Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nhân Dân Bất Diệt - Va-xi-li Gơ-rô-xman

Năm 1934 trong Tập san văn nghệ Xô-viết, người ta thấy đăng truyện  "Trong thành phố Béc-đi-sép" của một cây bút mới lạ: Va-xi-li Gơ-rô-xman. Truyện đó nổi bật ngay trong vô số những tiểu thuyết và truyện ngắn của các nhà văn quen thuộc. Các độc giả, các nhà văn nhất trí chào mừng ở Gơ-rô- xman một tài năng mới có nhiều triển vọng. Va-xi-li Gơ-rô-xman sinh ngày 12-12-1905 ở thành phố Béc-đi-sép, con một ông kỹ sư hóa học và một bà giáo dạy tiếng Pháp. Năm 1914, Gơ-rô-xman học ở Ki-ép, rồi về Béc-đi-sép học ở một trường phổ thông lao động, vừa học vừa lao động và dạy học thêm. Năm 1923, Gơ-rô-xman vào học khoa hóa của trường đại học Mát-xcơ-va, đến năm 1929 thì tốt nghiệp và làm việc ở vùng Đôn-bát. Ông đã làm việc ở nhiều viện nghiên cứu khoa học tại địa phương và tham gia một công trình nghiên cứu về thuốc nổ và hơi độc. Năm 1932, bị lao nhẹ, ông phải dời Đôn-bát về Mát-xcơ-va, làm việc ở một xí nghiệp chì. Sáu bảy năm trước chiến tranh, Gơ-rô-xman đã viết một truyện ngắn và tiểu thuyết, trong đó có hai tập "Hạnh phúc" và "Bốn ngày”. Tháng 7 năm 1936, Gơ-rô-xman bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết "Xtê-pan Côn-sư-ghin" gồm 3 tập nhưng vì chiến tranh nổ ra nên không hoàn thành được, và đã xuất bản được hai tập. Tháng 8 năm 1941, Gơ-rô-xman gia nhập Hồng quân, được cử ra mặt trận trung tâm dưới danh nghĩa phóng viên chiến tranh của báo Sao đỏ, cơ quan ngôn luận của Hồng quân, và đến năm I943, ông được phong cấp trung tá.   Ông đã tham dự cuộc rút lui gian khổ của Hồng quân ra khỏi Biê-lô-rút-xi và U-cơ-ren. Chính trong thời kỳ này, ông đã tích lũy được nhiều tài liệu cho cuốn "Nhân dân bất diệt" nổi tiếng, xuất bản năm 1942. Ông đã tham dự chiến dịch Xta- lin-gơ-rát từ đầu đến cuối và những phóng sự ông viết về chiến dịch này đã được xuất bản thành tập sau khi in trên báo Sao đỏ. Ông cũng đã được tham dự các chiến dịch giải phóng Ki-ép, Ô-đét-xa, Min-xcơ, Vác-sa-va và Bá-linh. Xuân 1943, ông bắt đầu viết một bộ trường ca, ca ngợi cuộc chiến đấu vĩ đại cha quân dân Xta-lin-gơ-rát, và đó là công trình lớn nhất sau thời kỳ chiến tranh của ông. Tập đầu "Vì sự nghiệp chính nghĩa" viết trong bảy năm, đã xuất bản năm 1952 trên báo Thế giới mới. Trong chiến tranh, Gơ-rô-xman đã được tặng thưởng huân chương Cờ đỏ, huân chương Sao đỏ và sáu huy chương. Năm 1955, ông lại được tặng thưởng huân chương Lao động Cờ đỏ. Cuốn "Nhân dân bất diệt” được in lần đầu tiên năm 1942 trên báo Sao đỏ. Sau đó, nó được xuất bản thành sách, được tái bản nhiều lần trong nước và được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài. Nó là một trong những cuốn tiểu thuyết xuất sắc nói về đề tài chiến tranh của nền văn học Xô-viết. Bối cảnh lịch sử của nó là thời kỳ đầu cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của nhân dân Liên-xô. Địch tấn công như vũ bão trên đường đi tới Gô-men, chiếm đóng và cướp bóc nhiều nơi. Bô-ga-rép, cựu giáo sư dạy về chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở một trường đại học, được cử về làm chính ủy của trung đoàn do thiếu tá Méc-xa-lốp chỉ huy. Trung đoàn được trao nhiệm vụ hậu vệ và trong khi bảo vệ đường rút cho đại quân, một tiểu đoàn do chính ủy Bô-ga-rép trực tiếp chỉ đạo, đã bị rớt lại trong vòng vây quân Đức. Bác bỏ kế hoạch của tiểu đoàn trưởng đề nghị cho bộ đội bí mật luồn rút ra khỏi vòng vây, Bô-ga-rép đã lợi dụng hoàn cảnh, bắt liên lạc với trung đoàn, tổ chức phối hợp hai bên, trong đánh ra ngoài đánh vào, và giành được thắng lợi lớn. Đó cũng là trận mở màn cho thời kỳ phản công trên mặt trận đó. Đó là nội dung vắn tắt của cuốn truyện. Thực ra "Nhân dân bất diệt” thuộc loại tiểu thuyết khó tóm tắt. Cốt truyện đơn giản trên chỉ là cái nền trên đó tác giả vẽ nên những bức tranh đậm nét về những con người với những suy nghĩ và xúc cảm của họ trong những giờ phút nghiêm trọng đang quyết định vận mệnh của Tổ quốc. Bằng một lối