, phải tức tối. Tôi hy vọng ông sẽ đóng được vai trò này. Biết chắc mình đang bị một kẻ vô danh đùa cợt, tôi trả lời: - Đó chỉ là trò trẻ con. Người kia vẫn tiếp lời: - Có lẽ ông đã hiểu vì sao tôi bày trò lừa phỉnh này? Tôi thú thật không được hiểu rõ bao nhiêu. Y liền trình bày rõ: - Lý do rất đơn giản. Tôi có một mối ác cảm với dân chúng trong vùng đó. Tôi tưởng có thể làm thế cho bõ ghét, một lối trả thù mà chắc ông cũng công nhận là không lấy gì làm ác độc, nhưng không kém phần khôi hài. Tôi tiếp: - Như mọi soạn giả khác, ông không được khiêm tốn mấy. Và để trình diễn tác phẩm của ông, ông sẽ trả cho tôi bao nhiêu? - Tùy theo điều kiện của ông. Ông muốn bao nhiêu cũng được. Câu trả lời quả quyết làm cho tôi sửng sốt mất một lúc lâu mới nói đại một con số: - Một ngàn quan mỗi tuần chưa kể mọi chi phí. Người kia im lặng một lát. Tôi vội vàng nói tiếp: - Đó là giá lương hiện lại của tôi. Lẽ tất nhiên vì đây là trường hợp đặc biệt tôi phải đầu cơ lên giá chút đỉnh. Nếu ông không quyết định ngay, không chừng tôi còn lên giá cao hơn nữa. Gã đối thoại nặc danh đề nghị: - Tổng cộng một ngàn quan. Các chi phí của ông chắc sẽ không nhiều lắm đâu. Ông đồng ý chứ? Tôi la lớn: - Ồ! Đâu có gấp như thế được! Ông phải cho tôi biết rõ các chi tiết đã chứ. Trước hết là thời gian trình diễn? - Ít ra cũng một tuần. Có lẽ hai. - Nơi nào? - Gần Nancy...Foncourt. Lại im lặng một lát, rồi người kia hỏi: - Cái tên đó làm ông nhớ tới chuyện gì hay sao? Tôi bảo: - Thủy tinh. - Đúng thế. Đó là xứ sở sản xuất nhiều loại thủy tinh nổi tiếng, ông có quen biết người nào ở nơi đó không? - Không. - Càng hay. Như vậy càng đỡ rắc rối. Tôi sẽ trả tiền trước. Ông có thể đi ngay được chứ? Tuy đã quyết định chấp thuận mọi điều kiện về tiền thù lao và thời hạn, tôi vẫn không muốn tỏ ra mình đã chấp thuận một cách gấp rút tố cáo rằng mình đang túng tiền. Tôi liền trả lời: - Tôi đâu đã nói với ông rằng tôi bằng lòng. Nói trắng ra, vai trò do ông đề nghị là một trò hề! Đó không phải kịch nghệ mà chính là làm xiếc. Nói như thế vẫn còn chưa được đúng. Phải bảo là trò múa rối. Vì vậy, tôi do dự. Tôi không muốn giảm giá cũng như làm ô danh nghệ thuật... Y cắt ngang mục khôi hài của tôi bằng một tiếng cười nhạt xấc láo: - Với một ngàn quan mỗi tuần, ông nên dẹp quách cái luận điệu đó đi. Tôi vẫn còn cãi bướng, viện lý do nhiều vận động quan trọng đòi hỏi sự hiện diện của tôi ở Paris và tôi lại hỏi y: - Người đã đến đây hôm thứ bảy để hỏi thăm viên chủ khách sạn có phải là nhân viên của ông? Y trả lời: - Những điều thuận tiện mà tôi được biết về ông trên lãnh vực nghề nghiệp cần phải được nhiều chi tiết khác bổ khuyết cho hoàn toàn đầy đủ. Thế nào mình cùng nhau thỏa thuận chứ? - Mình sẽ thỏa thuận khi tôi đã nhận được tiền. - Ông sẽ nhận tiền vào ngày mai. Tôi bỏ tiền vào phong bì gửi ngay tức khắc cho ông. Ông hãy đến Foncourt dùng cơm tối và đi tới Khách Sạn Thương Mãi. Ông cứ ghi tên thật vào sổ và cho biết nghề nghiệp của ông. Phần còn lại, tôi để cho ông tùy nghi hành động. Lúc này, tôi không còn nghi ngờ thiện ý của kẻ đã điện thoại với tôi và sự việc y muốn giữ kín danh tánh đã xác nhận điều tôi suy nghĩ. Y lại còn nhấn mạnh sự kiện tôi không được tiết lộ lý do thái độ của tôi khi đã đến Foncourt và cũng không được cho bất cứ một ai trong đám bạn bè thân thuộc hay biết sứ mạng dị thường này. Rồi y xác định với tôi một cuộc điện đàm tại chỗ cũ, vào ngày thứ ha tuần tới; đúng mười hai giờ trưa, và y gác máy. Tối đến, ở tiệm ăn, tôi không bỏ qua một chi tiết nào trong lúc kể lại cho Sylvie nghe vụ đề nghị không mấy bình thường đó. Nàng quả quyết bảo: - Gã đó phải tồi tệ lắm mới nghĩ ra một cách trả thù như thế này. Nếu mang lòng thù hận với tất cả người dân trong thành phố thì chắc bởi vì y đã bị xã hội bạc đãi, vừa là một con người giàu tưởng tượng và thâm hiểm. Tôi đáp: - Dù tên tồi tệ này có những lý đo gì đi nữa, cuộc phiêu lưu vẫn khiến anh thích thú. Anh sẽ khuấy động cả một vùng đã có một không khí buồn chán từ nhiều thế kỷ nay. Sylvie đầy vẻ nghi ngờ. - Anh nhớ không được lạm dụng đó. Anh chịu hứa với em anh sẽ không dối gạt em chứ? Tôi làm mặt giận: - Em tin anh theo cái kiểu đó à? Em dám mở miệng nói với anh như thế, sau khi anh vừa tỏ hết lòng tin cậy em bằng cách kể hết câu chuyện cho em nghe, bất chấp những chỉ thị minh bạch của gã đó? Nàng vừa trả lời vừa đưa tay qua mặt bàn siết nhẹ lấy tay tôi: - Chà, sung sướng cho cho em quá! Anh không có nói gì với má anh hay sao? - Ồ! Không. Bà cụ đâu còn đủ đầu óc khôi hài để thưởng thức vụ đùa dai cỡ này. Anh sẽ tối tăm mặt mũi với những lời căn dặn phải lưu ý đề phòng và những lời trách móc về cái tính thích phiêu lưu của anh. Tôi đã giới thiệu Sylvie với má tôi. Bà có cảm tình đặc biệt với nàng, nhưng nhất thiết không chịu thừa nhận rằng một kịch sĩ - dù là kịch sĩ sáng giá đến mấy đi nữa, và tôi lại còn chưa đạt tới mức đó - có thể kết hôn với một người con gái sắp sửa thi ra trường y-khoa và có dự định mở phòng mạch ở tỉnh nhỏ. Sylvie và tôi thì trái hẳn lại, có những tư tưởng lành mạnh và hết sức thành thực: tương lai về sự phối hợp giữa đôi lứa chúng tôi không vượt qua cái bằng bác sĩ của nàng. Lúc ra tới ngưỡng cửa tiệm ăn, tôi hỏi nàng: - Em cùng về với anh? - Tối nay không được, anh à. Suốt tuần vừa qua em đã