Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Loạn Thế Anh Hùng - Tập 1 (Tiểu Đoạn)

Giữa những thay đổi mang đặc điểm của thời đại, dòng văn học kiếm hiệp của Trung Quốc phải rất vất vả để tìm lại được đinh cao trước kia của mình. Điều đó trông chờ vào rất nhiều các tác giả trẻ vẫn còn giữ được cái tâm đối với nền văn học truyền thống này. Một trong những cây bút nổi bật trong công cuộc phục hưng này chính là Tiểu Đoạn với tác phẩm nổi tiếng của mình "Loạn thế anh hùng".

Có thể nói, chính tác phẩm đầu tay này của Tiểu Đoạn đã mang lại tiếng tăm cho anh, không chỉ chính thức đưa anh trở thành một cái tên đáng chú ý trong giới tác giả tiểu thuyết võ hiệp mới. Không chỉ vậy, tác phẩm còn định hình và giới thiệu phong cách viết của anh tới với công chúng.

Câu chuyện bắt đầu với một bối cảnh "thái bình giả tạo" vào đời Tống. Khi mà tất cả chỉ như một khoảng lặng trước khi bão về. Triều đình thi nhau tô vẽ một nền quốc thái dân an trong khi thực chất là thù trong giặc ngoài, quân Kim nhăm nhe bờ cõi, quan lại thối nát, nhũng nhiêu gây tai ương khiến dân đen khốn khổ. Nhưng như một quy luật thần kì của tạo hóa, loạn lạc sẽ sinh ra những anh hùng cái thế đứng ra giúp dân lành. Đó là Thẩm Phóng nghĩa khí, là Tam Nương Tử dù là phận nữ nhi cũng hiểu lễ nghĩa, thông tường đạo lý với tài trí hơn người. Họ đã cùng nhau kháng Kim cứu nước, mới đích thực là những anh hùng xả thân vì nước vì dân.

Tiểu Đoạn đã xây dựng nên các hình tượng nhân vật với những cá tính rõ rệt, được khắc họa qua các trường đoạn kịch tính hồi hộp và sâu sắc qua từng trang sách. Với bút pháp thuần thục và lôi cuốn người đọc bằng việc mang lại một không gian Trung Hoa cổ vừa tráng lệ vừa hào hùng, Tiểu Đoạn đã viết nên một bản anh hùng ca đáng nhớ trong tác phẩm này. Cuốn sách xứng đáng với bất cứ lời khen tặng nào và chắc chắn sẽ là một tác phẩm mà những bạn trẻ yêu thích văn học võ hiệp không nên bỏ qua.***

Tiểu Đoạn, hay còn gọi là Đoạn tử, tên thật là Đoạn Ngân. Tiểu Đoạn là người đắm chìm trong cô độc, tự cho thế là làm hổ thẹn bố mẹ, nên lấy cái bút danh như trên. Tiểu Đoạn sinh năm 1973, sinh ở Tề Tề Cáp Nhĩ - Hắc Long Giang, quê ở Tùy Châu Hồ Bắc, thỉnh thoảng tạm cư ở Thẩm Quyến, hay đi chu du tứ phương. Tìm mua: Loạn Thế Anh Hùng - Tập 1 TiKi Lazada Shopee

Văn phong của Tiểu Đoạn được mệnh danh là từ thơ hóa thành văn, biểu hiện sự vật ở mức độ nhân tính hóa cao độ. Cách hành văn của Tiểu Đoạn mang phong cách của bậc đại gia, mạch lạc rõ ràng, câu chữ lưu loát trôi chảy, múa bút là như vẽ ra từng đóa hoa, chịu ảnh hưởng thâm sâu của cách hành văn cổ xưa.

Quan niệm sáng tác của Tiểu Đoạn rất cao xa bay bổng, thể hiện ẩn bên trong Tác Phẩm Tập Từ của anh.

Tác phẩm đại biểu của Tiểu Đoạn có Bôi Tuyết (còn gọi là Loạn Thế Anh Hùng truyện), Lạc Dương nữ nhân hành, Trường an cổ ý, Ma đồng, Thạch Lưu ký, Cung Tiêu duyên, Long thành, Khích Trung câu, Tá hồn đăng…***

Năm thứ hai mươi lăm niên hiệu Thiệu Hưng đời vua Cao Tông nhà Nam Tống. Đối với lão bách tính định cư ở đất Mân, đất Cán vùng Giang Chiết mà nói, năm nay vẫn xem như là một năm tương đối yên bình. Chiến loạn hồi những năm mới dời xuống phương Nam(1) đã dần lắng chìm trong ký ức, những thứ khiến lòng người ưu phiền chỉ còn là thuế ruộng, thuế người, hạn hán ngập lụt, sâu bệnh mất mùa, có điều, những thứ này rốt cuộc lại chính là đao cùn hại người, từ từ cho tới lúc quen rồi thì cũng chẳng cảm thấy đau nữa, vừa khéo khiến đám người cai trị cao cao tại thượng an lạc, còn bọn dân đen bên dưới thì ngoan ngoãn phục tùng, cứ thế lại thành ra có chút phong vị của buổi yên ả thời bình. Nghe bảo người Kim ở Hoài Bắc mạn ấy mấy năm nay duệ khí cũng đã giảm, không còn được như trước. Giang hồ mênh mang, trời phân nam - bắc, một đoạn thời gian ấy, phường xu danh hám lợi càng nhiều thêm mà kẻ sĩ bi ca khẳng khái lại thành ra lác đác. Người ta tranh giành nhau, chẳng qua chỉ là trong khoảng sinh nhai hữu hạn, bo bo cái mạng nhỏ của mình, chẳng ai chú ý tới cái gọi là đại kế lập thân báo quốc.