viết nhẹ nhàng, trong sáng, súc tích, và chỉ bằng vài nét đặc sắc, Gơ-rô-xman đã nêu bật lên được những nét điển hình của con người và hoàn cảnh. Trong "Nhân dân bất diệt", cũng như trong các tác phẩm khác của mình, Gơ-rô-xman tỏ ra là một nhà văn có tài thâm nhập cuộc sống, thâm nhập nội tâm của những nhân vật rất khác nhau, hiểu họ như hiểu bản thân mình, dẫn người đọc đi thẳng vào đời sống tinh thần của họ, suy nghĩ về số phận của họ, thông cảm sâu sắc với những nỗi vui buồn của họ, và đó chính là sức lôi cuốn của cuốn sách. *** Vào truyện Chính ủy Bô-ga-rép và chiến sĩ nông dân I-nha-chi-ép là hai nhân vật chính của truyện. Bô-ga-rép là con người mà mỗi hơi thở nói lên tình yêu thắm thiết đối với đất nước Xô-viết của anh, đất nước của nhân dân, "một đất nước giành được trong sự phấn đấu vĩ đại của nội chiến, trong đói rét, một đất nước tất nhiên còn nghèo, sống được nhờ lao động gian khổ, và do những quy luật ngặt nghèo chi phối", nhưng là đất nước ở đó giấc mơ ngàn đời của bao nhiêu thế hệ lần đầu tiên đã được thực hiện. Kẻ thù giày xéo lên đất nước anh, anh hết lòng căm thù và khinh bỉ chúng. Anh coi chủ nghĩa phát xít là một cái gì đê tiện và phản động nhất trên đời, nó không có một chút yếu tố gì sáng tạo, nó tượng trưng cho bùn lầy nước đọng, nó chỉ mang được một yếu tố vào lịch sử và đời sống chính trị là: sự man rợ có tổ chức, sự cướp bóc giết người. Anh đấu tranh quyết liệt với những ai tỏ vẻ sợ sệt nó, khuyên họ chỉ nên khinh bỉ và chế giễu nó mà thôi. Trong người chiến sĩ bình thường, anh nhìn thấy người anh hùng chân chính làm nên thắng lợi. Đây là cảm giác của anh khi anh dẫn đầu chiến sĩ lên xung phong: anh đang lôi cuốn họ theo anh, còn họ thì hợp với anh thành một tổng thể thống nhất, vĩnh viễn, không thể chia cắt, như đang đẩy anh lên phía trước, như nước dâng thuyền. Anh đem chân lý của Đảng ra nhẫn nại thuyết phục quần chúng, đem sự thật không chút tô điểm trình bày một cách trung thực cho quần chúng, vạch cho họ biết những hy sinh nào đang chờ đợi họ bởi vì anh tin quần chúng không sợ hãi sự thật. Anh là người chỉ huy tỉnh táo, trong những giờ phút khó khăn nhất vẫn tin tưởng ở thắng lợi ("nhất định là phải thế, nếu không thì là tôi không trông thấy gì, không hiểu gì hết", anh nói như vậy) và biết tìm ra phương hướng hành động tích cực nhất. Anh phản đối tác phong của người chỉ huy không biết bao quát tình hình và quán xuyến toàn bộ lực lượng của mình, mà chỉ biết cầm cây súng trực tiếp dẫn đầu một bộ phận, xông vào khói lửa, mong lấy hành động dũng cảm không sợ hy sinh để tự lừa dối lương tâm, trốn tránh trách nhiệm trước sự thắng bại. Chiến sĩ nông dân I-nha-chi-ép là con người mà toàn bộ đặc tính được tóm tắt trong câu nhận xét của thượng sĩ Moóc-vi-nốp: "I-nha-chi-ép ạ, cậu có một tâm hồn rất là Nga". Anh là một người lực lưỡng, dẻo dai, có một bàn tay lao động cừ khôi biết sử dụng mọi thứ công cụ một cách khéo léo. Anh yêu cuộc sống, yêu ruộng đồng, quê hương đất nước anh. Anh thích lang thang trên cánh đồng, nghe chim hót, đắm mình trong cảnh thiên nhiên của đất nước, trên vai đeo một khẩu súng chim cà khổ để che mắt thiên hạ — vì anh sợ người ta cho là mình lập dị. Trước giờ chiến đấu anh có thể nằm sấp xuống đất hàng tiếng đồng hồ, hít thở hương rừng, theo dõi đàn kiến đang bận rộn dưới cỏ, suy nghĩ về đất nước anh, về cuộc chiến tranh khốc liệt đang tàn phá khắp nơi và đây là kết luận anh đã rút ra: "Chà ! Các cậu ạ, sống đến là thú! Phải một ngày như hôm nay mới thấy rõ như vậy. Có thể nằm đây hàng triệu năm mà không chán. Nằm mà thở cho đã !". Cuộc sống ấy, thiên nhiên ấy, đất nước ấy, anh là chủ. Ở ngay giữa lòng địch, trong vùng bị chiếm, anh vẫn nghĩ dứt khoát như vậy. Cho nên, khi xe địch sắp tới, anh em giục anh trốn đi, anh đã trả lời với một vẻ ngạc nhiên ranh mãnh: "Các cậu bảo tớ trốn đi đâu? Rừng này là của tớ, tớ là chủ ở đây. Nếu tớ chuồn, người ta sẽ hỏi: Thưa ông chủ, ông chủ chuồn đi đâu vậy?". Anh thuộc rất nhiều dân ca và truyện