không về ngủ ở nhà trọ lấy cớ phải đi trực đêm ở bệnh viện. Anh đừng có quên bà chủ nhà của em vẫn thường báo cáo tất cả cho gia đình em hay. Em khó lòng tìm cách chạy tội. Tôi vẫn còn cố thuyết phục: - Anh sắp sửa phải xa em suốt bảy tám ngày... Sylvie chận lời: - Mình sẽ thừa thời giờ sắp đặt mọi việc cần thiết khi ngày đi của anh đã được xác định. Dù sao vẫn còn một điều chưa rõ rệt và chính điều đó quyết định việc đi hay không. Tôi chắc lưỡi. - Vấn đề tiền! Anh tin chắc ngày mai sẽ có. Tôi nói đúng. Người đưa thư sáng hôm sau đã mang đến nhà tôi một chiếc phong bì màu xám, gửi từ Nancy, bên ngoài kẻ mấy hàng chữ in rất ngay ngắn đều đặn, rõ ràng được viết bằng dụng cụ vẽ. Chiếc phong bì đựng hai tờ giấy bạc năm trăm quan. Tôi đến tìm Sylvie tại bệnh viện Cochin và chúng tôi cùng đi ăn trưa, không ngừng bàn bạc nêu ra đủ mọi giả thuyết về nhân cách và những âm mưu thực sự của người bí mật vừa gửi tiền cho tôi. Tôi đã định sẽ đóng vai trò của mình một cách trọn vẹn để chiếm được lòng tin của kẻ quái dị đang mướn tôi và kéo dài giao kèo thêm một tuần lễ thứ hai. Tôi hứa với Sylvie sẽ điện thoại về cho nàng mỗi ngày, nhưng tôi nghĩ không cần phải báo tin việc tôi đi vắng trong một thời gian ngắn cho má tôi hay. Trong phòng riêng của tôi, tôi đã cẩn thận sắp đặt các thứ hành lý trước khi đi ăn trưa. Quả nhiên ngay khi cửa vừa khóa, Sylvie đã mở cuộc tấn công "những việc cần thiết" mà nàng muốn có một bảo đảm đầu tiên cho sự trung thành của tôi trong những ngày sắp tới. Khi tôi bước lên chiếc Triumph của tôi, trễ mất hai tiếng đồng hồ so với thời khắc biểu mà tôi đã định trước trong trí, cả hai ống chân của tôi đều mềm nhũn như đã hóa thành bông gòn, và đôi mí mắt chỉ muốn sụp xuống để ngủ một giấc mê say. Tình trạng này quả thật không thích hợp với công việc lái một chiếc xe hơi kiểu thể thao. Sylvie khuyên tôi nên ngừng xe ở dọc đường để uống cà phê và mở máy thâu thanh thật lớn. Mời các bạn đón đọc Kẻ Gây Hấn của tác giả Maurice Ellabert.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngọc Xuyến Án
Ngọc Xuyến Án là tác phẩm thứ bảy trong bộ tiểu thuyết trinh thám quan án viết về Địch Nhân Kiệt - vị thần thám danh tiếng lẫy lừng triều Đường, dưới thời Võ Tắc Thiên trị vì. Năm 669, sau một chuyến công cán, Địch Công ghé thăm trấn Thanh Xuyên - nơi tọa lạc cung điện mùa hè của Tam Công chúa - với kỳ vọng có vài ngày an nhàn câu cá trước khi trở về Phổ Dương. Nhưng tất cả đã nhanh chóng sụp đổ… Vừa đặt chân đến trấn, Địch Công đã gặp ngay một vụ thảm án. Viên thủ quỹ của một khách điếm bị tra tấn dã man tới chết, xác bị ném xuống sông. Liệu đây có phải một vụ cướp