Không sai, đó là loạn thế, đại nạn ở trước mắt. Đến một ngày người Kim vượt sông mà xuống thì sao? Trong chốn triều đình, cung trướng nội loạn xảy ra thì thế nào? Quân thần nghi ngờ lẫn nhau ngày một sâu thì phải làm sao? Tô thuế đến mức tan cửa nát nhà lại ra thế nào? Loạn dân kêu than khắp chốn lại phải làm sao?... Dẫu là ai thì cũng không thể nắm vững được kết quả chính xác. Nhưng cũng chính vì thế, con người ta mới càng vin lấy cảnh phồn hoa thoáng chốc ấy, giống như cảnh ca múa trong lầu ngoài các kia, phong hoa tuyệt thế, đẹp đẽ mỹ diệu, thế nhưng ai cũng biết đó chẳng qua chỉ là một thoáng mỹ cảnh, chẳng ai níu nổi dòng nước đang trôi. Có điều vì một thoáng mỹ cảnh ấy, thật không biết đã có bao nhiêu thiếu niên đa tình, quan lớn vinh hiển, tăng nho danh sĩ, sơn dã cao nhân không tiếc ngàn vàng so giá, ngồi la liệt bên lầu, mong cầu chẳng qua cũng là khoái lạc trong chớp mắt mà thôi... Lại cũng chẳng có ai đi tính toán, xem xem vì một chốc khoái lạc ấy, rốt cuộc đã tốn mất bao nhiêu thời gian, mài đi bao nhiêu tráng chí.

Đây là thời kỳ thái bình giả tạo, khoảng lặng giữa sóng động. Chỉ có triều đình là vẫn còn đang tô vẽ cho cảnh quốc thái dân an thịnh trị, mơ một giấc mộng đẹp rằng bốn bề ngăn nắp ổn yên. Kỳ thực chẳng lẽ chốn đồng ruộng khe hoang toàn là dân lành cả? Không thể tin được... Tới cả trẻ thôn lão xóm cũng rất thích nghe chuyện hiệp khách hồng nhan, mà lại chẳng biết những thăng trầm, hào sảng rung động ấy luôn xảy ra ngay bên cạnh họ...

Ngày hôm ấy, Giang Tô một dải, trên dòng Ngô Giang có một chiếc thuyền nan nho nhỏ đang dập dềnh. Ngô Giang vốn thuộc một nhánh của Thái Hồ, nước trong sóng nhẹ, nhưng mấy năm nay, nhiều bận gặp cảnh vó sắt giẫm đạp, cũng từng mấy phen cả dòng nhuộm đỏ. Từ trên thuyền trông ra, đôi bờ ruộng tốt, cỏ mọc um tùm, nhà dân thưa thớt, trời sầm mưa tới. Người trên thuyền than một tiếng, ngâm: “Bờ kia nếp đã trổ đầy, bờ kia ruộng lúa hây hây căng tràn.(2)” Câu này ở trong Kinh Thi, tỏ ý tiếc thương cái thế phải mất nước. Người trên thuyền nhìn dáng vẻ như kẻ đọc sách, thân hình cao lớn, áo quần đơn giản, sạch sẽ, tuy là một thân ăn vận văn sĩ nhưng lại không thấy cái khí chất nhỏ nhen, kém cỏi. Con thuyền nhỏ men bờ Nam xuôi theo dòng, dọc đường vắng bóng người, chỉ vì gần đây có lưu truyền tin đồn rằng: Nhiều người nói quân Kim kéo xuống phương Nam, chẳng mấy chốc là tới, bởi thế cả chặng đường không một bóng khách buôn. Người trên thuyền không khỏi thở dài một tiếng, kiểu tin đồn này một năm không biết lan truyền bao lần, thật đúng là thần hồn nát thần tính, trông cỏ cây mà cũng ngờ là binh lính. Nguồn cơn của lần đồn thổi này là do gần đây, sứ thần nhà Kim là Bá Nhan tới Lâm An đốc thúc việc triều cống. Lúc ấy nhà Nam Tống giữ mối quan hệ nước chú nước cháu với nhà Kim, hằng năm đều phải tiến cống cho nhà Kim số lượng lớn cống phẩm, ấy vậy mà lần này trong triều đình lại có người khăng khăng cản trở, Bá Nhan nổi giận, lời nói ra ngầm chứa ý uy hiếp, người Nam Tống đa phần thuộc phái sợ đánh, cho nên nhất thời sợ bóng sợ gió, dân chúng chẳng được sống yên ổn.

