Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Từ Một Buổi Chiều

Uyên ngồi thu gọn trên giường, cằm chống lên cánh tay tì trên cửa sổ, nhìn trời đang mưa. Trận mưa dai dẳng kéo dài suốt hai tiếng đồng hồ vẫn chưa chịu dứt hẳn! Ý định ra phố của Uyên đành hoãn lại vì cho dù trời có quang tạnh, Uyên cũng rất ngại ngùng khi phải đặt chân xuống những vũng nước trống chẳng có thẩm mỹ tí nào. Trận mưa đầu mùa đối với Uyên thật dễ thương vì dù sao nó cũng xa vắng Uyên bẵng đi hàng mấy tháng trời. Những buổi chiều thanh thản như hôm nay, Uyên thích ngồi thu mình ở một góc giường nhìn những giọt nước mưa trắng xóa rớt đều trên mặt đường tạo thành một âm thanh nghe ray rứt, nhức buốt tim gan. Mặt đường bóng loáng như vừa được tắm gội sạch sẽ. Chỉ có từ đầu con hẻm vào đây - đoạn đường khoảng mười lăm thước - là trông bẩn thỉu, lụt lội một cách thảm hại. Người dễ tính đến đâu đi chăng nữa cũng phải bực mình. Cũng may nhà Uyên chỉ cách mặt đường có mười lăm thước. Giá mà ở tít trong cùng hẻm thì thật không còn gì khổ bằng. Tiếng lội nước bì bõm của vài người trong hẻm đi ra khiến Uyên liên tưởng đến âm thanh quái đản của một cuốn phim kinh dị mà đã có một lần Uyên được xem. Trẻ con trong xóm bắt đầu túa ra nghịch ngợm trên vũng nước đục ngầu bẩn thỉu mà Uyên vẫn thường gọi đùa la "piscine công cộng". Thế giới hồn nhiên của tuổi ấu thơ! Chúng chưa có đủ trí khôn để ý thức được rằng thế nào là vệ sinh. Mùi cống rãnh xông lên làm Uyên khó chịu. Uyên đưa tay hất nhẹ những sợi tóc phủ xòa trước mặt ra đằng sau; thật vô tình, Uyên nhìn thấy vẻ đẹp của mình trong gương chiếc tủ dựng sát tường, ngay đầu giường Uyên. Uyên nổi tiếng là đẹp nhất trường. Chức "hoa khôi" mà bạn bè đặt cho Uyên quả không ngoa chút nào. Uyên sung sướng và thầm hãnh diện mỗi khi được ai ca tụng vẻ đẹp của mình. Mái tóc cắt ngắn hợp với khuôn mặt trái xoan, đôi mắt bồ câu tròn đen láy, sống mũi cao, đôi môi xinh xắn, đỏ mịn, tất cả hợp lại tạo cho Uyên một nét đẹp tự nhiên, lộng lẫy. Có thể nói rằng Uyên là một đứa con gái sung sướng nhất, hạnh phúc nhất trên đời. Vừa đẹp, vừa học giỏi lại được sinh ra trong một gia đình khá giả. Duy chỉ có một điều khiến Uyên buồn và cảm thấy mình chưa hoàn toàn hạnh phúc đó là Uyên không có anh chị em chi cả. Bố mẹ chỉ có độc nhất một mình Uyên vì thế Uyên được chiều chuộng hết mực, muốn gì được nấy. Nhưng tất cả đối với Uyên đều trở nên vô nghĩa. Uyên không ham thích bất cứ một thứ gì ngoài một ước muốn duy nhất: Uyên cũng có đông em như tất cả những đứa bạn cùng lớp. Ước muốn thật tầm thường nhưng đối với gia đình Uyên đó là cả một vấn đề. Bố mẹ Uyên khổ tâm không ít mỗi khi Uyên nhắc đến chuyện này. Nhưng biết làm sao hơn khi số trời đã định cho gia đình Uyên như vậy. Căn nhà không lấy gì làm to tát nhưng Uyên có cảm tưởng nó rộng lớn vô cùng. Nhất là những buổi như hôm nay. Bố Uyên thì ngày nào cũng như ngày nấy, đi làm từ sáng sớm và mãi đến chiều tối mới về. Hàng ngày chỉ có hai mẹ con ở nhà, nếu buồn, Uyên lân la đến gần mẹ, gợi hết chuyện này sang chuyện khác để căn nhà bớt lặng lẽ hơn. Thỉnh thoảng có một hôm mẹ đi vắng - như hôm nay chẳng hạn - Uyên không biết làm gì hơn là ngồi ủ rũ, nghe cô đơn về vây hãm. Mẹ Uyên có việc phải về nhà bác Uyên ở Bảo lộc từ sáng sớm. Hình như hôm nay là ngày giỗ bà ngoại Uyên thì phải. Còn lại một mình ở nhà, Uyên cảm thấy buồn và lo sợ phập phồng bởi cái không khí vắng vẻ trong nhà. Uyên định khoác áo thả bộ ra phố, đi chơi cho khuây khỏa, định bụng đến giờ tan sở Uyên mới trở về. Nhưng chưa kịp thực hành ý định thì trời đổ mưa như trút nước, Uyên đành ngồi bó gối trên giường nhìn trời vu vơ. Trời tạnh hẳn sau một trận mưa dài gần ba tiếng. Uyên nhìn đồng hồ: đã bốn giờ hơn. Thế là sắp hết một buổi chiều. Uyên uể oải đứng dậy, quơ chân tìm đôi dép dưới gầm giường, bước xuống nhà. Uyên đứng ở chân thang gác, phân vân không biết phải làm gì để giết nốt thì giờ còn lại. Cuối cùng Uyên bước trở ra phòng khách, ôm cây đàn guitar vào lòng, vừa đàn vừa hát những bản nhạc sinh hoạt của phong trào du ca. "Hy vọng đã vươn lên.trong màn đêm." Tiếng hát của Uyên hòa nhịp với tiếng đàn thật hùng hồn, lôi cuốn như đang thúc bách mọi người cùng vùng dậy khai phá, xây dựng lại quê hương đổ nát, điêu tàn. Uyên hát thật hăng say như chính Uyên đang châm những ngọn lửa soi đường trong lòng dân chúng. Uyên hát quên mệt như chính Uyên đang tham dự công tác của đoàn thanh niên sinh viên học sinh Nguồn sống. Trẻ con trong xóm nghe Uyên hát, ngưng đùa nghịch, bu quanh cửa sổ cất tiếng hát theo. Uyên vui lây với cái không khí nhộn nhịp bất ngờ đó. Tiếng đàn vừa dứt cùng lúc có tiếng gõ cửa, Uyên hỏi vọng ra: - Ai đó? - Ngy đây! Nghe tiếng đáp, Uyên mừng quýnh, quăng vội cây đàn trên lòng salon, chạy ra mở cửa cho Ngy. - Hèn gì trời mưa to! Ngy ngạc nhiên: - Hử? Uyên cười: - Hôm nay mày đến nhà tao thành thử trời mưa to quá. Ngy đập vào vai bạn: - Con quỉ! Làm gì mà nhộn thế? - Buồn quá lôi đàn ra gãy chơi!