Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nghĩ Lớn Để Thành Công - Donald Trump & Bill Zanker

Hai trong số các doanh nhân thành đạt nhất thế giới đã tiết lộ bí quyết suy nghĩ lớn để đạt được những thành công ngoạn mục. Hãy áp dụng quan điểm của Donald để truyền cảm hứng cho chính bạn, nhằm phá vỡ những hạn chế của bản thân. Bạn luôn có hai lựa chọn, hoặc bằng lòng với những suy nghĩ bình thường như bao người khác hoặc có thể suy nghĩ lớn. Đúng như Donald đã nói: "Nếu đã có thể suy nghĩ, hãy nghĩ lớn. Đó là lựa chọn của bạn. Dù bạn ở trong bất cứ hoàn cảnh nào thì không ai có thể ngăn bạn suy nghĩ lớn. Và một khi đã thích suy nghĩ lớn và học được cách hành động để thành công, bạn sẽ có động lực để tiếp tục và những phần thưởng xứng đáng sẽ đến với bạn. Đó chính là bí quyết của Donald Trump về việc suy nghĩ lớn để thành công. Hãy thực hành bí quyết này, và bạn cũng sẽ đạt được thành công cả trong cuộc sống cũng như trong công việc". *** VƯƠN ĐẾN SỰ LỚN MẠNH Trước khi tôi gặp Donald Trump, The Learning Annex chỉ là một công ty nhỏ. Nhưng giờ đây, The Learning Annex thực sự là một công ty tầm cỡ vì tôi đã tiếp thu được quan điểm thành công của Donald Trump. Cách đây hai mươi tám năm, khi còn là sinh viên theo học các khóa phim ảnh tại The New School ở thành phố New York, tôi đã phải tự kiếm tiền để trang trải cuộc sống. Vì vậy năm 1979, mới 26 tuổi, tôi đã khởi nghiệp với The Learning Annex bằng khoản tiền 5.000 đô-la kiếm được từ công việc làm thêm tại quán bar Mitzvah. Ban đầu, tôi chỉ xem The Learning Annex như một trường học dành cho những người hướng dẫn làm dòng phim thể nghiệm chia sẻ hiểu biết và kinh nghiệm của họ với các nhà làm phim tâm huyết. Nhưng người bạn gái của tôi lúc ấy, một giáo viên dạy nghề gốm, đã gợi ý với tôi về việc mở rộng chương trình giảng dạy và xây dựng một ngôi trường có phương pháp học hoàn toàn khác, mục đích giúp các học viên nhanh chóng học hỏi và tiếp thu những điều mà họ không thể tìm thấy ở bất cứ đâu. Và The Learning Annex ra đời. Những ngày đầu, trong trang phục của một chú hề, tôi đứng trên các đường phố ở Manhattan để phát tờ rơi giới thiệu về khóa học. Tôi bảo mọi người hãy gọi điện tới số máy văn phòng in trên tờ rơi và cứ nói rằng có một chú hề bảo họ đăng ký ngay để được giảm 5 đô-la tiền học. Sau đó tôi chạy về văn phòng và trả lời điện thoại. Và thật thú vị khi có rất nhiều người gọi đến kể về chuyện một chú hề dễ thương nói với họ về khoản tiền được giảm khi đăng ký tham gia khóa học. Tôi ghi tên từng học viên theo lớp rồi gửi thư xác nhận cho họ. Khi không còn cuộc gọi đăng ký nào, tôi lại lo tìm giáo viên. Tôi đã thành lập và điều hành The Learning Annex như vậy từ căn hộ thuê 325 đô-la một tháng ở phía Thượng tây Manhattan. The Learning Annex đã thành công và tôi thật sự hài lòng vì điều đó. Tôi đã tìm thấy niềm đam mê của mình và nhận ra rằng tôi là một nhà tổ chức thiên bẩm. Tôi đã thay đổi quan điểm giáo dục rằng chỉ có học, học và học mới đạt được thành công do nhận thấy hình thức "Giáo - Trí" (vừa học vừa giải trí) mang lại hiệu quả hơn. Trong thời đại ngày nay, mọi thứ đều diễn ra rất nhanh. Không ai có thời gian để học tập theo kiểu truyền thống như trước. Sự phát triển của truyền thông và Internet đã tạo ra một thế hệ những con người muốn mọi thứ trở nên nhanh chóng và thú vị hơn. Vì vậy tôi quyết định mời những nhân vật tầm cỡ về dạy học, bởi tôi muốn các giáo viên đứng lớp của mình phải là những người có danh tiếng và uy tín lớn. Sức hút của những tên tuổi nổi tiếng khiến số lượng học viên đăng ký tăng vọt. Ngày càng nhiều người có uy tín sẵn sàng đồng ý lời mời về dạy cho các lớp học của tôi. Cùng với hàng trăm tên tuổi khác, những nhân vật nổi tiếng như Sarah Jessica Parker, Harrison Ford, Richard Simmons, Henry Kissinger, P. Diddy, Suze Orman, Barbara Bush, Larry King, Desmond Tutu, Renee Zellweger, Deepak Chopra và Rudy Giuliani đã làm rạng rỡ cho bục giảng của The Learning Annex. Bạn có thắc mắc làm thế nào mà tôi mời được những ngôi sao này không? Do không có nhiều tiền nên tôi phải thuyết phục những nhân vật nổi tiếng bằng một cách khác không nặng về tiền. Đó là trách nhiệm. Tôi đã nói với họ: "Quý vị đã thành công. Vậy tại sao quý vị không đáp đền xã hội?". Tôi còn nhớ, ông trùm điện ảnh Harvey Weinstein là một người cực kỳ khó thuyết phục. Để có được cái gật đầu đồng ý của Harvey, tôi đã phải ra sức nài nỉ ông: "Vì lòng hảo tâm, xin ngài hãy dành cho các học viên của Learning Annex chỉ một giờ đồng hồ thôi". Và Harvey đã thực sự làm người nghe phải sửng sốt bởi sự hiểu biết sâu sắc cũng như những câu chuyện vô cùng thú vị khi ông kể về cách ông đã gia nhập vào Hollywood qua buổi diễn thuyết trong suốt mấy tiếng đồng hồ. Quả thực, tiền nong không còn là vấn đề với hầu hết những người có uy tín lớn như vậy. Riêng Donald Trump thì khác. Ông không nghe bất cứ cuộc gọi nào của tôi. Một hôm, tôi gọi đến văn phòng của Trump và được nối máy tới thư ký riêng của ông, cô Norma. Tôi biết mình không thể thu hút sự chú ý của Trump theo cách thường dùng bởi Trump thậm chí chẳng buồn tiếp chuyện tôi. Vì vậy tôi đã làm cách khác để Trump phải chú ý - sử dụng tiền để thu hút sự quan tâm của ông. Đây không phải là cách tôi thường dùng, nhưng vì thực sự muốn gặp được Trump nên tôi quyết định thực hiện. Tôi đã đề nghị một khoản tiền "khổng lồ" đối với mình khi đó: 10.000 đô-la. Thư ký của ông hỏi: "Chỉ thế thôi sao?" và từ chối lời đề nghị của tôi như thể số tiền đó chỉ đáng mua một chai Chianti rẻ tiền. Cô ta còn buông thêm một câu cộc lốc: "Tôi không nghĩ ngài Trump sẽ đồng ý" rồi dập máy. Vẫn không nản lòng, vài ngày sau đó tôi lấy hết can đảm gọi điện lại cho Norma và nói: "Tôi sẽ trả ông Trump 25.000 đô-la". Norma đáp lại: "Không! Ngài Trump không quan tâm đâu". Nghe câu trả lời, tôi đã rất choáng váng. Sau đó, tôi nhận ra mình vẫn còn quá dè dặt. Một tuần sau, tôi mạnh dạn đưa ra đề nghị 100.000 đô-la. Đó là số tiền lớn nhất mà tôi từng đề nghị cho một diễn giả. Nhưng Norma chẳng hề lung lay và đã trả lời không chút do dự: "Không! Ngài Donald sẽ không nhận lời đâu". Tôi ngồi phịch xuống và nghĩ thật kỹ xem tiếp theo mình nên làm gì. Tôi nên từ bỏ ý định mời Donald Trump hay tiếp tục cố gắng? Tôi không biết mình phải làm gì nữa. Rồi tôi nhớ lại lời nói của Tony Robbins: "Nếu muốn thành công, anh phải đẩy mình ra khỏi những giới hạn của bản thân. Anh phải tự tin và đặt mình vào trạng thái tinh thần cao nhất. Và anh phải tự thân vận động vì không ai có thể làm việc