Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Âm Phù Kinh - Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ

Tựa

Âm Phù Kinh là một quyển sách rất nhỏ của Đạo Lão, tương truyền là do Hoàng Đế (2697-2597) viết. Nhưng có nhiều học giả không công nhận như vậy. Trình Chính Thúc (Trình Di, Trình Y Xuyên, 1033-1107) cho rằng sách này được viết vào thời Ân (1766-1154) hay thời Chu (1122-255). Chu Hi (Chu Nguyên Hối, 1130-1200) cho rằng Lý Thuyên, một đạo sĩ đời vua Đường Huyền Tông (713-755) đã ngụy tạo ra. Chu Hi soạn Âm Phù khảo dị. Thiệu Khang Tiết (1011-1077) cho rằng Âm Phù Kinh được viết ra vào đời Chiến Quốc. Đạo tạng có bộ Âm Phù Kinh tập chú do 7 người chú: Y Doãn, Thái Công, Phạm Lãi, Quỉ Cốc Tử, Chư Cát Lượng, Trương Lương, Lý Thuyên. Trương Quả Lão (một vị trong Bát Tiên đời Đường) cũng có viết Âm Phù Kinh và có dẫn Y Doãn, Thái Công, Chư Cát Lượng, Lý Thuyên. Lại có bản do 11 người chú: Thái Công, Phạm Lãi, Quỉ Cốc, Trương Lương, Chư Cát Lượng, Lý Thuần Phong, Lý Thuyên, Lý Hiệp, Lý Giám, Lý Duyệt, Dương Thịnh. - Thạch Đại Dương Nhân Sơn, một người rất giỏi về Đạo Phật, chú Âm Phù theo Phật. - Lý Gia Du giỏi Dịch giảng Âm Phù theo Dịch. - Đơn Chân Nhân, Khấu Trương, Trương Quả Lão, Lý Thuyên là các Đạo Gia nên bình Âm Phù theo Lão. Trịnh Tiều Nghệ Văn cho biết trước sau có 38 bộ Âm Phù Kinh biên soạn thành 51 quyển. Như vậy mỗi người chú Âm Phù một cách. Binh gia giải theo Binh Gia, Đạo Gia giải theo Đạo Gia, Phật Gia giải theo Phật Gia. Nhưng Âm Phù Kinh vẫn là Âm Phù Kinh. (Xem Vô Tích Hoàng Nguyên Bính tiên thích, Âm Phù Kinh Chân Thuyên, Tựa) Tại sao một quyển sách chỉ vẻn vẹn có ba bốn trăm chữ mà được nhiều học giả mê thích như vậy? Thưa vì nó đưa ra một học thuyết quá hay: Đó là hãy bắt trước Trời mà hành sự thì muôn việc đều hay. (Quan Thiên chi Đạo, chấp Thiên chi hành tận hĩ. 觀 天 之 道 執 天 之 行. 盡 矣.) Trung Hoa Đạo giáo Đại Từ Điển viết: «Thánh Nhân quan thiên chi đạo, chấp thiên chi hành, chưởng ốc Thiên Nhân ám hợp chi cơ, xử hành vi hợp hồ Thiên Đạo, bất vi tự nhiên, tắc trị quốc dưỡng sinh các đắc kỳ nghi...» «Thánh nhân xem Trời, bắt chước Trời hành sự, nếu việc Trời việc người ăn khớp với nhau, làm gì cũng hợp đạo Trời, không làm gì sai trái với tự nhiên, thì trị nước hay tu thân đều tốt đẹp.» (Hoàng Đế Âm Phù Kinh, tr. 332, Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, Hồ Hoài Sâm.) Xưa nay chỉ có ăn ở theo đúng cơ Trời, thời Trời, là hay, là tốt mà ít ai nhận thấy. Chúng ta thấy ngày có mặt trời, đêm có mặt trăng. Mà mặt trời thời hằng cửu, bất biến, mặt trăng thì tròn khuyết biến thiên. Mặt trời là Thái Cực, mặt trăng là Âm Dương. Trăng có tròn có khuyết, con người có