đường thông thường như người ta đã tưởng? Ngay sau đó, Địch Công được bí mật triệu vào cung. Tam Công chúa yêu cầu ông ẩn danh, để truy tìm kẻ đã đánh cắp chuỗi ngọc mà Hoàng thượng đích thân ban cho nàng. Liệu trong hai ngày, Địch Công có thể tránh được tai mắt từ những kẻ quyền thế trong cung, đối phó với một bang hội giang hồ hung ác để phá giải Ngọc Xuyến án, hoàn trả chuỗi ngọc cho vị Công chúa cao quý? “Trụ trượng hai đầu nâng Nhật Nguyệt, Hồ lô một bầu giấu núi sông.” *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. *** Các nhân vật chính ĐỊCH NHÂN KIỆT, huyện lệnh Phổ Dương, một trấn huyện thuộc địa phận phủ Kim Hoa. Ông thường được gọi là “Địch Công” hay “Địch huyện lệnh”. Các nhân vật khác TAM CÔNG CHÚA, ái nữ của Hoàng đế, ngụ tại cung Bích Thủy, phía đông trấn Thanh Xuyên. VƯƠNG CẨM TÚ, Tổng quản nữ quan. LÔI CÔNG CÔNG, Đại tổng quản ở cung Bích Thủy. VĂN ĐÔNG, Tổng giám cung ở cung Bích Thủy. KHANG TƯỚNG QUÂN, Chỉ huy Cấm quân. TRÂU LẬP UY, Hiệu úy Cấm quân, dưới trướng Khang Tướng quân. NGỤY THÀNH, chưởng quỹ của khách điếm Thúy Điểu. ĐỚI NINH, thủ quỹ của khách điếm Thúy Điểu. TỬ TÂY, cháu gái của Ngụy Thành. LANG LƯU, một phú thương buôn tơ lụa. HỒ LÔ TIÊN SINH, một ẩn sĩ Đạo gia. Các vụ án trong truyện Vụ án Viên thủ quỹ bị sát hại. Vụ án Vị phu nhân bỏ trốn. Vụ án Chuỗi ngọc của Tam Công chúa. Mời các bạn đón đọc Ngọc Xuyến Án của tác giả Robert van Gulik & Nguyễn Việt Hải (dịch).
Hồng Lâu Án
Hồng lâu án là tác phẩm thứ 8 trong bộ tiểu thuyết trinh thám quan án Địch Công kỳ án viết về Địch Nhân Kiệt – vị thần thám danh tiếng lẫy lừng dưới thời Đường - Chu. Sau khi phá giải thành công vụ án chiếc vòng ngọc xuyến của Tam Công chúa, Địch Công được triệu về kinh để thẩm án. Trên đường quay lại huyện Phổ Dương, khi nghỉ dừng chân ở Đảo Bồng Lai – một chốn ăn chơi hưởng lạc nổi tiếng với các song bạc, tửu lâu và kỹ viện, Địch Công được đồng liêu nhờ điều tra vụ án liên quan đến một vị Trạng Nguyên trẻ tuổi tự sát ở Hồng Lâu. Dưới giàn hoa tử đằng, Địch Công tình cờ gặp nàng Hoa khôi xinh đẹp nhưng không lâu sau đó nàng cũng bỏ mạng. Đây có phải là vụ án tự tử vì tình đơn thuần hay có liên quan đến vụ án xảy ra cách đây 30 năm trước? Ân tình khó trả, tri kỉ khó tìm? Liệu Địch Công có thể phá giải được ba vụ án kì lạ, giải đáp bí ẩn của Hồng Lâu? *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. *** Lữ khách nghỉ chân tại Hồng lâu Huyện lệnh gặp gỡ vị Hoa khôi
Hoa Văn Cây Liễu