này thay anh". Tôi nhất định phải thành công. Bởi với tôi, Donald Trump là Trùm của những ông Trùm. Trong cuộc sống, ai cũng thần tượng một người nào đó và với tôi, Donald chính là một vị anh hùng. Nếu muốn làm việc cùng Trump, tôi phải tự đưa mình lên một tầm cao mới. Tôi căng vai, ưỡn ngực, hít một hơi thật sâu và thu hết toàn bộ sinh lực, sau đó, tôi gọi điện cho Norma ở văn phòng của Donald Trump và đề nghị 1 triệu đô-la cho một giờ diễn thuyết của Donald Trump tại The Learning Annex. Vào thời điểm đó, The Learning Annex chưa bao giờ đạt doanh thu hơn 5,5 triệu đô-la cả năm. Thử nghĩ xem, tôi đề nghị Trump đến 1 triệu đô-la trong khi chỉ kiếm được 5,5 triệu đô-la một năm. Mà họa hoằn lắm tôi mới có một lớp được hơn vài trăm người, thế nên vào thời điểm đó, việc thu lại số tiền lớn như vậy vượt quá khả năng của tôi. Nhưng tôi không còn cách nào khác. Tôi biết mình cần phải làm như vậy. Vì thế, tôi nghe theo sự thúc giục trong lòng và quyết định gọi lại. Vừa nghe tôi nói xong, Norma đáp ngay: "Tuyệt đấy! Tôi sẽ nói lại với ngài Donald về chuyện này". Tôi cúp máy, lao vào phòng tắm và nôn thốc nôn tháo. Đầu óc tôi quay cuồng còn tim đập thình thịch. Tôi vừa làm gì thế này? Nếu mọi chuyện không thành công, tôi có thể mất tất cả. Chỉ trong phút chốc mà tôi đã đặt chân đến một ngưỡng mới trong cuộc đời mình, và chuyện đó không dễ chịu chút nào. Tôi vừa làm một việc rất điên rồ, nhưng cảm giác trong tôi thật tuyệt vời. Chưa đầy một giờ sau, đích thân Donald gọi điện cho tôi. Khi nghe máy, tôi không thể tin rằng mình đang nói chuyện với Donald Trump. Tôi nghĩ có lẽ một người bạn nào đó đang đùa. Nhưng đúng là Donald. Ông nói: "Bill này, tôi thích The Learning Annex và anh đã đưa ra một đề nghị thật dễ chịu. Nhưng tôi muốn biết anh tính sẽ có khoảng bao nhiêu người tham gia sự kiện này?". Lúc đó, hầu hết các lớp học của chúng tôi chỉ có khoảng từ 500 đến 700 người, và lớp đông nhất là một lớp học về tâm linh. Chúng tôi chưa bao giờ vượt khỏi ngưỡng vài trăm học viên cho bất cứ sự kiện nào. Vì thế tôi đã trả lời Trump: "Tôi nghĩ sẽ có 1.000 người". Trong suy nghĩ của tôi, 1.000 người là con số rất lớn. Nhưng Trump lại ra điều kiện: "Tôi sẽ đồng ý nếu anh hứa với tôi sẽ có 10.000 người tham dự". Mười nghìn người! Ngay cả trong những giấc mơ điên rồ nhất của mình, tôi cũng chưa bao giờ tưởng tượng đến con số đó. Nhưng chuyện đã đến nước này nên tôi liều lĩnh trả lời: "Không thành vấn đề. Sẽ có 10.000 người". Trump nói: "Tuyệt lắm! Luật sư của tôi sẽ gửi các giấy tờ cần thiết cho anh". Và thế là mọi việc đã được thỏa thuận xong. Đồng ý với Trump cũng có nghĩa là tôi đã cam kết chắc chắn rằng mình phải thật táo bạo, táo bạo hơn trước đây rất nhiều. Thời khắc đó đã thay đổi cuộc đời tôi. Donald Trump đã đưa tôi đến một vị trí hoàn toàn mới. Tôi bắt đầu làm những việc mà trước đây chưa từng làm bao giờ. Tôi bắt đầu nghĩ đến một quy mô lớn hơn nhiều. Tôi phải có 10.000 người đến nghe Donald nói chuyện. Quả là một điều không hề đơn giản. Nhưng bạn thử đoán xem điều gì đã xảy ra? Mọi người đều muốn học hỏi Donald và muốn nghe ông nói chuyện, thế nên các bản đăng ký bắt đầu được gửi đến tới tấp. Nhờ thế mà chúng tôi đã tổ chức được Hội thảo Đầu tư The Learning Annex. Khi đó, số người đến tham dự hội thảo còn nhiều hơn cả con số 10.000 mà tôi đã hứa với Trump. Đã có hơn 31.500 người tham dự Hội thảo Đầu tư The Learning Annex đầu tiên của chúng tôi vào năm 2004. Đó là một con số đáng kinh ngạc. Nhờ vậy, tôi dễ dàng trả được khoản thù lao cho Donald Trump. Rõ ràng là Trump biết tôi hoàn toàn có thể làm được điều đó. Về phần tôi, tôi cảm ơn Trump vì đã mang lại cho tôi một thách thức giúp tôi thay đổi tư duy của mình. Kinh nghiệm đã chứng minh cho tôi thấy rõ rằng khi dám nghĩ lớn, nhất định ta sẽ thành công. Kể từ khi tôi gặp được Donald Trump, công ty của tôi tăng trưởng hơn 400% mỗi năm; chuyển từ một công ty nhỏ với doanh thu 5,5 triệu đô-la một năm thành một công ty lớn đạt mức 102 triệu đô-la vào năm ngoái. The Learning Annex đã được tạp chí Inc(1). ghi nhận là một trong những công ty tăng trưởng nhanh nhất trong vòng hai năm qua. Tất cả là nhờ tôi đã học được những nguyên tắc NGHĨ LỚN để THÀNH CÔNG mà bạn sẽ đọc được trong cuốn sách này. Cơ hội làm việc với Donald Trump đã thay đổi hoàn toàn tư duy của tôi. Dù đã từng nghe tới thuật ngữ "nghĩ lớn" nhưng tôi chưa bao giờ thực sự hiểu được. Nghĩ lớn cũng là một phương châm sống của Donald Trump. Tôi học được từ ông rằng để thực sự nghĩ lớn, bạn phải vứt bỏ cảm giác thiếu tự tin. Tôi cũng học được rằng để thành công, bạn không bao giờ được bỏ cuộc. Mọi vấp ngã đều là một nấc thang trên con đường dẫn tới thành công. Donald Trump luôn có suy nghĩ mình sẽ làm được mọi thứ và không bao giờ giới hạn khả năng của bản thân. Hãy là chính mình. Hãy làm những gì mình muốn. Đừng để ai khác điều khiển cuộc sống của bạn. Đừng để người khác chèn ép bạn. Nếu ai đó gây trở ngại cho bạn, đừng chịu khuất phục mà hãy nắm lấy cơ hội để chiến đấu và đánh bại họ. Hãy đề ra những quy tắc của riêng mình và đừng quan tâm xem người khác nghĩ gì. Đó là tất cả những gì mà Donald Trump muốn nhắn nhủ. Qua thái độ và tấm gương của bản thân mình, Donald Trump đã dạy tôi cách thực sự nghĩ lớn. Và giờ đây tôi đang sống một cuộc sống tràn đầy năng lượng, với nhiều mục tiêu quan trọng hơn và thu nhập cũng cao hơn nhiều. Quan điểm mới này giúp tôi tự tin hơn rất nhiều. Tôi không còn lo lắng khi thực hiện các kế hoạch lớn hay mời những nhân vật nổi tiếng đứng lớp, cho dù đó là Warren Buffett, Rupert Murdoch hay thậm chí là Tổng thống Clinton. Tôi không còn sợ bất cứ điều gì nữa. Cả công việc kinh doanh lẫn cuộc sống cá nhân của tôi đều biến đổi nhờ tình bạn với Donald Trump. Tôi sống bản lĩnh và tự tin hơn. Tôi đã trở thành một triệu phú giàu có hơn trước rất nhiều. Tôi coi trọng bản thân hơn và điều đó đã giúp cho cuộc sống cá nhân tôi tốt hơn. Đối với vợ con, tôi là một người chồng, người cha mẫu mực. Vợ tôi thích quan điểm mới của tôi, còn các con tôi rất kính trọng tôi. Cuộc sống của chúng nhờ đó cũng có sự thay đổi. Sau khi thấy đám đông khoảng 50.000 người chen lấn để được vào tham dự buổi hội thảo, con trai tôi - Dylan bắt đầu cảm thấy thích thú hơn với công việc kinh doanh. Còn hai con gái tôi là Ediva và Vera, sau khi nghe Donald Trump diễn thuyết cũng đã sống với nhiều đam mê hơn. Vợ tôi, Debbie, khâm phục sự mạo hiểm của tôi và hết lòng ủng hộ những đầu tư táo bạo của chồng trong kinh doanh. Nếu bạn là chủ một doanh