dân gian mà anh có tài kể lại một cách rất sinh động. Anh láu lỉnh, vui tính có thể uống hàng vò rượu mà không say, cũng có thể "chơi xỏ" người khác những vố khá đau, một cách hồn nhiên, không có ác ý. Nhưng anh chiến đấu cũng rất dũng cảm và mưu trí, với cái mưu trí ranh mãnh của quần chúng. Cho nên, không có gì là khó hiểu nếu ở đại đội, mọi người đều quý anh và nghe theo anh. Chính ủy Bô-ga-rép và chiến sĩ I-nha-chi-ép là như vậy đó. Người thứ nhất là người cán bộ lãnh đạo tiêu biểu cho phẩm chất, trí tuệ, quyết tâm, vai trò tổ chức và lãnh đạo quần chúng của Đảng. Người thứ hai tiêu biểu cho phẩm chất, sức mạnh và tài trí của chính bản thân quần chúng. Họ đại diện cho nhân dân và nhân dân là bất diệt. Đối với Gơ-rô-xman, nhân dân là kẻ sáng tạo nên mọi giá trị tinh thần và vật chất, là tượng trưng cho tất cà những cái gì cao cả nhất: trí tuệ, tinh thần sáng tạo, lòng yêu cuộc sống, yêu tự do, tình đồng chí, lòng nhân nghĩa, lòng dũng cảm... Còn kẻ thù của nhân dân, bọn bóc lột, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa phát-xít, thì mang trong mình nó tất cả những cái gì đê tiện nhất: lòng thù hằn con người, sự man rợ, tính hèn nhát, sự khô cằn về mọi mặt... Cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù, chính là cuộc đấu tranh của con người chiến thắng con vật, của sự sống chiến thắng cái chết, của điều thiện chiến thắng điều ác, của ánh sáng chiến thắng bóng đêm. Trong cuộc chiến đấu ấy cho cuộc sống, Đảng và quần chúng kết thành một khối và điều đó được nêu bật trong hình ảnh kết thúc cuốn truyện: tiếng súng của trận đánh thắng lợi vừa chấm dứt mọi người đang đi tìm chính ủy, thì thấy chính ủy Bô-ga-rép cùng chiến sĩ I-nha-chi-ép, mình mấy đầy thương tích, loạng choạng dìu dắt nhau từ trong khói lửa cùng bước tới, như đi ra với cuộc sống. Người dịch          Mời các bạn đón đọc Nhân Dân Bất Diệt của tác giả Va-xi-li Gơ-rô-xman.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Người Đàn Bà Trong Gia Đình Kennedy - Pearl S. Buck
Những người đàn bà trong gia đình Kennedy (The Kennedy Women) mà các bạn đang cầm trên tay là quyển sách cuối cùng trong đời bà - Pearl S.Buck - hoàn tất vào khoảng tháng Giêng 1972, và ấn hành tháng Bảy cùng năm. Bà không viết gì nữa cho đến khi qua đời. Quyển sách của một trong những nhà văn lớn nhất thế giới, viết về một gia đình nổi tiếng nhất thế giới.Qua những nhận xét sắc bén và thâm trầm rất Đông phương, Pearl S.Buck không chỉ viết về những người đàn bà trong gia đình Kennedy, mà còn là một cái nhìn bao gồm những cá nhân sáng chói: những người đàn ông mang họ Kennedy.“Làm thế nào để trở thành một tổng thống Hoa Kỳ?” Hoặc “Làm cách nào để được như những người đàn ông mang họ Kennedy?” Tất cả sẽ được giải đáp trong quyển sách này. Và nhân đó, chúng ta sẽ hiểu vai trò của người đàn bà quan trọng như thế nào đối với sự thành công của người đàn ông trên cả hai phương diện: chính trị và tiền bạc.Tuy cuốn sách nhỏ này mang tựa đề là “Những người đàn bà trong gia đình Kennedy”, nhưng ở những chương cuối, bà cũng đã dày công nhận xét, phân tích, tình hình xã hội Mỹ, nhất là sau giai đoạn JFK bị ám sát, và đưa ra những lời giải thích cũng như tâm tư, mong muốn của giới trẻ Mỹ , mà đã từng bị coi là giới trẻ nổi loạn thời bấy giờ. *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi *** Gia đình Kennedy đã làm thay đổi quốc gia của chúng ta, và thay đổi chúng ta, hơn bất kỳ gia đình nào khác trong lịch sử Hoa Kỳ. Dĩ nhiên, thay đổi này cũng phải đơn độc mình họ, thay đổi của đời sống một quốc gia là một sự chuyển biến liên tục và gia đình Kennedy đã lộ diện, đã nhô lên đúng lúc trong lịch sử quốc gia chúng ta và trong lịch sử của thế giới. Chúng ta đang tiến tới gần một thời đại.   Hai cuộc thế chiến và cuộc chiến tiêu hao ở Triều Tiên đã cướp mất của chúng ta biết bao nhiêu nhân tài trẻ tuổi, có thể là những nhà lãnh đạo của quốc gia chúng ta và của thế giới. Sự mất mát lớn nhất trong chiến tranh không phải là tiền bạc. Sự mất mất luôn luôn và mãi mãi vẫn là sự mất mát những thanh niên sáng chói và tài ba trên phương diện lãnh đạo. Trong xứ sở và ở hải ngoại, thế hệ thứ hai hiện thời của chúng ta chỉ còn lại những nhà lãnh đạo hãng nhì .   