Mùa hè năm 677, Kinh thành Trường An chìm trong dịch bệnh. Địch Công - bấy giờ đang giữ chức Đại lý tự khanh - được bổ nhiệm làm Kinh triệu doãn tạm quyền, lưu lại trấn giữ kinh thành khi triều đình di giá đến nơi khác. Trong thời gian này, dân gian lưu truyền một bài vè tiên đoán về sự lụi tàn của những dòng dõi công huân thế tộc tiền triều có liên quan mật thiết đến vận mệnh của đất nước và thành Trường An. Và khi những vị trưởng tộc thuộc các dòng dõi đột ngột tử vong một cách đáng ngờ thì cả kinh thành chìm trong nỗi hoang mang tột độ. Trong quá trình điều tra, Địch Công và các trợ thủ phát hiện mọi manh mối đều xoay quanh một bức tranh vườn liễu. Bí mật gì được ẩn giấu đằng sau những hoa văn. Thật giả bất phân, làm thế nào để giải mã nó và đưa vụ án ra ánh sáng. *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. *** CÁC NHÂN VẬT CHÍNH ĐỊCH NHÂN KIỆT: Đại lý tự khanh* kiêm Kinh triệu doãn* tạm quyền. Ông thường được gọi là “Địch Công”. ĐÀO CAM: trợ thủ của Địch Công, Trưởng sử của Đại lý tự. KIỀU THÁI, MÃ VINH: trợ thủ của Địch Công, Tả Hữu Quả nghị Đô úy. Quan viên đứng đầu Đại lý tự, cơ quan có nhiệm vụ xét lại những án nặng đã xử rồi gửi kết quả cuộc điều tra qua Bộ Hình để đệ tâu lên Hoàng đế xin quyết định. Chức quan giữ nhiệm vụ quản lý hành chính và trị an ở kinh đô. CÁC NHÂN VẬT KHÁC MAI LƯỢNG: một thương nhân thuộc dòng dõi công huân thế tộc tiền triều*. MAI THỊ: phu nhân của Mai Lượng. DIỆP KHUÊ LÂM: một người thuộc dòng dõi Hầu gia tiền triều. DIỆP THỊ: phu nhân của Diệp Khuê Lâm. QUẾ HOA: tỳ nữ trong Diệp phủ. HÀ BẰNG: một người thuộc dòng dõi Tướng gia tiền triều. LƯ HỒNG CƠ: một đại phu nổi danh. VIÊN NGỌC ĐƯỜNG: một ông lão múa rối giang hồ. BẠCH LAM, HỒNG PHỈ: hai nhi nữ song sinh của Viên Ngọc Đường. Triều đại trước. CÁC VỤ ÁN TRONG TRUYỆN Vụ án HOA VĂN CÂY LIỄU. Vụ án CẦU THANG DỐC ĐỨNG. Vụ án NÀNG NÔ TỲ BỊ SÁT HẠI. Mời các bạn đón đọc Hoa Văn Cây Liễu của tác giả Robert van Gulik & Nguyệt Minh (dịch).
Hầu Tử Và Lão Hổ
Hầu Tử và Lão Hổ là tác phẩm thứ 14 trong bộ tiểu thuyết trinh thám quan án Địch Công kỳ án viết về Địch Nhân Kiệt – vị thần thám danh tiếng lẫy lừng triều Đường, dưới thời Võ Tắc Thiên trị vì. Hầu Tử và Lão Hổ tái hiện lại hai vụ án riêng lẻ ở hai mốc thời gian khác nhau trong sự nghiệp quan án xuất chúng của Địch Công. Vụ án thứ nhất có liên quan đến một chiếc nhẫn quý dính máu và một xác chết trong căn lều hoang. Vụ án thứ hai liên quan đến nạn đạo tặc hoành hành, khiến cuộc sống của người dân vô cùng khổ cực. Số mệnh trớ trêu, lòng người khó đoán, kẻ đáng thương vị tất không có chỗ đáng giận. Vậy ai mới là kẻ có tội? Làm thế nào để Địch Công có thể lật ngược ván cờ trong thế khó, vạch trần bộ mặt của những kẻ đổi trắng thay đen, gỡ được những nút thắt phức tạp, tìm ra chân tướng của các vụ án? *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. *** Địch Công đang tận hưởng buổi sáng mùa hè mát lành bên hành lang chạy dài theo phía sau của tư thất. Ông vừa ăn xong bữa điểm tâm buổi sáng cùng mọi người trong nhà, và giờ ông đang thưởng trà một mình, đây là thói quen cố hữu trong suốt những năm ông làm Huyện lệnh Hán Nguyên. Ông kéo chiếc ghế mây lại gần lan can bằng cẩm thạch được chạm khắc. Chậm rãi vuốt bộ râu dài đen nhánh, ông khoan khoái ngồi ngắm hàng cây cao chót vót và cây bụi rậm rạp trên triền núi ngay phía trước chỗ ông ngồi, trông y như một bức tường màu xanh tươi mát. Từ bức tường ấy rộ lên tiếng những loài chim nhỏ ríu rít và cả bài ca râm ran của đám ve sầu hòa cùng. Ông nghĩ thật đáng tiếc khi những thời khắc thư nhàn để tận hưởng sự bình yên này chỉ là thoáng chốc. Chẳng mấy chốc, ông sẽ phải lên công đường để xem có công văn nào được chuyển đến hay không. Bỗng trong đám lá có tiếng xào xạc và cành cây gãy. Hai bóng dáng lông lá đen thẫm đang chuyền qua những ngọn cây, đu từ cành này sang cành khác bằng đôi tay dài mảnh khảnh, để lại phía sau là một đám lá rụng lả tả. Địch Công mỉm cười nhìn theo hai con khỉ. Ông chưa bao giờ chán ngắm vẻ uyển chuyển của lũ khỉ khi chúng nhào lộn. Khỉ vốn nhút nhát, chúng sống trên triền núi và đã quen với vị quan ngồi một mình ở đó mỗi sáng. Thỉnh thoảng, một trong hai con khỉ còn dừng lại một lát và khéo léo chụp lấy trái chuối Địch Công ném cho. Đám lá lại xao động. Lúc này, một con khỉ khác xuất hiện. Nó chuyền rất chậm bằng một cánh tay dài duy nhất và đôi chân linh hoạt tựa như bàn tay. Nó đang ôm một vật nhỏ trên tay trái. Con khỉ dừng lại phía trước chỗ Địch Công và hạ mình xuống một cành thấp hơn, đôi mắt tròn và nâu nhìn sang vị quan án bằng vẻ tò mò. Lúc này, Địch Công mới thấy rõ vật trên tay nó - một chiếc nhẫn bằng vàng có gắn miếng ngọc màu lục lấp lánh. Ông biết lũ khỉ vẫn hay nhặt về những vật nhỏ mà chúng thích thú, nhưng hứng thú của chúng cũng chẳng được bao lâu, nhất là khi chúng thấy những thứ nhặt về không thể ăn được. Nếu ông không thể khiến con khỉ thả chiếc nhẫn xuống ngay lúc này, nó có thể sẽ ném chiếc nhẫn vào đâu đó trong rừng, và chủ nhân chiếc nhẫn sẽ không bao giờ tìm lại được. ???? Địch Công trông thấy con khỉ đang nhìn mình Vì Địch Công không còn chút hoa quả nào trong tay để khiến con khỉ mất tập trung với chiếc nhẫn, ông vội rút chiếc hộp nhỏ trong tay áo và bày những thứ trong đó ra bàn trà, cẩn thận xem xét từng thứ một. Ông liếc thấy con khỉ đang quan sát mình. Chẳng mấy chốc, nó đã bỏ rơi chiếc nhẫn, đu mình xuống cành cây thấp nhất và trụ lại đó hồi lâu bằng đôi tay