Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đứa Trẻ Thứ Sáu

“Cha hãy tha thứ cho con” là dòng chữ được tìm thấy viết trên những tấm bìa các tông gần xác các nạn nhân bị giết theo kiểu 4MK được phát hiện cách nhau vài chục phút ở cả Chicago và Nam Carolina, kết nối họ với cùng một kẻ giết Người. Các vụ giết người rõ ràng có liên quan chặt chẽ nhưng lại tách biệt bởi khoảng cách về không gian không thể nào hiểu nổi. Cùng lúc đó, khắp nước Mỹ rúng động vì thông tin Anson Bishop sẽ làm phát tán virus gây bệnh SARS. Sở Cảnh sát Chicago và FBI rơi vào tình trạng hỗn độn – một bệnh viện bị phong tỏa, dịch bệnh có nguy cơ bùng phát. Anson Bishop, nghi phạm chính trong các vụ giết người của 4MK, đã tiết lộ một câu chuyện hoàn toàn bất ngờ, một câu chuyện không chỉ làm đảo lộn những kết quả điều tra cũ mà sữ còn làm thay đổi cuộc sống của tất cả những người có liên quan đến nó. Với sự căng thẳng không ngớt và sự hồi hộp làm căng mạch đập, quá khứ được đưa ra ánh sáng và đi đến hồi kết ở tốc độ chóng mặt khi sự thật đằng sau động cơ của kẻ giết người 4MK cuối cùng cũng được làm rõ. “Phần ba của bộ truyện đã thắt lại tất cả những nút thắt còn lỏng lẻo một cách tuyệt hảo, đây quả thực là một bộ ba tuyệt vời với đủ những cú twist để làm hài lòng ngay cả Sherlock Holmes!” Bộ sách 4MK Thriller gồm có: 4MK Cái Chết Thứ Năm Đứa Trẻ Thứ Sáu *** J.D. Barker là một tác giả người Mỹ nổi tiếng quốc tế về phim kinh dị hồi hộp, thường kết hợp các yếu tố kinh dị, tội phạm, bí ẩn, khoa học viễn tưởng và siêu nhiên. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh, Forsaken, là người vào chung kết cho Giải thưởng Bram Stoker năm 2014. *** Đứa Trẻ Thứ Sáu là phần ba và cũng là phần cuối trong series về tên sát nhân hàng loạt 4MK. Trong phần ba này Sam Porter bị phát hiện bắn chết một người phụ nữ, người anh đã giúp trốn khỏi nhà tù cùng một kẻ mà anh nghĩ là mẹ của Anson Bishop, tên là Sarah Werner. Sam Porter bị FBI tống giam. Anh bị cả Sở Cảnh sát Metro lẫn FBI nghi ngờ, các đồng nghiệp quay lưng lại với anh, khinh bỉ anh ngoại trừ Nash và Clair. Tình tiết truyện càng phát triển, những mối nghi ngờ dành cho Sam ngày càng tăng lên. Ai cũng cho rằng Sam chính là 4MK hoặc ít nhất hợp tác với 4MK giết hại những người khác. Con số nạn nhân trong tập ba này cũng không hề ít. Như thể chưa đủ kịch tính, khắp nước Mỹ lại rung động vì thông tin Anson Bishop sẽ làm phát tán virus gây bệnh SARS. Hai nạn nhân nữ trẻ tuổi sống sót dưới bàn tay 4MK được chuyển vào bệnh viện Stroger, trong tình trạng đã bị nhiễm cúm. Cả bệnh viện bị cách ly cùng với Nash và Klozowski. Cuộc truy tìm 4MK, truy tìm Sam và con virus diễn ra gay cấn, căng thẳng qua từng trang. Cùng với đó là những trang cuối cùng của cuốn nhật ký với đủ những gia vị êm đềm, xúc động, kịch tính và đau xót. Liệu Sam Porter có thể phá án liên hoàn 4MK mà anh đã theo đuổi suốt năm năm trời, đồng thời minh oan được cho bản thân không? Đứa Trẻ Thứ Sáu là một đoạn kết hoàn chỉnh cho cả ba phần. Những thắc mắc, những gì chưa được giải quyết ở hai phần trước đều có câu trả lời ở phần này. Ở phần ba vì còn liên quan đến cả dịch SARS nên dung lượng truyện dài hơn, tuy nhiên bù vào đó là những mâu thuẫn, những nghi ngờ, những sự thật và lời dối trá chồng chéo hơn, phức tạp hơn. Những án mạng cũng giống như phần một, các nạn nhân đều bị móc mắt, cắt tai và cắt lưỡi, với ba cái hộp màu trắng thắt dây đen ở bên cạnh. Mình chưa đọc phần hai nhưng ở phần ba này Sam Porter hoạt động phần lớn là một mình, anh vừa phải tự điều tra qua những mảnh ghép ít ỏi mình có, lại vừa phải trốn chạy cả FBI lẫn Sở Cảnh sát Chicago săn đuổi mình. Trong phần ba hầu như mọi bằng chứng FBI thu thập được đều chống lại Sam. Anh không thể minh oan, không thể phản biện lại một cách mạnh mẽ vì chứng mất trí nhớ do đạn bắn. Sam trúng đạn khi đang truy đuổi Weasel trong con ngõ từ phần một. Nên tất cả những gì anh nhớ được đều rất mơ hồ, anh không biết mình đã gặp ai, không nhớ mình đã làm gì, không nhớ mình đã từng đến đâu, không nhớ mình đã từng giết ai chưa. Sam buộc lòng phải hành động một mình, vận dụng toàn bộ kỹ năng thám tử của mình đã xóa lớp mây mù trong trí não anh và tìm ra sự thật, trong khi không có được sự hỗ trợ của đồng đội như phần một. Yếu tố hành động và suy luận được đẩy lên cao hơn, nên yếu tố kinh dị không được nhấn mạnh ở phần này nữa. Phần ba đánh dấu sự tham gia tích cực hơn của nhóm FBI, cụ thể là Đặc vụ Frank Poole. Thế nên tình tiết truyện vẫn đủ sức níu kéo mình đến cuối. Cả ba phần theo mình đều có liên quan chặt chẽ đến nhau, nên đọc lần lượt từ phần một để hiểu rõ toàn bộ cốt truyện. Còn nhiều điều nữa mình muốn nói cơ mà sẽ spoil hết nên đành dừng bút ở đây. Chúc mọi người có những phút giây vui vẻ khi đọc sách. Nguyen Quang Huy *** Tray Ngày 5 - 5:20 sáng “Này, thằng đầu đất, chỗ này là cái nhà trọ chó chết của mày đấy hả?” Giọng nói cộc cằn, như có sỏi trong mồm. Vào giờ này chắc là cảnh sát, bảo vệ hay có thể chỉ là một lão chủ nhà giận dữ. Không cần biết là ai, Tray Stouffer vẫn nằm bất động dưới những nếp gấp của chiếc chăn lông đã mốc. Thi thoảng khi bạn nằm bất động đủ lâu, họ sẽ bỏ đi. Đôi khi họ sẽ chán. Lại là tiếng giày đó - nhanh và mạnh. Cú đá thẳng vào dạ dày. Tray chỉ muốn thò đầu ra và gào lên, túm chặt lấy chân hắn và đánh trả. Nhưng nó chẳng làm gì. Vẫn nằm bất động