nghiệp thì việc được người bạn đời ủng hộ là điều rất quan trọng. Với tôi, mỗi khi lo lắng, chỉ cần biết vợ mình luôn ở phía sau động viên là tôi cảm thấy an tâm hơn rất nhiều. Điều hành một doanh nghiệp khiến bạn phải đối mặt với nhiều rủi ro; đó là một cuộc chiến và trong cuộc chiến này, việc gia đình luôn ở bên cạnh và khuyến khích bạn là điều vô cùng quan trọng. Tôi đã phải làm việc 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần để chuẩn bị cho Hội thảo Đầu tư The Learning Annex đầu tiên vào năm 2004. Bốn giờ sáng hôm diễn ra hội thảo, tôi đến một cửa hàng bán thức ăn phục vụ 24/24, gần trung tâm hội nghị Jacob K. Javits để mua chiếc bánh sinh nhật cho một thành viên trong nhóm. Anh chàng đã bỏ qua sinh nhật mình để chuẩn bị cho buổi hội thảo và đó là điều tối thiểu tôi có thể làm cho cậu ta. Ngay lúc đó, tôi nhận được điện thoại của Harry Javer, người điều hành buổi hội thảo. Anh ta nói: "Anh đến đây ngay đi. Chúng ta đang gặp phải một vấn đề nghiêm trọng. Nhiều dòng người đang chặn hết các cửa ra vào. Trung tâm Javits sẽ phát điên mất. Họ chưa bao giờ thấy nhiều người đến vậy, và vào lúc 4 giờ sáng như thế này!". Năm 2004, khi thực hiện buổi hội thảo lớn đầu tiên đó, chúng tôi không hề nghĩ xem việc mình làm sẽ đi đến đâu. Nếu trước đó chúng tôi nói với ai đó rằng chúng tôi định thu hút hơn 30.000 người trong chương trình đầu tiên này, họ sẽ cho rằng đó là điều hoang tưởng. Bởi vì thực tế là hầu hết các "chuyên gia" đều nói rằng chúng tôi thậm chí sẽ không có nổi 5.000 người. Vì chưa có kinh nghiệm thực hiện các chương trình lớn nên chúng tôi không biết điều gì tốt hay không tốt. Buổi sáng đầu tiên, dòng người đổ đến trung tâm Javits kéo dài đến tám dãy nhà. Chúng tôi đã chi một khoản tiền rất lớn để quảng bá cho sự kiện này. Mọi người đều muốn gặp Donald Trump và tìm hiểu những bí quyết thành công của ông. Việc quảng bá của chúng tôi đã thành công: rất nhiều người đã đến. Ước mơ của một nhà doanh nghiệp đã trở thành sự thật. Tôi đã đánh cược rất lớn và tôi đã thắng. Giờ đây tôi đã trở thành một tín đồ theo những chiến lược NGHĨ LỚN của Donald Trump. Sau cuộc hội thảo đầu tiên, The Learning Annex đã thực hiện thêm nhiều buổi Hội thảo khác với Donald Trump và chúng đều mang lại những kết quả đáng kinh ngạc. Ở San Francisco có hơn 70.000 người tham dự và hai tuần sau đó, tại Los Angeles là 62.500 người. Quả là ngoài sức tưởng tượng. Mọi việc đều diễn ra rất suôn sẻ. Vì thế tôi đã gọi điện cho Trump và ngỏ ý muốn ký hợp đồng với ông để thực hiện thêm 20 chương trình trong năm tới. Trump đã khẳng khái trả lời: "Tuyệt! Nhưng tất cả những người này đến là vì tôi. Tôi muốn tăng thêm tiền". Tôi nói: "Không, thưa ngài Trump. Tôi đã làm việc cật lực và phải thực hiện toàn bộ việc quảng bá. Đó cũng là lý do vì sao chương trình thành công đến vậy". Nhưng Trump đã phản bác: "Vô lý. Đó là nhờ tôi. Bây giờ tôi muốn 1,5 triệu đô-la". Tuy có hơi choáng váng, nhưng sau cùng tôi đã đồng ý, bởi Trump xứng đáng với khoản tiền đó. Ông đang thay đổi cuộc sống không chỉ của tôi mà của cả những người theo học tại The Learning Annex. Đó chỉ là một ví dụ nhỏ về quan điểm của Trump. Trump biết giá trị của mình và ông yêu cầu người khác phải trả xứng đáng với điều đó. Với Trump, việc diễn thuyết tại The Learning Annex không phải vì tiền bởi ông là người luôn tràn đầy nhiệt huyết trong mọi việc. Trump thích kết giao, giúp đỡ và chia sẻ kiến thức với mọi người. Nếu bạn coi việc quảng cáo, quảng bá sự kiện hay mọi thứ The Learning Annex thực hiện là để nâng cao thương hiệu Trump thì bạn cần biết rằng Donald đã dành phần lớn số tiền hơn 1,5 triệu đô-la cho mỗi lần phát biểu của mình tại The Learning Annex vào hoạt động từ thiện. Donald Trump là một người rất cứng rắn và luôn có những đòi hỏi vô cùng khắt khe. Donald Trump cũng là một ông trùm đô-la. Song thật lạ khi ông lại là người dễ chịu nhất trong số những tên tuổi lớn tôi từng cộng tác. Trump rất chuyên nghiệp và luôn chuẩn bị kỹ lưỡng cho những buổi nói chuyện của mình. Ông cũng luôn mang đến cho tôi và các sinh viên tại The Learning Annex nhiều hơn những gì tôi mong đợi cũng như những gì thuộc trách nhiệm của ông. Trump cũng là một trong những người trung thành nhất mà tôi từng biết. Đối với Donald Trump, lòng trung thành thực sự rất quan trọng và là một phẩm chất tuyệt vời phải có trong công việc. Donald Trump muốn chia sẻ quan điểm về thành công của ông với nhiều người hơn nữa. Ông biết mình cần đền đáp lại xã hội như thế nào. Ông giúp mọi người tiếp cận quan điểm và trải nghiệm của mình theo cách nhẹ nhàng nhất, đó là qua các câu chuyện có thật. Dựa trên những câu chuyện đời thường, cuốn sách này đề cập đến một điều thực sự ý nghĩa - suy nghĩ lớn. Khi đọc, bạn hãy dành chút thời gian suy ngẫm về những câu chuyện đó. Tôi dám chắc rằng, khi một tình huống xảy đến trong cuộc sống của chính bạn, bạn cũng sẽ nhớ tới một trong những câu chuyện của Trump và cách xử trí khôn ngoan của ông. Điều đó sẽ khiến bạn xử lý tình huống theo cách khác hẳn. Và đó chính là lý do vì sao cuốn sách này lại ý nghĩa như vậy. Hãy đọc và suy ngẫm. Tôi đảm bảo cuốn sách này sẽ thay đổi quan điểm cũng như cuộc sống của bạn ngay cả khi bạn chưa kịp nhận ra điều đó. Hãy đọc từng chương một để quan điểm của Trump thấm nhuần và mang lại cho bạn những bài học bổ ích. Hãy làm quen với quan điểm nghĩ lớn của Trump để điều chỉnh cuộc sống của bạn cũng như lấy đó làm động lực để phá bỏ những giới hạn do chính bạn đặt ra cho mình. Trong cuộc sống, bạn luôn có hai lựa chọn: suy nghĩ bình thường hoặc suy nghĩ lớn. Như Trump từng nói: "Một khi đã suy nghĩ, hãy nghĩ lớn. Đó là lựa chọn của bạn. Bất kể trong hoàn cảnh nào cũng không ai có thể ngăn cản bạn nghĩ lớn". Khi đã chọn cách nghĩ lớn và học được cách hành động để thành công, bạn sẽ có động lực để tiếp tục tiến về phía trước, và sự thành đạt sẽ đến với bạn. Đó chính là bí quyết nghĩ lớn để thành công của Donald Trump. Hãy vận dụng điều đó và bạn cũng sẽ trở thành một người thành công trong công việc cũng như trong cuộc sống. Tôi yêu quý và kính trọng Donald Trump. Trump đã làm thay đổi công việc cũng như cuộc sống riêng của tôi. Tôi mang ơn Trump, thế nên tôi rất vui mừng khi có thể chia sẻ với bạn những điều Trump đã dạy. Tôi đảm bảo rằng những điều đó sẽ tạo nên sự thay đổi trong cuộc sống của bạn cũng như chúng đã từng tạo nên sự khác biệt đối với cuộc sống của tôi và những sinh viên theo học tại The Learning Annex. Cám ơn ngài, Donald, vì đã dạy cho tôi bí quyết NGHĨ LỚN ĐỂ THÀNH CÔNG. Bill Zanker, Chủ tịch - Người sáng lập The Learning Annex Mời các bạn đón đọc Nghĩ Lớn Để Thành Công của tác giả Donald Trump & Bill Zanker.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lợi Thế Cạnh Tranh Quốc Gia (Michael E. Porter)