… Vào nhà đã nào. Ngy theo Uyên bước vào: - Tao tưởng mày đang sinh hoạt chứ! Uyên thu dọn báo chí trên bàn: - Ừ mà cũng đang sinh hoạt thật. - Sinh hoạt với ai? - Lũ trẻ con trong xóm. Ngy mỉm cười, ngó dáo dác: - Bác gái đâu rồi? - Mẹ tao có việc về Bảo lộc từ sáng sớm. - Hèn gì mà nhà cửa vắng quá. - Tao "hãi" nhất cái không khí này. Định đi chơi thì trời mưa. - Cũng may! - May cái gì? - Nhờ trời mưa to tao mới gặp mày! Cả hai cùng cười. Ngy là bạn cùng lớp thân nhất của Uyên. Bạn bè gọi Ngy là "cây gạo" vì Ngy rất siêng học, ít đi chơi; khi nào có việc gì cần lắm mới thấy Ngy xách xe ra đường. Trong lớp Ngy, Uyên và Diễm Hương là ba đứa học trò giỏi nhất nên được thầy cô cưng không thể tưởng. Chỉ còn không đầy một tháng nữa là đến hè. Năm nay không phải là năm thi nên trông các cô có vẻ thảnh thơi chứ không bận rộn, hồi hộp như các đàn chị. Sang năm Ngy và Uyên thi Tú Tài I nên cả hai đang dự định xin phép gia đình cho đi chơi một chuyến thật xa trong dịp hè này cho thỏa chí. Mùa hè này là cơ hội đi chơi lần cuối đối với Uyên vì kể từ năm tới, cả hai sẽ thi cử liên miên, không có năm nào là năm không phải thi cả. Uyên đang dự định rủ Ngy lên Đà lạt vì thành phố này vẫn có tiếng là đẹp, mộng mơ và là nơi dừng chân lý tưởng nhất của du khách. Thành phố Đà lạt không có gì xa lạ đối với Uyên nhưng Uyên vẫn thích đặt chân đến vì Uyên yêu nó kinh khủng và hình như nó có một sức lôi cuốn Uyên mà Uyên không thể cưỡng lại được. - Nghĩ gì đấy Uyên? - Tao đang nghĩ đến thành phố Đà lạt. - Mày sốt ruột lắm hả? - Ừ! Ba tuần nữa đâu có là bao mày nhỉ! - Thoáng cái đến ngay. - Mày xin phép hai bác chưa? - Rồi!… Mày định bao giờ đỉ - Khoảng đầu tháng bảy. - Lãnh thưởng xong chuẩn bị đi liền? - Ừ! À mà Ngy này! Mày nhắc tao mới nhớ. Hôm nào phát thưởng? - Mười tám tháng sáu. - Chắc chắn không? - Chắc! - Ai bảo mày thế? - Cô Nguyệt. - Mày đến nhà cô Nguyệt? - Ừ! - Có xem điểm cho tao không? - Khỏi nói. Tao đến cộng điểm dùm cô mà! Uyên nôn nóng: - Toàn niên tao hạng mấy? Ngy trêu Uyên: - Từ từ! Đi đâu mà gấp vậy? Uyên nhăn nhó: - Con quỉ! Nói mau đi. Tao đang hồi hộp gần chết đây này. Ngy hắng giọng: - Khoan! Tao chưa nói vì mày chưa làm tròn bổn phận. Uyên cáu sườn hỏi gắt: - Bổn phận gì? - Bổn phận tiếp khách. Uyên suy nghĩ khoảng nửa phút: - À, ừ quên mất! Xin lỗi nghe! Nói xong Uyên chạy vào nhà pha nước, một lát sau Uyên trở ra với hai ly sirop cam trên tay. Uyên hỏi: - Mãi nói chuyện tao quên mất. Mày đến tao có việc gì không? Ngy cầm thìa khoắng ly nước: - Thiện chí! Uyên chăm chú: - Nói đi! - Ở nhà cô Nguyệt về, ghé qua mày báo tin vui. - Tin gì? - Năm nay tao với mày lại đồng hạng. Uyên mừng quá, vỗ tay đôm đốp: - Hạng nhất hả? - Ừ! Uyên nhìn Ngy, ánh mắt thật vui: - Tao vui quá Ngy ơi! Ngy đáp: - Tao cũng vậy! Điều mà Uyên vẫn hằng trông đợi đã đến như ý muốn của Uyên. Nếu kết quả không đúng như lời Ngy nói thì không còn gì để mà buồn hơn. Chẳng những một mình Uyên buồn mà cả bố mẹ cũng buồn không ít, vì từ lâu bố mẹ vẫn hằng mong muốn Uyên phải là một đứa học trò giỏi nhất lớp, không thua một ai cả. Có những tháng Uyên đứng thứ hai - sau Ngy - đem phiếu điểm về trình bố mẹ ký, Uyên buồn và lo kinh khủng! Nhưng bố không mắng Uyên và cũng chẳng tỏ vẻ buồn phiền gì mà bố chỉ khuyến khích Uyên tháng sau nên cố gắng hơn tí nữa thôi. Những lần như vậy Uyên buồn lắm nhưng biết sao hơn khi sức học của Uyên chỉ đến ngần ấy trong khi Ngy cũng là một học trò xuất sắc, thông minh không kém gì Uyên. Tuy vậy, chưa bao giờ Uyên và Ngy tỏ vẻ ganh ghét lẫn nhau. Những tháng Uyên đứng nhất, Ngy cũng buồn vô cùng nhưng không phải vì thế mà tình bạn hai đứa sứt mẻ. Uyên có cảm tưởng hình như có đôi lúc Uyên đã nhường Ngy và ngược lại Ngy cũng vậy. Trong lớp, ai cũng nghĩ rằng Uyên và Ngy chỉ đối với nhau bằng một tình bạn giả tạo ngoài mặt chứ thật ra trong lòng cả hai đang ganh ghét lẫn nhau. Uyên cũng không buồn lên tiếng cãi chính bởi vì có nói chắc cũng chẳng ai tin, cứ im lặng là hơn hết. Chính Ngy cũng đã có lần nói cho Uyên nghe như vậy và cả hai tự nhủ "ai muốn nói gì thì nói, miễn mình đối xử với nhau thành thật và thương mến nhau thật lòng thì thôi". Chuông đồng hồ điểm sáu tiếng. Ngy uống cạn ly nước, đứng dậy: - Thôi! Tao về. Uyên giữ bạn: - Ở chơi tí nữa đã. - Không được! Tao xin phép mẹ tao đi đến 6:15 thôi. - Bây giờ mới có 6:00 giờ. - Ừ! Mới có 6 giờ! Mười lăm phút từ đây về nhà là vừa đúng. - Con khỉ! Uyên tiễn bạn ra cửa. Ngy đùa: - Trời mưa đến nhà mày tao có cảm tưởng như là đi vào con đường lên "thiên thai". Uyên cười: - Ừ! Chỉ có mỗi con hẻm là kém thẩm mỹ. Ngy tiếp: - Người đẹp thường hay ngự trị ở những xóm bùn lầy nước đọng như thế này. Uyên bẽn lẽn: - Tao mà đẹp khỉ gì? Ngy nguýt: - Thôi đi cô. Ngy đạp máy xe, trước khi đi còn quay lại nói một câu: - Mai nhớ cài thêm cái nơ trên đầu cho nó nổi nghe. - Để làm gì vậy? - Lãnh bảng danh dự mà! Uyên cười, nhìn theo bóng bạn cho đến khi chiếc xe mất hút ngoài đường cái. Sau khi khóa cửa cẩn thận, Uyên quay vào thu dọn ly tách và xuống bếp lo cơm nước buổi chiều. Hôm nay