khi tốt có khi xấu, nhưng lúc chung cuộc phải tiến tới viên mãn như trăng ngày rằm, như mặt trời chính Ngọ. Chu kỳ mặt trăng gồm đủ 64 quẻ Dịch mà chúng ta không thấy. Mỗi chớp mắt, mở mắt của chúng ta, mỗi một ngày một đêm, mỗi một tháng, mỗi một năm cũng gồm đủ 64 quẻ Dịch. Như vậy rõ ràng là Trời muốn chúng ta sống theo đúng tự nhiên, thì mọi sự sẽ chu toàn. Ngay quẻ Kiền đã dạy chúng ta phải bắt chước Trời mà hành sự. Đại Tượng quẻ Kiền viết: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức 天 行 健. 君 子 以 自 強 不 息: Trời cao mạnh mẽ xoay vần, Nên người quân tử quyết tâm tự cường. (Không hề ngưng nghỉ triển dương) Câu thứ 4 của Âm Phù Kinh cũng hết sức hay: Thiên Tính Nhân Dã, Nhân Tâm cơ dã. Lập Thiên chi Đạo dĩ định nhân dã. (天 性 人 也, 人 心 機 也. 立 天 之 道 以 定 人 也.) Thiên Tính là người. Nhân Tâm là máy. Lập ra Đạo Trời để xác định (xem) con người (tiến bộ đến đâu.) Đọc Âm Phù Kinh, tôi mới thấy rõ, Con người chính là Trời (Thiên Tính Nhân dã), còn Con người chỉ là Cái máy. Lập ra đạo Trời, cho thấy đâu là Đạo Người rốt ráo. Đạo Con Người thật ra là đạo tự nhiên bất biến. Con người sinh ra không phải là để khổ đau, mà chính là để luôn luôn sung sướng. Con người sinh ra cốt là để nhìn thấy trong mình, ngoài mình, đâu đâu cũng là Chân Thiện Mỹ. Con người hiện chưa được vậy, là vì quá ích kỷ và con u mê dốt nát mà thôi. Gần cuối sách, Âm Phù Kinh lại dạy bài học thứ ba: Thị cố quân tử tri tự nhiên chi Đạo bất khả vi, nhân nhi chế chi. (是 故 君 知 自 然 之 道 不 可 違, 因 而 制 之.) Cho nên người quân tử không thể đi sai Đạo tự nhiên. Chỉ có thể nhân đó biến chế mà thôi. Xưa nay, người ta thường chống đối với tự nhiên, thích chinh phục thiên nhiên. (Going against Nature, conquering Nature). Nhưng cũng có người cho rằng cần phải tìm hiểu Tự Nhiên, Hiểu Tự Nhiên là Cứu Rỗi mình (Knowledge of Nature, as a way of Salvation), và chủ trương Theo Thiên Nhiên (Following the way of Nature). Cũng có người chủ trương theo tự nhiên là chết, đi ngược tự nhiên mới được trường sinh. (Thuận tắc tử, nghịch tắc Tiên). Biến chế Tự Nhiên Âu Châu dịch là Manipulation of Nature. (Xem Science and Civilisation in China, Vol. V, Joseph Needham, Index, nơi chữ Nature, tr. 541) Tôi tuyệt đối chủ trương ta không thể sống ngược với Thiên Nhiên được, nhưng phải nương theo Thiên Nhiên mà sống. Nếu dạy người đi ngược chiều hướng này là làm hại người mà thôi. Cho nên tôi hoàn toàn chấp nhận lời trên của Âm Phù Kinh. Câu Thuận vi Phàm, Nghịch vi Tiên trong các sách luyện đơn là cốt dạy con người đi sâu vào phía Tâm Linh, chứ đừng để Tâm Thần phát tán ra ngoại cảnh, nhất là khi về già. Nghịch đây không phải là đi ngược Thiên Nhiên. * Chiều đi từ quẻ Phục cho tới