Cuốn “Lợi thế cạnh tranh quốc gia” đã cố gắng lý giải bản chất lợi thế cạnh tranh của các quốc gia khác nhau trong những ngành công nghiệp cụ thể bằng một lý thuyết đơn giản nhưng có khả năng áp dụng rộng rãi. Cuốn sách giới thiệu một khuôn khổ phân tích lợi thế cạnh tranh mới dựa trên sự vận động và tương tác của bốn nhân tố quyết định trong “hình thoi”, đó là: điều kiện các yếu tố sản xuất; các điều kiện cầu; các ngành công nghiệp phụ trợ và liên quan; chiến lược công ty, cấu trúc và cạnh tranh nội địa. Michael Porter cho rằng thành công hay hay thất bại của một quốc gia trong một ngành công nghiệp cạnh tranh quốc tế phụ thuộc vào sự hiện diện và mức độ tinh vi của các nhân tố quyết định trong “hình thoi” và một quốc gia chỉ thành công khi nó khai thác được những thuận lợi và nâng cấp được lợi thế để vượt qua những bất lợi về các nhân tố. Lợi thế cạnh tranh lâu dài chỉ có thể đạt được nhờ đổi mới và nâng cấp liên tục lợi thế cạnh tranh. Cuốn sách được kết cấu thành bốn phần chính. Trong phần I, tác giả tập trung trình bày nội dung của lý thuyết “hình thoi”, vai trò của từng nhân tố cũng như sự tương tác giữa chúng. Thành công của một số ngành công nghiệp điển hình tại Đức (ngành in), Ý (ngành gạch men gốm), Mỹ (ngành thiết bị kiểm tra bệnh nhân) và Nhật (ngành chế tạo robot) và một số ngành dịch vụ được soi rọi thông qua lăng kính của “hình thoi” trong phần II. Trong phần III, cuốn sách sử dụng mô hình “hình thoi” để phân tích thành công và thất bại của các quốc gia công nghiệp như Anh, Mỹ, Đức, Nhật, Ý, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Hàn Quốc. Cuối cùng, trong phần IV, cuốn sách phân tích những hàm ý của lý thuyết đối với chiến lược của các công ty, chính sách của chính phủ và những thay đổi cần thiết mà các quốc gia tiên tiến phải tiến hành để duy trì và nâng cấp lợi thế cạnh tranh. Mặc dù là một cuốn sách học thuật, “Lợi thế cạnh tranh quốc gia” không đòi hỏi bạn đọc phải có kiến thức sâu rộng về kinh tế để có thể nắm bắt những ý tưởng chính trong sách. Dẫu vậy, cuốn sách đòi hỏi ở bạn đọc một chút kiên nhẫn. Bởi nội dung toàn bộ cuốn sách đều xoay quanh lý thuyết “hình thoi” với bốn nhân tố quyết định lợi thế cạnh tranh, có thể bạn đọc đôi khi sẽ có cảm giác cuốn sách quá dài, bị trùng lặp và lẽ ra có thể rút ngắn lại. Càng đọc, bạn đọc sẽ càng bị lôi cuốn bởi vô vàn những ví dụ minh họa cụ thể về thành công và thất bại của các ngành công nghiệp và các quốc gia, dưới góc nhìn hết sức rõ ràng, đơn giản và nhất quán của “hình thoi”. Các nhà doanh nghiệp, các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu, sinh viên các ngành kinh tế và những bạn đọc quan tâm khác sẽ tìm thấy ở cuốn sách này những bài học bổ ích và quan trọng hơn là một công cụ phân tích những lợi thế và bất lợi trong cạnh tranh hết sức đơn giản nhưng hiệu quả, đặc biệt khi Việt Nam đã bước chân vào sân chơi cạnh tranh tòan cầu. Chẳng hạn, ở tầm vĩ mô, cuốn sách sẽ giúp trả lời những câu hỏi: Việt Nam có thể cạnh tranh trong những ngành nào? Làm thế nào để xây dựng lợi thế cạnh tranh trong một ngành nhất định? Ở cấp thấp hơn, cuốn sách cũng giải đáp những băn khoăn về lợi thế cạnh tranh của các địa phương và các doanh nghiệp cụ thể. Chẳng hạn, Hà Nội có lợi thế cạnh tranh trong ngành gì? Hay một công ty nên đặt cơ sở sản xuất ở đâu để có lợi thế cạnh tranh. Lựa chọn đúng những ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho lợi thế cạnh tranh chính là con đường mỗi doanh nghiệp nói riêng và đất nước ta nói chung có thể vươn lên cạnh tranh trên trường quốc tế. Mục lục: Lời giới thiệu Tìm mua: Lợi Thế Cạnh Tranh Quốc Gia TiKi Lazada Shopee Lời nói đầu Lời người dịch 1. Sự cần thiết có một mô hình mới Phần I. Cơ sở lý thuyết 2. Lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp trong những ngành công nghiệp tòan cầu 3. Những nhân tố quyết định lợi thế cạnh tranh quốc gia 4. Sự vận động tương tác của lợi thế quốc gia Phần II. Các ngành công nghiệp 5. Bốn nghiên cứu về lợi thế cạnh tranh quốc gia 6. Lợi thế cạnh tranh quốc gia trong các ngành dịch vụ Phần III. Các quốc gia 7. Các hình mẫu lợi thế cạnh tranh quốc gia: Những người chiến thắng trong thời kỳ đầu hậu chiến 8. Những quốc gia nổi lên trong những năm 1970 và 1980 9. Sự chuyển dịch lợi thế quốc gia 10. Sự phát triển sức cạnh tranh của các nền kinh tế quốc dân Phần IV. Những hàm ý và áp dụng lý thuyết 11. Chiến lược công ty 12. Chính sách của chính phủ 13. Chương trình hành động của các quốc gia Lời bạt Phụ lục A: Phương pháp lập biểu đồ tổ hợp Phụ lục B: Số liệu bổ sung về các hình mẫu thương mại quốc giaĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Lợi Thế Cạnh Tranh Quốc Gia PDF của tác giả Michael E. Porter nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Lợi Thế Cạnh Tranh (Michael E. Porter)
Xuất bản lần đầu năm 1985, cuốn sách này là sự bổ sung chính yếu cho tác phẩm Chiến lược cạnh tranh (Competitive Strategy). Nếu Chiến lược cạnh tranh tập trung vào các ngành kinh doanh, thì Lợi thế cạnh tranh lại chủ yếu nói về các công ty và doanh nghiệp. Mục tiêu của tôi là khái niệm hóa một công ty, với những nguồn gốc cơ bản của lợi thế cạnh tranh và tính bền vững của lợi thế đó. Trọng tâm của tác phẩm này là một lý thuyết dựa trên hoạt động (activity-based theory) của công ty. Để cạnh tranh trong bất kỳ ngành nào, các công ty phải thực hiện một loạt những hoạt động riêng rẽ như thực hiện đơn hàng, tiếp xúc khách hàng, lắp ráp sản phẩm, đào tạo nhân viên v.v… Chính các hoạt động này, vốn ở tầm nhỏ hẹp hơn các chức năng như marketing hay R&D, mới là nơi phát sinh chi phí và tạo ra giá trị cho người mua. Chính chúng mới là các đơn vị cơ bản (basic units) của lợi thế cạnh tranh [1]. Lợi thế cạnh tranh đưa ra khái niệm về Chuỗi giá trị (value chain) - là khung mẫu cơ sở để tư duy một cách chiến lược về các hoạt động trong doanh nghiệp; đồng thời đánh giá chi phí và vai trò tương đối của chúng trong việc khác biệt hóa. Khác biệt giữa giá trị (mức mà người mua sẵn sàng thanh toán cho một sản phẩm hay dịch vụ) với chi phí thực hiện các hoạt động cần thiết để tạo ra sản phẩm/dịch vụ ấy sẽ quyết định mức lợi nhuận. Chuỗi giá trị giúp ta hiểu rõ các nguồn gốc của giá trị cho người mua (buyer value) đảm bảo một