Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Các Hung Thần Lên Cơn Khát

Anatole France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, ông sinh ở Paris ngày 16 tháng 4 năm 1844, ngày 13 tháng 10 năm 1924 ở Tours, Indre-et-Loire, Pháp. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì "những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực"… Đến năm 1922, sách của ông đã nằm trong danh sách cấm của Giáo Hội Công Giáo La Mã, bởi trước tác của ông chống lại sự mê hoặc tôn giáo, giáo điều chủ nghĩa; dưới ngòi bút châm biếm đả kích, trào lộng, A. France mỉa mai những luận điệu thần thánh, những thiết chế Nhà nước, những thối nát của nhà thờ cùng với sự đớn hèn của loài người. Các hung thần lên cơn khát là một thiên hùng ca bi tráng về thời kỳ Công xã Paris. Nhân vật chính của câu chuyện là Évariste Gamelin, một họa sĩ trẻ tràn trề sức sống và lý tưởng, một người con hiếu thảo sống cùng mẹ già nghèo khó, một người bạn vô hại dễ thương, một công dân nhiệt tình yêu nước, một chiến sĩ tuyệt đối trung thành với Cách mạng được bổ nhiệm làm hội thẩm của Tòa án Cách mạng Pháp. Tư tưởng cực đoan và sự sùng bái cá nhân của Gamelin đối với các nhà lãnh đạo công xã Robespierre, Marat,... và cơn ghen cuồng điên trong mối tình si chớm nở đã từng bước đưa anh từ một nghệ sĩ mộng mơ thành một tên giết người hàng loạt. Vì chế độ Cộng hòa, anh hy sinh không hối tiếc bao nhiêu sinh mạng, kể cả bạn bè, và nếu cần, cả em gái mình để làm lễ dâng lên bàn thờ Tổ quốc. Điều gì sẽ đến khi lý tưởng trở thành ngọn hải đăng tỏa sáng dẫn đường, khi lý tưởng trở thành vị thần được tôn thờ mù quáng, khi lý tưởng được sùng bái một cách bất khả tư nghị? Và chuyện gì sẽ xảy ra khi con người trở thành nô lệ của dư luận, khi suy nghĩ bị dẫn dắt bởi đám đông. Đó là khi máy chém sẽ trở thành vị chủ tế, mạng sống và máu của con người được xem như vật hiến sinh, những buổi hành hình trở thành lễ hội náo nhiệt. Khi sự phi lý trở nên bình thường, khi quyền lực trao tay những kẻ vô tri, con người trở thành điên rồ và khát máu. Các hung thần lên cơn khát, một kiệt tác của A.France không chỉ là một tiểu thuyết lịch sử cách mạng. Dưới ngòi bút của một thiên tài, một xã hội thị dân Paris với đầy đủ các cung bậc cuộc sống, tình yêu, dục vọng, với ghen tuông được tái hiện. Các hung thần lên cơn khát còn là một bản trường ca về sự giao hòa giữa lý tưởng và tình người, về cách mạng và nhân văn, giữa duy tâm với duy vật, cả thánh thiện và tàn ác, về chiến thắng và chiến bại, về sự sống cùng cái chết, tất cả đã được Anatole France dệt thành một câu chuyện đa sắc sinh động. *** Anatole France (1844-1924) là một nhà văn vĩ đại của nước Pháp, thành viên Viện Hàn lâm và nhận giải thưởng Nobel Văn học năm 1921. Sự nghiệp văn chương của ông thực đồ sộ và mang dấu ấn những quan điểm của ông trong từng thời kỳ. Khi còn trẻ, với các tác phẩm “Sách của bạn tôi”, “Tội ác của Sylvestre Bonnard”, “Bông huệ đỏ”, “Khu vườn của Epicure”,… Anatole France nổi tiếng là một nghệ sĩ đơn thuần, một nhà nhân văn cá nhân chủ nghĩa ít quan tâm đến cuộc đời. Nhưng khi đã đứng tuổi, ông bắt đầu chú ý đến những vấn đề thời đại, những nỗi băn khoăn, lo lắng của con người. Ông tham gia bảo vệ Dreyfus, một sĩ quan Pháp bị kết án oan về tội làm gián điệp. Trong số các tác phẩm ông viết trong thời kỳ này ta có thể kể: “Chiếc vòng thạch anh xanh”, “Ông Bergerer ở Paris”,… Đặc biệt trong các cuốn “Thiên thần nổi loạn” và “Các hung thần lên cơn khát”, ông đã tố cáo bạo lực và chuyên chế, phản đối những hành động quá khích phát sinh từ cách mạng. Luôn luôn tranh đấu cho một xã hội công bằng và nhân đạo, Anatole France đứng vào hàng ngũ các chiến sĩ cực tả. Ông quan niệm tự do là tài sản quý nhất của con người, nhưng không thể có tự do khi một giai cấp còn bị một giai cấp khác nô dịch. Ông mơ ước một nhà nước thực sự dân chủ không vi phạm quyền của mỗi công dân và bảo đảm hạnh phúc cho từng cá nhân trong xã hội. Là người vô thần, ông phản đối cả cuồng tín tôn giáo lẫn cuồng tín chính trị; là nghệ sĩ, ông luôn luôn để lòng mình rung động xen lẫn xót xa trước những niềm vui mong manh, giúp ta trong giây phút quên đi nỗi đau đớn của thân phận con người. Tiểu thuyết “Các hung thần lên cơn khát” (1912) là một trong những tác phẩm hàng đầu của Anatole France. Câu chuyện xảy ra trong thời kỳ thứ ba