hoàn toàn. “Mẹ kiếp, tao đang nói chuyện với mày đấy!” Thêm một cú đá nữa, mạnh hơn cú lúc nãy, trúng vào mạng sườn. Tray gầm gừ, không thể kiềm chế được. Siết cái chăn bông chặt hơn. “Mày có biết ảnh hưởng của mày và lũ bạn mày lên giá trị ở đây khi cắm trại ngoài này không? Tụi mày dọa bọn nhóc con sợ chết khiếp. Người già sẽ không rời khỏi tòa nhà này nữa. Thế họ cứ phải bước qua cái đống rác rưởi như mày để chạy đến cửa hàng đấy à?” À, vậy là lão chủ nhà. Tray đã từng nghe tất cả những chuyện này. “Mày có biết năm giờ sáng lúc mày đang ngủ thì tao làm gì ngoài này không? Trong khi cả lũ bọn mày nằm một đống trên hiên nhà chúng tao đấy. Khi đó tao vừa kết thúc ca làm việc mười tiếng đồng hồ tại Tiệm Bánh ngọt Delphine. Quần quật mười hai tiếng từ tối qua trong cái căn bếp chó đẻ đó. Rồi quay lại làm tiếp sau mười tiếng nữa. Tao khổ như thế là để trả tiền cho cái nơi này. Tao làm vậy là để góp công sức cho xã hội. Mày sẽ chẳng bao giờ thấy tao vất vưởng trên hè phố như lũ chó lười chúng mày. Cút đi mà tìm việc! Tự nuôi sống bản thân đi!” Ở tuổi mười bốn, làm gì có việc mà làm. Chẳng có việc gì hợp pháp hết. Chỉ hợp pháp nếu có sự cho phép của cha mẹ, và chuyện đó sẽ chẳng bao giờ xảy ra. Tray vòng tay quanh người chịu cú đá tiếp theo. Nhưng thay vì đá, người đàn ông túm lấy một góc tấm chăn và giật mạnh, quẳng nó sang một bên. Tấm chăn rơi xuống vũng nước do tuyết đã tan một nửa dưới chân các bậc thềm. Tray run rẩy, cuộn tròn người lại, sẵn sàng chịu cú đá nữa. “Ớ, con gái à. Mà chỉ bé con con nhỉ.” Người đàn ông nói, cơn giận đã nguôi đi trong giọng nói. “Anh rất xin lỗi. Tên em là gì?” “Tracy.” Nó đáp. “Hầu hết mọi người đều gọi cháu là Tray.” Ngay lúc những lời này vừa thốt ra khỏi miệng, nó đã hối hận. Nó biết chuyện gì sẽ xảy ra mỗi khi nó nói chuyện với một người trong số chúng. Lẽ ra tốt hơn nó nên ngậm miệng lại, tự biến mình thành kẻ vô hình. Người đàn ông quỳ xuống, một cái túi giấy lủng lẳng trên tay trái. Anh ta trông không già lắm, có thể chỉ tầm ngoài hai mươi. Mặc áo khoác dày. Mái tóc nâu nhét vào trong chiếc mũ len thủy quân màu xanh đậm. Đôi mắt màu hạt dẻ. Dù trong cái túi kia đang đựng cái gì thì mùi vị của nó cũng rất thơm ngon. Anh ta bắt gặp ánh mắt con bé. “Tray, tên anh là Emmitt. Em đói chưa?” Nó gật đầu. Tự biết đó cũng là một sai lầm. Nhưng nó đang đói. Đói ngấu rồi. Anh ta thọc tay vào trong cái túi, rút ra một ổ bánh mì nhỏ. Hơi nước tỏa ra từ bề mặt gồ ghề xuyên qua bầu không khí Chicago lạnh giá, trong thoáng chốc Tray quên đi cơn gió buốt giá xuất phát từ phía hồ, hú lên từng hồi qua các con phố mỗi lần bốc lên. Dạ dày nó réo ùng ục, to đến nỗi cả hai đều nghe rõ. Emmitt bẻ một miếng bánh mì trao cho nó. Nó ăn ngấu nghiến chỉ sau hai lần cắn, thậm chí còn chẳng buồn nhai. Có lẽ đó là miếng bánh mì ngon nhất nó từng được ăn. “Muốn ăn thêm không?” Tray gật đầu, dù nó biết mình không nên thế. Emmitt thở hắt ra. Anh ta vươn tay ra vuốt ve má con bé bằng cạnh ngón tay trỏ. Di chuyển từ gương mặt xuống cổ con bé, trượt xuống dưới cổ áo len dài tay. “Sao em không vào trong này với anh? Có thể thoải mái ăn bao nhiêu bánh mì cũng được. Anh còn nhiều đồ ăn khác nữa cơ. Tắm nước nóng nữa. Giường ngủ thoải mái. Anh sẽ…” Dùng cả hai cánh tay, Tray xô mạnh hai vai người đàn ông. Vì đang ở tư thế quỳ một chân chênh vênh, anh ta không kịp tránh cú đánh. Lộn nhào về phía sau, chiếc túi lăn khỏi tay anh ta, đầu anh ta đập mạnh vào lan can cầu thang tòa nhà. “Con ranh khốn kiếp!” Anh ta quát lên. Anh ta còn chưa kịp ngồi dậy, Tray đã đứng lên. Quơ lấy chiếc túi giấy, nó nhấc ba lô lên, chạy như bay xuống năm bậc thềm, vơ vội cái chăn, chạy xuống phố Mercer. Anh ta sẽ không đuổi theo con bé; chúng hiếm khi làm thế, nhưng đôi khi… “Cút ngay khỏi chỗ này! Để tao bắt mày lại, tao sẽ báo cảnh sát!” Khi Tray thu hết can đảm ngoái đầu lại nhìn, Emmitt đã đứng dậy, đang nhặt nhạnh mấy thứ, xô mạnh cánh cửa đi vào tòa nhà. Kể cả từ khoảng cách xa như thế, nó hình dung mình cảm nhận được hơi ấm từ khu tiền sảnh đó. Nó vẫn không giảm tốc độ chạy tới khi đến trước cổng Nghĩa trang Rose Hill. Vào giờ này, cổng nghĩa trang đã khóa, nhưng con bé vốn gầy còm, nên một lúc sau nó đã lách qua được hàng chấn song bằng sắt rèn sang được bên kia cổng, sau lưng kéo theo ba lô và cái chăn. Chicago có mái ấm dành cho người vô gia cư, nhưng trước nó đã từng đi qua tuyến đường ấy. Vào giờ này chỗ đấy đã khóa cửa. Họ thường đóng cửa tất cả vào quãng từ bảy giờ tối đến nửa đêm, ngoài giờ ấy không nhận thêm bất kỳ ai nữa. Ngay cả nếu có, cũng chẳng thể tìm nổi một chỗ ngủ. Bên trong kín người hết rồi. Đôi khi người ta xếp hàng dài ngay từ trưa, không bao giờ có đủ chỗ. Hơn nữa, lang thang trên phố Tray cảm thấy an toàn hơn. Bọn “Emmitt” xuất hiện khắp nơi, đặc biệt là trong những mái ấm, điều duy nhất tồi tệ hơn việc đâm phải một tên Emmitt trên hiên tòa nhà, hay trong một con ngõ khuất gió nào đó, là bị mắc kẹt trong mái ấm cúng một tên như thế. Đôi khi không chỉ một tên. Bọn Emmitt có xu hướng lập nhóm săn mồi theo bầy. Tray không sợ nghĩa trang. Sau hai năm lang thang trên phố, nó từng ngủ ở mỗi nghĩa trang ít nhất một lần. Rose Hill là một trong những địa điểm ưa thích của nó, xét ở phương diện các khu nhà mồ. Không giống Oakwood hoặc Graceland, Rose Hill không khóa cửa các khu nhà mồ về đêm. Nhân viên bảo vệ dù vẫn có