chỉ có hai bố con ở nhà, bố đề nghị dắt Uyên vào Chợ Lớn ăn cơm Tàu nhưng Uyên từ chối vì Uyên muốn chính tay Uyên nấu cho bố ăn. Uyên để ý thấy bố thích ăn món canh chua cá lóc; vì thế hôm nay Uyên nhất định trổ tài nấu món này thật ngon để bố khen Uyên rối rít mới được. Lúi húi dưới bếp đến gần nửa tiếng, Uyên mới làm xong món cá, sau khi đặt nồi canh lên bếp, Uyên rửa tay sạch sẽ và bước trở lên nhà. Nhìn đồng hồ, Uyên giật mình thầm hỏi: "Sao hôm nay bố lại về trễ vậy kìa?" Thường thì mọi hôm bố về khoảng 6:20, hôm nào trễ lắm là 6:25. Bây giờ gần 7 giờ rồi mà vẫn chưa thấy bố về! "Hay là có chuyện gì?" Uyên vội vàng xua đuổi những ý nghĩ không hay ra khỏi đầu và mở TV xem để quên đi những nỗi lo sợ đang ám ảnh Uyên. Thời gian vẫn nặng nề trôi. Kim đồng hồ càng di chuyển thì nỗi lo sợ càng đến với Uyên thật dồn dập. Nóng lòng không chịu được, Uyên tắt TV ra đứng tựa cửa ngóng bố. Uyên sống trong sự hồi hộp đó đến hai mươi phút mới thấy bóng bố xuất hiện ở đầu hẻm. Uyên mừng muốn khóc nhưng niềm vui chợt tắt khi Uyên thấy khuôn mặt bố buồn thật buồn và Uyên linh cảm hình như có chuyện gì không may đến với bố. Trống ngực Uyên đập thình thịch, bố nhìn Uyên, Uyên nhìn bố. Tự dưng Uyên câm nín, không thể nói hoặc hỏi bố được một lời. Bố dìu Uyên vào nhà, đặt Uyên ngồi trong lòng salon rồi bố ngồi xuống cạnh Uyên. Bố vẫn lặng thinh, ôm đầu Uyên áp vào ngực bố; nước mắt Uyên ứa ra, không hiểu Uyên khóc vì lo sợ hay khóc vì sung sướng khi được bố vuốt ve, thương yêu!? Mãi đến mấy phút sau, Uyên mới mở miệng hỏi bố được một câu: - Có chuyện gì vậy bố? Bố không trả lời câu hỏi của Uyên mà bố chỉ kêu lên: - Con! Uyên giật mình, đôi mắt mở tròn nhìn bố: - Bố! Chuyện gì vậy bố? Sao bố buồn vậy bố? Uyên nhìn thấy đôi mắt bố đỏ ngầu như sắp khóc. Phải nuốt nước bọt đến đôi ba lần, bố mới nói lên tiếng, giọng nghẹn ngào: - Mẹ con, chết rồi! - Mẹ!? Uyên chỉ kịp hét lên một tiếng ngắn ngủi rồi ngất đi trong lòng bố. Mời các bạn đón đọc Từ Một Buổi Chiều của tác giả Nguyễn Sỹ Nguyên.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thư Gửi Người Đàn Bà Không Quen Biết
Hồi André Maurois mất, cuối năm 1967, thọ 82 tuổi, một bạn đồng viện của ông khen ông đại ý như sau: “André Maurois phân biệt ba hạng tác phẩm: trác tuyệt, lớn và hữu ích. Không một tác phẩm nào của ông vào hàng trác tuyệt nhưng toàn thể tác phẩm của ông quả là trác tuyệt”. Toàn thể tác phẩm đó khoảng trăm cuốn, gồm gần đủ các loại: truyện dài, truyện ngắn, sử, tiểu sử, phê bình, khảo luận, tùy bú cuốn nào cũng hữu ích và năm sáu cuốn phải kể là lớn. Tiểu sử của ông mà tôi đã chép trong cuốn Các cuộc đời ngoại hạng đáng làm mẫu mực: cần cù, liêm khiết, chân chính. Sáu mươi năm cầm bút, có lúc dạy học, diễn thuyết; tám mươi tuổi vẫn đều đều mỗi ngày ngồi vào bàn viết cả buổi sáng; vừa viết xong tập Hồi kí, thì vào dưỡng đường trị bệnh ruột và nửa tháng sau tắt nghỉ. Ông nổi tiếng là nhà luân lí có khuynh hướng tình cảm, lãnh nhiệm vụ hướng dẫn thanh niên trong thời đại nhiều biến chuyển nhất của Pháp (từ Thế chiến thứ nhất tới nay), và ông đã được ba thể hệ trẻ tin cậy, coi như bậc thầy. Sự nghiệp trác tuyệt của ông ở đó. Đầu năm 1968, chúng tôi đã giới thiệu với độc giả tập Thư ngỏ gởi tuổi đôi mưoi ông viết hồi tám chục tuổi; hôm nay xin giới thiệu thêm cuốn Thư gởi Người đàn bà không quen biết viết hồi bảy chục tuổi. “Người đàn bà không quen biết” mà ông tưởng tượng là một thiếu phụ khoảng ba mươi, đẹp, thông minh, có óc phán đoán, suy xét, thực ra tượng trưng tất cả những phụ nữ thắc mắc về đời sống. Liên tiếp trong sáu chục tuần, ông viết cho họ mỗi tuần một bức thư từ hai tới bốn trang. Trong sáu chục bức thư đó, ông giải đáp tất cả những câu họ có thể hỏi ông về những nỗi vui, buồn và ưu tư của họ, về ái tình, hôn nhân, hạnh phúc, nghề nghiệp, về tâm lí đàn ông, tâm lí đàn bà, về y phục, nhan sắc, cách lấy lòng người, cách xử trí khi chồng có ngoại tình, về quyền lợi và bổn phận của đàn bà, như dạy con, chiều chuộng Ồng lại chỉ cho họ cách bồi dưỡng tinh thần và trí tuệ: đọc sách ra sao, tiêu khiển ra sao. Đôi khi ông cao hứng, nhân một lúc vui hay một lúc bực mình, giới thiệu một tác phẩm, một khúc nhạc, một cảnh đẹp hoặc mạt sát bọn giết thì giờ của ông, mỉa mai bọn làm áp phe, suốt đời chỉ lo kiếm tiền. Tóm lại, ông gặp chuyện gì nói chuyện đó, không sắp đặt trước, lan man y như trong một cuộc đàm thoại. Triết lí của ông, cũng như trong cuốn Thư ngỏ gởi tuổi đôi mưoi là một triết lí lạc quan, khoan hòa, thực tế mà chân chính. Giọng của ông nghiêm trang, thanh nhã mà thân mật, dí dỏm, không ra vẻ dạy đời. Ông già tâm lí, giàu kinh nghiệm; đọc ông ta thấy thích hơn là đọc tác phẩm khô khan của các triết gia, thích hơn cả là những trang tuy sâu sắc, nhưng cô đọng gần như châm ngôn của Alain, sư phụ của ông nữa. Vì ông gần chúng ta hơn. Nhưng muốn hưởng hết cái thú thì mỗi tối ta chỉ nên coi một bức thư thôi. Đọc chầm chậm, vừa suy nghĩ thì mất độ mười lăm phút, mưòi lăm phút đó đáng kể nhất trong mỗi ngày của ta