của Cuộc cách mạng 1789 Pháp, “Thời kỳ chuyên chính Jacobin” bắt đầu từ tháng sáu năm 1793 đến hết tháng bảy năm 1794. Đó là thời kỳ cuộc cách mạng nằm trong tình thế thù trong giặc ngoài cực kỳ hiểm nghèo. Để đối phó, một mặt Quốc ước tung quân chống ngoại xâm, dẹp bạo loạn trong nước, mặt khác, bên cạnh những biện pháp nhằm ổn định đời sống, đã dùng Tòa án Cách mạng làm công cụ thực hiện quốc sách khủng bố các phe phái, cá nhân chống đối. Và vì bản thân phái Jacobin cũng phân hóa, khủng bố lan tràn vào ngay nội bộ những người cách mạng trung kiên nhất. Đó là thời kỳ rối ren nhất, đẫm máu nhất trong cuộc Cách mạng 1789. Có thể gọi “Các hung thần lên cơn khát” là một tiểu thuyết lịch sử: Một loạt sự kiện được mô tả khá đầy đủ, chính xác đến từng ngày, nhiều nhân vật lịch sử được nhắc đến trong đó một số lãnh đạo vĩ đại của Cách mạng, như Robespierre, như Marat, được phác họa bằng ngòi bút tài tình khiến người đọc có thể hình dung được cả hình dáng lẫn tâm hồn họ. Trong bối cảnh lịch sử ấy, Anatole France đưa lên sân khấu cả một đám thị dân Paris bình thường, để cho họ sinh hoạt, yêu đương, chơi bời, hy vọng, đau khổ… cả bọn đục nước béo cò thời nào cũng có. Khi nói đến những con người bình thường, tính hoài nghi cố hữu của ông thường kết hợp với sự cảm thông sâu sắc với nỗi đau nhân thế. Và mỗi lần như vậy, bút pháp bình dị của ông tự nhiên sống động, ấm áp hẳn lên. Đó là nỗi khổ đau triền miên của bà cụ Gamelin sống giữa người con trai đã mất tính người và người con gái tội lỗi đang lẩn trốn; bà cụ sợ từng tiếng động nhỏ, “vì địa vị thấp kém,… coi hèn nhát là một nghĩa vụ.” Chúng ta phải buồn cười với cô Élodie đa tình quyết tâm “đi nửa quãng đường, hoặc hơn nữa” để chinh phục người yêu. Để mô tả tâm hồn trong trắng của một cô gái điếm, tác giả đã để cho “mặt trăng lên cao rọi vào gian phòng sát mái một tia bạc làm bừng sáng mớ tóc bồng bềnh, từng chiếc mi vàng, cái mũi thanh tú, cái miệng tròn và đỏ của Athénaïs đang ngủ ngon giấc, hai bàn tay nắm chặt.” Ông đã dùng những lời lẽ thực trang trọng, đầy xúc động khi nói đến Fortuné Trubert, người chiến sĩ được giao trọng trách không hề cảm thấy “sự nhỏ bé của các phương tiện sẵn có” vì “đời sống của anh hòa nhập với đời sống của một dân tộc vĩ đại”. Nhưng ông đã dành nhiều trang nhất để diễn tả hai nhân vật trung tâm, hai con người có cá tính thực đặc biệt. Một người là họa sĩ Évariste Gamelin, người con hiếu thảo, hội thẩm Tòa án Cách mạng. Anh là một công dân nhiệt tình yêu nước, một chiến sĩ tuyệt đối trung thành với cách mạng. Vì chế độ Cộng hòa, anh hy sinh không hối tiếc bao nhiêu sinh mạng, kể cả bạn bè, nếu cần, cả em gái mình để làm lễ dâng lên bàn thờ Tổ quốc. Anh nghĩ, mỉa mai thay, làm thế để mai đây “mọi người Pháp sẽ ôm hôn nhau trong hạnh phúc”. Người kia là ông già Brotteaux nguyên là nhà quý tộc, yêu thiên nhiên, luôn luôn xúc động trước cảnh đẹp, môn đệ của Épicure. Tác giả đặt ông vào bao nhiêu tình huống, cho ông gặp bao nhiêu con người để ông có dịp nêu lên những ý nghĩ, những tình cảm của mình, của một người vô thần nhưng không cuồng tín, chống mọi hình thức chuyên chế hay bạo lực. Những ý nghĩ, những tình cảm đó được bộc lộ đôi khi mơ mộng, thường thường nhẹ nhàng, châm biếm, có lúc lố bịch, che giấu một tấm lòng cực kỳ nhân hậu, nhạy cảm, vị tha. Thế là rõ, Anatole France đã gián tiếp nêu lên quan điểm của mình. Đó là một quan điểm và còn có những quan điểm khác: bao nhiêu sử gia và nhà nghiên cứu đã viết và còn viết để đánh giá cuộc cách mạng Pháp. Giới thiệu với bạn đọc cuốn tiểu thuyết này, chúng tôi cũng mong góp phần nhỏ bé kỷ niệm một cuộc cách mạng vĩ đại mà những lý tưởng vẫn luôn luôn thôi thúc loài người. Người dịch Trần Mai Châu ***   Sáng sớm hôm đó, Évariste Gamelin, họa sĩ, học trò của David*, thành viên phân khu Cầu mới, trước đây là phân khu Henri IV, đến nhà thờ dòng Barnabites. Từ ngày 21 tháng 5 năm 1790 cách đây ba năm, nhà thờ này được dùng làm trụ sở các đại hội của phân khu. Nó vươn cao trên một quảng trường hẹp và tối, gần hàng rào Tòa án. Mặt tiền nhà thờ có hai cây cột kiến trúc cổ điển với những công-xôn đảo ngược và bình lửa cháy đã dầu dãi với thời gian và bị con người xúc phạm. Người ta đã lấy búa đập các biểu tượng tôn giáo và thay bằng những châm ngôn Cộng hòa với dòng chữ đen tô đậm trên cửa chính: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái hay là Chết”. Évariste Gamelin bước vào gian giữa: các vòm nhà thờ trước kia bao lần vang lên lời ca của các tu sĩ bận áo thụng trắng thuộc giáo đoàn Saint Paul thì nay chứng kiến các công dân yêu nước đội mũ chụp đỏ hội họp bầu các thẩm phán của thành phố và thảo luận về công việc của phân khu. Các vị thánh đã bị lôi ra khỏi bệ; thay vào đó là tượng bán thân của Brutus, Jean-Jacques và Le Peltier. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền đặt sừng sững trên bàn thờ để trống. Jacques-Louis David (1748-1825): là họa sĩ thời cách mạng Pháp, đứng đầu trường phái Tân cổ điển. Chính tại gian giữa này, mỗi tuần hai lần, từ năm giờ chiều đến mười một giờ đêm, tiến hành các hội nghị công khai. Giảng đài có trang trí một lá quốc kì, được dùng làm diễn đàn kêu gọi quần chúng. Đối diện với giảng đài là một chiếc bục sơ sài làm bằng gỗ thô dành làm chỗ đứng cho đàn bà, trẻ con, thường đến khá đông, dự các buổi họp. Sáng hôm ấy, đứng trước một chiếc bàn kê ngay ở chân giảng đài là công dân Dupont-anh, mình mặc áo vét ngắn, đầu đội mũ chụp đỏ, làm nghề thợ mộc ở quảng trường Thionville, hiện là một trong mười hai ủy viên của ủy ban Giám sát. Trên bàn có bày một cái chai, mấy cái ly, một hộp bút và một quyển vở trong viết sẵn một kiến nghị đòi Hội đồng Quốc ước* trục xuất hai mươi hai đại biểu bất xứng. Hội đồng Quốc ước: là nghị viện cách mạng thay thế Quốc hội lập pháp từ ngày 21-9-1792 và cai trị nước Pháp cho đến ngày 26-10-1795. Évariste Gamelin cầm bút ký. “Tôi biết chắc, công dân Gamelin, cậu thế nào cũng ký, - ông ủy viên kiêm thợ thủ công nói. - Cậu là một phần tử trung kiên. Nhưng dân ở đây không nhiệt tình, lại thiếu đạo đức. Tôi đã đề nghị ban Thanh tra không cấp chứng chỉ ái quốc cho những người không ký.” “Tôi sẵn sàng dùng máu của mình ký vào kiến nghị đặt ra ngoài vòng pháp luật bọn phản quốc theo chủ nghĩa liên bang*. Họ đã muốn Marat* chết thì chính họ phải bị tiêu diệt.” Trong thời cách mạng Pháp, đây là những người chống lại những kẻ thù của tự do. Jean-Paul Marat (1743-1793): đại biểu phái Montagne trong Hội đồng Quốc ước, kịch liệt lên án và đòi chém đầu Louis XVI, bị một phụ nữ là Charlotte Corday ám sát năm 1793. “Điều nguy hiểm đối với ta chính là chủ nghĩa bàng quan. Phân khu này gồm chín trăm công dân có quyền bỏ phiếu nhưng chưa tới năm mươi người đi họp. Hôm qua lại chỉ có hai mươi tám người.” “Vậy phải bắt họ đến, nếu không thì nộp phạt.” “Này, này, - anh thợ mộc nhíu mày đáp, - nhưng nếu họ đến cả, công dân yêu nước chúng ta sẽ bị thiểu số… Công dân Gamelin, cậu có muốn làm một chén rượu chúc mừng những người cách mạng chân chính không?…” Trên tường nhà thờ, phía bên Phúc âm*, có những dòng chữ sau đây, kèm theo hình một bàn tay màu đen, ngón trỏ chỉ đường ra hành lang: Ủy ban dân sự, Ủy ban thanh tra, Ủy ban cứu trợ. Đi qua vài bước là cửa một phòng trước đây còn là gian nhà áo*, trên có ghi: Ủy ban quân sự. Gamelin đẩy cửa và thấy anh thư ký Ủy ban thanh tra đang ngồi viết trước một chiếc bàn bừa bộn sách vở, giấy tờ, thỏi thép, vỏ đạn và những mẩu đất chứa diêm tiêu. Côté de L’Évangile: Phía bên Phúc âm. Phía bên trái bàn thờ, đối với vị chủ tế. Nhà áo: là nơi các linh mục chuẩn bị trước khi làm lễ. “Công dân Trubert, chào cậu. Cậu khỏe không?” “Mình ấy à?… Mình rất khỏe…” Fortuné Robert trả lời những ai quan tâm đến sức khỏe của mình bằng một câu bất di bất dịch, muốn cho người ta biết về tình trạng của mình thì ít, mà muốn cắt đứt câu chuyện về đề tài đó thì nhiều. Anh ta mới hai mươi tám tuổi mà da đã khô, tóc thưa, gò má đỏ, lưng còng. Làm nghề bán kính ở bến Kim hoàn, anh là chủ nhân một tiệm có từ lâu đời, nhưng năm 1791 anh đã nhượng lại cho một viên thầy ký già để có thể toàn tâm làm nhiệm vụ của anh trong thành phố. Mẹ anh, một phụ nữ duyên dáng, chết lúc hai mươi tuổi mà các cụ già trong khu phố vẫn còn nhớ lại những kỷ niệm xúc động, đã để lại cho anh đôi mắt dịu dàng, đắm đuối, nước da xanh xao, tính tình rụt rè, nhút nhát. Còn tính chính xác, cần cù thì anh đã kế thừa của cha anh, kỹ sư quang học, người cung cấp vật dụng cho hoàng gia, qua đời cùng một căn bệnh khi chưa đầy ba mươi tuổi. Vẫn tiếp tục làm việc, anh hỏi: “Còn cậu, công dân, cậu thế nào?” “Tớ khỏe. Có gì mới không cậu?” “Không, không có gì mới. Cậu thấy đấy: Ở đây, tất cả đều yên