vài người, nhưng vào đêm lạnh lẽo như đêm nay, họ thà ngồi trong văn phòng chơi bài, xem ti vi hoặc ngủ vùi. Nó đã ngắm chán họ qua những ô cửa sổ. Con bé mạnh bước vào ngõ Tranquility qua lớp tuyết mới. Nó không lo lắng nếu có để lại dấu chân, vì biết gió sẽ lại xóa hết. Nhưng chẳng có lý do gì phải liều, nên sau khi lên tới đỉnh đồi, thay vì rẽ trái tại đường Bliss, nó đi cắt ngang qua Tranquility rồi ngoặt xuống con đường mòn nhỏ qua rừng chạy song song bên này đường Bliss. Cho dù không có đèn nhưng mặt trăng gần như tròn vành vạnh, và khi mặt hồ phản chiếu ánh trăng lọt vào tầm mắt, Tray không thể ngăn mình dừng chân nhìn ngắm. Bề mặt băng giá lấp lánh dưới lớp tuyết mỏng vừa rơi. Các bức tượng cẩm thạch lặng lẽ đứng dọc mép nước, ở giữa chúng là những chiếc ghế băng dài. Đúng là một chốn thanh bình. Rất tĩnh lặng. Ban đầu Tray không nhìn thấy cô ta, cô gái đang quỳ bên mép nước, ngoảnh mặt nhìn ra hướng khác. Mái tóc vàng buông xõa sau lưng. Trông cô ta như một trong các bức tượng, bất động, đang đối diện mặt hồ kia. Làn da cô ta nhợt nhạt, gần như trắng bệch, gần như không chút huyết sắc trong bộ đồ màu trắng. Đôi bàn chân cô ta để trần, không mang giày, không mặc áo khoác, chỉ mặc chiếc váy trắng được làm bằng thứ chất liệu mỏng đến nỗi như trong suốt. Đôi bàn tay cô ta siết chặt vào nhau gần ngực như thể đang cầu nguyện, đầu cô ta nghiêng sang một bên. Tray không nói gì, chỉ đến gần hơn. Đủ gần để nhận ra một lớp tuyết mỏng đã kịp phủ kín tất cả những gì đã khoác lên người cô gái. Và khi nó bước vòng sang phía bên kia cô gái, nó nhận ra đây không phải cô gái, mà là một người đàn bà. Sắc trắng tuyệt đối của cô ta, trên từng milimét trên cơ thể cô ta bị phá vỡ nhờ vệt máu đỏ tươi trải dài từ dưới tóc xuống một bên mặt. Thêm một vệt nữa từ con mắt trái của cô ta, một dòng lệ đỏ tươi, dòng thứ ba chảy xuống từ một bên khóe miệng - dòng máu này họa đôi môi cô ta thành đóa hồng rực rỡ nhất. Thứ gì đó được viết trên trán cô ta. Chờ đã, không phải là được viết. Trên hai đầu gối đang quỳ dưới tuyết của cô ta là một cái khay đựng đồ bằng bạc. Thứ bạn có thể thấy tại một bữa tiệc tối ngon miệng, một nhà hàng đắt tiền, đại loại những nơi mà cho dù đã mươi bốn tuổi, Tray cũng biết nó chỉ có thể thấy chúng trên ti vi hay trong những bộ phim. Trên khay là ba chiếc hộp nhỏ, màu trắng. Mỗi chiếc đều được buộc chặt bằng một mảnh vải đen. Phía sau những cái hộp, tựa vào ngực người đàn bà, là tấm biển bằng bìa các tông, giống những tấm biển Tray thường giơ lên để xin tiền mua đồ ăn. Có khác chăng con bé chưa bao giờ viết lên tấm biển những chữ như thế này. Trên tấm biển chỉ viết: CHA HÃY THA THỨ CHO CON Tray làm một việc duy nhất nó có thể làm: Bỏ chạy. Mời các bạn đón đọc Đứa Trẻ Thứ Sáu của tác giả J. D. Barker & Nguyễn Quang Huy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bóng Ma Ký Ức - Gillian Flynn
Tên eBook: Bóng Ma Ký Ức Tác giả : Gillian Flynn Thể loại: Tiểu thuyết, Trinh thám, Văn học phương Tây   Bìa Mềm   Giá bìa: 139.000 ₫   Công ty phát hành: Alphabooks   Nhà xuất bản: NXB Lao Động   Trọng lượng vận chuyển: 550 g   Kích thước: 15 x 23 cm   Số trang: 439   Ngày xuất bản: 06/2014   Nguồn: waka.vn   Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - http://www.dtv-ebook.com Bìa sách Bóng Ma Ký Ức Giới thiệu: Libby Day chỉ mới 7 tuổi khi mẹ và hai chị gái bị sát hại đẫm máu trong “Cuộc hiến tế của quỷ Sa-tăng” tại Kinnakee, Kansas. Cô đã may mắn sống sót và trở nên nổi tiếng vì đã làm chứng chống lại người anh trai 15 tuổi, khẳng định Ben Day là kẻ xuống tay giết người. Hai mươi lăm năm sau, khi câu lạc bộ Kill - một tổ chức xã hội ngầm bị ám ảnh bởi những vụ phạm tội khét tiếng - liên hệ được với Libby và dò hỏi cô những chi tiết của vụ án, hy vọng có được những chứng cứ chứng minh Ben vô tội. Libby đã ấp ủ những kế hoạch biến quá khứ bi thảm của gia đình cô thành một món hời để trang trải cho cuộc sống túng thiếu quanh năm của mình. Cô lần tìm lại những người có liên quan đến vụ việc đêm hôm ấy, rồi thuật lại những gì tìm hiểu được với câu lạc bộ để kiếm về những khoản tiền lớn. Cuộc điều tra đã đưa Libby đi tới nhiều nơi từ những câu lạc bộ thoát y tồi tàn đến thành phố du lịch lỗi thời Oklahoma, gặp nhiều nhân vật đã bao năm nay cô không một phút giây nghĩ đến, tạo nên những câu chuyện đan xen các tình tiết giữa quá khứ, hiện tại. Và sự thật không thể tưởng tượng nổi đã dần hé lộ… Libby thấy mình quay trở về từ nơi cô xuất phát hai mươi lăm năm trước - trong cuộc trốn chạy khỏi kẻ giết người. Tác giả tiểu thuyết Gillian Flynn đồng thời là biên kịch cho tác phẩm điện ảnh Gone Girl. Bởi thế, bộ phim được đánh giá chuyển thể trung thành tác phẩm văn học, tuy có rút gọn tuyến nhân vật và tập trung vào các hình ảnh, chi tiết đắt giá. Tác giả Gillian Flynn   Gillian Flynn là tiểu thuyết gia người Mỹ. Chịu ảnh hưởng bởi cha mẹ, từ khi còn nhỏ Gillian đã dành nhiều thời gian để đọc sách và xem phim. Tốt nghiệp Đại học Northwestern với tấm bằng Báo chí, năm 2006, cô cho ra đời tiểu thuyết đầu tay Sharp Objects đoạt hai giải thưởng Edgar (giải thưởng cho tác phẩm văn học trinh thám, hình sự) và gây tiếng vang trên văn đàn. Trước Gone Girl - Cô gái mất tích, một tác phẩm khác của Gillian đã được phát hành ở Việt Nam là Bóng ma ký ức - tải eBook. Mời các bạn đón đọc Bóng Ma Ký Ức của tác giả Gillian Flynn.