Người khách nọ ngóng về bờ bắc, bỗng nhìn thấy xa xa có một người một mình cưỡi một con vật, đang thong dong đi trên bờ ruộng. Hai bên cách xa, lại có cây ngăn giữa, con đường ven bờ khi ẩn khi hiện, từ trên thuyền nhìn sang, một người một vật cũng theo đó mà lúc thấy lúc không. Lúc thấy được thì cũng rất mơ hồ, không phân định rõ dáng hình, diện mạo, chỉ cảm thấy người nọ tựa hồ đã hòa thành một thể với con vật cưỡi. Mà điều khiến người ta thấy kỳ quái chính là con vật kia, vừa giống ngựa mà lại không ra ngựa, cao dị thường. Mấy ngày nay âm u mưa gió, con đường nhỏ giữa ruộng hẳn phải bùn lầy lắm, người đi ắt cũng trơn trượt, ấy vậy mà tuyệt không thấy con vật nọ chao đảo, làm kinh động tới người cưỡi chút nào. Con thuyền đi đã lâu, khách trên thuyền cứ thế ngắm một người một vật kia từ đằng xa, chỉ cảm thấy cứ nhìn kiểu này, bọn họ giống như một quầng đen nhàn nhạt, trong cơn mưa phùn miền Giang Nam này, khiến người ta có cảm giác lạ lẫm và trống trải khôn tả.

Ở đuôi thuyền là lão lái thuyền, trời lạnh nhường này vẫn cứ để chân trần mà đứng, đôi mắt đăm đăm nhìn dòng sông, toát lên vẻ bần hàn khó tả. Lúc sắp tới Trường Kiều của Ngô Giang, lão lái mới hỏi: “Quý khách, nghỉ một chút nhé?”

Vị khách gật đầu, lão lái mới chống chèo khỏa nước, vào tới bờ rồi vo gạo nhóm lửa, nấu một bữa cơm. Củi gỗ tùng ẩm ướt, khói bốc mù, lão lái nọ bị hun tới mức nước mắt giàn giụa. Một lúc sau thì thôi không quạt bếp nữa, lại bưng ra một cái hũ nhỏ, bốc ra mấy lát cá muối, chuẩn bị rán chín rồi mời khách dùng cơm.

Cầu Trường Kiều này là nơi thương khách ắt phải đi qua, vốn cũng là một nơi danh thắng nhưng vì nhiều năm binh hỏa, tới nay chỉ còn lại ba, bốn gian nhà ngói, mười mấy chỗ rào đất, cổng vắng chiều về, khiến người ta thấy mà hoài cảm. Văn sĩ bèn hỏi thăm một phụ nữ đang vo gạo bên sông: “Cả ngày nay không có khách nào qua đây sao?”

Người phụ nữ nọ đảo đảo gạo, liếc mắt đánh giá hắn một lượt, lắc đầu nói: “Từ hôm qua tới nay cũng chỉ có một đám sứ thần phương bắc với quan binh triều đình đi hộ tống, định ăn xong cơm, nghỉ chân chút rồi đi tiếp. Lại hiềm nơi này nhỏ, bèn tới tiệm Thất Lý ở thôn đối diện rồi.”

Văn sĩ nọ trông sang bờ bên kia, xa xa tầm hơn hai dặm có một thôn nhỏ, khói bếp đang lên, khoảng cách tuy xa nhưng bởi nơi này là một dải ruộng bằng nên vẫn nhìn thấy rõ. Rồi lại nghe người phụ nữ kia thở dài một tiếng, nói tiếp: “Dù lưu lại đây cũng làm gì có ai dám chiêu đãi? Lần trước mấy nhà ở Triệu Gia Kiều không biết có chỗ nào không chu đáo, đắc tội với thông dịch, bị hắn xúi người Kim, đem già trẻ lớn nhỏ nhà ấy treo lên, đánh chết biết bao người, cũng có ai dám quản đâu? Sống trong thời thế như bây giờ, thật đúng là nghiệp chướng mà!”