tĩnh.” “Thế còn tình hình?” “Tình hình vẫn thế.” Tình hình thực khủng khiếp. Đạo quân tinh nhuệ nhất của nền Cộng hòa phải đưa vào cố thủ Mayence; Valenciennes bị bao vây; dân Vendée* chiếm Fontenay; Lyon làm loạn; Cévennes nổi dậy, biên giới với Tây Ban Nha bỏ trống; hai phần ba các quận bị xâm lăng hay nổi dậy; còn Paris không tiền bạc, thiếu cả bánh mì thì nằm trong tầm đại bác của bọn Áo. Một số dân vùng Vendée và những nơi khác chống lại cách mạng vì chính sách dân sự hóa Giáo hội và bắt lính hàng loạt của chính quyền cách mạng. Fortuné Trubert vẫn yên lặng ngồi viết, chiếu theo quyết định của Công xã* giao cho các phân khu trách nhiệm động viên mười hai nghìn người để cứu viện Vendée, anh đang thảo các chỉ thị về việc tuyển quân và cung cấp vũ khí thuộc phạm vi phân khu Cầu Mới. Tất cả súng trường sẽ được giao cho những người được trưng dụng. Đội Vệ quốc của phân khu chỉ còn súng săn và giáo mác. Công xã: là chính quyền thành phố Paris thời kỳ Cách mạng. Từ ngày 10-8-1792, công xã áp dụng chính sách khủng bố. Gamelin nói: “Mình mang lại cho cậu báo cáo về tình trạng các quả chuông phải gửi đi Luxembourg để đúc đại bác.” Mặc dầu không có một xu trong túi, Évariste Gamelin vẫn được ghi vào danh sách những thành viên tích cực của phân khu: luật chỉ ban đặc quyền đó cho các công dân tương đối giàu, đã đóng góp số tiền bằng ba ngày lao động; và muốn là ứng cử viên thì phải đóng góp mười ngày. Nhưng muốn phát huy quyền bình đẳng và giữ vững tính tự trị, phân khu Cầu Mới cho phép các công dân nào chịu bỏ tiền túi sắm đồng phục Vệ quốc được quyền bầu cử và ứng cử. Đó là trường hợp Gamelin, công dân tích cực, thành viên ủy ban quân sự. Trubert đặt bút xuống nói: “Công dân Évariste, cậu hãy qua bên Quốc ước đề nghị họ gửi cho chúng ta chỉ thị đào xới các hang động, lọc đất đá để sản xuất diêm tiêu. Có đại bác đâu đã đủ, còn cần thuốc súng nữa.” Một chàng gù bé nhỏ, bút giắt tai, tay cầm giấy tờ, bước vào. Đó là công dân Beauvisage, trong ban Thanh tra. Anh ta nói: “Này các công dân, chúng ta vừa nhận được tin xấu. Custine đã rút khỏi Landau.” “Custine là tên phản bội!” Gamelin thét lên. “Phải chém cổ hắn,” Beauvisage nói. Bằng một giọng hơi hổn hển, Trubert bình tĩnh phát biểu: “Quốc ước đâu có thành lập ủy ban cứu quốc để chơi. Hành động của Custine sẽ được đem ra xét xử. Bất lực hay phản bội, cũng phải thay y bằng một vị tướng có quyết tâm chiến thắng. Rồi sẽ ổn cả thôi!” Anh lật các giấy tờ và đọc lướt bằng cặp mắt mệt mỏi: “Muốn cho binh sĩ của ta hoàn thành nhiệm vụ, không rối loạn, không chùn bước, cần làm cho anh em hiểu rằng đời sống những người thân của họ được bảo đảm. Nếu cậu đồng ý, công dân Gamelin, trong phiên họp tới, cậu sẽ cùng mình đề nghị ủy ban cứu trợ phối hợp với bên quân sự giúp đỡ những gia đình khó khăn có con em tại ngũ.” Anh mỉm cười và ngân nga: “Sẽ ổn cả! Ổn cả!…” Như vậy là làm việc từ mười hai đến mười bốn giờ mỗi ngày trước một chiếc bàn mộc, để bảo vệ Tổ quốc lâm nguy, viên thư ký tầm thường của một ban trong phân khu không hề cảm thấy sự chênh lệch giữa mức độ to lớn của nhiệm vụ và sự nhỏ bé của phương tiện: anh cảm thấy sức mình hòa với nỗ lực chung của các công dân yêu nước, anh và đất nước là một, đời sống của anh hòa nhập vào đời sống của một dân tộc vĩ đại. Anh thuộc hạng người nhiệt tình và kiên nhẫn, sau mỗi thất bại lại chuẩn bị cho chiến thắng dường như không thể có được nhưng lại chắc chắn vô cùng. Họ phải thắng! Những con người chẳng là gì cả đó, những người đã đạp đổ vương quyền, cái anh Trubert, kỹ sư quang học tầm thường, cái anh Gamelin, họa sĩ vô danh, không thể chờ đợi sự khoan dung của kẻ thù. Họ chỉ có thể lựa chọn giữa chiến thắng và chết. Do đó họ đầy nhiệt tình và cũng vô cùng thanh thản.   Mời các bạn đón đọc Các Hung Thần Lên Cơn Khát của tác giả Anatole France & Trần Mai Châu (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Như Không Hề Có - Bret Easton Ellis