Dưới thời đại Tống thống Truman và Eisenhower có thể nói là thời kỳ phục hồi. Dân chúng còn kiểm điểm bản thân và xem xét những lĩnh vực quanh đời sống của họ, họ chưa dám nhìn về tương lai xa hơn.   Họ mong muốn được dìu dắt bởi những người mà họ có thế đặt được tính nhiệm của họ.   Nhưng giai đoạn cầm quyền của Eisenhower có thể nói là giai đoạn gây ít nhiều thất vọng. Đồng ý là Eisenhower có nhiều kinh nghiệm và tài ba trên lĩnh vực quân sự, nhưng hiển nhiên, ông không có kinh nghiệm và tài ba trong lĩnh vực chính trị. Đức tính thanh khiết và thẳng thắn của ông phải được công nhận, nhưng sự tiên liệu và chuẩn bị, phải có, đối với một nhà lãnh đạo tài giỏi, ông gần như không có. Tuy vậy theo tôi nghĩ, qua những năm chậm chạp ấy, lại tào ra một môi trường tốt cho dân chúng, để họ có đủ thời giờ chuẩn bị, phản ánh và hiểu thêm các nhu cầu của họ, để họ sắp xếp, tìm kiếm một lối đi mới thích hợp trong đời sống. Việc tìm kiếm này đã dần dần kết tinh được một ước muốn sâu xa hơn, vững chãi hơn, trong tư tưởng non yếu lúc bấy giờ. Tóm lại, tất cả rất, cần thiết cho những kẻ can đảm và anh hùng dấn bước trên hướng đi mới mẻ của họ.   Đúng vào thời gian này, những người đàn ông mang họ Kennedy xuất hiện. Nếu Joseph Patrick Kenned Jr. người anh lớn của họ còn sống, thì sự xuất hiện có thể là quá sớm, và hấp lực của gia đình Kennedy cũng kém hẳn đi, nếu không nói là không có.   John Kennedy đã xuất hiện đúng lúc, đúng con đường cần thiết sự có mặt của ông.   Ông đã đến với sức mạnh truyền thống của Hoa Kỳ , của một giòng họ di trú ba đời ở quốc gia này , của sự giầu có, thành công và quyền thế, qua các hoạt động riêng của ông, ông đã lộ diện như là một vị anh hùng được mong mỏi.   "Những gì đã tạo nên người anh hùng ?" Chưa có ai tìm hiểu một cách rõ rệt. Theo tôi, một hành động liều lĩnh ngắn ngủi của một người, không có nghĩa người ấy là một vị anh hùng. Nhiều người có thể được gọi là anh hùng trong chốc lát, qua hành động can đảm nhất thời của họ. Tôi nghĩ: một vị anh hùng thật sự phải được nhìn qua các hành động liên tục của họ và chính bản thân họ gây ra sự tín nhiệm, lòng tin cậy và tối hậu là sự tôn kính.   Giải thích tốt nhất của hai tiếng anh hùng thường được sử dụng trong ngôn ngữ hiện đại là nên lấy nghĩa nguyên thủy của Hy Lạp: “thiên tài của cái đẹp”.   Trong một bữa ăn: tôi đã thảo luận với một người bạn có quan điểm chính trị độc lập, về hiện tượng Kennedy : "Vâng. đúng là nguy hiểm, ông ta tuyên bố. Một Kennedy này kế tiếp một Kennedy khác bước vào tòa Bạch ốc, chúng ta sẽ có một đế chế. Kennedy chỉ ở Bạch ốc hai nhiệm kỳ, không thể thêm hai nhiệm kỳ nữa. Không, không, tám năm là quá đủ. Tôi bỏ phiếu cho đảng Công hòa tám năm và rồi quay lại đảng Dân Chủ. Nhưng chắc bà công nhận, một Kennedy và tòa Bạch ốc với tất cả ma lực của ông, dân chúng đã bị mê hoặc và họ muốn ông ta ở lại mãi mãi."   Gia đình Kennedy có ma lực, mỗi người trong gia đình này đều có, nhưng John Kennedy và vợ ông, Jacqueline, có ma lực  vô song. Robert Kennedy cũng có ma lực và góp thêm vào ma lực của người anh, sau khi người anh này bị ám sát. Ma lực không luôn luôn có tính chất mời gọi sự yêu thương mà nó còn, thỉnh thoảng, mời gọi sự đố kỵ và bạo hành nữa.   Một chiều ở Arizona, khi tôi đến dự tiệc tại nhà một góa phụ giàu có, một người đàn bà sáu mươi tuổi, thành thật và giản dị, nhưng bà ta đã gây cho tôi sự kinh ngạc. Đó là lúc một thanh niên lên tiếng bàn về Robert Kennedy, và cuối cùng với giọng điệu mến mộ, anh ta cho rằng Robert có thể là vị Tống thống sắp đến của Hoa Kỳ. Khuôn mặt đáng mến của nữ chủ nhân biến đổi luôn luôn. Thật ra, phải nói là một khuôn mặt biểu lộ sự oán ghét vô tả. ... Mời các bạn đón đọc Những Người Đàn Bà Trong Gia Đình Kennedy của tác giả Pearl S. Buck.