Văn sĩ không khỏi trầm mặc, quay đầu nhìn cây cầu, cầu xây bằng đá, lan can đã có mấy chỗ sứt hỏng, trên trụ cầu buộc thuyền lờ mờ viết đầy chữ là chữ, thế bút ngang dọc, dấu mực lâm li. Đọc từ đầu, hóa ra là khúc Thủy Điệu Ca Đầu:

Bình sinh Thái Hồ thượng, đoản trạo kỷ kinh qua, ư kim trùng đáo hà sự? Sầu tỷ thủy vân đa. Nghĩ bả hạp trung trường kiếm, hoán thủ biển chu nhất diệp, quy khứ lão ngư xoa. Ngân ngải phi ngô sự, khâu hác dĩ tha đà. Khoái tân lô, châm mỹ tửu, khởi bi ca: Thái bình sinh trưởng, khởi vị kim nhật thức can quả! Dục tả tam giang tuyết lãng, tịnh tẩy Hồ trần thiên lý, vô vị vãn thiên hà. Hồi thủ vọng tiêu Hán, song lệ trụy thanh ba.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Tiểu Đoạn":Loạn Thế Anh Hùng - Tập 1Loạn Thế Anh Hùng - Tập 2Loạn Thế Anh Hùng - Tập 3Trường An Cổ Ý Tập 1Tuyển Vĩnh Đao

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Loạn Thế Anh Hùng - Tập 1 PDF của tác giả Tiểu Đoạn nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Chân Trời Cũ (Hồ Dzếnh)
TỰ SỰ CỦA TÁC GIẢ Tập truyện này ra đời, tính năm đã được bốn. Nó ra đời và mang lại ngay cho tác giả một kết quả mầu nhiệm: hầu hết những nhân vật của cuốn sách đã “lên đường” về… chân trời cũ: chú Nhì, người anh Cả, thằng cháu đích tôn, chị đỏ Đương, cô em Dìn, và vài nhân vật phụ: bà mẹ ghẻ, em bé Thi. Mấy người sau này, hiện còn sống, nhưng tuổi già, sức khỏe và hoàn cảnh đã giục họ nghĩ đến cái giờ - để mượn một tiếng chuyên môn của Thiên Chúa giáo - giờ “sinh thì”: bà mẹ già thân yêu, người chị dâu Trung Quốc, ông anh Hai phóng lãng và… tác giả tập sách này. Một người nữa, tuy không cùng họ đương, dòng giống, nhưng quan hệ mật thiết với tác giả về phương diện cảm tình, một linh hồn Việt Nam tế nhị, một nghệ sĩ trang trọng mà đơn sơ, hiện thân của tình yêu đất nước - nhà văn rất thuần túy, rất nhân đạo, Thạch Lam - người bạn đã đáng tiếc từ trần một tháng sau ngày tập đoản thiên này được xuất bản. Và một người nữa, vẫn góp mặt trong thế giới hữu hình, một tình yêu cố hữu đi sóng đôi với ân nghĩa anh em đã hy sinh chút ít tiền của để cho in lần thứ nhất cuốn sách này, dầu biết rằng nó “không chạy như các món quà giải trí khác”. Thêm một người nữa, mà định mệnh đã chọn hộ cho con đường chồng vợ theo luật cõi đòi, người con gái có đôi mắt đẹp như thơ, có quê hương mơ màng và xanh biếc, có tấm lòng thắm dịu, mở rộng như trang sách ái tình… Tìm mua: Chân Trời Cũ TiKi Lazada Shopee Tên hai người trên đây, không viết ra vì nhiều lẽ, và cái lẽ chính đáng nhất vẫn là niềm yên lặng đầy tiếng nói thầm. Và còn những tâm hồn xa xôi và đẹp đẽ, những thương nhớ giải rộng như không gian, những tên có màu xanh hay lòng có nước mắt, sống giữa đô thành hay dưới trời thôn dã, những vương vấn ảo huyền mà chỉ nhà văn mới có toàn quyền đặc hưởng. Ròng rã trong bốn năm, sống cái đời cô đơn và tịch mịch trong đó thoáng dệt đôi lúc những bóng nắng, hình mây, tôi đã nghĩ rất nhiều đến bao nhiêu linh hồn bạn mà hơi thở hòa vào hơi thở tôi, làm vui buồn những tư tưởng phù hoa do người đời mệnh danh là Nghệ thuật. Bốn năm! Hương sắc chưa mờ, từ ngày reo than lần đầu tiên những tiếng lòng ngây dại. Nước non, trong quãng thời gian đó, từng rung cảm những lớp Phế, Hưng, để ngày nay đi về một Mùa Xuân Trọng Đại. Dưới bóng thiều quang của một năm ghi bằng nét vàng vào lịch sử cách mệnh người dân Việt, tôi dám tin tưởng rằng tập sách này tái sinh sẽ nói hộ lòng tôi được nhiều lắm. Bằng tình cảm, bằng tôn giáo, bằng tinh thần vĩnh viễn phương Đông, xứ Á châu quê hương của chúng ta, trong đó nổi lên hàng trên Việt Nam và Trung Quốc, sẽ tiến triển một cách mạnh mẽ hơn hết bao giờ. Và Nghệ thuật sẽ làm vinh hiển đời sống rồi đây sắp trở lại tươi tốt với loài người. Bạn ạ, tôi là kẻ ít tin nhất rằng loài người đẻ ra đã sẵn cái tài trong óc. Cho nên, được mang danh là nhà văn, tôi thấy thẹn thùng biết mấy! Do những tình cờ của hoàn cảnh, xô xát với cõi đời, chúng ta, để gắng nói ra những nỗi lòng u kín, đã nghiêng về cuộc sống bên trong. Nhưng trên cả Tình và Tài, trên những vinh hạnh chói lòa nhiều khi rất không chân thật, một điểm sáng lấp lánh tự ngàn thu, một Triều Thiên mà thế kỷ nào cũng ước ao, thèm khát, đó là Tấm Lòng. Nhà thi sĩ Nguyễn Du đã nói, và câu của thi sĩ có thể dùng để kết thúc bài tự sự nhỏ này: “Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI.” Hà Nội, tháng Bảy năm 1946 HỒ DZẾNH*** GIỚI THIỆU Ông Hồ Dzếnh, tác giả tập sách này, là một người Minh hương. Cái trường hợp ấy đáng kể vì ông là một nhà văn. Những chuyện ông kể cho ta biết toàn là những chuyện về gia đình ông, gia đình của những người Trung Hoa nhẫn nại và chịu khó sang lập nghiệp ở bên này. Một người cha lầm lì, suốt ngày không nói, một người mẹ Việt Nam vào hạng những đàn bà Việt Nam đã làm nên đất nước này, người đàn bà chỉ biết có chịu khó về chồng con, không bao giờ một lời phàn nàn hay oán hận, mà cái ước mong sung sướng nhất là cứ được hy sinh mãi. Và một vài người con, một vài nàng dâu, - trong số đó có một nàng dâu Trung Hoa - cùng lập thành cái gia đình mà số phận hình như bắt buộc phải buồn rầu. Sau khi người cha qua đời, thì cái thời sung túc, đoàn tụ cũng mất đi. Dấu vết không còn lại gì. Và hình ảnh con ngựa trắng đủ yên cương trên cánh đồng cỏ xanh