Trở về Los Angeles để nghỉ lễ Giáng Sinh, Clay một lần nữa bước vào một thế giới nơi ai ai cũng lái xe hạng sang, ăn ở nhà hàng thượng hạng, đắm chìm trong tình dục và ma túy, nơi tiền như chiếm hết chỗ của hy vọng và yêu thương. Cậu cố nối lại tình cảm với bạn gái, Blair, và với Julian, người bạn thân từ trung học. Nhưng rồi những nỗ lực đầy tính người ấy đều như bị nuốt chửng trong nỗi tuyệt vọng thăm thẳm lớn hơn hết thảy, ngay giữa vòng xoáy của những bữa tiệc vô mục đích triền miên, những quán rượu tồi tàn, câu lạc bộ rock ngầm và phía bên kia nhớp nhúa của bóng tối thành Los Angeles. Không nhiều tình tiết thắt nút, mở nút, Như không hề có là cuốn sách về một trải nghiệm nhiều hơn là một chuyện kể ly kỳ. Đừng đọc nó nếu bạn định kiếm tìm sự dễ chịu hay ngọt ngào. Đừng đọc nó nếu bạn đang cần chút gì nhẹ nhàng và hài hước. Hãy đọc nó khi bạn đang ở giữa tuổi thiếu niên đầy bất ổn, hay bỗng hoài nhớ về những ngày tháng hoang mang đã qua. Hoặc là, đơn giản hơn, khi muốn kiếm tìm một Bắt trẻ đồng xanh ở gần hơn với thời hiện tại. *** Bret Easton Ellis sinh ngày 7 tháng Ba năm 1964 ở Los Angeles, bang California, Hoa Kỳ. Với sáu tiểu thuyết và một tập truyện ngắn, Ellis đã trở thành một trong những cái tên ăn khách nhất, có sức hút nhất của văn học đương đại. Năm 1985 ông xuất bản tác phẩm đầu tay Như không hề có (Less than zero). Năm 1987, xuất bản tiếp cuốn tiểu thuyết thứ hai - The rules of attraction… Các tác phẩm: Như không hề có (Less than zero), American psycho, The rules of attraction, Glamorama, The informers và Lunar park của Bret Easton Ellis đều đã được chuyển thể thành phim và gặt hái được nhiều thành công lớn. *** Thiên hạ sợ phải nhập làn trên xa lộ ở Los Angeles. Đó là điều đầu tiên tôi được nghe khi trở về thành phố. Blair đón tôi tại LAX 1 và thì thầm câu này khi lái xe chạy lên đoạn dốc nhập vào đường chính. Cô bảo: "Thiên hạ sợ phải nhập làn trên xa lộ ở Los Angeles." Dù câu nói vốn chẳng đáng bận tâm, nó vẫn đeo đẳng tâm trí tôi suốt một thời gian dài đến khó chịu. Dường như không điều gì khác còn đáng kể nữa. Từ chuyện tôi mười tám và giờ đã là tháng Mười hai, chuyến bay lại khá xóc và đôi tình nhân đến từ Santa Barbara ngơi đối diện tôi trên khoang hạng nhất thì đã ngà ngà say. Từ mảng bùn bắn lên ống quần jeans của tôi hồi sớm tại một phi trường ở New Hampshire, khiến tôi thấy vừa lạnh vừa lùng nhùng sao đó. Từ vết ố trên tay áo sơ mi ẩm ướt và nhàu nhĩ tôi đang mặc, chiếc áo mới sáng nay còn mới tinh, sạch sẽ. Từ chỗ rách trên cổ chiếc áo khoác ca rô xám của tôi, chiếc áo có chút gì đậm hơi hướng miền Đông hơn trước, đặc biệt là bên chiếc quần jeans bó và cái áo phông xanh nhạt của Blair. Tất thảy như vô nghĩa bên cạnh mỗi một câu nói ấy. Dường như vụ dân tình sợ nhập làn xa lộ nghe lọt tai hơn chuyện "Em dám chắc Muriel bị biếng ăn tâm lý" hay tiếng cô ca sĩ trên đài gào thét về sóng điện từ. Dường như với tôi, chẳng còn gì đáng kể ngoài mười hai từ ấy. Từ những cơn gió ấm như đang đẩy chiếc xe trôi xuống con đường nhựa vắng tanh cho đến mùi cần sa đã nhạt vẫn phảng phất trong xe Blair. Tất cả những gì đọng lại đó là cái thằng tôi trở về nhà trong một tháng, gặp một người tôi không thấy mặt đã bốn tháng và thiên hạ sợ phải nhập làn trên xa lộ. Blair lái xe rời xa lộ và gặp đèn đỏ. Một cơn gió dữ dội làm chiếc xe rung lên trong thoáng chốc, rồi Blair mỉm cười nói gì đó về chuyện có lẽ phải nâng mui xe cao hơn và chuyển sang kênh phát thanh khác. Trên đường về, Blair phải dừng xe vì có năm công nhân đang khênh những xác cọ bị gió giật đổ, nhét lá cây cùng những mẩu vỏ cây chết lên một xe tải lớn màu đỏ, Blair lại mỉm cười. Cô dừng xe trước nhà tôi, cổng nhà để ngỏ, rồi tôi ra khỏi xe, ngạc nhiên khi nhận thấy tiết trời khô nóng đến độ nào. Tôi đứng đó một lúc khá lâu, Blair cười toe toét hỏi, "Sao thế?" sau khi đã phụ tôi nhấc các va li ra khỏi khoang hành lý, tôi liền nói, "Không" và Blair bảo, "Trông anh nhợt nhạt quá," thế là tôi nhún vai, rồi chúng tôi chào tạm biệt và cô lên xe lái đi. Không có ai ở nhà. Điều hòa đang chạy và căn nhà tỏa ra mùi gỗ thông. Trên bàn bếp có mẩu giấy nhắn cho biết mẹ và các em gái đang đi sắm sửa cho Giáng sinh. Từ chỗ đứng, tôi trông thấy con chó đang nằm ngủ cạnh bể bơi, thở phì phì, bộ lông gợn sóng trước gió. Tôi bước lên lầu, đi ngang qua cô phục vụ mới, cô này mỉm cười và có vẻ như đã biết tôi là ai, rồi tôi đi qua phòng các em, hai phòng trông vẫn giống hệt nhau, chỉ những mẫu báo cắt ra từ GQ 2 dán trên tường là khác, rồi tôi vào phòng mình, nhận thấy không có gì thay đổi. Tường vẫn màu trắng, các đĩa hát vẫn nằm đúng vị trí, ti vi chưa hề bị dịch chuyển, cửa chớp vẫn để mở đúng như khi tôi rời đi. Có vẻ như mẹ và ả phục vụ mới, hoặc ả phục vụ cũ, đã dọn sạch