Người Xa Lạ - Albert Camus
Người xa lạ (còn được dịch Kẻ xa lạ hay Người dưng; tiếng Pháp: L'Étranger) là một tiểu thuyết của Albert Camus được viết vào năm 1942. Đây là một tác phẩm lạ thường nói về một người đàn ông Pháp bị bệnh tâm thần, người mà cuối cùng đã bị tống giam vì tội giết người, và ngồi chờ bị hành hình. Trong thời gian đó, ông đã suy nghĩ rất nhiều về cuộc đời của ông cũng như nhìn ra được và ao ước có được một cuộc sống an lành trở lại. Đây là một trong những tác phẩm đầu tay của Albert Camus, cũng như những học thuyết cơ bản của ông về những điều phi lý và vô lý (tiếng Anh: absurdism) *** Albert Camus sinh ngày 7 tháng 11 năm 1913 tại Mondovi, một làng ở Constantinois, gần Bône, Algérie. Cha ông, Lucien Camus, một công nhân sản xuất rượu nho vùng Mondovi cho một thương gia thành phố Alger. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Lucien Camus bị động viên vào tháng 9 năm 1914, bị thương trong trận chiến Marne và chết tại bệnh viện quân y Saint-Brieuc ngày 17 tháng 10 năm 1914. Về cha mình, Abert chỉ biết qua một bức ảnh duy nhất còn để lại. Albert đến Paris làm biên tập cho tờ Paris-Soir. Năm 1942, ông phát hành cuốn tiểu thuyết L'Étranger (Người xa lạ) và tiểu luận Le Mythe de Sisyphe (Huyền thoại Sisyphe), trong đó ông đã trình bày những tư tưởng triết học của mình. Sisyphe là một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp bị trừng phạt phải lăn một hòn đá lớn lên núi dốc, khi đến đỉnh hòn đá lại rơi trở xuống chân dốc, cứ thế Sisyphe tiếp tục lăn lên rồi rơi xuống theo một chu kỳ vĩnh cửu. Theo hệ sự phân loại của riêng Albert, các tác phẩm đó thuộc "thời kỳ phi lý" (cycle de l'absurde), cùng với các vở kịch Le Malentendu (Ngộ nhận, 1944) và Caligula (1945). Năm 1943, ông làm việc cho nhà xuất bản Gallimard rồi làm chủ biên tập báo Combat, cũng trong năm này ông gặp và làm quen với Jean-Paul Sartre. Những tác phẩm tiếp theo của Camus thuộc "thời kỳ nổi loạn" (cycle de la révolte), trong đó nổi tiếng hơn cả phải kể đến La Peste (Dịch hạch, 1947), kế đến L'État de siège (1948), Les Justes (1949) và L'Homme révolté (Người nổi loạn, 1951). Trong quyển tiểu luận triết học Người nổi loạn, ông đã trình bày tất cả các hình thức nổi loạn (siêu hình, chính trị và nghệ thuật...) qua mọi thời đại. Ông miêu tả con người cảm nhận sâu sắc sự phi lý của cuộc sống, luôn muốn nổi dậy, chống lại nỗi khốn khổ của kiếp người, nhưng cuối cùng vẫn không có lối thoát, mọi cố gắng đều hoàn toàn vô ích. Tình bạn giữa Albert Camus và Jean-Paul Sartre rạn nứt vào năm 1952, sau khi trên tạp chí Les Temps modernes của Sartre, Henri Jeanson đã chê trách sự nổi loạn của Camus là "có suy tính". Năm 1956, tại Alger, Albert công bố "Appel pour la trêve civile". Cũng trong năm đó, cuốn La Chute, tác phẩm quan trọng cuối cùng của Albert Camus được xuất bản. Ngày 4 tháng 1 năm 1960, tại Petit-Villeblevin vùng Yonne, Albert Camus mất trong một tai nạn giao thông. Trên chiếc xe Facel Véga khi đó còn có một người bạn của ông Michel Gallimard và người cháu Gaston. Albert Camus được chôn cất ở Lourmarin, vùng Vaucluse, nơi ông đã mua một căn nhà trước đó. *** Lần thứ ba tôi từ chối linh mục. Tôi không có gì để nói với ông ta, cũng không muốn nói, mà đằng nào thì cũng sắp gặp ông ta. Điều tôi quan tâm khi đó là làm sao thoát khỏi máy chém, liệu có thể có lối thoát nào hay không. Người ta đã chuyển tôi sang phòng giam khác. Tại đây, khi nằm duỗi dài, tôi nhìn thấy bầu trời và không gì khác. Ngày nào tôi cũng chỉ nhìn thấy trên đó những màu sắc tối dần khi ngày tàn và đêm đến. Khi chuẩn bị