dài xù xì, say sưa dõi theo từng cử chỉ của Địch Công. Địch Công thấy có vài cọng rơm trên bộ lông đen nhánh của con khỉ. Ông không thể đánh lạc hướng nó quá lâu. Con khỉ kêu lên “oác oác” mấy tiếng thân thiết rồi lại trèo lên một cành cao hơn và biến mất giữa đám lá xanh. Địch Công bước qua lan can và xuống chỗ những tảng đá xanh rêu xếp thành hàng dưới chân dốc núi. Ông nhanh chóng phát hiện ra chiếc nhẫn lấp lánh. Ông nhặt lên và lại treo lên hành lang. Quan sát kĩ hơn thì thấy đó hóa ra là một chiếc nhẫn lớn, rõ ràng là loại nhẫn dành cho nam nhân. Chiếc nhẫn được thiết kế từ hai con rồng bằng vàng cuộn xoắn lấy nhau, và một miếng ngọc lục bảo to lớn khác thường loại thượng đẳng. Chủ nhân chiếc nhẫn chắc sẽ rất mừng khi tìm lại được món đồ cổ giá trị này. Ngay khi ông định bỏ chiếc nhẫn vào tay áo, ông để ý đến những đốm màu nâu như gỉ sắt ở phần bên trong chiếc nhẫn. Ông nhíu mày nhìn kĩ. Những dấu vết đó trông giống vết máu khô một cách lạ lùng. Ông quay lại và vỗ tay. Khi lão quản gia chạy đến, ông hỏi: “Lão quản gia, trên sườn núi đằng kia có nhà dân nào không?” “Bẩm đại nhân, không hề có. Sườn núi ấy quá dốc, lại chỉ toàn rừng rậm che phủ. Tuy nhiên có vài tĩnh xá trên đỉnh núi.” “Phải rồi, ta nhớ đã trông thấy những căn tĩnh xá đó. Ngươi có biết ai đang sống trên đó không?” “Bẩm đại nhân, có Lam chưởng quỹ, chủ một cửa hiệu cầm cố. Và cả một lang trung họ Hoàng.” “Ta không biết người họ Lam ấy. Còn ngươi vừa nói là Hoàng lang trung ư? Ý ngươi là người chủ hiệu thuốc ngoài chợ, đối diện miếu Khổng Tử? Một người nhỏ nhắn, sang trọng và luôn có vẻ âu lo?” “Bẩm đại nhân, đúng là vậy. Ông ta cũng có lý do chính đáng để luôn âu sầu. Nô tài nghe nói, năm nay công việc làm ăn của ông ta không thuận lợi. Và nhi tử độc nhất của ông ta lại là người thiểu năng. Cậu ta sang năm sẽ tròn hai mươi tuổi, nhưng vẫn không thể đọc hay viết. Nô tài không biết cậu ta rồi sẽ thành người thế nào…” Địch Công lơ đãng gật đầu. Căn tĩnh xá chắc vắng người, vì lũ khỉ không dám bén mảng đến nơi có người sinh sống. Đương nhiên, con khỉ có thể nhặt được chiếc nhẫn ở một góc vườn vắng vẻ trên đó. Nhưng rồi sau đó nó có thể ném chiếc nhẫn đi trước khi nó đi qua khu rừng và xuống đến chân núi. Con khỉ chắc chắn đã nhặt được chiếc nhẫn ở quãng dưới này. Ông bỏ qua lão quản gia và lại ngắm nghía chiếc nhẫn. Miếng ngọc lục bảo óng ánh này dường như bỗng xỉn màu, biến thành một con mắt sầu thảm nhìn xoáy vào ông bằng ánh mắt tang tóc. Khó chịu vì chính nỗi bối rối của mình, ông vội bỏ chiếc nhẫn vào tay áo. Ông sẽ phải ra cáo thị về chiếc nhẫn này, rồi chủ nhân của nó sẽ sớm đến huyện nha trình