tủ tường khi tôi vắng nhà. Trên chồng truyện tranh chất ở bàn có mẩu giấy nhắn, "Vẫn cần đống truyện này hả con?" ngoài ra còn có tin nhắn cho biết Julian đã gọi và một tấm thiệp với dòng chữ "Mẹ kiếp Giáng sinh." Tôi mở thiệp ra, trong đó viết "Nào ta cùng đú với Giáng sinh," lời mời dự tiệc Giáng sinh của Blair. Tôi bỏ thiệp xuống, nhận thấy không khí trong phòng đã bắt đầu lạnh thực sự. Tôi tháo giày, lên giường nằm, sờ trán xem mình có sốt không. Tôi nghĩ là có. Rồi vẫn đặt tay trên trán, tôi ngước lên săm soi tấm áp phích lồng kính treo trên bức tường phía đầu giường, nhưng cả nó cũng vẫn y như cũ. Đó là áp phích quảng cáo cho một đĩa hát cũ của Elvis Costello. Elvis nhìn qua tôi, nhếch môi cười mỉa mai, mắt đăm đăm hướng ra ngoài cửa sổ. Từ "Trust" 3 lơ lửng trên đầu ông, cặp kính râm bên xanh bên đỏ của ông bị kéo xệch xuống dưới sống mũi để ta có thể thấy đôi mắt ông, chúng hơi lệch tâm. Nhưng đôi mắt ấy không nhìn tôi. Chúng chỉ nhìn bất cứ ai đứng bên cửa sổ, mà tôi thì chẳng còn hơi sức đâu mà nhổm dậy đứng bên cửa sổ. ... Mời các bạn đón đọc Như Không Hề Có của tác giả Bret Easton Ellis.
Công Chúa - D. H. Lawrence
"Công chúa" là tác phẩm chứa đựng đầy đủ những tư tưởng sáng tạo của D.H.Lawrence, một câu chuyện vừa kỳ quái vừa đẹp mê hồn. D.H. Lawrence là một tác giả luôn gây nên những sửng sốt. Là một người luôn có ham muốn tột cùng về việc khám phá thế giới nhân bản của loài người, ông đã kiến tạo nên những tác phẩm chấn động thời đại, với những tư tưởng bạo liệt, đam mê, nhưng cũng đầy dịu dàng, trắc ẩn và đẹp đến mê hồn về bản năng, khao khát, tình yêu và dục tính của con người. Một người con gái chịu ảnh hưởng nặng nề của người cha cuồng tín tin mình là một người cao quý, thuần khiết, thượng đẳng. Cô sống trong một thế giới thần tiên, luôn hành xử nhã nhặn, thanh khiết, tin rằng cô hoàn toàn khác biệt so với những người khác. Thế giới của cô chỉ luôn tồn tại mơ mộng, cùng với người cha thân thiết, tận tụy. Thế giới ấy là một thế giới không vương chút bụi trần, và cô mãi là một cô công chúa trinh nguyên. Tuy nhiên, cho sau khi cha cô qua đời, cô bắt đầu đặt những câu hỏi về thế giới. Đến lúc cô nghĩ rằng mình muốn kết hôn, để hôn nhân là cây cầu nối cô với đời sống, như những người bình thường khác. Trong cuộc tìm kiếm bản thể của mình, công chúa đã thất bại. Sự thất bại của nàng, khiến cho mối xung đột trong câu chuyện vẫn tồn tại một cách bất lực. *** Tinh hoa văn học của nhân loại nào cũng cần được khám phá và tái khám phá. Mỗi tác phẩm lớn là một xứ sở kỳ diệu và mỗi lần ta tìm đến là thực hiện một cuộc phiêu lưu hoan lạc. Dịch thuật, giới thiệu và biên khảo về những tác phẩm tinh hoa sẽ mở ra các lối cổng dẫn vào những cảnh tượng văn chương khác nhau, qua những không gian và thời gian vừa hiện thực vừa kỳ ảo. Khát vọng hiểu biết và vui thú trong đời là bản tính của con người ở mọi nơi và mọi thời. Các tác phẩm văn chương thật sự vĩ đại đều mang lại hai điều đó: vui thú và hiểu biết. Nhưng hiểu biết là niềm vui hiếm khi tự đến một cách dễ dãi. Cần đón đợi và hồi đáp.> Mọi tác phẩm tinh hoa cần được đón đợi và hồi đáp trong niềm hân hoan có tên là “ĐỌC”. ĐỌC. Cầm sách lên và đọc. Trong sách có bạn hiền, có người đẹp, có mọi thứ. Do vậy, chúng tôi chủ trương TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC, xem đó như cửa ngõ của hiểu biết và niềm vui. CÓ NĂM CỬA: - Kiệt Tác: Mỗi Kiệt tác sẽ được dịch trọn vẹn và giới thiệu cả tác giả lẫn tác phẩm trong phối cảnh văn hóa những đặc điểm thiết yếu. - Tuyển: Tuyển chọn những tác phẩm ngắn của một tác giả, một nền văn học hay một chủ đề mang tính điển mẫu (thuộc vòng đời hay vòng mùa) - Kiến Thức: Những kiến thức mà người đọc hiện đại cần có: trào lưu văn học, các nền văn học, thể loại... được trình bày gọn nhẹ, dễ tiếp nhận. - Nghiên Cứu: Các công trình chuyên sâu về một vấn đề văn học, một tác giả thiên tài, lý luận phê bình... - Mới: Về các hiện tượng văn học mới xuất hiện của nước ngoài đang gây chú ý hoặc đoạt các giải thưởng lớn... Mong ước chúng tôi là TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC sẽ tiến bước bền vững và được đón nhận thân tình. Tủ sách được biên soạn và dịch thuật từ những nhà giáo, dịch giả và nhà nghiên cứu có uy tín và tâm huyết với văn chương. Nhật Chiêu Mời các bạn đón đọc Công Chúa của tác giả D. H. Lawrence.