nổi lên như vang bóng của thuở nào. Điều mà ta nhận thấy ở ông Hồ Dzếnh, cũng là một điều gần giống ở bà mẹ ông, nghĩa là cái sức chịu đựng đau khổ. Tác giả đã đau khổ trong cuộc sống: và chúng ta nhận thấy ông ưa thích quay về dĩ vãng, để lại khiến những đau khổ cũ trở dậy và thêm sắc mắc hơn nữa. Cho nên những chuyện ông kể cho chúng ta nghe đều có một màu sắc riêng, đều nhuộm một tiếc hận thấm thía. Ông chỉ kể những chuyện ấy thôi, nhưng mà đủ có mực thước để khỏi thành ra phô phang, và cũng đủ rung động để độc giả cảm thấy sự thành thực, sự “đã sống” của những chuyện đó. Những nhân vật ông trình bày đều linh động cả. Mỗi người đều có một bản ngã riêng, và chúng ta nhận thấy - tình cờ hay là số mệnh? - người nào cũng mang một tâm hồn đau khổ. Người mẹ, người con cả, người con thứ, cho đến cô Yên, cái cô gái nuôi đặc biệt Việt Nam, vẫn sống trong một gia đình không phải của mình, để mà chịu đựng bao nhiêu vất vả bất công, tuy có được người mẹ nuôi biết thương đến. Cái đời sống tối tăm và lặng lẽ ấy không đi đến đâu cả, và tác giả để chúng ta thấy thoáng qua số phận một dân số nghèo khó ở các tỉnh đông đúc hay nghèo nàn, cuộc sinh hoạt khó khăn trên những đồng ruộng bạc màu. Đấy là cả những điều mà chúng ta sẽ thấy khi lần giở trang quyển sách này. Tác giả đã khéo xếp đặt, cho độc giả thấy cả cái dĩ vãng của một gia đình Việt-Hoa. Chúng ta thấy tác giả đã ít nói đến mình, để làm trội những nhân vật khác lên, tuy rằng lúc nào tác giả cũng là vai chủ động trong các truyện. Mà nói về dĩ vãng là một sự khó khăn, khi những điều ta ngẫm nghĩ chưa có đủ thì giờ lắng xuống và thêm bền chặt. Tuy vậy, ông Hồ Dzếnh đã vượt qua nỗi khó khăn đó một cách đáng vinh hạnh cho tài ông. Tôi không nói rằng tác phẩm này không có khuyết điểm, nhưng tác giả còn trẻ và tài năng của ông còn hứa hẹn cho chúng ta nhiều. THẠCH LAM (trong Tự Lực Văn Đoàn)*** HỒ DZẾNH (1916-1991) tên thật là Hà Triệu Anh hay Hà Anh, sinh tại làng Đông Bích huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa. cha ông là người gốc Quảng Đông, còn mẹ là người Việt. Ông là một nhà văn nổi tiếng ở Việt Nam từ thời tiền chiến. *** “Vẳng nghe tiếng ếch bên tai, Giật mình còn ngỡ tiếng ai gọi đò…” Ngày nhỏ, mỗi lần chán chúng bạn, tôi vẫn hay lại bên mẹ tôi, cầu khẩn người kể lại sự cưới xin giữa người và ba tôi, rồi để tôi đem thuật lại với hàng xóm. Tôi còn nhớ nơi mẹ tôi ngồi kể chuyện là một cái hè bằng đất nện trước nhà. Tự đó, tôi vừa nghe chuyện, vừa nhìn ánh nắng chiều nghiêng xế, và những bóng lá lung linh. Có khi đương giữa câu chuyện, tôi véo má mẹ tôi mà hỏi: - Đố mẹ biết bao giờ đến Tết? Đố mẹ biết con được bao nhiêu tiền phong bao? Mẹ tôi khẽ gỡ tay tôi ra, lặng lẽ nói tiếp, và lặng lẽ ru tôi ngủ mất lúc nào! Tuy nhiên, trong giấc mơ kỳ dị, tôi vẫn hình dung được cả đám cưới, chú rể là ba tôi, cô dâu là mẹ tôi và… tôi là người dự lễ! Dần dần tôi lớn lên. Qua mẩu đời sum họp của hai người sinh ra tôi, tôi nhận thấy một định mệnh khe khắt, một duyên phận tăm tối và buồn rầu. Vì thế, tôi được sự thật cho biết rằng phần nhiều, hay tất cả cũng được, những bà mẹ Việt Nam - tôi nói những bà mẹ đáng là mẹ - đều phải đau khổ ngay từ lúc lọt lòng. Mọi sự do “Trời” định, các tâm hồn đó chỉ biết vâng theo, một cách nhẫn nhục, một cách lặng lẽ, một cách chua xót vô cùng! Bao nhiêu thế kỷ rồi, những tiếng thở dài mất tăm trong đêm tối, những mái đầu bù rối nghiêng xuống bổn phận hằng ngày, tầm thường và nhỏ mọn. Cuộc hôn nhân của mẹ tôi, đến nay, tôi mới thấm thía được hết cái đơn giản, mới biết suy ngẫm trước sự lễ nghi của nó. Và đến ngày nay, tôi mới hiểu mẹ tôi hơn lúc nào hết, người con gái lái đò trên sông Ghép ngày xưa, người mẹ Việt Nam một cách dịu dàng và cao trọng… * * * Cách đây hơn năm mươi năm. Một buổi chiều mùa hè vàng rực. Trên bờ sông Ghép lặng lẽ của tỉnh Thanh Hóa, dân làng Ngọc Giáp bỗng thấy mọc lên bóng một người ngoại quốc, tay xách một gói vải xanh thay va li, và đầu chụp chiếc mũ rơm đã vàng ỏng. Người khách lạ có chiếc trán rất lạ: nó nhỏ nhưng nhô ra một cách bướng bỉnh. Nhất là đôi mắt, sắc như dao, bén như nước, nhìn vật gì thì như hút lấy vật ấy. Hai cái đặc điểm đó nhất định không được tạo bằng thủy thổ Việt Nam, mà là bằng tinh hoa của một dân tộc khác. Một vẻ gì xương xương, rắn rắn độn khắp mình người khách, biến cái thân thể thoạt trông thì gầy kia ra sự chịu đựng khó nhọc, ở đấy, một nghị lực bền vững tiềm