ngủ, tôi đưa hai tay xuống dưới gáy và nằm chờ. Tôi không nhớ đã bao lần tự hỏi liệu đã có trường hợp nào bị khép tội chết lại thoát được khỏi cỗ máy lạnh lùng sau khi giật đứt tung dây trói của cảnh sát và bỏ chạy hay chưa. Tôi tự trách mình đã không chú ý đến những câu chuyện về hành hình. Đáng lẽ phải quan tâm đến những vấn đề như vậy. Người ta đâu biết được điều gì sẽ đến. Cũng như mọi người, tôi đã đọc những chuyện viết trên báo chí. Nhưng chắc chắn có những tác phẩm đặc biệt mà tôi đã không tò mò xem đến. Ở đó có lẽ tôi đã tìm được những câu chuyện về những vụ tẩu thoát. Biết đâu tôi lại chả đọc được rằng ít nhất có một trường hợp bánh xe của cỗ máy đã dừng lại, và trong tiến trình bất khả kháng này đã xảy ra một sự tình cờ, chỉ một lần duy nhất, khi một cơ cấu gì đó bị trục trặc. Chỉ một lần! Không hiểu sao tôi nghĩ rằng thế là đủ. Trí tưởng tượng của tôi sẽ làm những việc còn lại. Báo chí hay nói về món nợ trước xã hội. Theo họ thì cần phải trả nợ. Nhưng cái đó chẳng liên quan gì đến trí tưởng tượng. Điều tôi quan tâm là khả năng thoát thân, một cú nhảy ra khỏi cái nghi lễ quái ác, một cuộc tháo chạy tạo ra mọi cơ hội để hy vọng. Tất nhiên, như thế cũng có nghĩa là hy vọng sẽ bị bắn chết ở một góc phố, khi đang cắm cổ chạy, và một viên đạn bay tới. Nhưng, nghĩ tới nghĩ lui, chẳng có gì có thể đem lại sự xa hoa đó, tất cả đều bế tắc, và cỗ máy chém sẽ tóm lấy tôi. Mặc dù rất có thiện chí, tôi vẫn không thể nào chấp nhận được phán quyết độc đoán này. Vì rõ ràng có một sự bất tương xứng nực cười giữa bản án và hệ quả không tránh khỏi của nó bắt đầu từ thời điểm tuyên án. Việc bản án được tuyên đọc vào lúc 20 giờ thay vì 17 giờ, việc nó có thể hoàn toàn khác đi, việc nó được quyết định bởi những người ba phải, và nó được đưa ra trên cơ sở một khái niệm mập mờ là “nhân dân Pháp” (là “Đức” hay “Trung Hoa” thì có khác chi?), tất cả làm tôi cảm thấy người ta đã nghiêm trọng hóa quá đáng khi đưa ra một quyết định như vậy. Tuy nhiên, tôi buộc phải thừa nhận rằng một giây sau khi nó được tuyên, các hiệu ứng của nó đã trở nên xác định, nghiêm trọng, và làm tôi cảm nhận được rõ ràng sự tồn tại của bức tường mà tôi đang nằm dài bên cạnh. ... Mời các bạn đón đọc Người Xa Lạ của tác giả Albert Camus.
Nàng Lika - Ivan Bunin
“Nàng Lika” là phần cuối (phần V) của bộ tự truyện Cuộc đời Arxênhép, tác phẩm chủ yếu mà nhờ đó Bunhin đã được tặng giải thưởng Nôben (1933). Sinh thời Bunhin cũng như sau này ở Liên Xô nhiều lần phần này của bộ tự truyện đã được in riêng như một tác phẩm độc lập bởi sự hoàn chỉnh về hình thức cũng như chủ đề. Gọi là “tự truyện” cũng chỉ là tương đối, vì ở đây cái thật cái hư xen lẫn nhau. Địa danh, tên người phần lớn đều được thay đổi. Hình mẫu của nàng Lika Vácvara Pasencô, người mà Bunhin đã cùng chung sống suốt mấy năm, khi ông mới bước vào đời. Trong truyện của Bunhin, so với Vácvara, Lika đẹp lên rất nhiều cả về nội tâm cũng như ngoại hình. Lika mất ngay sau khi chia tay, còn ngoài đời thật thì Vácvara đã kịp đi lấy Bibicốp, con một nhà buôn giàu có và sống với y hơn 20 năm. Lika của Bunhin là hiện thân của vẻ đẹp cổ điển Nga, – yếu đuối, chân thành, cả tin, hồn hậu mà cũng rất bạo liệt vào những khúc rẽ ngoặt của cuộc đời. Còn nhân vật “tôi” thì đã phải trả giá cho cách sống quá phóng đãng của mình. Anh yêu Lika, yêu tận cuối lòng, nhưng lại nhân danh “chất nghệ sĩ” tự cho mình cái quyền đón nhận mọi cảm giác mới lạ của những chuyến phiêu du. Lika không chấp nhận được bất cứ sự san xẻ tình cảm nào, nàng đã tự chọn con đường ra đi… Nhưng có lẽ cái kết thúc ấy đã giữ cho tình