Sáu người bạn đồng hành Tập 1: Chú chó Kafi
Series truyện trinh thám thiếu nhi của Pháp, ra mắt bạn đọc VN năm 1996 tới nay chưa tái bản.    Ngoài tính chất trinh thám, Sáu Người Bạn Đồng Hành còn cung cấp thông tin về đất nước, con người và lịch sử Pháp. Đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành không chỉ là giải trí. Sáu người bạn đồng hành (tiếng Pháp: Les Six Compagnons) là loạt truyện trinh thám gồm 38 tập của nhà văn Pháp Paul Jacques Bonzon, được nhà xuất bản Hachette phát hành từ 1961 đến 1980. Truyện xoay quanh cuộc hành trình điều tra đầy thú vị của một nhóm bạn trẻ gồm Tidou, Corget, Gnafron, La Guille, Bistèque, Le Tondu, ở vùng Lyon nước Pháp, đồng hành với họ là chú chó Kafi. Ngoài ra còn một em gái là Mady cũng thường tham gia cùng họ. Mỗi một tập truyện là một chuyến phiêu lưu đi tìm công lý. Sau khi tác giả qua đời năm 1978, 11 tập tiếp theo được xuất bản cho đến năm 1994 (như vậy tổng cộng là 49 tập). Những tập truyện này do Olivier Séchan (3 tập), Pierre Dautun (6 tập) và Maurice Périsset (2 tập) viết tiếp. Mở đầu cho chuyến phiêu lưu này là câu chuyện về cậu bé Tidou cùng gia đình rời khỏi ngôi làng nhỏ ven biển Reillanette đến sống ở vùng Lyon, bố mẹ không cho phép cậu mang theo chú chó Kafi mà Tidou rất yêu quý. Tidou sớm hòa nhập được với những người bạn mới và nhờ có sự giúp đỡ của họ cậu đã quay trở lại quê nhà và đón chú chó Kafi. Đó chính là hành trình đầu tiên gắn kết nhóm sáu người bạn đồng hành cho hàng loạt chuyến phiêu lưu sau này. *** TIDOU, THỦ LÃNH 14 tuổi rưỡi, anh cả trong một gia đình thợ thuyền, chủ nhân của con chó lai sói lông đen Kafi và là sếp sòng của nhóm “Sáu người bạn đồng hành”. Tidou gốc người miền Nam nước Pháp, tóc đen, mắt sáng, rất đẹp trai, luôn mang trong mình dòng máu phiêu lưu, muốn khám phá đến tận cùng bí ẩn của sự việc, để mang lại công bằng đạo lý cho những con người không phương tự vệ. Là một người thẳng tính đến mức nóng nảy, Tidou luôn quyết đoán hành động. Ánh mắt của hắn chỉ dịu lại khi bắt gặp ánh mắt nhắc nhở của Mady, vì cô bé hắn sẵn sàng hy sinh cả bản thân mình. Tidou quả xứng đáng với danh hiệu thủ lĩnh của Sáu người bạn đồng hành. MADY, NỮ TIÊN TRI Sắp 14 tuổi, rất duyên dáng với mái tóc màu nâu sẫm, mắt đen, nước da bánh mật... Tạo hóa đã ban tặng cho cô bé xinh đẹp này sự phán đoán mẫn tiệp và trực giác tuyệt vời. Ngoài nét xinh xắn trời cho, Mady còn được các chiến hữu phong tặng biệt hiệu “Nữ Tiên Tri” bởi giác quan thư sáu của một nữ thám tử. Thường song hành bên cạnh Tidou, cô bé nổi lên như một nhà hòa giải thông minh và góp phần quyết định trong mọi hành động khi đặc vụ đi vào bế tắc. Mady là một báu vật mà thượng đế ban phát cho nhóm 6 người. TONDU, GIÁC ĐẤU 15 tuổi đúng, Tondu chỉ cần bỏ chiếc mũ bêrê ra là giống y chang một dũng sĩ giác đấu La Mã với cái đầu trọc lóc không một sợi tóc dính da bởi căn bệnh hiểm nghèo thời bé. Mặc kệ bạn bè thắc mắc với cái đầu trọc của mình, Tondu tỉnh bơ trong vai trò một “giác đấu”. Lớn tuổi nhất biết đấm đá, biết sửa chữa máy móc, xe cộ như một kĩ sư cơ khí, và nhất là biết liều lĩnh lúc cần thiết. Bằng phong cách đặc biệt của mình, Tondu là kẻ duy nhứt trong băng có thể “tàng hình” dễ dàng trong đám xã hội đen. GUILLE, NGHỆ SĨ Sắp 15 tuổi, không thể lẫn lộn với ai bởi mái tóc đỏ độc đáo của mình. Là một thành viên chính thức từ những ngày đầu thành lập, chàng thám tử bất đắc dĩ Guille đến với băng nhóm với cây kèn Acmonica trên môi và những bài thơ trong đầu. Tối kỵ với bạo lực, Guille đặt một chân dưới đất và một chân trên... mây, lãng mạn hóa mọi cuộc phiêu lưu nguy hiểm, trong bất cứ trường hợp nào cũng là nghệ sĩ giang hồ lãng tử. Nhưng có một điều chắc chắn, Guille là nghệ sĩ - hiệp sĩ chứ không phải nghệ sĩ của thính phòng. GNAFRON, HỀ XIẾC 13 tuổi rưỡi, còi xương bẩm sinh, tóc đen như lông quạ, rối nùi đến nỗi những cái lược phải chào thua không cách nào chải được. Theo truyền thuyết, Gnafron là tên một nhân vật đóng giày trong sân khấu múa rối Pháp, trong khi Gnafron của chúng ta trên thực tế cư ngụ trong một cư xá có hiệu đóng giày, thế là coi như chết luôn tên... cúng cơm. Tuy nhiên với bạn bè, Gnafron không hề là “thợ giày” chút nào. Nó nổi tiếng là “Hề Xiếc” bởi ngoài hình dáng gây cười bên ngoài ra, nó còn là cây tiếu lâm số một của cả nhóm và... cực kỳ đại láu cá. Sự ma lanh thiên phú của nó luôn luôn gây bất ngờ cho các đặc vụ của Sáu người bạn đồng hành. BISTÈQUE, ĐẦU BẾP Hơn 14 tuổi, tóc hạt dẻ, thấp lùn, má đỏ môi hồng, mặt... bánh bao nhưng còn còn lâu mới là con gái như Mady cho dù mang tên Bít tết. Sở dĩ cu cậu bị dính biệt hiệu như vậy cũng vì ông bố thân sinh ra nó là chủ nhân một cửa hàng thịt chế biến, mà trong đó các món bít tết, xúc xích bao giờ cũng được khách hàng có “tâm hồn ăn uống” ưa chuộng. Bistèque là thủ quỹ kiêm hậu cần của cả nhóm, chuyên cung cấp chất đạm cho các bạn sau những cuộc điều tra căng thẳng thần kinh. Có điều trong những cuộc mạo hiểm, đối với bọn bất lương, Bistèque khó xơi hơn bất cứ một... miếng BISTEQUE (bít tết) nào. KAFI, ĐẤU SĨ - VỆ SĨ Gốc gác từ hoang mạc của một xứ Ả Rập xa xôi, Kafi có nguồn cội kỳ dị ngay lúc còn nằm trong bụng mẹ cho đến khi lưu lạc giang hồ sang miền Nam nước Pháp. Với đôi tai dựng đứng, lưỡi thè lè, lông đen, đuôi rậm, bốn bàn chân đỏ như lửa, Kafi đúng là sản phẩm của hai dòng máu cha sói, mẹ chó nhà. Từ khi được cậu chủ Tidou nuôi nấng và dạy dỗ làm chó săn chuyên nghiệp, Kafi chưa bao giờ làm thất vọng nhóm Sáu người. Nó trung thành hết mực với Tidou, yêu quý Mady như người chủ thứ hai và là đại hung thần lúc ẩn lúc hiện làm bọn tội phạm kinh hồn táng đởm. *** 1. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... CHÚ CHÓ KAFI 2. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... NHỮNG CON CỬU NON NGÀY TẬN THẾ 3. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... SỪNG CHÓ SÓI 4. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... VÒNG ĐUA NƯỚC PHÁP 5. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... BAN NHẠC ROCK-EN-STOCK 6. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... NGÔI LÀNG BỊ LỤT 7. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... ĐIẾU XÌ GÀ BAY 8. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ...KẺ CƯỚP 9. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... CÁI CHAI THƯ 10. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... PIN NGUYÊN TỪ 11. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ...NHỮNG NGƯỜI CHÈO THUYỀN ĐỘC MỘC 12. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... 13. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... TIẾNG NÓI GIỮA ĐÊM KHUYA 14. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ...BÍ MẬT VŨNG ĐÁ DỰNG 15. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... LŨ CƯỚP TRÊN ĐƯỜNG RAY 16. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ...XỨ SỞ "ĐÊM MẶT TRỜI MỌC" 17. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... BÍ ẨN MÁY THÔI MIÊN 18. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... ĐÀI PHÁT THANH GÀ GIÒ 19. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... CON THUYỀN BẠC 20. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... NGƯỜI ĐÀN ÔNG ĐI GĂNG 21. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... TRƯỚC ỐNG KÍNH MÁY QUAY 22. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... VỤ MẤT TÍCH Ở MONTÉLIMAR 23. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... CHIẾC ĐẠI DƯƠNG CẦM 24. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... 25. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... CON LỪA XANH 26. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... ĐỘI LƯU ĐỘNG 27. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... BỘ TÓC GIẢ MÀU ĐỎ 28. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... Ở HỒ BERRE 29. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... GIÁN ĐIỆP BẦU TRỜI 30. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... CHIẾC MÁY BAY BÍ ẨN 31. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... HIỆU KHÓA 32. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... CÔ HỌC SINH VŨ BA LÊ 33. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... CON CÁ SẤU HỒNG 34. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... TÒA LÂU ĐÀI NGUYỀN RỦA 35. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... MA TRẬN 36. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... CHUYẾN DU LỊCH TRÊN BIỂN 37. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... TOÁN GIÁN ĐIỆP 38. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... NGƯỜI SĂN TIN 39. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... Ở HANG MARZAL 40. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... ĐÀI PHÁT SÓNG PHI PHÁP 41. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... TRONG THÀNH CỔ 42. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... MẤT TÍCH TRONG CÔNG VIÊN 43. SÁU NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ... CUỘC SĂN LÙNG CON MỒI VÔ HÌNH Mời các bạn đón đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 1: Chú Chó Kafi của tác giả Paul Jacques Bonzon.
