Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đại Minh Hồng Võ 2 Cuốn PDF (NXB Tín Đức Thư Xã 1958) - Thanh Phong

Minh Thái Tổ ra sức xây dựng một xã hội gồm các cộng đồng nông thôn tự túc được sắp xếp theo một hệ thống khắt khe, bất dịch, nhằm đảm bảo và hỗ trợ một lớp binh lính dài hạn cho triều đại của mình;[7] quân đội thường trực của đế quốc có quân số hơn một triệu người và các xưởng đóng tàu hải quân ở Nam Kinh là lớn nhất thế giới đương thời.[8] Minh Thái Tổ cũng rất cẩn thận trong việc tiêu trừ quyền lực của tầng lớp hoạn quan và các đại thần ngoại tộc,[9] phân phong lãnh thổ cho nhiều người con trai trên khắp Trung Quốc rồi cố gắng răn dạy các vương gia này thông qua Hoàng Minh Tổ huấn, một bộ chỉ thị rường cột được ban hành từ trước. Hoạch định của Minh Thái Tổ sớm đổ bể khi hoàng đế thiếu niên kế vị ông, Minh Huệ Tông, cố gắng hạn chế quyền lực trong tay những người chú của mình, thúc đẩy chiến dịch Tĩnh Nan, một cuộc nổi dậy đưa Minh Thành Tổ lên ngai vàng vào năm 1402. Minh Thành Tổ chọn Yên Kinh làm kinh đô mới, đổi tên nơi này thành Bắc Kinh, cho xây dựng Tử Cấm thành, khôi phục Đại Vận Hà và đưa các kỳ khoa cử trở lại vị trí số một trong công tác tuyển dụng quan lại. Ông tưởng thưởng cho các hoạn quan phò tá mình, dùng họ như một đối trọng chống lại các sĩ đại phu Nho giáo. Hoạn quan Trịnh Hòa là người dẫn đầu bảy chuyến hải trình lớn thăm dò Ấn Độ Dương, đến tận Ả Rập và các bờ biển phía đông châu Phi.Đại Minh Hồng Võ Cuốn 2NXB Tín Đức Thư Xã 1958Thanh Phong198 TrangFile PDF-SCAN

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Sợ Sống - Lê Văn Trương PDF
Nhà văn Lê Văn Trương (1906-1964), bút hiệu Cô Lý, là nhà báo, nhà văn Việt Nam thời tiền chiến. Ông sinh tại làng Đồng Nhân, nay là khu phố Thịnh Yên, quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội. Cha ông gốc người Hà Đông, lên lập nghiệp ở Bắc Giang. Trước Cách mạng Tháng Tám, Lê Văn Trương làm rất nhiều nghề: Công chức Sở Dây thép, khai khẩn đồn điền, thầu khoán, buôn bò, buôn ngọc, buôn lậu... ở nhiều nơi, có khi sang tận Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc. Song, về sau, ông cộng tác với nhiều báo như: Trung Bắc tân văn, Tiểu thuyết thứ Bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Ích hữu, Truyền bá, Việt Nam hồn… Sau Cách mạng Tháng Tám, ông theo kháng chiến, làm Chủ tịch Ủy ban Đãi vàng Bắc Bộ, vào bộ đội, công tác ở Tiểu ban Văn nghệ, Ban Tuyên huấn thuộc Phòng Chính trị Liên khu III. Sau bị bệnh, ông xin phép về Hà Nội chữa bệnh. Đầu năm 1954, ông vào Sài Gòn làm thầu khoán, viết báo, tái bản sách cho đến cuối đời.Tủ Sách Người HùngSợ SốngNXB Lê Cường 1942Lê Văn Trương157 TrangFile PDF-SCAN
Suối Đàn - Lan Khai PDF (NXB Cộng Lực 1942)
Trong 17 năm cầm bút (1928 – 1945), ông để lại cho nền văn học VN hàng trăm tác phẩm đủ các thể loại. Chỉ tính từ 1939 đến 1942, Lan Khai đã để lại gần 50 cuốn sách các loại, có thể chia làm ba loại: tiểu thuyết tâm lý xã hội, tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết đường rừng. Ngoài ra ông còn viết Nghiên cứu lý luận văn học, dịch sách và sưu tầm văn học dân gian các dân tộc thiểu số vùng cao. Tiểu thuyết đường rừng: Tiếng gọi của rừng thẳm (Tân Dân xuất bản, 1939 Truyện đường rừng (Tân Dân xuất bản, 1940 Dấu ngựa trên sương (Hương Sơn xuất bản, 1940 Chiếc nỏ cánh dâu (Duy Tân xuất bản, 1941 Suối đàn (Cộng Lực xuất bản, 1942)Suối ĐànNXB Cộng Lực 1942Lan Khai150 TrangFile PDF-SCAN
Tại Tôi - Hồ Biểu Chánh PDF
Mâu thuẫn ngày càng tăng giữa vợ chồng Như Thạch – bà Cả Kim – cô Phụng, chị Như Thạch, nên vợ chồng chàng từ bỏ tất cả trở lên Sài Gòn lập nghiệp. Tại đây Như Thạch đi dạy học, sống trong nghèo khổ và nuôi vợ đang mang thai. Sau khi cô Nhung sinh con thì cô bị bệnh rồi mất. Đứa con gái được đặt tên Thanh Nguyên. Không lâu sau, chính Như Thạch cũng qua đời do bênh lao. Lúc lâm trọng bệnh, Như Thạch viết lá thư kể rõ sự tình, mong bà Cả Kim tha thứ và đem cháu về nuôi, nhưng không thấy hồi âm, nên lúc hấp hối chàng đành gởi con gái Thanh Nguyên lại cho bạn đồng môn của mình là Tự Cường cùng tờ di ngôn và bảo Tự Cường cố giữ kín tung tích Thanh Nguyên, chờ khi cô 18 tuổi…Tại TôiNXB Đức Lưu Phương 1938Hồ Biểu Chánh204 TrangFile PDF-SCAN
Thanh Niên Với Ái Tình PDF (NXB Đời Mới 1943) - Nguyễn Lương Bích
Tự nghìn xưa, người ta đã nói đến ái tình. Và tự nghìn xưa, mỗi người quan niệm ái tình một khác. Sự trái ngược nhau ấy là do lẽ : ái tình chưa được hiệu tới triệt-để. Ca-ngợi ái-tinh là những ai chỉ mới được nếm cái phần ngon ngọt nhất của ái tình, hoặc đã đuợc nếm cả mùi tan khổ, nhưng lờ đi, để chiều theo xu-hướng của thế tình. Hoặc chưa được một lần biết cái hương-vị yêu-đương, nhưng khát-khao và mờng-tượng những cái tình hay ho, đẹp-đẽ, tả trong những văn thơ đã được coi. Người ta a-dua sách-vở mà ca-ngợi ái-tình.Thanh Niên Với Ái TìnhNXB Đời Mới 1943Nguyễn Lương Bích168 TrangFile PDF-SCAN