quẻ Kiền thường được gọi là Chiều Nghịch. Chiều đi từ quẻ Cấu cho tới quẻ Khôn là chiều Thuận. Thuận là Thuận của phàm nhân; Nghịch là Thuận của Thánh Tiên. Âm Phù Kinh chủ trương: Bắt chước Trời mà hành sự, theo đúng cơ trời mà biến hóa, như vậy để cầu trường sinh. hay làm cho nước giàu dân mạnh, hay làm cho binh cường tướng mạnh để chiến thắng, tất cả đều là một nguyên tắc. (Quan Thiên chi đạo, chấp cơ đạt biến, dĩ cầu trường sinh, phú quốc an dân, cường binh chiến thắng.) (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332) Âm Phù Kinh là: «Thánh Nhân Thể Thiên dụng Đạo chi cơ.» (Âm Phù Kinh là sách Thánh Nhân thay Trời dạy huyền cơ Đạo Lý.) Thánh Nhân dụng tâm hết sức thâm trầm, thấy được Thiên Tính Bản Nhiên của mình, rồi theo đúng cơ vi, sống hợp nhất với lẽ Tự Nhiên. Nhìn vào lòng mình, theo đúng cơ vi Trời Đất, hiểu thế là hiểu rõ Âm Phù Kinh. «Thánh Nhân dụng tâm Thâm vi, tắc năng chiếu kiến tự nhiên chi tính; chấp cơ biến thông tắc năng khế hợp tự nhiên chi Lý. Chiếu chi dĩ tâm, khế chi dĩ cơ, nhi âm phù chi nghĩa tận hĩ.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332) Thần Trời Đất với Thần trong ta là Một, nên khi hoạt động thời in như thần, khi tĩnh lặng thì có đủ Thần trong mình, mình và Thái Không là Một, mình với vạn hữu là bạn, Thể Tính của mình và Thể Tính của trời đất không có gì khác biệt, thế gọi là Đắc Đạo. «Thiên Địa chi thần dữ Ngô chi thần đồng vu nhất thể, cố động dữ Thần khế, tĩnh dữ Thần cụ, dữ Thái Không vi nhân, dữ tạo vật giả vi hữu, Thể Tính vô thù, thị vị Đắc Đạo.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332) Âm Phù Kinh dạy ta lẽ Thiên Đạo và Nhân Tâm ám hợp với nhau, và muốn ta sống đúng theo Trời. «Thiên Đạo Nhân Tâm ám hợp chi lý, dục nhân năng thuận Thiên nhi động.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 333) Âm Phù Kinh xưa nay chỉ có hơn 300 chữ hay hơn 400 chữ. (SĐD, tr.333) Cộng thêm học thuyết Lão là Thanh Tĩnh tự nhiên, thanh tâm quả dục, pha phách thêm Dịch Truyện là thành Thuyết Thiên Đạo, Nhân sự Khế Hợp. (SĐD, tr.333) Âm Phù Kinh cho rằng Thiên Đạo và Nhân Đạo khế hợp với nhau. Và giải Âm là Âm, Phù là Phù Hợp. (SĐD, tr. 333) Âm Phù Kinh đề cao thuyết của Nho Gia là Tồn Thiên Lý, khử Nhân Dục, Tu Tâm, Thành Tính. (SĐD, tr. 334) «Vạn vật hữu hình viết Âm, Vạn Vật giai hữu Tính Mệnh viết Phù, vạn vật giai hữu Tự Nhiên chi Đạo viết Kinh.» Lại nói: «Âm Phù nhị tự, Thân Tâm dã, Tính Tình dã, Thủy Hoả dã, Thần Khí dã, Diên Hống dã, Long Hổ dã, động tĩnh dã, nãi tu đơn chi căn bản, dưỡng đạo chi uyên nguyên.» (SĐD, tr. 334) Tôi dịch Âm Phù Kinh vì thấy một quyển sách nhỏ bé như vậy mà sao lại có nhiều danh nhân bình giải như thế.