Kí Ức Của Một Người Lính Trinh Sát Sư 307 - Võ Văn Hà
Kí Ức Của 1 Người Lính Trinh Sát Sư 307 ra đời chẳng vì cái gì cả, nó chỉ là một cuốn hồi ức sống động của một người lính thầm lặng của một chiến trường khốc liệt. Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam đã lùi dần vào dĩ vãng hơn ba mươi năm, nhưng hãy còn đó những CCB, những anh hùng ngày xưa mà lịch sử đã một thời lãng quên họ, những người anh hùng vô danh ấy, đã sống đã chiến đấu dũng cảm cho đất mẹ yêu thương, những trong số họ đã nằm xuống cho đất nước Chùa Tháp hồi sinh, những người trở về thì lặng yên cố hòa mình vào cuộc sống, nhưng trong họ vẫn âm ỉ cháy một ngọn lửa hồi ức không bao giờ tắt về những ngày tháng chiến đấu bên đồng đội, cùng trèo đèo lội suối chia sẻ nhau chút lương khô trên đường truy kích địch, hay còn nguyên cảm giác không nói nên lời khi tự tay khiêng xác thằng bạn mới hôm qua còn tếu táo với nhau... Tuổi trẻ các anh đã hiến dâng cho tổ quốc nào có ai đòi hỏi gì, đó là những năm tháng không thể nào quên, có những phút nghỉ ngơi sau những tất bật cơm áo gạo tiền, nghĩ lại những giây phút ngày xưa các anh bỗng chợt trào nước mắt vì thương những thằng bạn ra quân sau, mà cứ ngỡ tới tận bây giờ nó vẫn còn nằm chốt bên ấy (lời Trungsy1), để rồi các anh có thêm nghị lực, mà sống cả cho những đồng đội không được sống. Truyện nói lên những dòng hồi ức của một người lính thực thụ, người đã cầm súng chiến đấu cho đất mẹ và cho sự sống của chính mình, qua ngòi bút của chính tác giả, một nhà giáo đã vẽ nên một bức tranh sống động về chiến tranh và cuộc sống người lính trong chiến tranh. Chiến tranh nào phải những con số khô khan lạnh lùng, chiến tranh nào phải trò chơi mà chỉ có thắng với thắng, người lính nào phải chỉ biết đánh nhau… Trăm điều thú vị, nghìn chuyện ngậm ngùi… Tôi đã cùng cười cùng khóc với những dòng hồi ức này, cảm ơn chú Võ Văn Hà nhiều lắm. Giờ thì mời mọi người cùng đọc truyện tuổi teen để hiểu hơn về câu chuyện và Võ Văn Hà gửi gắm. *** Chắc chắn rằng trận đánh đã mang tính chất bất ngờ hoàn toàn với địch. Do địa hình không thuận tiên nên hai khẩu 12.7 và khẩu DKZ phải đặt trước BB và bắn tà âm trực tiếp vào địch. Ngay từ những loạt đạn đầu tiên của DKZ thì căn cứ địch đã bị thiệt hại nặng. Khẩu DKZ của địch nòng vẫn còn quay về hướng bãi mìn đã bị hư nặng nên chúng không phát huy được. Khi dứt đợt hỏa lực đầu tiên, anh em C9 do ở gần nên cơ động nhanh chiếm được một phần trận địa của chúng, và chính vì hai C9 và C10 không đồng bộ trong chiếm lĩnh trận địa nên anh em C9 sau khi chúng định thần lại bị chúng tấn công tới tấp bằng hỏa lực. Cả hai lần C9 bị khựng lại vì anh em không tiến lên được và bị thương khá nhiều. Lúc này hỏa lực của ta đi cùng không phát huy được, nên anh Khánh phải dùng tới cối 120. Không biết thực hư ra sao, nhưng phải công nhận cối rơi vào các điểm trọng yếu của địch và toàn bộ Pốt chết trên tuyến hào này đều do cối. Dù bị địch phản công mạnh, nhưng khi dứt đợt cối thứ hai thì C9 đã có bộ phận vào đến hầm của địch (hai LS cùng một chỗ), địch đã bị dồn tới nước cùng. Có hai hướng chúng định tháo chạy là tây và đông nam. Hướng tây của anh em D10 thì lực lượng mỏng, nhưng kẹt con suối ta đã chiếm sâu vào cứ của chúng. Anh Thìn đang cùng với một B của D10 đang án ngữ hướng này, hơn nữa địa hình hơi khó nên cũng không dễ gì thoát được (một nhóm địch chạy tháo ra bị anh em D10 đánh trả diệt hai tên). Trên các hướng hầm hố đã bị chiếm, và một ít bị cối phá sập nên không còn điểm tựa. Chỉ còn con đường của bãi mìn là con đường lí tưởng của chúng. Cả một lực lượng chúng bị co cụm trên một khu vực hẹp (có lẽ chúng biết bãi mìn của chúng có nơi dày thưa khác nhau) và chính diện vẫn là hướng C9. Tranh thủ thời cơ này, C10 tấn công mạnh yểm trợ cho anh em C9, và anh Thìn nhanh chóng thúc D10 vào chiếm lĩnh khu mạn tây của hào địch (tôi quẳng hai quả MK3 vào hầm địch) và buộc chúng phải rút chạy bất chấp là bãi mìn. Theo nhận định, thì nếu chúng cố chống trả chừng mười – mười lăm phút (không bị mất trung tâm) thì chắc chắn ta và địch phải đánh giáp lá cà vì đạn của ta đã hầu như không còn bao nhiêu. Có một anh C9 trong nòng chỉ còn bảy viên AK, khi tiếp giáp với anh em D10 phải xin hai băng AK… một lúc sau cũng gặp anh này, đang nấp vào phía sau cái thùng phuy của địch đang đưa đạn lẻ thu của địch vào băng. Trên hướng D3 ta hi sinh tám và bị thương hơn mười người. D10 bị thương tám do miểng cối của địch. Trận đánh khép lại với những thắng lợi phải nói là giòn giã. Tâm lí anh em đã được giải tỏa rất nhiều trước những tổn thất trong thời gian qua. Cũng không ai có thể ngờ rằng… chính tại cứ điểm này những năm sau ta phải vất vả, tốn quá nhiều xương máu của anh em F307, F2, F315 và những lực lượng trợ chiến của QK5.   Mời các bạn đón đọc Kí Ức Của Một Người Lính Trinh Sát Sư 307 của tác giả Võ Văn Hà.