Giờ G - Agatha Christie
Tên ebook: Giờ G  (full prc, epub)  Tác giả: Agatha Christie Thể loại: Tiểu thuyết, Trinh thám, Văn học phương Tây   Dịch giả:  Vũ Đình Phòng   Nhà xuất bản: Văn hóa thông tin   Số trang: 330   Hình thức bìa: Mềm   Kích thước: 13 x 19cm   Năm xuất bản: 2006   Tạo prc: Hoa quân tử   Ebook:  Đào Tiểu Vũ's ebooks - http://www.dtv-ebook.com   * GIỚI THIỆU:     Tôi thích đọc những cuốn tiểu thuyết hình sự hay. Nhưng nhìn chung tôi thấy các tác giả mở đầu tồi: Chín phần mười trường hợp, cuốn sách bắt đầu bằng một vụ án. Thật ra hành động gây án chỉ là điểm kết thúc. Câu chuyện lẽ ra phải bắt đầu từ trước đó lâu, có khi rất nhiều năm. Bao nhiêu sự việc tủn mủn, tưởng chừng vô nghĩa, nhưng lại dắt dẫn một số con người gặp gỡ nhau tại cùng một địa điểm, tất cả những chi tiết vụn vặt đã cùng hội tụ vào một điểm... để rồi đến một thời điểm, vụ án nổ bung ra ! Đó chính là Giờ G...(trích)    
Người hành khách bí ẩn - Georges Simenon
Tên ebook: Người hành khách bí ẩn Tác giả: Georges Simenon Thể loại: Tiểu thuyết, Trinh thám, Văn học phương Tây   Người dịch:  Đặng Phú - Lê Việt Dũng   Nhà xuất bản: Công An Nhân Dân   Kích thước: 13 x 19 cm   Số trang: 385   Năm xuất bản: 2004   Tạo prc: Hoa quân tử   Ebook:  Đào Tiểu Vũ's eBook -  http://www.dtv-ebook.com Đ ây là một căn bệnh tấn công những tàu thuyền trong tất cả các vùng biển trên thế giới mà nguyên nhân thuộc một lĩnh vực chưa ai biết, được gọi là ngẫu nhiên. Nếu những triệu chứng bước đầu của căn bệnh ấy rõ ràng thì chúng sẽ không thể thoát khỏi cặp mắt của những thuỷ thủ. Tuy nhiên, nó thường bắt đầu bằng những điều hết sức vô cớ, chẳng hạn như: một dây néo đứt văng ra như dây vĩ cầm làm bứt đi cánh tay một thuỷ thủ. Hoặc giả một chàng thủy thủ trẻ xoè ngón tay cái trong lúc gọt vỏ khoai tây và ngày hôm sau “tai hoạ bất ngờ” làm anh ta thét lên. Nếu không do vận hành sai thì làm sao một chiếc canot lại dại dột lao vào sống mũi tàu? Nhưng đó vẫn chưa phải là “cái nhìn xúi quẩy”. Cái nhìn xúi quẩy đòi hỏi hàng loạt những tai nạn. Khi cái loạt xúi quẩy ấy đeo đuổi, người ta dễ dàng nhận thấy những tổn hại mới vào ban đêm hoặc ngày hôm sau. Từ khi nó xuất hiện, mọi việc sẽ ngày càng xấu đi và những người đàn ông, chỉ còn biết nghiến răng mà đếm những trận đòn. Đó là lúc mà cỗ máy đã vận hành ba mươi năm không một lần hỏng hóc, bỗng dở chứng kẹt máy như chiếc cối xay cà phê cũ kỹ. Bất kể những dự báo được xác định là tốt nhất trên những bảng khí tượng và theo kinh nghiệm, nếu đúng, thì trong hai mươi ngày tới vào mùa này, gió không bao giờ xảy ra. Và con sóng đầu tiên ập đến sẽ không cuốn một người vào biển cả! Sẽ có bệnh lỵ nếu không phải dịch hạch! Còn may mắn nếu người ta sẽ không giạt vào mắc cạn ở một bãi cát hoặc khi đi vào cảng, người ta không va phải đê chắn sóng. ○○○ Con tàu Polarlys, neo đậu ở cảng số mười bảy trong một vũng tàu xa xôi nhất và bẩn thỉu nhất ở Hambourg phải nhổ neo dời bến vào ba giờ chiều theo thông báo ở tấm biển móc vào thùng thư tại cầu tàu. Chưa đến hai giờ, thuyền trưởng Petersen đã mơ hồ cảm thấy “cái nhìn xúi quẩy” rình rập. Tuy nhiên đây là một người đàn ông cương nghị, béo lùn, mập mạp. Từ chín giờ sáng, ông bước từng bước dài trên boong giám sát việc bốc hàng lên tàu. Sương mù đặc biệt vàng và xám, chứa đầy bồ hóng, phả ra độ ẩm lạnh giá, đè nặng lên bến cảng và thành phố, người ta chỉ nhìn thấy những chiếc đèn của xe điện, những cửa sổ sáng đèn như giữa đêm. Lúc này là cuối tháng hai. Do lạnh và vì vật lộn trong những đám mây ấy, đã để lại trên mặt và những bàn tay một loại váng băng. Mọi hồi còi đồng loạt rít lên thành một tiếp âm chói tai lấn át tiếng kèn kẹt của những cần trục. Boong tàu Polarlys hầu như vắng vẻ: bốn người đàn ông ở trên khoang trước đang tháo dỡ những chiếc hòm và thùng. Con tàu không có gì nổi tiếng cả. Đây là con tàu chạy hơi nước trọng tải một nghìn tấn, có vẻ tàu đánh bắt cá thu, boong tàu luôn đầy ắp hàng hoá, tàu làm dịch vụ từ Hambourg đến Kirkenes bằng cách đi dọc bờ biển Na Uy để phục vụ giao thông cho những cảng nhỏ. Đây là con tàu hỗn hợp có chỗ cho năm mươi hành khách ghế hạng nhất và cũng ngần ấy hành khách hạng ba. Từ Na Uy, người ta đưa đến nơi nhận những máy móc, hoa quả và thịt muối. Người ta đưa về từ cực Bắc những thùng cá thu cũng như da gấu và dầu hải cẩu. Cho đến Lofoten, khí hậu bình thường. Rồi đột nhiên, người ta rơi vào những miền băng giá và trong đêm dài tới ba tháng. Những sĩ quan là người Na Uy. Những chàng trai tốt biết trước sẽ lấy bao nhiêu thùng ở Công ty Olsen tại Tromsoe và chuyên chở cho ai ở Hambourg những máy công cụ. Ngay buổi sáng ấy, Petersen dứt bỏ chiếc lon cuối cùng của mình chỉ được giữ bằng một sợi chỉ. Công ty bỗng cử ông đi với hàng tràng những lời dặn dò như với sĩ quan thứ ba, một chàng trai Hà Lan mười chín tuổi gầy mảnh như mới mười sáu tuổi! Phải chăng sự xuất hiện của Vriens lúc mười giờ làm cho Petersen đánh hơi thấy cái nhìn xúi quẩy? Anh ta tốt nghiệp trường hàng hải Delfzijl ngay tuần ấy. Hôm qua, anh ta trình diện vẻ xanh xao, xúc động, trong bộ đồng phục đứng đắn, ngơ ngác, đứng nghiêm. — Tuân lệnh, thưa thuyền trưởng! — Này, anh Vriens - Petersen nói với anh ta - tôi không có lệnh cho anh trong lúc này. Anh