vì ta được hiểu đời hơn, hiểu ta hơn và được đàm đạo vói một danh sĩ bậc nhất của Pháp. *** Dịch giả: Nguyễn Hiến Lê LỜI ĐẦU André Maurois (1885 - 1967) là nhà văn lớn Pháp, tên thật là Emile Herzog. Viện sĩ trong Viện Hàn lâm Pháp. Ông xuất thân trong một gia đình công nghiệp ở Alsaca. Khi còn ở ghế nhà trường ông là một cao đệ của giáo sư kiêm triết gia Alaine (1868 - 1951), tốt nghiệp Đại học, ông làm giáo sư triết học. Một thời gian sau ông từ chức về quản lí nhà máy dệt của gia đình và bắt đầu viết từ đó. Trong thế chiến thứ nhất (1914 - 1918) , ông làm thông dịch viên trong quân đội Hoàng gia Anh, chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939 - 1945), ông sống ở Anh quốc và Hoa Kỳ. André Maurois chuyên về tiểu thuyết, luận văn, sử, phê bình, khảo luận, tùy bút... Với hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại mà có người cho "toàn thể tác phẩm của ông quả là trác tuyệt" đã được các thế hệ trẻ ngưỡng mộ, tin cậy và xem ông như bậc thầy. Ông viết tập "Thư gởi người đàn bà không quen biết" (Lettres à l'Inconnue) này khi ông đã ngoài bảy mươi tuổi gởi lại cho lớp đến sau, giúp họ có một vốn sống nho nhỏ trong cuộc sống. Hồi André Maurois mất, cuối năm 1967, thọ 82 tuổi, một bạn đồng viện của ông khen ông đại ý như sau : "André Maurois phân biệt ba hạng tác phẩm : trác tuyệt, lớn và hữu ích. Không một tác phẩm nào của ông vào hàng trác tuyệt nhưng toàn thể tác phẩm của ông quả là trác tuyệt". Ông nổi tiếng là nhà luân lí có khuynh hướng tình cảm, lãnh nhiệm vụ hướng dẫn thanh niên trong thời đại nhiều biến chuyển nhất của Pháp (từ Thế chiến thứ nhất tới nay), và ông đã được ba thế hệ trẻ tin cậy, coi như bậc thầy. Sự nghiệp trác tuyệt của ông ở đó. "Người đàn bà không quen biết" mà ông tưởng tượng là một thiếu phụ khoảng ba mươi, đẹp, thông minh, có óc phán đoán, suy xét, thực ra tượng trưng tất cả những phụ nữ thắc mắc về đời sống. Liên tiếp trong sáu chục tuần, ông viết cho họ mỗi tuần một bức thư từ hai tới bốn trang. Trong sáu chục bức thư đó, ông giải đáp tất cả những câu họ có thể hỏi ông về những nỗi vui, buồn và ưu tư của họ, về ái tình, hôn nhân, hạnh phúc, nghề nghiệp, về tâm lí đàn ông, tâm lí đàn bà, về y phục, nhan sắc, cách lấy lòng người, cách xử trí khi chồng có ngoại tình, về quyền lợi và bổn phận của đàn bà, như dạy con, chiều chuộng v.v... Ông lại chỉ cho họ cách bồi dưỡng tinh thần và trí tuệ : đọc sách ra sao, tiêu khiển ra sao. Đôi khi ông cao hứng, nhân một lúc vui hay một lúc bực mình, giới thiệu một tác phẩm, một khúc nhạc, một cảnh đẹp hoặc mạt sát bọn giết thì giờ của ông, mỉa mai bọn làm áp phe, suốt đời chỉ lo kiếm tiền... Tóm lại, ông gặp chuyện gì nói chuyện đó, không sắp đặt trước, lan man y như trong một cuộc đàm thoại. Triết lý của ông là một triết lý lạc quan, khoan hoà, thực tế mà chân chính. Giọng của ông nghiêm trang, thanh nhã mà thân mật, dí dỏm không ra vẻ dạy đời. Ông già tâm lí, giàu kinh nghiệm ; đọc ông ta thấy thích hơn là đọc tác phẩm khô khan của các triết gia, thích hơn cả là những trang tuy sâu sắc, nhưng cô đọng gần như châm ngôn của Alain, sư phụ của ông nữa. Vì ông gần chúng ta hơn.   Tựa (của tác giả) Có cô mà không có cô. Khi một ông bạn nhờ tôi viết mỗi tuần một bức thư cho cô thì tôi thích thú tưởng tượng ra cô. Tôi tạo ra cô : hoàn toàn về óc phán đoán cũng như về nét mặt. Tôi chắc chắn cô sẽ từ cõi mộng tưởng của tôi xuất hiện thành một người thực, rồi đọc thư tôi, đáp tôi, nói với tôi tất cả những lời mà một nhà văn muốn nghe. Ngay từ buổi đầu tôi đã cho cô một hình thể rõ rệt, hình thể một thiếu phụ rất đẹp mà tôi thấy trong một hí viện. Không phải trên sân khấu mà ở trong rạp. Các ông bạn ngồi cạnh tôi không biết thiếu phụ đó là ai. Từ lúc đó cô có một cặp mắt, một làn môi, một giọng nói, một thân thể, mà vẫn là Người đàn bà không quen biết, có thể mới phải phép. Với bức thư đáng ra và tôi nhận được của nó những hồi âm mà tôi đã mong đợi. Tiếng "cô" ở đây là tiếng tập hợp, chỉ số nhiều. Các cô là cả một đám phụ nữ không quen biết, cô này ngây thơ, cô kia hay gây gỗ, cô thứ ba kì cục va hay nhạo báng. Tôi đã muốn thư từ qua lại với các cô, nhưng rồi thôi. Muốn viết cho hết thảy thì không nên viết cho từng người một. Cô trách tôi thận trọng, giữ cái cương vị một luân lí gia tình cảm. Làm sao được ? Người đàn ông nào kiên nhẫn nhất thì cũng chỉ trung tín với một người đàn bà không quen biết khi người này cho thấy mặt. Mérimée sớm biết được người đàn bà không quen biết của ông ta tên là Jenny Dacquin và ông được ngay cô ta cho phép hôn chân, chân cô ta rất đẹp. Một thần tượng phải có chân và những bộ phận khác nữa. Nếu không thì người ta sẽ chán một nữ thần vô hình. Tôi đã hứa đóng cái trò này thật lâu, chán mới thôi. Sau sáu chục tuần lễ, tôi xin đổi đề tài và được chấp nhận. Tuyệt giao trong tưởng tượng thì không khó khăn gì cả và tôi giữ được của cô một kỉ niệm không vết. Vĩnh biệt. ANDRÉ MAUROIS   Mời các bạn đón đọc Thư Gửi Người Đàn Bà Không Quen Biết của tác giả André Maurois.