diện và mọi chuyện sẽ kết thúc ở đó. Ông vào trong, đi về tư thất của mình ở hoa viên phía trước, rồi từ đó lên thẳng sân chính của huyện nha. Không gian dịu mát vì những tòa nhà lớn bao quanh sân đã ngăn lại ánh nắng buổi sáng. Bộ đầu của huyện nha đang kiểm tra lại quân bị cho hơn mười người dưới quyền, họ xếp hàng trong sân. Tất cả đều quay sang khi thấy Huyện lệnh đến. Địch Công định đi nhanh qua, lên công đường ở phía bên kia sân, nhưng bỗng một ý nghĩ khiến ông dừng bước. Ông hỏi Bộ đầu: “Ngươi có biết tư gia nào trong khu rừng trên sườn núi phía sau huyện nha không?” “Bẩm đại nhân, thuộc hạ không biết. Theo như thuộc hạ nhớ thì ở đó không có nhà dân. Tuy vậy, ở lưng chừng núi có một căn lều. Loại lều nhỏ bằng gỗ, vốn là của một tiều phu. Bấy lâu nay chỗ đó bị bỏ không.” Rồi y nghiêm nghị nói thêm, “Đám du đãng vẫn hay ở lại đó qua đêm. Vậy nên thuộc hạ mới phải lên đó thường xuyên. Chỉ để đảm bảo chúng không gây ra tai họa gì.” Lời này có vẻ hợp lý. Trong một căn lều bỏ hoang, ở lưng chừng núi… “Ngươi nói thế nào là thường xuyên?” Ông hỏi sắc lạnh. “Bẩm đại nhân, ý thuộc hạ là… khoảng hai tháng một lần. Thuộc hạ…” “Ta không gọi đó là thường xuyên!” Địch Công ngắt lời y. “Ta muốn ngươi…” Ông bỏ lửng câu hỏi. Không được. Cảm giác băn khoăn, mơ hồ không khiến ông mất bình tĩnh. Chắc chắn là bữa điểm tâm chưa tiêu trong bụng đã phá hỏng tâm trạng thư thái, an lạc của ông. Ông sẽ không ăn thịt vào bữa điểm tâm nữa… Ông hỏi lại bằng vẻ thân tình hơn: “Bộ đầu, căn lều ấy cách đây bao xa?” “Bẩm đại nhân, chỉ tầm một khắc* đi bộ. Có một lối mòn nhỏ dẫn lên sườn núi.” 1 khắc bằng 15 phút. “Được rồi. Hãy đi gọi Đào Cam đến đây!” Bộ đầu chạy lên công đường. Y quay lại cùng một nam nhân trung tuổi, người gầy, mặc ngoại y màu nâu đã bạc màu, đội mũ có chóp cao bằng vải sa đen. Người này có khuôn mặt dài, u buồn, bộ ria mép rũ xuống và cằm lưa thưa râu, có ba sợi lông dài rủ xuống từ nốt ruồi trên má trái. Đào Cam vừa thi lễ, Địch Công đã kéo y đến một góc sân. Ông cho y xem chiếc nhẫn và thuật lại chuyện mình có được nó. “Ngươi có thể trông thấy vết máu khô bám trên đó. Có thể chủ nhân chiếc nhẫn đã bị đứt tay khi đi trong rừng. Người này đã tháo chiếc nhẫn ra trước khi xuống suối rửa tay, rồi con khỉ đã lấy mất chiếc nhẫn. Vì đây là một vật giá trị, và cũng vì chúng ta vẫn có nửa canh giờ* trước phiên thăng đường buổi sáng, chúng ta sẽ lên núi và tìm kiếm. Có thể chủ nhân chiếc nhẫn vẫn còn quanh quẩn đi tìm nhẫn. Tín sứ có đem đến thư từ quan trọng nào không?” Mời các bạn đón đọc Địch Công Kỳ Án Tập 14: Hầu Tử Và Lão Hổ của tác giả Robert van Gulik  & Nguyễn Việt Hải (dịch).