có thể nghỉ ngơi cho tới ngày mai. Với tư cách là sĩ quan thứ ba, anh lo việc đưa hành khách lên tàu. Vriens đi, buổi tối không trở lại. Vào mười giờ sáng, thuyền trưởng trông thấy anh ta xuống xe taxi, lảo đảo, với nước da xanh xao, mi mắt sưng phồng, cái nhìn sợ sệt. Khi anh ta qua cầu tàu, đúng là anh ta loạng choạng. Petersen xoay lưng lại với anh ta, nghe thấy anh ta chạm gót chào trước khi đi về phía buồng mình. — Anh ta ốm yếu như một con chó! - Một lúc sau người phục vụ nói. - Anh ta yêu cầu tôi cà phê rất đặc. Anh ta nằm duỗi dài, thẳng đơ trên giường hầu như không sao nói được. Người ta để que diêm cháy trước hơi thở của anh ta... Tất nhiên đó không phải là thảm hại! Nhưng khi ta có thói quen sống chung với những sĩ quan của mình, ta không thích nảy sinh một gã trai thuộc loại này, nhất là có một lá thư của quan chức hành chính đến trước, gửi gắm tạo điều kiện dễ dàng cho những bước đầu của anh ta. Ở tuổi mười chín, Petersen chưa tốt nghiệp nhưng ông đã ba lần đi vòng quanh thế giới! ○○○ Ông có thể dự báo trước việc đó. Một loạt “tai họa” sẽ bắt đầu. Trong lúc đi vòng trên con tàu của mình, hai tay đút túi, chiếc tẩu thuốc ở miệng, ông nhìn thấy một gã cao lớn tóc hung đứng tựa lưng vào thành tàu, cuốn một điếu thuốc lá. Người đàn ông đành mập mờ cúi đầu chào ông, tìm diêm trong túi. Rõ ràng là một con chuột ở cảng! Một trong số tên lang thang này ở miền Bắc không giống một tên lang thang nào trên trái đất. Một gã trai dưới bốn mươi tuổi cao lớn, khoẻ mạnh, vẻ đứng đắn mặc dầu bộ râu tám ngày không cạo và đôi má hơi lõm. Gã ở đây như ở nhà gã. Gã rít thuốc từng hơi ngắn, ưỡn ngực dưới chiếc áo hiệu Landwehr cũ mà gã đã thay cúc. — Anh làm gì ở đây? Gã hất cằm chỉ cơ trưởng rõ ràng đang qua cầu. Và người sau giải thích cho thuyền trưởng. — Thủy thủ tiếp than vừa bị sốt rét. Tôi phải để lại hắn trên bờ. Thế là tôi nghĩ đến gã này trên bến cảng, và tôi tuyển dụng gã làm thủy thủ tiếp than vào lò. Gã khỏe mạnh... — Anh ta có giấy tờ không? — Đúng thể thức! Gã ra tù ở Cologne... - Và cơ trưởng cười trong lúc rời đi. “Vậy là hai!" - Petersen làu bàu. Có một kẻ tiếp than vào lò, dù là kẻ mới ra tù đối với ông thế nào cũng mặc vì ông đang cần. Nhưng ông cảm thấy chán ghét gã từ đầu đến chân. Trong lúc đi bách bộ, ông tiếp tục lén quan sát gã. Phần lớn những kẻ lang thang người Đức đều có cái vẻ tự tin này, việc không biết xấu hổ và ngay cả sự hèn mọn này. Thêm nữa, gã này còn có vẻ gì mỉa mai trong cái nhìn. Gã cảm thấy mình bị dò xét. Gã tiếp tục hút thuốc, thỉnh thoảng đá lưỡi thấm ướt giấy thuốc, rồi nhìn khói thuốc phả ra từ miệng gã hoà trộn với sương mù. — Anh tên là gì? — Peter Krull. — Anh đã làm gì để phải vào tù? — Lần cuối cùng tôi không làm gì hết! Đó là sự sai lầm của tư pháp... - Gã nói từ tốn, giọng kéo dài và chính thuyền trưởng bỏ cuộc nói chuyện. Vả lại một dây cáp đứt đúng lúc đó làm cho một chiếc thùng cực lớn bọc kín chiếc máy kéo nông nghiệp lao vụt xuống từ độ cao sáu mét vào đáy khoang. Hành khách đầu tiên lên tàu, Petersen chỉ trông thấy chiếc hòm xanh và chiếc áo khoác màu xám. — Vriens đâu? - Thuyền trưởng hỏi người phục vụ - Tôi mong rằng tôi sẽ không phải lo tới cả việc lên tàu! — Anh ta ở phòng khách trước những cuốn sổ. Đúng thế. Chắc chắn anh ta đau quặn bụng, đầu óc đau đớn nhưng anh ta đang ở vị trí của mình. Anh ta tiếp khách, ghi lại những điều chỉ dẫn trong hộ chiếu của người ấy và chỉ cho người đó một phòng. Hai giờ cuối cùng luôn lộn xộn. Những chiếc xe tải đưa hàng hoá đến chậm. Những chiếc cần trục không thể vận hành nhanh hơn. “Mặc kệ! Ta sẽ bỏ lại ai không lên tàu đúng giờ!" Một sự đe dọa theo truyền thống không làm ai sợ cả. Một nữ hành khách lên tàu, theo sau là một người khuân vác. Cảnh sát thảo luận với Vriens, anh này quên điền một phần vào những bản khai in sẵn. Khi tiếng chuông cảnh báo đầu tiên vang lên, con đường trước mặt con tàu Polarlys thông thoáng. Nhưng khi người ta thả dây chão năm phút sau thì chiếc tàu lớn chở dầu của Anh đang chắn ngang và nó phải thực hiện những thao tác phức tạp. Một chiếc xà lan chạy máy dần dần vững bước tiến lên sát mặt nước chỉ với một thủy thủ tựa vào cần lái và hút tẩu thuốc. Tàu va vào sườn nó. Nửa boong của nó ngập trong nước và thật kỳ diệu là nó có thể tiếp tục chạy giữa những chiếc vỏ đen của các tàu chở hàng dựng lên quanh nó như những bức tường. Trên con sông Elbe là một đám rước. Ba hàng tàu thuỷ đi nối đuôi nhau thành chuỗi trong sương mù ngăn việc phân biệt cái bẫy của tàu trước và những hồi còi dữ dội thi nhau vang lên. Những con tàu chạy nhanh hơn mài miệt vượt lên những chiếc khác. Những thuyền buồm chen lấn nhau và đột nhiên người ta trông thấy cánh buồm mũi của chúng mọc lên cách sống mũi thuyền ít nhất là một sải cáp, khoảng hai trăm mét. — Từ từ... Dừng lại... Lùi lại... Dừng... Từ từ...Một nửa... Dừng... Máy điện báo kêu lách cách và con tàu tiến sang phải sang trái từng đợt trong sương giá. ○○○ Vào bảy giờ, con tàu vẫn ở trên sông và người ta chưa thấy ngọn đèn hiệu ở Cuxhaven báo cho biết đã đến biển. Thuyền trưởng bước xuống từ cầu tàu, để lại thuyền phó cùng với người hoa tiêu ở đó và chuẩn bị cho một việc khổ sai khác: chuẩn bị bữa ăn cho hành khách. Người phục vụ đem theo chiếc