Tôi thấy những người như Lý Thuyên đời vua Đường Huyền Tông, ưa thích Đạo từ nhỏ, mới đầu Ông có được quyển Hoàng Đế Âm Phù Kinh, Ông đọc cả ngàn lần mà vẫn không hiểu được thâm ý. Theo truyền thuyết thì Ông đã tới Ly Sơn và đã được một bà cụ dạy cho huyền nghĩa Âm Phù, Ông mới hiểu ý nghĩa Âm Phù. Sau đó Ông viết: Hoàng Đế Âm Phù Kinh Sớ, 3 quyển, Thái Bạch Âm Kinh, 10 quyển, Ly Sơn Lão Mẫu truyền Âm Phù huyền nghĩa, 1 quyển. Ông làm quan giữ chức Giang Lăng Tiết Độ Sứ phó Ngự Sử Trung Thừa. Ông là người có mưu lược, sau đó vào danh sơn qui ẩn, phục khí, tịch cốc, thanh tâm tu đạo, không rõ chết ra sao. Ông còn viết thêm ít sách khác. (Xem Du Tấn, Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 97) 

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Can Chi thông luận - Nguyễn Ngọc Hải
Can và Chi là hai khái niệm cổ của văn hóa Trung Quốc , trai qua mấy nghìn năm lịch sử , chúng tồn tại và làm tốn khá nhiều giấy mực của các học giả , và từ khi xuất hiện nó đã tác động đến khác nhiều phương diện như lịch sử , chính trị , xã hội, văn hóa, lịch pháp,... của Trung Quốc và nhiều nước phương Đông như Việt Nam, Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản,... Can và Chi là hai khái niệm cổ của văn hóa Trung Quốc , trai qua mấy nghìn năm lịch sử , chúng tồn tại và làm tốn khá nhiều giấy mực của các học giả , và từ khi xuất hiện nó đã tác động đến khác nhiều phương diện như lịch sử , chính trị , xã hội, văn hóa, lịch pháp,... của Trung Quốc và nhiều nước phương Đông như Việt Nam, Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản,... Ngày nay khi nền văn minh vật chất phương Tây với những cuộc khủng hoảng thừa và thiếu gây nên những cú sốc tâm lý cho con người và xã hội, thì nhiều học giả bắt đầu tìm đến văn minh tinh thần phương Đông với những giá trị ổn định trường tồn. Nhân loại đi sâu vào nghiên cứu Kinh Dịch, học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và lý thuyết về hệ thống Can - Chi,... Ngày nay khi nền văn minh vật chất phương Tây với những cuộc khủng hoảng thừa và thiếu gây nên những cú sốc tâm lý cho con người và xã hội, thì nhiều học giả bắt đầu tìm đến văn minh tinh thần phương Đông với những giá trị ổn định trường tồn. Nhân loại đi sâu vào nghiên cứu Kinh Dịch, học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và lý thuyết về hệ thống Can - Chi,..."Can Chi thông luận" được xuất bản với mục đích giới thiệu những luận điểm và những ứng dụng rộng rãi của nó trong bức tranh toàn cảnh của nền văn hóa Trung Hoa để tham khảo.Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.NXB Văn Hóa Thông Tin.
Bốc Phệ Chính tông - Trần Khang Ninh
Từ xưa, về truyền thuyết bốc phệ không có ai bằng họ Tả đời Xuân-Thu. Ông Chu Tử ở núi Tử Dương có nói: “Thời tam đại, về thái bốc – thái phệ đều có quan chuyên giữ chức, cho nên chuyên nghệ tinh vi, ứng nghiệm thần diệu. Những thời sau phế bỏ chức quan ấy đi; hơn nữa, sách chiêm bốc cũng không được lưu truyền cho nên ít người đạt đến chỗ thần minh”. Trong thời cận đại, các thiên Hoàng Kim Sách có thể nói là đến cùng được lý thâm ảo của âm dương, lường được huyền vi của tạo hoá, nhưng vì giải thích chưa được rõ nên người sau tôn theo đó để chiêm nghiệm mà không thể không sai lầm. Lại có sách truyền lại mà không thấu đáo được tinh ý của cổ nhân. Nếu như có bậc học rộng, hiểu sâu, thấu được thần minh thì tự mình làm ra sách cũng không khó, mà còn có thể phát huy được đến chỗ tinh vi, bỏ được những chỗ u tối nữa. Lâm ốc Vương Sơn nhân buông rèm ở mé sông quân, trị Ngô quận, ta ở gần bên cạnh đấy, gặp chỗ nào ngờ liền đến hỏi, đem thử hằng nghiệm không sai, rõ ràng như đếm, xa gần đều xưng tụng là thần. Nhưng Sơn Nhân cố từ chối không nhận và nói thác rằng: đã được thụ giáo ở người khác. Tân An Dương Quảng Hàm tiên sinh là thầy ta có truyền cho ta một quyển sách chiêm nghiệm. Các sách khác đều không thể sánh kịp. Những năm gần đây, ta tặng bổ biên soạn rồi cho khắc in để tựa rằng: “ Xưa kia thánh hiền nói về lý, không nói về số, mà thực Kinh dịch là sách vì bốc phệ mà đặt ra để có thể biết trước được cát, hung, hối, lận. Tuy vậy, gọi là lấy Số mà suy lường, nhưng thực ra là lấy Lý mà đoán vậy.”  Nay sách của Sơn Nhân ta còn giữ đủ. Phần tinh vi, ảo diệu thì cố nhiên là thần tình về Số. Nhưng nếu không quán triệt được Lý âm dương biến hoá, ngũ hành sinh khắc, thì cũng không đoán được phần Số học. Vì vậy, sách nay tuy nói về Số, mà chính là sách nói về Lý vậy. Nếu nghiên cứu đến chỗ thật tinh vi, thì dù là bậc thần minh thời xưa về bốc phệ cũng không thể hơn được. Niên hiệu Khang Hy, năm Kỷ Sửu, mùa Đông, tháng Mười. Ngô Quận Trương Cảnh Tùng viết tại Dung Giang Thảo đường.     