yêu của nàng trọn vẹn…” *** Ivan Bunin sinh ngày 22/10/1870 tại Voronezh, tốt nghiệp trường Đại học Moskva. Sau đó ông là một nhà báo, và thư ký. Ông xuất bản tập thơ đầu tiên của mình vào năm 1891. Đến năm 1903, ông được nhận giải thưởng Pushkin của học viện Nga về các tác phẩm thơ dịch của Anh và Mỹ. Sau khi cuộc cách mạng bolshevik nổ ra vào năm 1917, ông sang Paris sinh sống. Các tác phẩm chính của ông bao gồm, các tuyển tập truyện ngắn Gospodin iz San Frantsisko – Quý ngài đến từ San Francisco và Tyomnye Alley – Con đường u ám, các tiểu thuyết Derevnya – Ngôi làng và Mitina lyubov – Tình yêu của Mitia. Truyện ngắn của I.Bunin phần lớn thuộc loại truyện không có cốt truyện. Các truyện viết chủ yếu là thông qua sự hoài niệm, nhớ lại của tác giả về những gì đã qua. Vì thế, tính chất tự truyện cũng là một đặc điểm nghệ thuật của văn xuôi Bunin. Có thể là ký ức của chính tác giả, hoặc của nhân vật “tôi” trong truyện. Chính hình thức nhớ lại này đã giúp cho tác giả bộc lộ cảm xúc trữ tình của mình đối với con người và cảnh vật được mô tả. Trong các truyện ngắn của ông, chúng ta thường thấy các cụm từ "ngày ấy", “vào thời gian đó” hay "hình như ngày đó"... diễn tả khoảng thời gian xảy ra chuyện nhưng cũng chính là hoài niệm của tác giả. Với lối kết cấu này, mặc dù đang sống thời hiện tại nhưng nhà văn có thể trở lại với quá khứ một cách dễ dàng thông qua những hồi ức, kỷ niệm. Chính sự đam mê hội hoạ và âm nhạc từ nhỏ của nhà văn là yếu tố quan trọng tạo nên chất tạo hình và khắc họa chân dung trong sáng tác của ông. Nhân vật hầu như không có sự xung đột hoặc cãi cọ nhau ồn ã. Sự thất vọng được thể hiện thông qua tiếng thở dài (Lần gặp gỡ cuối cùng); cái lắc đầu và nhắm mắt thay cho sự day dứt, luyến tiếc (Những lối đi dưới hàng cây tăm tối). Nhà văn dành những năm cuối đời để viết quyển sách về Chekhov, nhưng không kịp hoàn thành. Đêm 8/11/1953, Ivan Bunin qua đời trong tay người vợ của mình. Ông được mai táng tại Sainte-Geneviève-des-Bois, nghĩa trang "người Nga" ở Paris. *** Về chiều nắng nực giảm đi. Mặt trời đã khuất phía sau nhà. Chúng tôi ngồi uống trà trong phòng kính, bên cạnh cửa sổ mở ra sân. Lúc này nàng đọc rất nhiề những giờ ấy nàng hay đặt nhiều câu hỏi với anh tôi, và anh tôi thích thú chỉ dẫn cho nàng cặn kẽ. Chiều thật yên ắng, lặng gió, – chỉ có mấy chú nhạn thoáng bay qua sân rồi bỗng vút lên cao, mất hút trong thinh không xa thẳm. Họ nói chuyện với nhau, còn tôi thì lắng nghe tiếng ai đang hát. Bài ca hát về mấy người dân quê đang gặt lúa trên mấy cánh đồng cao cao. Âm điệu bài ca phẳng lặng, ngân dài, thấm đượm nỗi buồn ly biệt, tiếp đó là những âm thanh rắn rỏi, hùng dũng về những đoàn quân.   Bài ca như buồn bã dõi theo đoàn quân kazắc đang chầm chậm tiến qua thung lũng, dẫn đầu là vị tướng Đôrôsencô vinh quang…   Tôi lắng nghe tiếng bài hát, trong lòng cảm thấy buồn buồn pha chút ghen tỵ ngọt ngào.  Vào lúc hoàng hôn chúng tôi di dạo chơi, thỉnh thoảng đi lên phố, có lúc tới vườn hoa nhỏ trên bờ đất thoai thoải gần nhà thờ, có khi ra cánh đồng ngoài thành phố. Trong thành phố có vài đường phố lát đá, – đó là khu buôn bán của người Do Thái với một số lượng nhiều đến khó hiểu những hiệu đồng hồ, thuốc tân dược và hiệu thuốc lá. Những đường phố này còn giữ nguyên cái nóng sau một ngày mặt trời thiêu đốt, trên những ngã tư có quầy giải khát, ở đó khách bộ hành có thể uống những cốc xirô đủ màu sắc. Điều này nhắc tôi nhớ tới niềm Nam, thúc giục tôi đi xa hơn về phía Nam, – tôi vẫn còn nhớ dạo ấy không hiểu sao tôi rất hay nghĩ tới miền Kerơsơ. Nhìn từ trên nhà thờ xuống