mức giá cao hơn cho sản phẩm, cũng như lý do tại sao sản phẩm này có thể thay thế sản phẩm khác. Chiến lược là một cách sắp xếp và kết hợp nội tại các hoạt động một cách nhất quán, cách thức này phân biệt rõ ràng doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác. Cũng chính cái nhìn dựa trên hoạt động này cho ta cơ sở để suy nghĩ về chiến lược tại các doanh nghiệp đa ngành. Lợi thế cạnh tranh đi sâu khám phá vai trò của sản phẩm /dịch vụ thay thế trong cạnh tranh, cũng như phân tích lợi thế cạnh tranh trong một số ngành cụ thể [2]. Các hoạt động cũng là công cụ cơ bản để kiểm tra lợi thế hay bất lợi của việc đa dạng hóa. Khả năng tạo ra giá trị gia tăng thông qua cạnh tranh ở các doanh nghiệp đa ngành có thể được lý giải qua việc chia sẻ các hoạt động hoặc chuyển các kỹ năng độc nhất giữa các hoạt động khác nhau trong doanh nghiệp. Điều đó cho phép khái niệm “tổng lực” (synergy) trở nên rõ ràng và nhất quán. Lợi thế cạnh tranh nghiên cứu những vấn đề này, cũng như những thách thức về mặt tổ chức của sự cộng tác giữa các chức năng kinh doanh (cross-business collaboration) [3]. Với làn sóng mới của sự sáp nhập, các giá trị cạnh tranh bị đặt dấu hỏi, thì các vấn đề này tiếp tục gây ra nhiều sự quan tâm mới. Cuối cùng, cách nhìn doanh nghiệp dựa trên các hoạt động của nó cũng tạo điều kiện cho việc đánh giá các chiến lược quốc tế, hay nói cách khác, cho sự cạnh tranh giữa những địa phương và quốc gia khác nhau. Khi tham gia cạnh tranh quốc tế, một doanh nghiệp có thể “trải rộng” các hoạt động của nó lên nhiều địa điểm, quốc gia khác nhau (tôi đặt tên cho khái niệm này là configuration - cấu hình, cấu trúc của doanh nghiệp), nhưng vẫn hoàn toàn có thể đạt được lợi thế cạnh tranh bằng việc phối kết hợp các hoạt động này. Tuy nhiên, do Lợi thế cạnh tranh đã quá dày và phức tạp, tôi quyết định sẽ phát triển các vấn đề “quốc tế” này ở trong một cuốn sách khác [4]. Tiếp đó, một cách tự nhiên, tôi lại nghiên cứu vai trò riêng của địa điểm đối với lợi thế cạnh tranh. Đó chính là chủ đề của cuốn sách thứ ba trong bộ sách này, mang tên Lợi thế cạnh tranh quốc gia [5]. Tìm mua: Lợi Thế Cạnh Tranh TiKi Lazada Shopee 13 năm sau khi Lợi thế cạnh tranh được xuất bản lần đầu tiên, hồi tưởng lại, tôi cảm thấy hạnh phúc nhất khi các khái niệm chính yếu của nó được sự chấp nhận của mọi người. Những cụm từ như lợi thế cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh bền vững giờ đây đã trở nên phổ biến. Khái niệm “hoạt động” không chỉ phổ biến trong khi nói về cạnh tranh và chiến lược, mà còn quan trọng trong việc nghiên cứu các vấn đề về chức năng như quản trị dịch vụ, hay vai trò của công nghệ thông tin trong cạnh tranh. Tính toán chi phí dựa trên hoạt động trở thành một tiêu chuẩn mới trong kế toán quản trị, ngay cả khi đây chưa thể là một công cụ chiến lược. Ngoài ra, khi hồi tưởng lại, Lợi thế cạnh tranh còn là một sự hài lòng đặc biệt cho cá nhân tôi với tư cách một học giả. Trong khi Chiến lược cạnh tranh là sự phát triển các lý thuyết trong kinh tế học công nghiệp, Lợi thế cạnh tranh dường như là tác phẩm mang tính khai phá trong lĩnh vực này, cả trong quản trị học và kinh tế học. Thực ra, tác phẩm này là kết quả của sự nỗ lực giải một câu đố của tôi. Câu đố như sau: bằng cách nào chúng ta có thể tìm ra một cách thức có hệ thống để kiểm tra nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh, gắn liền với chi phí và khác biệt hóa, đồng thời vạch ra sự khác biệt căn bản giữa các công ty? Hiện nay tôi hoàn toàn tin rằng chính các hoạt động đã cho chúng ta công cụ cần thiết đó. Càng nghiên cứu, tôi càng thấy khái niệm này được chứng minh rõ ràng và hùng hồn hơn nhiều so với dự tính ban đầu. Tại sao vậy? Bởi cuốn sách này đưa ra phương pháp vượt ra ngoài những kiểu mô tả đặc điểm một chiều hoặc đơn nhất của lợi thế cạnh tranh. Đa số các công trình nghiên cứu trước đây trong lĩnh vực này gắn lợi thế với quy mô và thị phần, và điều này thực ra đã quá đơn giản hóa vấn đề. Một là, tại một số bộ phận của doanh nghiệp, quy mô và thị phần quan trọng hơn nhiều so với chi phí và khác biệt hóa. Hai là, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường hoạt động tốt hơn các doanh nghiệp có quy mô lớn trong nhiều ngành kinh doanh. Cuối cùng, ngay cả khi quy mô và thị phần gắn liền với hiệu quả của sản xuất kinh doanh, thì chúng thường chỉ là kết quả, chứ không phải là nguyên nhân của lợi thế cạnh tranh. Một số nỗ lực khác nhằm giải thích lợi thế cạnh tranh - chẳng hạn như điểm mạnh và điểm yếu, các yếu tố thành công, hay các khả năng riêng biệt - đều đúng khi thừa nhận rằng một doanh nghiệp là đa dạng và có nhiều sự tương tác. Song những nỗ lực ấy lại thất bại trong việc giải thích nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh một cách có hệ thống và sâu sắc, cũng như không gắn chúng với khả năng sinh lời. Cuốn sách Lợi thế cạnh tranh bắt đầu với tiền đề rằng lợi thế cạnh tranh xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau; sau đó đưa ra cách thức gắn lợi thế cạnh tranh với những hoạt động cụ thể cũng như cách liên kết các hoạt động ấy với nhau và với hoạt động của nhà cung cấp, khách hàng. Cuốn sách này cũng nghiên cứu những nguyên nhân tiềm tàng của lợi thế trong một hoạt động cụ thể: lý do tại sao một doanh nghiệp đạt chi phí thấp hơn, bằng cách nào mà các hoạt động tạo ra giá trị hữu hình cho người mua. Nó nhấn mạnh rằng đa số vị thế cạnh tranh tốt bắt nguồn từ các hoạt động khác nhau. Lợi thế dựa trên một số ít các hoạt động dễ bị phát hiện và bắt chước bởi các đối thủ cạnh tranh. Sau hết, hoạt động và chuỗi giá trị cho ta cái nhìn về doanh nghiệp như là một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau (interdependent system), trong đó các bộ phận riêng lẻ phải mang tính nhất quán về nội tại.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Lợi Thế Cạnh Tranh PDF của tác giả Michael E. Porter nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Likeable Social Media - Truyền Thông Xã Hội (Dave Kerpen)