Bát Trạch Minh Kính - Dương Quân Tùng
Bát Trạch Minh Kính là một bộ sách cổ nổi tiếng bàn về phong thủy dương trạch, cũng là tác phẩm tiêu biểu của phái phong thủy Bát trạch. Địa lý phong thủy cổ đại chủ yếu tập trung vào hai lĩnh vực dương trạch và âm trạch. Âm trạch tức phần mộ của người chết, dương trạch lúc nơi ở của người sống. Đây là một bộ sách chuyên luận về địa lý phong thủy dương trạch. Địa lý phong thủy cổ đại chủ yếu tập trung vào hai lĩnh vực dương trạch và âm trạch. Âm trạch tức phần mộ người chết, chủ yếu quyết định đến sự giàu nghèo, sang hèn của hậu duệ người đã khuất. Dương trạch tức là nơi ở của người sống. Mời bạn đọc cùng tham khảo. Bát Trạch Minh Kính là một bộ sách cổ nổi tiếng bàn về phong thủy dương trạch, cũng là tác phẩm tiêu biểu của phái phong thủy Bát trạch. Địa lý phong thủy cổ đại chủ yếu tập trung vào hai lĩnh vực dương trạch và âm trạch. Âm trạch tức phần mộ của người chết, dương trạch lúc nơi ở của người sống. Đây là một bộ sách chuyên luận về địa lý phong thủy dương trạch. Địa lý phong thủy cổ đại chủ yếu tập trung vào hai lĩnh vực dương trạch và âm trạch. Âm trạch tức phần mộ người chết, chủ yếu quyết định đến sự giàu nghèo, sang hèn của hậu duệ người đã khuất. Dương trạch tức là nơi ở của người sống. Mời bạn đọc cùng tham khảo. Bát Trạch Minh Kính là một bộ sách cổ nổi tiếng bàn về phong thủy dương trạch, cũng là tác phẩm tiêu biểu của phái phong thủy Bát trạch. Địa lý phong thủy cổ đại chủ yếu tập trung vào hai lĩnh vực dương trạch và âm trạch. Âm trạch tức phần mộ của người chết, dương trạch lúc nơi ở của người sống. Đây là một bộ sách chuyên luận về địa lý phong thủy dương trạch. Địa lý phong thủy cổ đại chủ yếu tập trung vào hai lĩnh vực dương trạch và âm trạch. Âm trạch tức phần mộ người chết, chủ yếu quyết định đến sự giàu nghèo, sang hèn của hậu duệ người đã khuất. Dương trạch tức là nơi ở của người sống. Mời bạn đọc cùng tham khảo. Phong thủy Bát trạch cho rằng môi trường trong 8 hướng chính của tự nhiên đều nắm giữ một loại “khí” khác nhau, gây nên phản ứng tích cực hoặc tiêu cực cho con người và ngôi nhà mà con người cư ngụ. Nói cách khác, phong thủy Bát trạch được dung để xác định 4 hướng cát và 4 hướng hung, hay những khu vực cát và hung trong và ngoài ngôi nhà. Đây là những hướng lợi và bất lợi có thể ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần con người. Phong thủy Bát trạch cho rằng môi trường trong 8 hướng chính của tự nhiên đều nắm giữ một loại “khí” khác nhau, gây nên phản ứng tích cực hoặc tiêu cực cho con người và ngôi nhà mà con người cư ngụ. Nói cách khác, phong thủy Bát trạch được dung để xác định 4 hướng cát và 4 hướng hung, hay những khu vực cát và hung trong và ngoài ngôi nhà. Đây là những hướng lợi và bất lợi có thể ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần con người.Mệnh Nam nữ có phân biệt âm dương, tìm phương cát lợi từ bát trạch để có thể chuyển vận. Bếp, phòng ở, giường, cổng cửa…Chủ về gia vận hoặc tài lộc, đổi một phương vị lập tức ứng nghiệm ngayBát Trạch Minh