Nhật Ký Son Môi - Gào
Không chỉ được cư dân mạng biết đến với nickname rất kêu là “Gào”, cô gái trẻ 22 tuổi còn tự khẳng định bản thân khi tiếp tục cho ra đời tiểu thuyết “Nhật ký son môi”. “Nhật ký son môi” là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Gào sau tập truyện ngắn bán rất chạy “Cho em gần anh thêm chút nữa”. Gào tên thật là Vũ Phương Thanh, sinh năm 1988, hiện làm PR Manager cho công ty VAA của diễn viên, ca sĩ Ngô Thanh Vân. Với lối viết “tự ăn mình” – viết dựa vào chính những chiêm nghiệm, cảm nghĩ, cuộc sống của mình, Gào trải lòng mình trong từng trang viết, viết ra những trải nghiệm của riêng cô. Toàn bộ cuốn truyện không phải là những trang nhật ký ghi lại những sự việc, cảm xúc diễn ra theo kiểu từng ngày, từng giờ, trái lại, nó được kết cấu chặt chẽ với cốt truyện rõ ràng và đơn tuyến. Thời gian ước tính kéo dài khoảng 5 tháng, xoay quanh câu chuyện nhân vật “Tôi” – một cô gái hơn hai mươi tuổi xinh đẹp, cá tính, sắc sảo, dám yêu, dám sống và dám chịu trách nhiệm với cuộc sống của mình. Cô có người yêu kém 2 tuổi đang du học nơi trời Tây, chàng trai ấy phản bội cô và cô sống khổ sở trong sự ngăn cấm của gia đình chàng trai, trong tình yêu da diết mãnh liệt và tinh thần thủy chung nhất dù có bao cách trở, cũng như phải đối mặt với những khó khăn trong công việc, cuộc sống và thời kỳ khó khăn “khủng hoảng tuổi hai mươi”. *** Tôi yêu một chàng trai vào đầu năm ngoái. Vậy là tính đến bây giờ chúng tôi đã yêu nhau được gần hai năm. Đủ dài để tôi lưu luyến, nhớ thương, buồn vương và sầu muộn mỗi khi xa cách hoặc cãi vã. Hơn một năm, chúng tôi dính với nhau như hình với bóng. Mặc dù người yêu tôi đi du học, nhưng phần lớn thời gian trong cuộc sống, chúng tôi đều dành cho nhau. Đã qua rồi cái thời khoảng cách địa lý trở thành một bài toán quá khó đối với những mối quan hệ. Người ta dễ dàng gặp nhau mỗi ngày cả khi ở xa nhau nhờ công nghệ. Ví dụ như chúng tôi có thể ngồi nói chuyện với nhau qua skype 24h mỗi ngày. Hoặc nói chuyện điện thoại thâu đêm suốt sáng. Thực sự việc yêu đương này quá đỗi ngọt ngào. Mỗi khi người yêu về Việt Nam, tôi không còn biết trời đất là gì nữa, chỉ còn cái cảm giác tuyệt vời khó diễn tả khi nằm cạnh bên người đó như chú mèo lười nhăn nhó và nhõng nhẽo. Tôi cảm thấy vui với vai trò của một người nội trợ, được nấu ăn và được người ta khen mỗi ngày. Chúng tôi sống chung với nhau ở một căn hộ tại Sài Gòn, tự tay vun vén cho " tổ ấm bé con" của mình với rất nhiều đồ đạc. Những ngày tháng đó, thực sự rất rất rất và vô cùng hạnh phúc. Nhưng niềm vui này không kéo dài được bao lâu. Không phải vì bởi chúng tôi không yêu nhau mà chỉ bởi cuộc sống luôn bắt người ta đương đầu với thử thách. Tôi là một đứa con gái. Nghiễm nhiên một đứa con gái thì cũng giống như một thằng con trai và mọi " đứa" người trên thế giới này, có vô vàn tất xấu. Tật xấu lớn nhất của những người tuổi 20 như tôi là tật "tự kỷ". Tôi hơn người yêu hai tuổi. Hai tuổi chẳng là cái thá gì đới với một thằng đàn ông, nhưng nó giống như một dòng sông dài rộng mênh mông đối với một người phụ nữ. Mới 22 tuổi hàng ngày tôi đã sợ bị những nếp nhăn nuốt chửng. Phụ nữ khi hơn tuổi người yêu thì luôn bị ám ảnh nảy sinh sầu muộn. Hơn nữa, tình yêu ngọt ngào không đồng nghĩa với thiếu đi rào cản. Rào cản của chúng tôi không chỉ là số tuổi cỏn con của tôi. Nó còn là thái độ của những người xung quanh người yêu tôi đối với tôi. Có lẽ, người yêu tôi đủ tốt để kiếm được một cô gái tốt hơn tôi. Thế nên nhiều người thân bên anh ấy, thường nhìn tôi với ánh mắt không mấy hài lòng. Tôi thua kém gì? Nhiều lần tôi tự đặt ình câu hỏi đó. Sau rồi, tôi cũng tự trả lời được: "Mình thua kém nhiều!" …đâm ra sợ. ... Mời các bạn đón đọc Nhật Ký Son Môi của tác giả Gào.