cồng đi trong những hành lang, với vẻ năn nỉ, theo kinh nghiệm biết rằng ngày đầu, những hành khách không bao giờ vội vã cả. — Năm suất hả? - Petersen nhận xét. — Một bà và ba ông... Bà đây... Cô ta tiến lên vẻ dễ dãi. Chiếc bót thuốc lá bằng ngọc ở trên môi. Cô ta trang điểm như để ăn tối trên con tàu sang trọng vượt Đại Tây Dương và hầu như khoả thân dưới chiếc áo dài lụa đen. Một con người nhỏ bé lạ lùng, mảnh mai, dễ bị kích động với những cử chỉ lả lơi, bằng những sự khéo léo của thời thượng, tự cho mình là con người nổi bật. Cô ta có mái tóc hoe vàng và cũng óng mượt như tóc một đứa trẻ. Mái tóc được tách ra bằng một đường ngôi giữa, rủ xuống đôi má chỉ với một làn sóng làm nổi bật khuôn mặt bầu dục. Hai đồng tử mắt sẫm màu và để tạo ra sự tương phản mạnh mẽ hơn, lông mi được tô thuốc đen. Miệng mỏng; đôi bầu vú nhô rất cao, rất nhỏ. — Thuyền trưởng? - Cô ta lẩm bẩm với giọng dò hỏi. - Thuyền trưởng Petersen... Ông hầu như không rửa mặt. Mái tóc dày rậm cần phải chải. — Mời bà vui lòng ngồi xuống! Cô ta ngồi với vẻ thong dong, chọn chỗ dễ chịu bên phải thuyền trưởng. Một hành khách khác bước vào, bắt tay Petersen, máy móc thốt lên: — Thời tiết thật tồi tệ!. Đây là Bell Evjen, giám đốc mỏ Kirkenes, hằng năm có chuyến đi Luân Đôn và Berlin và con tàu Polarlys đưa ông đi sớm hơn một tháng. Ông ta thích thú quan sát người phụ nữ trẻ. Một lát sau, một hành khách khác nghiêng mình trước mỗi người, không nói một lời; đây là một gã trai cao lớn đầu cạo trọc, không có lông mi cũng không có lông mày, đeo kính có mắt kính dây đến nỗi đôi mắt anh ta to quá mức. — Hãy dọn ăn đi, anh phục vụ! Sau đó anh gõ cửa hành khách thứ năm... Bởi vì còn một suất ăn chưa có người. Bữa ăn bắt đầu theo mốt Bắc Âu: canh súp nóng mở đầu, tiếp theo là những món nguội, thịt lợn ướp, thức ăn muối, cá hộp, mứt quả và pho mát. — Người ở phòng số mười tám không trả lời. — Hãy nói với sĩ quan thứ ba lo việc đó. Hai lần Petersen trèo lên boong, lo lắng thấy máy đột ngột chạy chậm, vẫn trong tình cảnh sương mù, những tàu chở hàng chạy theo hàng một, những hồi còi inh ỏi, kèn và còi hú. Tại bàn ăn, mọi người yên lặng. Giữa hai món ăn, người phụ nữ trẻ châm một điếu thuốc lá với chiếc bật lửa là một tác phẩm kim hoàn. Petersen cho rằng cô ta là người Đức, cũng như người hành khách đầu cạo trọc. — Chúng tôi sẽ phục vụ các vị cà phê tại phòng hút thuốc! - Cuối cùng ông nói trong lúc đứng lên, theo một công thức mà ông thường nhắc lại từ mười hai năm nay trong mỗi chuyến đi. Ông đang nhồi tẩu thuốc trong hành lang trước buồng mình thì người nữ hành khách qua gần ông và đi vào trong cầu thang thẳng đứng dẫn tới phòng hút thuốc. Trong suốt thời gian cô ta trèo lên, ông nhìn đôi chân cô ta dưới làn lụa đen tạo cảm giác rất thú vị với đôi đầu gối nhỏ nhắn và cả chút ánh da thịt. — Này, ông Vriens hử? Chàng trai liền máy móc đứng theo tư thế của mình. Đôi môi anh ta run lên. Anh đờ người như thể đột nhiên anh rơi vào giữa một thảm kịch. — Không thấy người hành khách ấy. Tuy nhiên hành lý của ông ta còn ở trong buồng ông ta. — Ông ta là ai? — Ernst Ericksen ở Copenhagen. Tôi còn trông thấy ông ta lúc một giờ trước lúc tàu khởi hành! — Người đàn ông mặc áo khoác màu xám với chiếc hòm màu xanh phải không? — Đúng thế! Tôi đã tìm khắp nơi. — Có lẽ ông ta quay lên bờ để mua báo nên lỡ tàu... Vriens và chàng trai đeo kính đã vào buồng họ. Còn lại một mình nữ hành khách ở phòng hút thuốc. Chiếc áo lụa đen xuất hiện trên đầu cầu thang. — Thuyền trưởng... Cô ta tỏ vẻ xúc động, nhưng gắng mỉm cười, hai bàn tay nén giữ nhịp đập của lồng ngực. — Có chuyện gì xảy ra thế? — Tôi không biết... có lẽ tôi sợ. Tôi vừa vào phòng hút thuốc. Tôi thấy bình cà phê ở trên bàn cũng như những chiếc tách và tôi bắt đầu rót cho mình. Đúng lúc ấy, hình như tôi nghe thấy tiếng động đằng sau tôi. Tôi quay lại, trông thấy một người đàn ông mà tôi chưa nhận ra là ai... Tôi tin chắc người đó khiếp sợ bởi vì người đó đứng lên và chạy trốn. — Qua đâu? — Qua cửa này, cửa trông ra boong đi dạo, phải không? — Ông ta mặc áo khoác màu xám phải không? — Xám, vâng. Tôi kêu lên... Tại sao ông ta chạy trốn như vậy? Trong khi cô ta nói, Petersen có cảm giác cô ta nói với Vriens hơn là nói với ông. — Hãy đi xem! - Ông ta ra lệnh cho viên sĩ quan. Người này ngập ngừng rõ rệt, nhất là vào lúc bước qua trước bà khách mà anh ta phải lướt qua để đi ra. — Xin bà hãy bình tâm, thưa bà. Tất cả chuyện này chắc chắn sẽ được lý giải. Cô ta hé cười, bĩu môi làm điệu và nói: — Tôi sẽ ở lại một mình ở phòng hút thuốc ư? — Các bạn bà sẽ sớm lên đây. — Ông không uống cà phê ư, thưa thuyền trưởng? Ông cảm thấy mùi nước hoa của cô ta rất nồng và ông còn cam đoan thấy cả mùi hương của da thịt cô ta toả ra. Một lúc sau trong khi cô ta rót cà phê, ông xoi mói những đường nét của cô ta và khi cô ta quay lại, cô ta thấy mặt ông đỏ lựng, giả vờ bận tâm lôi kéo chiếc cravate của mình. Evjen bước vào. ○○○ Khi Petersen rời phòng hút thuốc rộng lớn chứa được khoảng năm mươi người, thoải mái nhưng tạo cảm giác hơi lạnh vì những đồ gỗ bằng gỗ sồi có màu rất sáng, thì Evjen ngồi ở một góc đang ghi chép những tài liệu buôn bán lấy từ cặp ra. Trong góc đối diện, gã trai đeo kính đọc cuốn Berliner Tagdblau. Ở