Kính là một bộ sách cổ nổi tiếng chuyên bàn về phong thủy dương trạch, đồng thời cũng là tác phẩm tiêu biểu của phái phong thủy Bát Trạch. Địa lý phong thủy cổ đại chủ yếu tập trung vào hai lĩnh vực dương trạch và âm trạch. Âm trạch tức phần mộ của người chết, chủ yếu quyết định đến sự giàu nghèo,sang hèn của hậu duệ người đã khuất. Dương trạch tức nơi ở của người sống, như nhà ở, cửa hiệu, công sở …,sẽ tác động đến vận mệnh của người đang sống.Bát Trạch Minh Kính là tác phẩm mang tính đại diện cho trường phái Bát trạch. Tác phẩm tương truyền là sáng tác của Đại sư phong thủy Dương Quân Tùng đời Đường, do Nhược Quan Đạo nhân đời Thanh biên soạn, chỉnh lý. Có thể nói rằng, đây là một tập đại thành của lý luận phong thủy Bát Trạch. Để độc giả tiện theo dõi, sau đây, chúng tôi xin giới thiệu khái quát về những khái niệm, mệnh đè chủ yếu xuất hiện thường xuyên trong tác phẩm.
Chu Dịch (Kinh Dịch) với Dự Đoán Học - Thiệu Vĩ Hoa
Chu Dịch (Kinh Dịch) là cơ sở, là ngọn nguồn của khoa học dự đoán, thông tin của Trung Quốc. Các quái từ, hào từ cùng với 64 quái, bát quái trong Chu dịch (Kinh Dịch) không những ghi lại một cách có hệ thống, phản ánh được các thông tin tiềm tàng của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học về con người, phương diện y học trong quá khứ, trong tương lai mà còn đưa ra các phương pháp dự đoán thông tin quý báu. Ngày nay, Chu dịch (Kinh Dịch) được thế giới tôn vinh với những tên gọi mỹ miều như "Vũ trụ đại số học", "Viên ngọc của khoa học hoàng quán". Chu dịch (Kinh Dịch) không phải là mê tín phong kiến, không phải là chủ nghĩa duy tâm mà là suối nguồn chân lý."Chu dịch (Kinh Dịch) với Dự đoán học" của Thiệu Vĩ Hoa giúp bạn tìm hiểu kỹ lưỡng hơn về môn khoa học nói trên. Cuốn sách gồm 2 phần: Phần thượng chủ yếu nói về phương pháp dự đoán quái tượng, bắt đầu từ các kiến thức cơ bản nhất, cho tới cách lập quái và đoán quái. Phần hạ chủ yếu luận thuật về các dự đoán lục hào, so với phần dự đoán theo quái tượng ở phần thượng thì nó sâu sắc hơn rất nhiều, cách thức phức tạp hơn, nội dung dự đoán rộng lớn, việc dự đoán cụ thể lại nhiều, là phương pháp dự đoán quan trọng mà trong dự đoán Bát quái thường nên dùng.Chu dịch và Kinh Dịch liên quan gì đến nhau? Chu dịch và Kinh Dịch liên quan gì đến nhau?Chu dịch, phong thủy, tử vi, bói toán, chiêm tượng,... gồm chung đều là những môn học có nguồn gốc từ Kinh Dịch. Xưa nay các vị "có học thức" về tâm linh, phong thủy,... đều lầm lẫn trong việc phân chia Kinh Dịch thành một bộ môn giống như tử vi, phong thủy. Bởi vì ngay ở cái tên Thiên Ý đã khẳng định rất rõ ràng Kinh Dịch là Kinh rồi, nó là một bộ Kinh tổng giải thích sự hình thành và dịch chuyển (chuyển động) của các thiên thể trong vũ trụ trong đó có trái đất, và tất nhiên trong trái đất sẽ bao gồm tất các "phần tử" kể trên như Chu dịch, tử vi, phong thủy, bói toán,... Vì thế không thể xem Kinh Dịch là một bộ môn giống như phong thủy hay bói toán mà xưa nay các vị "có học thức" về tâm linh, phong thủy vẫn lầm tưởng như thế cho được.