tàng. Khách mặc một bộ quần áo bằng lĩnh Quảng Đông, nguyên màu đen, nhưng sau khi trải nhiều phong trần, đã đổi sang màu xám kệch. Y phục ấy gợi được trong lòng người gặp, bao nhiêu là cảm giác thanh thú, hương vị xa xôi. Từ đằng xa, những gợn lụa phơ phất như những gợn gió trùng dương, và khi lại gần thì gió trùng dương lại chỉ toàn xông lên một mùi cá mặn! Linh hồn Trung Quốc phát lộ ra trong từng bước đi, điệu đứng, trong sự trầm mặc, trông tìm, trong cả cách đưa năm đầu ngón tay có móng dài vẩn ghét lên gãi sồn sột chiếc đầu gần như húi trọc tếch. Đêm về trong những bước nhẹ, hắt hiu bốc hơi lên mặt sông. Nắng tắt dần dần chỉ còn ánh vàng pha sắc tím. Hoàng hôn ở đây không như hoàng hôn của Giang Tây, Hồ Bắc, hoàng hôn ở đây ưu hoài như một chinh phụ nhớ chồng. Và như một gã giang hồ chạnh lòng khóc nước. Tuy nhiên, đôi mắt trong và sáng kia không hề vẩn bởi màu sắc thê lương, vẫn quắc lên nhìn những đợt sóng nhuyễn nhàng bò quanh mấy con thuyền ngái ngủ. Cử chỉ lạnh lẽo đó thật là trái hẳn với cảnh sông nước buồn rầu, cái cảnh tầm thường nhưng đã làm chuyển dời bao nhiêu cuộc đời ngang dọc. Khách ngồi xuống vệ cỏ, không để ngắm cảnh chiều tang tóc, mà để tháo cái gói vải từ bao lâu vẫn đeo ở tay, lấy trong đó ra một gói cơm nắm. Rồi không dao, không đũa, khách bẻ ngoắt nửa nắm cơm, đưa lên miệng, trong khi mấy ngón tay lần gỡ từng miếng cá khô. Đôi lúc khách ngừng nhai, chép miệng cho thấm xuống đáy lòng cái hương vị đậm đà của bữa cơm lưu lạc. Chỉ sau mười phút, không còn một miếng cơm, một khúc cá nào sót lại trên mảnh lá chuối héo. Tất cả lương thực đã ngọt ngào trôi qua cổ họng, đảo lộn trong cái dạ dày vô bệnh, để biến thành những dòng máu hùng cường luân lưu nuôi mạch sống, và nuôi lớn mãi cái chí nguyện giang hồ.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chân Trời Cũ PDF của tác giả Hồ Dzếnh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Cha Con Nghĩa Nặng (Hồ Biểu Chánh)
Hồ Biểu Chánh Hồ Biểu Chánh (1884-1958), tên thiệt là Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ Tiên; là một nhà văn tiên phong của miền Nam Việt Nam ở đầu thế kỷ 20. Ông sanh năm 1884 (trong giấy khai sanh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc ấp Thành Nhất, xã Bình Xuân, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tìm mua: Cha Con Nghĩa Nặng TiKi Lazada Shopee Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chánh phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chánh phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 73 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhứt, phường 11 quận Gò Vấp. Khi viết văn, ông lấy tên tự ghép với họ là Hồ Biểu Chánh, trở thành một bút danh bất hủ, được nhiều người biết đến và quý mến hơn tên thiệt Hồ Văn Trung của ông. Ông sáng tác văn học rất nhiều và để lợi hơn 100 tác phẩm gồm tiểu thuyết và các thể loại khác, như: nghiên cứu, phê bình văn học, sáng tác tuồng hát cùng các bổn dịch văn học cổ điển Trung Quốc như Tình sử, Kim cổ kỳ quan... đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại. Tiểu thuyết của ông thuộc về thời kỳ đầu của văn học chữ quốc ngữ, cốt truyện đơn giản, triết lý chủ đạo là thiện thắng ác, ở hiền gặp lành, điểm đặc biệt là rất Nam Kỳ, từ giọng văn đến miêu tả con người. Ông có phóng tác một số tiểu thuyết Pháp. Hồ Biểu Chánh sở trường về viết văn xuôi tự sự. Đề tài phần lớn là cuộc sống Nam Kỳ từ nông thôn đến thành thị những năm đầu thế kỷ 20 với những xáo trộn xã hội do cuộc đấu tranh giữa mới và cũ. Cách diễn đạt của ông nôm na, bình dị. Ông đã có những đóng góp to lớn vào sự hình thành thể loại tiểu thuyết trên chặng đường phôi thai. Ông để lại một khối lượng sáng tác không nhỏ: 64 tiểu thuyết, 12 tập truyện ngắn và truyện kể, 12 vở hài kịch và ca kịch, 5 tập thơ và truyện thơ, 8 tập ký, 28 tập khảo cứu-phê bình. Ngoài ra, còn có các bài diễn thuyết và 2 tác phẩm dịch.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Hồ Biểu Chánh":Chúa Tàu Kim QuyTại TôiĐỗ Nương Nương Báo OánHai Thà Cưới VợHai Khối TìnhKẻ Làm Người ChịuChị Đào, Chị LýNợ ĐờiHạnh Phúc Lối NàoAi Làm ĐượcÝ Và TìnhCười GượngVợ Già Chồng TrẻTỉnh MộngĐóa Hoa TànLời Thề Trước MiễuLòng Dạ Ðàn BàMẹ Ghẻ Con GhẻVì Nghĩa Vì TìnhCon Nhà GiàuCon Nhà NghèoTơ Hồng Vương VấnSống Thác Với TìnhĐoạn TìnhĂn Theo Thuở, Ở Theo ThờiTiền Bạc Bạc TiềnÔng CửTừ HônThiệt Giả Giả ThiệtNgười Thất ChíÁi Tình MiếuCay Đắng Mùi ĐờiCha Con Nghĩa NặngNam Cực Tinh HuyNặng Gánh Cang ThườngChút Phận Linh ĐinhBức Thư Hối HậnCư KỉnhLạc Đường - Hồ Biểu ChánhNgọn Cỏ Gió ĐùaNợ Tình - Hồ Biểu ChánhTân Phong Nữ SĩThầy Chung Trúng SốThầy Thông NgônĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cha Con Nghĩa Nặng PDF của tác giả Hồ Biểu Chánh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Cha Con Nghĩa Nặng (Hồ Biểu Chánh)