Khúc Nhạc Mê Ly
Nguyên tác: The Kreutzer Sonata Bản dịch của: Trần Văn Điền Dịch theo bản Anh Ngữ của Aylmer Maude   Nhưng ta nói cho các ngươi hay: ai nhìn một người đàn bà mà động lòng ao ước, đều ngoại tình trong tư tưởng rồi vậy. (Matt. V, 28) Hôm ấy là ngày đầu xuân, cuộc hành trình của chúng tôi buốc sang ngày thứ hai. Những hành khách đi những nơi gần, lên lên xuống xuống, chỉ có ba người và tôi là đi suốt chuyến xe lửa. Một người đàn bà không còn trẻ, miệng ngậm điếu thuốc, nét mặt băn khoăn, mặc chiếc áo choàng kiểu đàn ông, đầu đội nón. Một ông tuổi trạc tứ tuần, bạn của bà này, nói năng luôn miệng, mặc bộ đồ mới trông thật chỉnh tề. Người thứ ba là một người đàn ông hơi lùn, sống vẻ biệt lập. Ông ta chưa già, nhưng mái tóc quăn đã sớm bạc màu. Cử chỉ đường đột. Đôi mắt sáng có những tia nhìn thật nhanh. Ông ta mặc một chiếc áo choàng cũ, cổ lông cừu may rất khéo, và đội một chiếc nón cao cũng bằng lông. Khi cởi cúc áo choàng, người ta mới thấy ông mặc chiếc "vét" kiểu Nga không tay và áo Sơ mi thêu. Một đặc điểm nữa là ông ta hay hắng giọng, phát ra tiếng kêu cụt ngủn như tiếng cười bị tắt ngấm trong cổ họng. Suốt cuộc hành trình ông ta giữ thái độ tránh né, không muốn làm quen hoặc tiếp xúc với các hành khách khác. Mỗi khi có ai ngồi bên gợi chuyện, ông ta chỉ trả lời vắn tắt. Ngoài ra, ông thường đọc sách, hút thuốc, mắt nhìn về phía cửa sổ, hoặc uống trà hoặc móc trong bị ra một món gì để ăn. Tôi thấy dường như con người này đang âm thầm chịu đựng một nếp sống cô độc ghê gớm. Nhiều lần tôi cố gắng bắt chuyện với ông. Nhưng mỗi khi cặp mắt chúng tôi đụng nhau - điều này rất hay xảy ra vì tôi ngồi đối diện với ông ta - thì ông ta lại quay đi, nhìn ra cửa sổ hoặc nâng cuốn sách lên đọc. Đến tối ngày thứ hai, khi xe lửa ngừng lại ở một ga lớn, ông ta đi kiếm nước sôi pha trà. Người đàn ông ăn vận chỉnh tề - về sau tôi mới biết là luật sư - và người đàn bà hút thuốc mặc chiếc áo choàng kiểu đàn ông cùng xuống phòng giải khát uống trà. Trong lúc họ vắng mặt, nhiều hành khách mới lên xe, trong số đó có một cụ già, không để râu, người cao ráo đúng là một thương gia. Ông ta mặc chiếc áo lông chồn và đội chiếc nón vải rộng lòng. Lão thương gia ngồi xuống một chiếc ghế đối diện với chỗ người đàn bà và ông luật sư, rồi bắt đầu chuyện trò ngay với người thanh niên đi theo. Vẻ bên ngoài cho đoán thấy người thanh niên này là thư ký của một thương gia nào đó. Tôi ngồi ở dẫy ghế phía bên kia. Đang khi xe lửa còn đậu, không một ai qua lại giữa chúng tôi, tôi đã nghe được những mẩu chuyện của họ trao đổi nhau. Lão thương gia nói mình về thăm một cơ sở chỉ cách đây có một ga. Rồi, như thường lệ, câu chuyện xoay qua công việc buôn bán, giá cả hàng hóa. Họ bán đến tình trạng kinh tế ở Mốt Cu (Moscou), đến buổi hội chợ Nizhni Novgorog. Người thư ký kể chuyện một thương gia giầu có, cả hai đều quen biết, đã tổ chức cuộc vui chơi tại hội chợ. Cụ già liền gạt đi, thuật lại cho hắn nghe về những buổi chè chén say sưa mình đã tham dự hồi xưa tại hội chợ Kunavin. lão tỏ vẻ hãnh diện rõ rệt về đoạn đời thác loạn lão đã sống. Lão thích thú kể lại lão và mấy người bạn, trong số đó có cả người thương gia họ vừa nói tới, đã tổ chức ăn uống nhậu nhẹt tại Kanuvin và đã chơi những trò bí mật đến nỗi lão phải nói nhỏ vào tai cậu thanh niên. cậu này thích thú cười rộ lên, khiến lão già cũng cười theo, để lộ hai chiếc răng vàng kê(ch. tiếng cười của họ vang dội cả toa xe. Tôi bực bội đứng dậy định xuống sân ga đi đi lại lại chờ xe lửa khởi hành. Ra tới cửa, tôi gặp vị luật sư và người đàn bà đi tới, đang chuyện trò với nhau. Thấy tôi, người luật sư vui vẻ lên tiếng: - Không còn giờ đâu. Xe lửa đi bây giờ! Thật vậy, tôi chưa đi hết một vòng sân ga thì nghe chuông rung báo hiệu giờ khởi hành. Khi tôi trở lại, người đàn bà và vị luật sư vẫn còn đang mải mê nói chuyện. Lão thương gia ngồi đối diện, lặng lẽ nhìn thẳng trước mặt, thỉnh thoảng lẩm bẩm trong miệng tỏ vẻ khó chịu. Khi đi ngang qua vị luật sư, tôi nghe ông ta nói: - Rồi bà ta bảo thẳng vào mặt chồng mình không thể và cũng không muốn sống với hắn ta nữa vì... Vị luật sư còn tiếp tục nói nhưng tôi không nghe rõ. Nhiều hành khách khác lên xe. Người soát vé đi qua. Một bác khuân vác vội vã lên theo. Tiếng ồn ào khiến tôi không còn nghe được câu chuyện của họ nữa. Một lúc sau, bầu không khí trở lại yên tịnh, câu chuyện của họ dça4 quay sang những nhận xét chung quanh, không còn đề cập tới những trường hợp riêng lẻ nữa. Vị luật sư nói bên Âu Châu dân