thung lũng, tôi mường tượng ra mình đang đi đến Krêmemtrúc, đến Nhicôlép. Ra cánh đồng ngoài thành phố chúng tôi thường đi qua vùng đầu ô phía tây trông hệt như thôn quê. Những ngôi nhà, vườn cây, ruộng dưa hấu nằm sát bên con đường thẳng tắp dẫn đến Mirơgôrốt. Tít tận đằng xa trên con đường dọc theo hàng cột dây thép có chiếc xe do hai con bò kéo đang chầm chậm lăn bánh rồi dần dần mất hút đi trên biển thảo nguyên như hàng cột điện cũng dần dần trở nên bé như cái que rồi không còn thấy nữa. Đó là đường tới Ianốpsina, Iarexca, Sisaki…   Nhiều khi chúng tôi dạo chơi buổi tối trong công viên thành phố. Ở đấy có dàn nhạc chơi, hàng hiên sáng ánh đèn của nhà hàng nổi bật lên từ xa như một cái sân khấu. Anh tôi đi thẳng vào nhà hàng, còn tôi và nàng thỉnh thoảng đi về phía vườn giáp với bờ sông cao cao. Đêm tối đen, ấm áp. Trong bóng đêm phía dưới, đây đó thấp thoáng ánh đèn, những bài ca khi bổng khi trầm nghiêm trang vọng lại – đó là những đám thanh niên vùng ngoại ô đang hát. Bài ca như hoà lẫn vào bóng đêm yên tĩnh. Đoàn tàu với những ô cửa sáng rầm rập chạy qua, tiếng động của nó nhỏ dần, nhỏ dần – lúc đó tôi cảm thấy thật rõ cái thung lũng này xa, sâu đến thế nào, vệt sáng đoàn tàu dần mất hút trong đó như thể nó chui sâu xuống đất. Tiếng hát lại nghe rõ, cả vòng cung chân trời bên thung lũng như chìm trong tiếng ếch kêu mơ hồ không dứt.   Khi chúng tôi bước lên hàng hiên đông đúc người ở nhà hàng, ánh sáng ở đấy khiến chúng tôi ngỡ ngàng lóa mắt. Anh tôi lúc này đã ngà ngà say, vẻ mặt hiền hoà, ngay lập tức vẫy tay gọi chúng tôi lại bàn, nơi anh ngồi cùng Vaghin, Lêôntêvích, Xulima. Mọi người hồ hởi xếp chỗ ngồi cho chúng tôi, cho gọi thêm rượu vang trắng, đưa thêm cốc và đá. Lát sau tiếng nhạc đã ngừng, vườn cây quanh hiên đã vắng vẻ chìm trong bóng tối, thỉnh thoảng có làn gió nhẹ từ đâu thổi tới, mấy ngọn nến đặt trong chụp thủy tinh bám đầy côn trùng bé lấm tấm; nhưng mọi người vẫn tiếp tục nói chuyện, thời gian còn sớm sủa. Cuối cùng thì mọi người đều thấy rằng đã đến lúc phải ra về. Tuy nhiên chúng tôi cũng không chia tay ngay – chúng tôi kéo cả đoàn đi về nhà, vừa đi vừa nói to, nện gót giầy cồm cộp. Vườn cây đã yên lặng như tờ, che phủ một màn đen bí ẩn, trăng muộn màng nhô lên trên đường chân trời tỏa ánh sáng vàng mờ nhạt, ấm áp. Khi chỉ còn anh em tôi cùng nàng đi vào sân nhà mình, ánh trăng đã rọi xuống đấy, soi sáng gian nhà kính; có tiếng con chim chích chốn nào kêu khe khẽ; mỗi một cái lá cây dạ hợp mọc gần ngôi nhà nhỏ, mỗi cành cây đều in bóng rõ ràng mềm mại lên bức tường màu trắng. ... Mời các bạn đón đọc Nàng Lika của tác giả Ivan Bunin.
Một Phút Một Đời - Pearl S. Buck
Từ hai thế giới khác biệt nhau, William và Ruth đã đến với nhau. Chàng tốt nghiệp đại học Mỹ thuật, là một thanh niên nhạy cảm con một gia đình giàu sang nhưng ích kỷ, chủ một hệ thống hỏa xa tại Hoa Kỳ. Nàng là cô gái nông thôn ít học, khỏe mạnh, đầy sức sống, con của một trại chủ ở Pennsylvavia. Trong một buổi đi du họa ở cùng quê, William đã gặp Ruth. Và ngay khi nhìn thấy nàng, chàng biết rằng đó là người đàn bà của mình, mặc dầu chàng đã có bạn gái là Elise - người mà gia đình chàng đinh ninh sẽ là con dâu tương lai của mình. Bất chấp sự phản đối kịch liệt của gia đình, William đã mạnh dạn bỏ nhà đi theo Ruth, một cô gái ăn nói dịu dàng và đầy hấp dẫn, một cô gái quê chẳng biết gì về nghệ thuật và cuộc sống sang giàu, nhưng là một cô gái hoàn toàn biết cách tận hiến cho tình yêu. *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi Mời các bạn đón đọc Một Phút Một Đời của tác giả Pearl S. Buck.