Hồ Biểu Chánh Hồ Biểu Chánh (1884-1958), tên thiệt là Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ Tiên; là một nhà văn tiên phong của miền Nam Việt Nam ở đầu thế kỷ 20. Ông sanh năm 1884 (trong giấy khai sanh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc ấp Thành Nhất, xã Bình Xuân, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tìm mua: Cha Con Nghĩa Nặng TiKi Lazada Shopee Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chánh phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chánh phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 73 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhứt, phường 11 quận Gò Vấp. Khi viết văn, ông lấy tên tự ghép với họ là Hồ Biểu Chánh, trở thành một bút danh bất hủ, được nhiều người biết đến và quý mến hơn tên thiệt Hồ Văn Trung của ông. Ông sáng tác văn học rất nhiều và để lợi hơn 100 tác phẩm gồm tiểu thuyết và các thể loại khác, như: nghiên cứu, phê bình văn học, sáng tác tuồng hát cùng các bổn dịch văn học cổ điển Trung Quốc như Tình sử, Kim cổ kỳ quan... đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại. Tiểu thuyết của ông thuộc về thời kỳ đầu của văn học chữ quốc ngữ, cốt truyện đơn giản, triết lý chủ đạo là thiện thắng ác, ở hiền gặp lành, điểm đặc biệt là rất Nam Kỳ, từ giọng văn đến miêu tả con người. Ông có phóng tác một số tiểu thuyết Pháp. Hồ Biểu Chánh sở trường về viết văn xuôi tự sự. Đề tài phần lớn là cuộc sống Nam Kỳ từ nông thôn đến thành thị những năm đầu thế kỷ 20 với những xáo trộn xã hội do cuộc đấu tranh giữa mới và cũ. Cách diễn đạt của ông nôm na, bình dị. Ông đã có những đóng góp to lớn vào sự hình thành thể loại tiểu thuyết trên chặng đường phôi thai. Ông để lại một khối lượng sáng tác không nhỏ: 64 tiểu thuyết, 12 tập truyện ngắn và truyện kể, 12 vở hài kịch và ca kịch, 5 tập thơ và truyện thơ, 8 tập ký, 28 tập khảo cứu-phê bình. Ngoài ra, còn có các bài diễn thuyết và 2 tác phẩm dịch.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Hồ Biểu Chánh":Chúa Tàu Kim QuyTại TôiĐỗ Nương Nương Báo OánHai Thà Cưới VợHai Khối TìnhKẻ Làm Người ChịuChị Đào, Chị LýNợ ĐờiHạnh Phúc Lối NàoAi Làm ĐượcÝ Và TìnhCười GượngVợ Già Chồng TrẻTỉnh MộngĐóa Hoa TànLời Thề Trước MiễuLòng Dạ Ðàn BàMẹ Ghẻ Con GhẻVì Nghĩa Vì TìnhCon Nhà GiàuCon Nhà NghèoTơ Hồng Vương VấnSống Thác Với TìnhĐoạn TìnhĂn Theo Thuở, Ở Theo ThờiTiền Bạc Bạc TiềnÔng CửTừ HônThiệt Giả Giả ThiệtNgười Thất ChíÁi Tình MiếuCay Đắng Mùi ĐờiCha Con Nghĩa NặngNam Cực Tinh HuyNặng Gánh Cang ThườngChút Phận Linh ĐinhBức Thư Hối HậnCư KỉnhLạc Đường - Hồ Biểu ChánhNgọn Cỏ Gió ĐùaNợ Tình - Hồ Biểu ChánhTân Phong Nữ SĩThầy Chung Trúng SốThầy Thông NgônĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cha Con Nghĩa Nặng PDF của tác giả Hồ Biểu Chánh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Cay Đắng Mùi Đời (Hồ Biểu Chánh)
Tiểu thuyết Cay Đắng Mùi Đời của ông bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Đó là sự tha hóa của con người trước sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới...*** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tìm mua: Cay Đắng Mùi Đời TiKi Lazada Shopee Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Hồ Biểu Chánh":Chúa Tàu Kim QuyTại TôiĐỗ Nương Nương Báo OánHai Thà Cưới VợHai Khối TìnhKẻ Làm Người ChịuChị Đào, Chị LýNợ ĐờiHạnh Phúc Lối NàoAi Làm ĐượcÝ Và TìnhCười GượngVợ Già Chồng TrẻTỉnh MộngĐóa Hoa TànLời Thề Trước MiễuLòng Dạ Ðàn BàMẹ Ghẻ Con GhẻVì Nghĩa Vì TìnhCon Nhà GiàuCon Nhà NghèoTơ Hồng Vương VấnSống Thác Với TìnhĐoạn TìnhĂn Theo Thuở, Ở Theo ThờiTiền Bạc Bạc TiềnÔng CửTừ HônThiệt Giả Giả ThiệtNgười Thất ChíÁi Tình MiếuCay Đắng Mùi ĐờiCha Con Nghĩa NặngNam Cực Tinh HuyNặng Gánh Cang ThườngChút Phận Linh ĐinhBức Thư Hối HậnCư KỉnhLạc Đường - Hồ Biểu ChánhNgọn Cỏ Gió ĐùaNợ Tình - Hồ Biểu ChánhTân Phong Nữ SĩThầy Chung Trúng SốThầy Thông NgônĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cay Đắng Mùi Đời PDF của tác giả Hồ Biểu Chánh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.