chúng đang bàn tán sôi nổi về vấn đề "ly dị", và ở Nga, những trường hợp ly dị xảy ra mỗi ngày một nhiều. Thấy chỉ có mình mình nói, người luật sư ngừng ngang rồi tươi cười quay sang cụ già: - Ngày xưa, đâu có những chuyện như vậy phải không cụ? Cụ già toan trả lời thì xe lửa chuyển bánh. Cụ liền bỏ nón xuống, làm dầu thánh giá và thì thầm đọc kinh. Vị luật sư lễ phép quay đi, chờ đợi. Đọc kinh xong, cụ già làm dấu thánh giá ba lần, đội nón lại ngay ngắn, sửa lại cách ngồi rồi lên tiếng: - Ngày xưa cũng có chứ, nhưng ít hơn thôi. Ngày nay những chuyện như thế bắt buộc phải xảy ra. Dân chúng bây giờ được giáo dục nhiều quá mà. Xe lửa chạy mỗi lúc một nhanh hơn, lắc lư trên đường rầy khiến tôi nghe không được phải ngồi xích lại gần hơn. Người đàn ông đặc biệt có đôi mắt sáng, ngồi đối diện tôi cũng chăm chú theo dõi cuộc đối thoại. Người đàn bà mỉm cười hỏi lại: - Giáo dục có hại gì? Ngày xưa cô dâu chú rể đến ngày cưới mới thấy mặt nhau. Lấy nhau như thế thì làm sao hay hơn bây giờ được! Bà ta nói tiếp, theo dòng tư tưởng của riêng mình, không cần trả lời đúng câu hỏi người đối thoại như thói quen của phần đông các bà. - Họ cười bất cứ ai, chẳng cần biết mình có yêu được hay không để rồi phải khốn khổ suốt đời. Như thế mà cụ cho là hay được sao? Rõ ràng là bà ta muốn nói với tôi và nhất là với vị luật sư, chứ không phải với cụ già, kẻ đối thoại với mình. Lão thương gia khinh khỉnh nhìn người đàn bà, không trả lời gì thêm, chỉ lặp lại câu nói: - Họ được giáo dục nhiều quá mà! Vị luật sư mỉm cười góp ý: - Xin cụ giải thích cho biết giáo dục có liên quan gì với mối bất hòa giữa vợ chồng? Lão thương gia định nói, nhưng người đàn bà ngắt ngang: - Không, cái thời đó đã qua rồi! Vị luật sư can: - Phải, nhưng xin bà để cho cụ phát biểu ý kiến đã! Lão thương gia lên tiếng giọng cương quyết: - Bao nhiêu chuyện điên rồ đều do giáo dục mà ra cả. Người đàn bà quay nhìn vị luật sư, nhìn tôi, nhìn cả chàng thư ký đã đứng dậy, đang tựa lưng ghế chăm chú theo dõi cuộc đối thoại, rồi bà vội nói: - Họ bắt những người không yêu nhau phải cưới nhau rồi ngạc nhiên khi thấy chúng nó sống lủng củng với nhau. Chỉ có loài vật mới để cho chủ ghép đôi như thế. Con người không thế! Con người còn những xu hướng, những quyến luyến riêng của mình. Giọng người đàn bà gay gắt như muốn trêu tức lão thương gia. Ông này phản ứng: - Bà không nên nói như vậy. Loài vật là loài vật, nhưng loài người có luật lệ riêng. Người đàn bà vội đưa ra lý lẽ mà bà ta cho là mới mẻ: - Phải, nhưng làm thế nào sống được với một người mình không yêu? Lão thương gia trả lời: - Ngày xưa người ta đâu có nêu vấn đề đó ra! Bây giờ con người mới thắc mắc đủ thứ. Hơi một chút là họ nói: "Tôi không thèm sống với anh nữa!" Cái mốt đó lan tới cả đám dân quê. Cô nàng bảo chồng: " Đây, quần áo anh đây! Tôi nhất định đi theo người đàn ông đó. Đầu hắn có mái tóc quăn đẹp hơn anh." Như vậy, theo ý tôi, việc đầu tiên đòi hỏi nơi người đàn bà là phải biết sợ. Ý kiến bà thế nào? Chàng thư ký liếc nhìn vị luật sư, nhìn người đàn bà, rồi nhìn tôi. Dường như hắn muốn chờ phản ứng của chúng tôi để có thái độ thuận theo hoặc phản đối ý kiến lão thương gia. Người đàn bà hỏi vặn lại: - Sợ cái gì mới được chứ? - Sợ chồng! *** “Bá tước” Lev Nikolayevich Tolstoy sinh ngày 9 tháng 9 năm 1828 tại điền trang Yasnaya Polyana thuộc tỉnh Tula. Yasnaya Polyana là nơi Tolstoy khởi đầu sự sống của mình, là nơi khơi nguồn sáng tạo nghệ thuật, là nơi chứng kiến những tìm tòi, những biến chuyển trong nghệ thuật cũng như trong những tư tưởng triết lý, đạo đức của ông, và đó cũng là nơi mà vào đêm 28 tháng 10 năm 1910 ông đã chạy trốn khỏi, từ bỏ tất cả: gia đình, tài sản... để đi trên con tàu vô định đến cái chết khi đã ở tuổi 82 với tên tuổi đã nổi tiếng trên thế giới. Tác phẩm tiêu biểu Dịch thuật Một chuyến đi đầy xúc cảm qua Pháp và Ý Bút ký Những mẩu chuyện Sevastopol Một người cần bao nhiêu ruộng đất ? Tôn giáo của tôi Vương quốc của Chúa là ở bên trong bạn Tóm tắt Phúc âm   Truyện ngắn Bản sonata Kreytser (bản in năm 1901) Một lịch sử của ngày hôm qua (1851) Lucerne (1857) Ba cái chết Kholstomer Một cuộc xưng tội Hadji Murat Cái chết của Ivan Ilyich Đức cha Sergy (1898)   Tiểu thuyết Thời thơ ấu (1852) Thời niên thiếu (1855) Thời thanh niên (1856) Người Kazak (1963) Chiến tranh và Hòa bình (1865) Anna Karenina (1877) Con người sống bằng gì (1881) Bản sonata Kreytser (1889) Phục sinh (1899) Mời các bạn đón đọc Khúc Nhạc Mê Ly của tác giả Leo Tolstoy & Trần Văn Điền (dịch).