giữa hai người ấy, người nữ hành khách đã trải lên mặt bàn những quân bài nhỏ và bắt đầu chơi trò phá trận. — Ông vui lòng cho tôi xin tí lửa, được chứ, thưa thuyền trưởng? Ông phải bước lại. Cô ta đưa về phía ông chiếc bót thuốc lá dài, trong lúc cúi xuống không biết làm thế nào mà mắt Petersen nhìn sâu vào chiếc áo ngắn tới chỗ bắt đầu bầu vú. — Cảm ơn... chúng ta tới biển chưa? — Chúng ta đang đến gần Cuxhaven, vâng! Tôi phải lên cầu tàu đây. Nhìn gần, ông nhận thấy như Vriens, cô ta có đôi mi sụp xuống, những nét mệt mỏi của người qua một hay nhiều đêm mất ngủ. Cũng như Vriens, đôi môi cô ta đôi khi bất chợt run lên. Trên cầu tàu, ông gặp viên sĩ quan thứ ba đang tìm ông, nét mặt tiều tuỵ hầu như anh ta đã khóc. — Anh đã tìm thấy ông ta chưa? — Không. Chắc chắn ông ta đang náu mình. Tuy nhiên tôi đã lấy ba người cùng tôi. Nhưng không phải thế... Petersen nhìn anh ta với vẻ hơi tò mò: — Thì sao? — Tôi muốn nói với ông, thưa thuyền trưởng... rằng... rằng tôi hết sức tiếc về... Giọng nói anh ta vỡ ra. Nước mắt dâng lên trong đôi mắt anh ta. — Tôi cam đoan với ông rằng đây là sự ngẫu nhiên.. Tôi chưa bao giờ uống... Đêm nay... tôi không thể giải thích cho ông... Nhưng điều đó làm tôi không thể chịu nổi khi nghĩ rằng ông... — Hết chưa? Mặt anh ta tái nhợt đến nỗi người nói chuyện với anh ta tỏ chút thương hại. — Anh đi ngủ đi! Ngày mai sẽ sao! - Ông nói thêm kém nhẹ nhàng. — Ông nghĩ tôi còn say ư? Tôi xin thề với ông... — Đi đi! Và Petersen, khoác chiếc áo da dê cái, lại gần viên hoa tiêu, trong khi chiếc tàu chở hàng bật đèn xanh lướt theo chiều ngược lại cách có vài mét. — Chưa đến ư? Người đàn ông chỉ bàn tay trái vào màn đêm. — Cuxhaven! - Ông ta làu bàu. Đây là người hoa tiêu ở Elbe, mà dưới đèn tín hiệu của bến này, ông ta phải xuống một chiếc tàu máy nhỏ đang đợi ông ta. Thuyền trưởng mời ông ta rượu trắng truyền thống trong buồng gác trong lúc trao đổi vài câu chuyện bình thường. Ông rót đầy cốc thứ hai thì máy chạy chậm lại, rồi hoàn toàn ngừng hẳn. Người ta sớm nhận ra ánh đèn đom đóm trong sương mù sát mặt nước. Nó hầu như ở xa nhưng chỉ một giây sau, nó chuyển thành chiếc đèn acetylene phân biệt được mọi chi tiết. Lập tức người ta nghe thấy tiếng va chạm vào vỏ tàu, dưới chiếc thang ở cửa tàu. Một cái bắt tay. “Chúc ngủ ngon!" Người phục vụ đã thu dọn gọn gàng phòng ăn. Tại phòng hút thuốc, ba người ngồi cách nhau không quá tám mét, vẫn chưa quen biết nhau mặc dầu Evjen luôn nhìn người đàn bà trẻ. Người hoa tiêu vừa đặt chân xuống tàu đã gọi: — Này! Thuyền trưởng. Có chuyện gì đó cho ông... Ngả người lên tay vịn, Petersen nhìn rõ trong chiếc canot bóng dáng một người đàn ông bất ngờ: một người đàn ông mặc áo choàng, tay cầm một chiếc vali rất to. — Ông muốn nói gì? — Tôi sẽ giải thích cho ông. Người ta phải giúp người đàn ông trèo lên thang. Sau khi lên boong, người này lo lắng nhìn quanh mình. — Cố vấn cảnh sát Von Sternberg! - Ông ta nói - Tôi không thể đi tàu thuỷ tới Hambourg nên tôi phải đi ôtô. Đây là một người đàn ông trạc năm mươi tuổi có bộ râu nhọn và đôi lông mày rậm càng có vẻ lạ lùng với chiếc áo choàng màu mù mờ làm biến dạng bóng dáng ông ta. — Tôi sẽ ăn trong buồng tôi! - Ông ta nói thêm vì con tàu Polarlys lại bắt đầu chạy - Nếu những hành khách hỏi ông... — Tôi có ba hành khách tất cả! — Nếu những hành khách hỏi ông, ông hãy trả lời rằng tôi bị ốm phải nằm tại giường. Ông hãy nói với họ một cái tên khác... Wolt chẳng hạn, Herbert Wolf, thương gia về áo da lông. Tôi sẽ trả tiền chuyến đi. — Ông có công vụ ư? - Petersen hỏi với tâm trạng bực bội tăng lên. - Có người nào trên tàu cần...? — Tôi nói mình là cố vấn cảnh sát khi không phải là thanh tra. — Tuy nhiên... Thuyền trưởng hoàn toàn không phải không biết chức cố vấn cảnh sát ở Đức là một danh vị nổi tiếng mà chức năng không phải là truy đuổi những kẻ bất lương. Nhưng có vấn đề với cảnh sát đủ làm cho ông tỏ vẻ cà khịa. Ông là thuyền trưởng nên ông khẳng định mình là chủ con tàu của mình. — Dẫu sao, ông sẽ làm theo ý ông! - Ông làu bàu - Nếu đó là Ernst Ericksen làm ông quan tâm thì tôi phải nói ngay với ông rằng không bắt được hắn đâu. Mất tích rồi! Hắn ẩn náu có trời mới biết ở đâu, mặc dầu hắn đã mua vé cho chuyến đi và hành lý của hắn còn ở trong buồng hắn. Ông gọi: — Phục vụ viên đâu! Anh hãy đưa ông đây tới một buồng còn trống. Anh sẽ phục vụ ông ấy tại chỗ. Ông Wolf. Rồi quay về phía người đàn ông mặc áo choàng: — Đúng thế, phải không? Ông trực ban vào sáu giờ sáng và lẽ ra ông phải ngủ từ lâu. Ông trở về buồng mình, nằm vào giường, nhưng ông còn chú ý đến những người đi đi lại lại ở hành lang một cách vô ý thức. Vì vậy ông nghe thấy tiếng Evjen và người hành khách trọc đầu vào phòng họ. Qua nửa đêm mà cửa buồng người đàn bà trẻ chưa mở ra. Ông bấm chuông gọi người phục vụ. — Mọi người đã ngủ rồi ư? — Không phải tất cả. Còn người đàn bà... — Cô ta vẫn chơi trò phá trận à? — Xin lỗi! Cô ta dạo chơi trên boong với... — Với ai? — Với ông Vriens. — Anh ta dám cả gan bám riết cô ta ở phòng hút thuốc ư? — Không! Anh ta ở trong buồng mình. Chính cô ta yêu cầu tôi gọi anh ta... Thuyền trưởng nặng nề trở mình trên giường và càu nhàu điều gì đó khó hiểu đối với người phục vụ làm anh này đợi một lúc mới rút lui.