Tôi đang xếp hàng chờ làm thủ tục check-in tại Aria, khách sạn sang trọng và hợp thời bậc nhất trong thị trấn ở Las Vegas, Aria, mất gần một giờ đồng hồ. Đó là một ngày tháng Sáu năm 2010, và tôi vừa đặt chân đến khách sạn sau một chuyến bay kéo dài 6 tiếng từ New York. Điều cuối cùng tôi mong muốn đó là phí phạm một tiếng đồng hồ của cuộc đời để xếp hàng chờ đợi. Thất vọng tràn trề, tôi lấy chiếc BlackBerry và cập nhật dòng tweet(1) trên Twitter, “Không có khách sạn nào ở Vegas xứng đáng với sự chờ đợi lâu đến vậy! Mất hơn một tiếng để chờ làm thủ tục check-in tại Aria ☹.” Điều hay ho là khách sạn Aria không trả lời lại dòng tweet của tôi mà một đối thủ của họ đã làm vậy. Tôi nhìn thấy một dòng tweet phản hồi từ khách sạn Rio chỉ 2 phút sau đó. Nếu cũng giống như hầu hết những người mà tôi đã chia sẻ câu chuyện này, bạn chắc hẳn sẽ nghĩ, “Khách sạn Rio đã trả lời thế nào nhỉ, lẽ nào lại là ‘Mời anh đến với Rio. Anh sẽ không phải xếp hàng chờ đợi làm thủ tục check-in’?” Nếu Rio gửi một dòng tweet hồi đáp như vậy, tôi gần như sẽ cảm thấy bị làm phiền, như một người lén theo dõi và chỉ trực lôi kéo tôi để thu lợi từ một trải nghiệm tồi tệ. Nhưng ngược lại, khách sạn Rio Las Vegas chỉ tweet lại cho tôi dòng sau: “Thật lấy làm tiếc vì một trải nghiệm tồi tệ như vậy, Dave. Hy vọng rằng những ngày còn lại ở Vegas của anh sẽ thật vui vẻ.” Bạn thử đoán xem tôi đã ở đâu vào lần tiếp theo tôi có dịp đến Vegas. Khách sạn Rio đã sử dụng truyền thông xã hội để lắng nghe và đáp lại một cách nhiệt tình, phản ứng nhanh nhạy, kịp thời với đúng đối tượng vào đúng thời điểm. Chắc hẳn ở đây, một quảng cáo hoặc mốt thông điệp marketing sẽ không mang lại hiệu quả. Nhưng khả năng lắng nghe, phản ứng lại và thấu cảm đã làm được điều đó. Tìm mua: Likeable Social Media - Truyền Thông Xã Hội TiKi Lazada Shopee Về bản chất, khách sạn Rio đã kiếm được một khoản 600 đô-la từ một dòng tweet, một tin nhắn thu hút được sự chú ý của tôi và cuối cùng góp phần vào quyết định của tôi về việc sẽ ở đâu trong lần tiếp theo tôi đến thành phố này. Đây được xem như một tỷ số lợi nhuận trên đầu tư (ROI) tuyệt vời. Nhưng câu chuyện vẫn chưa kết thúc ở đây. Thậm chí trước khi đến Rio, tôi đã thích nó trên trang Facebook bằng cách click vào nút Like (Thích) trên Facebook.com/RioVegas, nhờ đó giúp cho 3.500 bạn bè của tôi trên Facebook và thế giới mạng xã hội rộng lớn, biết được sự chứng thực của tôi về dịch vụ khách hàng thân thiện của khách sạn. Vài tháng sau, Erin, bạn tôi tìm kiếm một khách sạn ở Vegas trong kỳ nghỉ lễ mừng năm mới, và tôi nhận được một tin nhắn của cô ấy trên Facebook: “Dave này, tớ để ý là cậu đã thích trang Facebook của khách sạn Rio. Tớ đang xem xét một khách sạn để ở trong kỳ nghỉ đầu năm mới. Cậu thấy thế nào?” Một lời giới thiệu bảo đảm từ một người bạn có sức mạnh hơn bất cứ một quảng cáo nào, và cuối cùng Erin đã chọn Rio. Hàng tá bạn bè khác của tôi chắc chắn cũng chú ý đến những dòng tweet và những trang thích khách sạn Rio trên Facebook và bị ảnh hưởng từ đó. Vì vậy một dòng tweet đã dẫn đến một cú click Like trên Facebook và trên thực tế, đây là một công việc kinh doanh trị giá đến hàng nghìn đô-la. Những khách hàng vui vẻ sẽ nói với ba người khác về những trải nghiệm tốt đẹp của họ và những khách hàng thất vọng sẽ nói với mười người về những trải nghiệm và kỷ niệm tồi tệ. Nhưng theo kinh nghiệm của tôi về những gì mà hai khách sạn Aria và Rio đã thể hiện, ngày nay chúng ta cần biết ơn truyền thông xã hội, khi những khách hàng hài lòng và thiếu hài lòng có thể nói với hàng nghìn người về cảm xúc của họ liên quan đến một dịch vụ hoặc sản phẩm của công ty chỉ với một vài cú click, và nút Like như một sự chứng thực ảo. Rio đã biến thực tế này thành một lợi thế cho mình trong khi Aria thì không.***Bí Quyết Làm Hài Lòng Khách Hàng, Tạo Dựng Thương Hiệu Thông Qua Facebook Và Các Mạng Xã Hội Khác Ngày nay, khi cơn lốc mạng xã hội đang tung hoành mạnh mẽ, phát tán sự ảnh hưởng vô cùng lớn, len lỏi vào từng ngóc nghách của cuộc sống, thì đối với bạn, Facebook, Twitter và những trang mạng xã hội tương tự khác đóng vai trò gì? Liệu bạn có cho rằng đây là một kênh truyền thông có sức mạnh khủng khiếp? Hay chỉ đơn thuần là một trong những hình thức giải trí, cập nhật thông tin của bạn bè? Hãy đi tìm lời giải đáp trong cuốn sách “Truyền thông xã hội” - cuốn sách sẽ mang đến cho bạn những điều mới lạ, bất ngờ về sức mạnh vô hình của marketing thông qua mạng xã hội. Truyền thông xã hội (Social Media) cũng giống như bữa tiệc cocktail lớn nhất thế giới, nơi ai cũng có thể lắng nghe người khác nói và tham gia vào cuộc chuyện trò với bất cứ người nào về mọi chủ đề mà họ lựa chọn. Và quan trong hơn cả là trong bữa tiệc này, có đến hàng trăm triệu người cũng đang lắng nghe và tham gia vào bữa tiệc đó. Do đó, bất cứ ai truyền đạt thông điệp trong bữa tiệc này cần hiểu rằng: marketing trong một xã hội không phải là việc truyền thông điệp của bạn với tần suất lớn nhất - mà là việc truyền tải thông điệp vào mỗi cuộc chuyện trò, lắng nghe, thỏa thuận và trao quyền. Những người nói to và nói nhiều không thể giành chiến thắng trong thời đại này được nữa. Thay vào đó, người lắng nghe thông minh và linh hoạt nhất mới làm được điều này. Đó chính là ý nghĩa đặc biệt của marketing thông qua mạng xã hội. Thông qua cuốn sách này, những bí mật thú vị của Dave Kerpen trong việc xây dựng một thương hiệu trên Facebook cũng như những mạng truyền thông xã hội khác sẽ được lé hộ. Ngoài ra, bạn sẽ được tìm hiểu thêm về các phương thức tương tự đã được sử dụng để tạo nên thành công cho một số công ty lớn như: Cumberland Farms hay 1-800-FLOWERS. Một điều đặc biệt nữa ở cuốn sách, đó là nó đã bỏ qua được các lý thuyết và kỹ thuật rườm rà của truyền thông qua mạng xã hội, thay vào đó nó cung cấp cho bạn những điều thiết yếu để nhanh chóng hoà nhập vào sự thay đổi thần tốc của mạng truyền thông và marketing. Đây là một cuốn sách hay về kinh doanh nói chung và marketing nói riêng.***Mười năm trước, nếu bạn xây dựng một website cho công ty, có lẽ bạn không hề kỳ vọng vào việc có hàng nghìn người lạ truy cập vào trang web đó? Thay vào đó, bạn sử dụng nó để marketing đến những người trực tiếp ghé thăm website của bạn và đưa URL hoặc đường dẫn đến bất cứ đâu bạn có thể. Đôi khi mọi người truy cập nó, và nếu họ thích nội dung cũng như đủ tin tưởng bạn, có thể họ sẽ nán lại chốc lát, mua sản phẩm và dịch vụ của bạn. Hoặc nếu người khác liên quan đến công ty bạn nhận thấy nội dung hữu ích, họ sẽ tạo đường dẫn từ website của họ đến website của bạn, đổi lại bạn sẽ đưa đường dẫn website của bạn đến của họ. Việc này giúp tạo ra nhiều “đường dẫn giá trị”, tối đa hóa những công cụ tìm kiếm tốt hơn, và gia tăng lưu lượng truy cập website. Ngày nay, nút Like quan trọng hơn link (đường dẫn). Đưa mọi người đến website của bạn có thể giúp họ biết về công ty của bạn và thậm chí họ sẽ mua gì đó, nhưng khiến cho họ Like (thích) trang Facebook của bạn còn thực hiện được hai chức năng cơ bản thiết yếu sẽ góp phần vào thành công lâu dài. Đầu tiên, khi mọi người sử dụng chức năng like, họ sẽ theo dõi cập nhật của bạn, cho phép bạn có cuộc hội thoại vĩnh viễn với họ trên Facebook, trừ khi bạn làm xói mòn niềm tin của họ, họ sẽ không theo dõi bạn nữa. Thứ hai, nó giới thiệu tên tuổi của bạn đến là bạn bè của họ. Trung bình mỗi người trên Facebook có 130 bạn bè, do đó với mỗi like, bạn có thể giới thiệu thương hiệu đến 130 khách hàng tiềm năng khác, hoặc nhiều hơn. Bạn có thể tưởng tượng được rằng mỗi lần một cá nhân ghé thăm website của bạn, cô ấy chia sẻ thực tế đó với 130 người bạn của mình? (“Này các bạn thân mến, tớ vừa mới ghé thăm trang web này. Tuyệt lắm, các cậu thử xem nhé!) Điều tương tự cũng đúng với những người theo dõi trên Twitter, những người theo dõi trên YouTube hoặc blog của bạn, và những trang mạng xã hội khác, nhưng số lượng những trang kể trên không nhiều bằng trên Facebook. Ngoài ra, không có mạng xã hội nào có tính lan truyền một cách hiệu quả như Facebook.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Likeable Social Media - Truyền Thông Xã Hội PDF của tác giả Dave Kerpen nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Lên Gác Rút Thang (Ha-Joon Chang)
Hiện nay, các nước đang phát triển phải chịu sức ép lớn từ các nước đã phát triển cũng như từ việc thiết lập chính sách phát triển quốc tế do chính các nước đã phát triển kiểm soát trong việc áp dụng những "chính sách tốt" và "thiết chế tốt" nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của những quốc gia này. Theo chương trình nghị sự này, “những chính sách tốt” là những chính sách được người ta soạn cho nhiều quốc gia dưới tên gọi: đồng thuận Washington, bao gồm chính sách kinh tế vĩ mô giới hạn, tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế, tư nhân hoá và giảm bớt sự can thiệp của nhà nước. "Những thiết chế tốt" về cơ bản chính là những thiết chế của các quốc gia phát triển, đặc biệt là các quốc gia Anglo-America, trong đó có: chế độ dân chủ, bộ máy hành chính tốt, bộ máy tư pháp độc lập, quyền sở hữu tư nhân (bao gồm cả quyền sở hữu trí tuệ) được bảo vệ một cách chắc chắn; và các thiết chế tài chính cũng như quản trị công (trong đó có ngân hàng trung ương độc lập về mặt chính trị) phải minh bạch và hướng theo thị trường. Như chúng ta sẽ thấy trong các chương sau của tác phẩm này, đã có những thảo luận sôi nổi về việc các chính sách và thiết chế được đề nghị có thích hợp với các nước đang phát triển hiện nay hay không. Tuy nhiên, điều ngạc nhiên là, nhiều người phê bình, tức là những người nghi ngờ về khả năng ứng dụng của các khuyến nghị này vẫn tin rằng các chính sách và thiết chế “tốt” đó đã được các quốc gia đã phát triển áp dụng khi những nước này còn đang phát triển. Ví dụ, hầu hết mọi người đều thừa nhận rằng Anh quốc đã trở thành cường quốc công nghiệp đầu tiên trên thế giới vì đã thực hiện chính sách tự do kinh doanh (laissez-faire policy), trong khi nước Pháp lẽo đẽo theo sau vì áp dụng các chính sách can thiệp. Tương tự như vậy, nhiều người tin rằng việc Hoa Kỳ từ bỏ chính sách thương mại tự do và ủng hộ luật thuế xuất nhập khẩu Smooth-Hawley ngay vào giai đoạn ban đầu của cuộc Đại khủng hoảng (1930) là "hành động chống thương mại hết sức dại dột có thể thấy được và gây ấn tượng sâu sắc nhất"- đấy là lời của ông Bhagwati, một nhà kinh tế học ủng hộ thương mại tự do nổi tiếng. Một ví dụ khác về niềm tin cho rằng các quốc gia đã phát triển đạt được tình trạng kinh tế của mình bằng các chính sách và thiết chế tốt là lời tuyên bố được người ta nhắc đi nhắc lại rằng không có quyền sở hữu bằng sáng chế hay các quyền sở hữu trí tuệ cá nhân khác thì những quốc gia này sẽ không thể tạo ra được những ngành công nghệ làm cho họ trở thành thịnh vượng. Trung tâm luật quốc gia về thương mại tự do Trung Mỹ nằm ở Hoa Kì đã từng tuyên bố rằng "Tài liệu lịch sử ở các nước đã công nghiệp hoá, tức là những nước đã bắt đầu như là nước đang phát triển, chứng minh rằng bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là một trong những công cụ mạnh nhất để phát triển kinh tế, tăng trưởng xuất khẩu và phổ biến công nghệ mới cũng như văn hoá nghệ thuật". Nhưng, có đúng là những chính sách và thiết chế được khuyến nghị cho các quốc gia đang phát triển là những những chính sách mà các quốc gia đã phát triển từng sử dụng khi còn là những nước đang phát triển hay không? Chỉ nhìn bên ngoài, dường như đã có một vài bằng chứng lịch sử nói rằng không phải như thế. Một vài độc giả có thể biết rằng nước Pháp trong thế kỷ XIX - trái ngược với bản chất của nó trong thế kỷ XVIII hay thế kỷ XX - là nước rất bảo thủ và là quốc gia chủ trương không can thiệp vào thị trường. Chúng ta cũng có thể đã biết rằng thuế xuất nhập khẩu ở Hoa Kì là cao, ít nhất là sau cuộc Nội chiến. Chắc hẳn, một số người đã từng nghe nói rằng mãi đến năm 1913 Ngân hàng Trung ương Mỹ, tức là Hội đồng dự trữ liên bang (FEB) - mới được thành lập. Thậm chí một vài người trong chúng ta có thể biết rằng Thụy Sĩ đã trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu về công nghệ trên thế giới vào thế kỷ XIX dù không có luật về bằng sáng chế. Sau khi có những bằng chứng chống lại quan điểm chính thống về lịch sử của chủ nghĩa tư bản như thế, cần phải hỏi rằng phải chăng vì một lý do nào đấy, các nước đã phát triển đang tìm cách che dấu "bí mật dẫn đến thành công của họ". Tác phẩm này tâp hợp các yếu tố khác nhau từ những tài liệu lịch sử trái ngược với quan điểm chính thống về lịch sử của chủ nghĩa tư bản và cung cấp một bức tranh đầy đủ và dễ hiểu về những chính sách và thiết chế mà các quốc gia đã phát triển từng sử dụng khi họ còn là những nước đang phát triển. Nói cách khác, tác phẩm này bàn về: “Đâu là nguồn gốc thật sự của sự giàu có của các quốc gia?”