Chuyện Kinh Thánh
Giới thiệu tác phẩm này của minh, nữ văn hào Pearl Buck viết: “Có thể đọc Kinh thánh, cả Cựu ước lẫn Tân ước, theo nhiều cách. Đối với một số người, Kinh thánh lập thành những lời giảng dạy thiêng liêng. Đối với một số người khác, Kinh thánh là tác phẩm văn chương thuần khiết nhất mà chúng ta có trong ngôn ngữ nước nhà. Đối với một số người khác nữa, Kinh thánh là một bản tóm tắt sự hiểu biết về bản chất con người trong khổ đau, phấn đấu và hân hoan.” Thật thế, Kinh thánh là một công trình thần hứng, vượt ra ngoài khuôn khổ của một tôn giáo và một dân tộc. Cuộc hành trình của dân Do Thái tiêu biểu cho cuộc hành trình của loài người. Các nhân vật Kinh thánh in đậm dấu vết con người muôn hình muôn vẻ và muôn đời. Đây là bộ sách đầy minh triết, làm gia tăng cảm quan đạo đức và không kém phần thi vị. Đây cũng là sự mạc khải thầm lặng và say đắm về cuộc phấn đấu của con người, cả nam lẫn nữ, trong nỗ lực tìm kiếm cội nguồn của mình và nguyên ủy của sự sống và sự chết. Trong cuộc lữ hành đó, con người bắt gặp đấng tối cao chân chính, độc nhất, nhân từ và chung thủy, đồng thời nhận ra rằng mọi người đều là anh chị em nhau. Con người phơi phới đến với thượng đế trong yêu thương, tuân phục và thờ phượng, đồng thời sống làm một với người bên cạnh trong bác ái và phục vụ. Kinh thánh gồm Cựu ước và Tân ước, tập thành rải rác trong hơn một ngàn năm. Cựu ước gồm nhiều tập sách được ghi lại bắt đầu từ thời Đa-vít, khoảng năm 1.000, và kết thúc khoảng năm 200 trước Công nguyên. Tân ước được ghi lại trong thế kỷ thứ nhất của Công nguyên. Xuyên suốt Kinh thánh là một thông điệp đức tin, nổi bật lên lời giao ước của thượng đế cho con người. Một lời giao ước xuất hiện đầy nghiêm khắc trong Cựu ước và được kiện toàn một cách đầy thương yêu trong Tân ước. Từ hàng ngàn trang cổ văn gồm các luật lệ, ca nguyện, sự tích và lời giảng, Pearl Buck tuyển ra những nhân vật, những sự kiện tiêu biểu và kể lại theo cách của bà, thành bảy mươi hai câu chuyện, bắt đầu từ sáng thế cho tới khi Đức Ki-tô lên trời. Đây là một tác phẩm công khó trong nhiều năm và được xuất bản lần đầu vào năm 1971, đánh dấu năm bà tám mươi tuổi. Tuy cuốn Chuyện Kinh thánh không phản ánh hết được toàn bộ Kinh thánh, cũng không thể thay thế cho Kinh thánh, nhưng theo nhận xét của nhiều người trong giới thẩm quyền giảng huấn tôn giáo và phê bình văn học thì đây là một thành tựu lớn lao của Pearl Buck. Tác phẩm cô đọng sự kết tập cả hai truyền thống đông và tây, cả văn học lẫn tôn giáo. Thân phụ bà là một nhà truyền giáo tại Trung Hoa và cũng là một học giả tinh thông tiếng Híp-ri và Hy Lạp. Ông hầu như chỉ tín nhiệm vào hai bản Kinh thánh Qui điển Híp-ri và Hi Lạp. Bản thân bà, lúc trẻ từng kết hôn với một nhà truyền giáo. Bà trải qua thời niên thiếu tại Trung Hoa và sau đó, quay lại giảng dạy ở Đại học Nam Kinh. Bà khởi đầu văn nghiệp và thành danh qua các tác phẩm lấy bối cảnh và nhân vật Trung Hoa nửa đầu thế kỷ hai mươi. Bà thường xuyên tiếp cận với lối sống đạo và kinh sách của nhiều tôn giáo tại Ấn Độ, Trung Hoa; và Kitô giáo cũng được bà nhìn như một tôn giáo phương đông. Bên cạnh đó, bà là một văn hào từng được trao giải Pulitzer của Hoa Kỳ và giải Nobel Văn chương. Bà kể những chuyện trong Kinh thánh chứ không viết lại Kinh thánh. Bà bám rất sát các sự kiện và lời nói trong Kinh thánh, không thêm không sửa, nhất là cố giữ phần đối thoại y nguyên tối đa, bà chỉ minh họa thêm vài cử chỉ, ít nụ cười, mấy tiếng thở dài... Dưới ngòi bút linh động của bà, mỗi câu chuyện bà kể vừa chuyên chở được bản thông điệp tâm linh, vừa giữ được tính cách chính thống trong phạm vi qui điển, đồng thời, tạo được nhịp cầu giao cảm giữa độc giả ngày nay với tâm tình nhân vật và các sự kiện lịch sử hàng ngàn năm trước. Bà đã chuyển được phần nào nội dung của cuốn Kinh thánh dày cộm thành những câu chuyện hấp dẫn và đặt vào lòng bàn tay của người đọc bình thường, trong và ngoài Kitô giáo. Thêm nữa, ẩn trong lối hành văn mộc mạc và cảm động của bà, người đọc thấy lấp lánh nét tinh anh của một tâm hồn nhân ái, đại kết tôn giáo, tôn trọng nữ quyền, yêu thương mọi chủng tộc, tha thiết với môi trường sống... Bền vững và ngời sáng giữa các câu chuyện xa xưa ấy là đức tin tôn giáo nguyên thủy, đơn sơ và dồi dào khí lực. Vượt lên trên các luận thuyết phức tạp, xuyên phá nghi lễ và phẩm trật, ở bên kia ngôn từ và truyền thuyết, đức tin thuần khiết ấy hồn nhiên toả hơi ấm đều khắp cuộc sống thường ngày. Và trong cuộc sáng thế đang tiếp diễn và ngày càng tốt đẹp này, Kinh thánh mãi mãi là lời giao ước và là tin mừng cho mọi dân tộc, cho mọi người, để sống hiệp nhất và bình an. Người Dịch: Nguyễn Ước *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 15 tuổi, bà được gửi trọ học tại một trường dạy Anh văn ở Thượng Hải. Năm 17 tuổi, cha mẹ cho Pearl Buck về Mỹ, học tại Trường Đại học Randolph Macon (tiểu bang Virginia). Năm 1917 bà kết hôn với một mục sư và theo chồng đi truyền giáo tại miền Bắc Trung Hoa. Từ năm 1922, bà dạy ở Đại học Nam Kinh và Kim Lăng. Năm 1925, Pearl Buck bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Gió Đông, Gió Tây (do chạy loạn Quốc dân đảng, năm 1930 mới xuất bản được). Sau đó hàng loạt tiểu thuyết nổi tiếng khác về đề tài Trung Quốc ra đời, như Đất Lành, Những Người Con Trai, Một Nhà Chia Rẽ, Người Mẹ, Những Đứa Trẻ Chậm Lớn… trong đó tiểu thuyết Đất Lành được nhận giải Pulitzer năm 1931. Năm 1933, bà được Đại học Yale tặng bằng Cử nhân Văn chương Danh dự. Năm 1938, bà được Đại học West Virginia và Đại học St. Lawrence trao tặng bằng Tiến sĩ Văn chương Danh dự. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Trong Thế chiến II, Pearl Buck viết nhiều sách báo chính luận chống chủ nghĩa phát xít. Những năm 50, bà xuất bản một số tác phẩm về đề tài gia đình và xã hội Mỹ, kí bút danh I. Sedge. Năm 1951, Pearl Buck được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ. Năm 1955, bà li dị chồng và tục huyền với giám đốc một hãng quảng cáo. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” Mời các bạn đón đọc Chuyện Kinh Thánh của tác giả Pearl S. Buck.