*** Tìm mua: Lên Gác Rút Thang TiKi Lazada Shopee Ha-Joon Chang đã tung ra một tác phẩm phê phán có tính khiêu khích đối với những lời thuyết giáo của các nhà kinh tế học dòng chính dành cho những nước đang phát triển: “Hãy làm như tôi nói chứ đừng làm như tôi đã làm”. Tác phẩm này đòi hỏi người ta phải chú ý. Charles Kindleberger, Giáo sư danh dự, Đại học MIT, Mỹ Ha-Joon Chang đã khảo sát một số lượng lớn tài liệu lịch sử để rút ra những kết luận rất quan trọng và đầy thú vị về các thiết chế và quá trình phát triển kinh tế. Không chỉ xem xét lại bối cảnh lịch sử, Chang còn sử dụng nó nhằm khẳng định rằng cần phải thay đổi thái độ đối với những thiết chế được đề xuất cho các nước đang phát triển. Cả những diễn giải lại lịch sử lẫn những lời biện hộ cho chính sách trong Lên gác rút thang đều là những vấn đề đáng được các nhà kinh tế học, sử học và những người làm chính sách quan tâm. Stanley Engermann, Giáo sư Lịch sử Kinh tế, Đại học Rochester, Mỹ Người ta “luôn luôn biết” rằng các nền kinh tế hàng đầu - khi các nền kinh tế này còn chưa được thịnh vượng như hiện nay - đã sử dụng những chính sách được nhà nước quản lí nhằm công nghiệp hóa, sau đó lại nói với những nước nghèo hơn rằng ĐỪNG làm như vậy, nghĩa là những nước giàu có hiện nay bảo các nước nghèo áp dụng quan điểm của đường lối tự do. Nhưng phải đến khi Chang bắt tay thực hiện nhiệm vụ thì kiến thức mà mọi người đều biết này mới được ghi bằng giấy trắng mực đen. Lên gác rút thang là một thành tựu khoa học và là tác phẩm mà các nhà hoạch định chính sách ngành trong thế kỷ XXI cần phải đọc. Lance Taylor, Giáo sư Kinh tế, Đại học New School, Mỹ Trong đóng góp sắc sảo, đầy kiến thức và độc đáo vào môn kinh tế chính trị quốc tế này, Ha-Joon Chang đã đưa lịch sử kinh tế vào trung tâm của cuộc tranh luận về tự do hóa thương mại, ông khẳng định rằng các nước đang phát triển không được bỏ qua những công cụ chính sách mà châu Âu và Mỹ đã từng sử dụng trong quá trình phát triển của họ. Chúng ta cần phải cảm ơn ông vì đã trình bày luận cứ này với sức thuyết phục và sự khéo léo hiếm có như vậy. John Toye, Giáo sư Kinh tế, Đại học Oxford, Anh Đây là tác phẩm độc đáo và có tính khiêu khích, một đóng góp rất có giá trị vào cuộc tranh luận về phát triển hiện nay. Không có ai đồng ý hết với tất cả các luận cứ của Chang. Thực ra, nhiều người sẽ không đồng ý với phần lớn những điều ông trình bày. Tuy nhiên, tác phẩm được xây dựng trên một nền tảng vững chắc và được khẳng định một cách đầy thuyết phục, ngay cả những người không đồng ý cũng khó có thể phủ nhận. Tác phẩm này sẽ trở thành tâm điểm của một cuộc tranh luận rộng rãi và sôi nổi, nhờ đó làm phong phú thêm lí thuyết về phát triển và nêu ra thách thức đối với chính sách hiện nay. Peter Evans, Giáo sư Xã hội học, Đại học California, Berkeley, Mỹ ***Cha mẹ tôi thường kể rằng một trong những bài hát đầu tiên tôi được học hồi bé ở Hàn Quốc vào thập niên 1960 là bài “Người chiến binh can trường của Trung đoàn Mãnh Hổ”. Tôi phải hát bài hát này chứ không được học các bài đồng dao cho tuổi thơ, vì thủa ấy khúc chiến ca này vang lên hàng ngày trên mọi kênh truyền thông Hàn Quốc, làm lời ngợi ca những người lính Hàn Quốc dũng cảm bảo vệ thế giới tự do. Tuy nhiên, thực tế mà tôi nhận thức được khi lớn lên lại phức tạp hơn rất nhiều. Quyết định tham gia chiến tranh của Hàn Quốc có khi được thúc đẩy bởi mong muốn kiếm nhiều ngoại tệ bằng cách “xuất khẩu” binh lính. Thêm nữa, binh lính Hàn Quốc có thể là dũng cảm, nhưng họ cũng là những kẻ khét tiếng bạo tàn. Việc Hàn Quốc chiến đấu bên cạnh người Mỹ làm nhiều người nghĩ rằng Hàn Quốc chỉ là bù nhìn của Mỹ, sẵn sàng làm bất cứ điều gì Mỹ sai bảo, trong đó có việc áp dụng mô hình kinh tế thị trường tự do, kinh doanh tự do, và thương mại tự do mà sau Thế chiến II Mỹ đã cố gắng thúc đẩy bằng mọi cách. Nhưng thực tế Hàn Quốc đã không phát triển theo mô hình kinh tế của Mỹ. Hàn Quốc và các nền kinh tế “thần kỳ” khác ở Đông Á - đặc biệt là Nhật Bản và Đài Loan - đã phát triển kinh tế bằng cách áp dụng thuế xuất nhập khẩu và các phương tiện bảo hộ thương mại khác, cũng như các khoản trợ cấp chính phủ, hạn chế về đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) và những quy định khác nhằm phát triển các “ngành công nghiệp non trẻ” của mình, để đương đầu với những đối thủ cạnh tranh nước ngoài có ưu thế hơn. Điều thú vị hơn là, như cuốn sách này đã chỉ ra, ngay cả Mỹ cũng không sử dụng mô hình “Mỹ” khi nước này phải phát triển nền kinh tế của mình. Trên thực tế, Mỹ chính là nước đã phát minh ra ý tưởng về “nền công nghiệp non trẻ” - và người phát minh ra thuật ngữ này lại là ông Alexander Hamilton, Bộ trưởng Tài chính đầu tiên của nước Mỹ. Thật vậy, cuốn sách này chỉ ra rằng hầu như tất cả các nước giàu có hiện nay - nước Anh thế kỷ XVIII, mà Alexander Hamilton đã sao chép, Hàn Quốc cuối thế kỷ XX - đều đã đạt được sự phát triển kinh tế, trong giai đoạn ban đầu, nhờ vào chủ trương bảo hộ và nâng đỡ các ngành công nghiệp trẻ non trẻ của chính phủ. Tác phẩm này cũng nhấn mạnh cách thức mà các nước đó đạt được cái gọi là những thiết chế “tiêu chuẩn quốc tế”, mà họ yêu cầu các nước đang phát triển hiện nay áp dụng, sau khi họ đã trở thành những nền kinh tế phát triển, chứ không phải khi họ còn là những nền kinh tế đang phát triển. Nói cách khác, những điều các nước giàu có bảo các nước đang phát triển làm khác xa những thứ họ đã làm khi còn ở trong giai đoạn tương tự như thế trong quá khứ. Hiện nay, Việt Nam đang ở một thời điểm vô cùng quan trọng. Trong ba thập kỷ qua, bất chấp những vết sẹo của mấy thập kỷ chiến tranh phản đế còn hằn sâu, đất nước đã có những tiến bộ đáng kể về kinh tế. Trong thời gian này, Việt Nam đã chuyển từ một trong những nước nghèo nhất thế giới thành một nước có thu nhập trung bình. Đó là một thành tựu đáng tự hào. Nhưng, Việt Nam vẫn là nền kinh tế có thu nhập trung bình thấp và còn phải làm rất nhiều điều nếu muốn trở thành một nền kinh tế phát triển thực sự. Trong quá trình đó, Việt Nam phải vượt qua những sản phẩm “dễ dãi” mà các bạn đã sản xuất rất thành công trong ba thập kỷ qua - gạo, cà phê, và các sản phẩm thâm dụng lao động - để chuyển sang những hoạt động sản xuất và dịch vụ phức tạp hơn. Trong quá trình đưa sự phát triển kinh tế của mình lên một tầm cao mới, Việt Nam cần phải có thái độ thận trọng trước học thuyết chính thống về thị trường tự do, thương mại tự do, đang được các nước giàu có quảng bá, và cần phải học những bài học đích thực từ lịch sử, mặc dù không thể sao chép một cách chính xác kinh nghiệm lịch sử. Những bằng chứng lịch sử được trình bày trong cuốn sách này chỉ ra rằng, sử dụng các lực lượng thị trường và hội nhập với nền kinh tế thế giới có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển, nhưng muốn phát triển kinh tế thành công thì phải có sự can thiệp một cách hiệu quả của nhà nước và mở cửa nền kinh tế một cách từ từ. Tôi hi vọng rằng cuốn sách này sẽ là một nguồn thông tin hữu ích cho Việt Nam trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển của mình. Ha-Joon ChangCambridge, tháng 9 năm 2014Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Lên Gác Rút Thang PDF của tác giả Ha-Joon Chang nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.