Ảo Ảnh Vàng Son
Tên truyện : Ảo Ảnh Vàng Son Nguyên tác : Une Misère Dorée Tác giả : Delly Dịch giả : Mai Thế Sang Thể loại : Văn học nước ngoài Đánh máy (vietlangdu.com) : maylangthang, thanhbinhdat Chuyển sang ebook (TVE): santseiya "Một gia đình công hầu muốn mời đến ăn và ở trong lãnh địa của mình, một gia đình từ hai đến ba người là cùng, có danh giá, có giáo dục ưu tú, có khả năng dạy học cho ba đứa trẻ. Nơi ở tốt, tại một trong những vùng rừng đẹp nhất của nước Áo. "Viết cho hòm thư lưu: I.L... Defelden. "Cần thiết phải có những chứng chỉ nghiêm túc" Giáo sư Lienkwicz bỏ tờ báo đang đưa sát đôi mắt cận thị. Trên bộ mặt thanh tú héo hắt vì tuổi tác, vì lo âu và vì những nỗi đau thể xác, cặp mắt ông suy nghĩ - cặp mắt trong sáng, dịu hiền và hơi ưu tú - hiện rõ tâm hồn Adrian Lienkwicz, một người đáng mến, thân thiết và điềm đạm nhưng hơi mềm yếu, dễ thất vọng với những thử thách đường đời. Tâm hồn dễ thương, tinh tế, ưa thích quá khứ xa xăm và những câu chuyện cổ, có khả năng hy sinh thân mình cho nhiệm vụ mà không hề phàn nàn, nhưng lại kém sẵn sàng hành động và đấu tranh. Thời niên thiếu ông học tại trường Đại học Vienne. Ông được các bạn bè yêu mến đồng thời họ cũng quấy rầy ông. Họ chế giễu tính nhịn chịu, chăm học và ôn hoà của ông. Tuy nhiên họ cũng bị chinh phục bởi con người tươi vui và hoà nhã ấy, có tính độ lượng đến khinh suất, biết hoà giải những tay kiếm hung hăng nhất và không biết cách từ chối bất kỳ ai cần đến sự giúp đỡ của mình về vật chất hay tinh thần. Thời thanh niên, ông chinh phục được trái tim cô Elizabeth Zulman, con gái một thầy giáo. Quy luật tương phản đã hấp dẫn đôi trai gái tính tình khác hẳn nhau ấy. Cô gái bản chất thích đấu tranh, cương quyết và có nghị lực, nàng đã cứu vãn được những di vật của gia tài họ Lienkwicz. Tính độ lượng của giáo sư Adrian đôi khi không hợp thời được ngăn chặn bởi trí thông minh bình tĩnh và đôn hậu của bà giáo. Đó là một gia đình hạnh phúc cho đến khi một căn bệnh hiểm nghèo ập đến cướp mất người bạn đời rất thân thiết ấy và để lại Adrian một mình với hai đứa con dại, đứa lớn mới mười tuổi. Là một người cha dịu hiền và tận tâm, Adrian không muốn xa rời hai con, ông mướn một nguời đàn bà vừa để trông nom và giáo dục các con vừa làm quản gia. Nhưng ông giáo hiền lành là một ông chủ mù quáng, và gia tài của ông chẳng bao lâu bị rút dần rút mòn, trước hết bởi mụ quản gia chẳng mấy tí chu đáo. Lại còn bị đám bạn bè xấu, ăn hại vô liêm sỉ đến nỗi ngày mà Adrian mệt mỏi, thấy mình buộc lòng phải rời bỏ chức vụ giáo sư, ông kinh ngạc nhìn thấy nguồn lợi tức của mình chỉ còn vỏn vẹn để sống với hai đứa con. Đó là một đòn gánh nặng giáng vào con người đã hoàn toàn suy sụp về thể xác. Ông lâm bệnh và được con gái ông là Marysia "kho báu và trí tuệ của ông" như ông thường gọi, chăm sóc một cách tuyệt vời. Thời kỳ dưỡng bệnh, buộc lòng ông phải rời bỏ căn nhà tiện nghi để đến một căn nhà hẹp hơn. Sức khỏe chỉ cho phép ông dạy học trò vừa đủ nuôi một gia đình nhỏ do cô gái Marysia điều khiển một cách khéo léo, nhờ thừa hưởng của bà mẹ những đức tính cao đẹp. Cả ba bố con sống thanh bạch như vậy trong cảnh khó khăn và thường được một số bạn cũ đến thăm. Thử thách lớn nhất cho gia đình là tình trạng tàn tật của Alexy, em trai Marysia. Bệnh bại liệt đã làm hai chân cậu bé không cử động được. Thầy thuốc mới đây đã tuyên bố là khí hậu ở Vienne không thích hợp cho bệnh nhân và không khí trong lành ở miền quê, nhất là miền rừng núi, nếu không chữa khỏi bệnh cũng làm giảm được bệnh một cách đáng kể. Từ đó ông giáo sư và cô con gái tìm kiếm một sự phối hợp nào đó để có thể chữa bệnh mà không tốn nhiều tiền. Phải chăng cái thông cáo ở cuối trang báo này là giải pháp cho vấn đề của ông Adrian! Ông quay về phía một cánh cửa mở và cất tiếng gọi: - Marysia! Có tiếng động ghế ở phòng bên rồi một cô gái cao và mảnh xuất hiện ở khung cửa. Trong bộ quần áo lao động giản dị, Marysia Lienkwicz có một dáng đi đặc biệt thanh nhã. Không có những nét đều đặn tuyệt đối, nhưng Marysia đẹp hơn cả đẹp, với diện mạo duyên dáng vừa dịu hiền vừa thanh tao, với sự tương phản của bộ tóc rất đen có những búp xoăn bóng loáng, với cặp mắt màu xanh thẫm phản chiếu một tâm hồn nồng nhiệt và trong sáng. Cô gái sốt sắng hỏi: - Gì thế, ba yêu quý? - Con hãy đọc đây này. Cô thiếu nữ cầm tờ báo lên, liếc qua bài báo rồi nhìn cha vẻ dò hỏi. - Con ạ, ba thấy hợp với chúng ta đấy. - Vâng, một miền rừng núi, tuyệt quá. Nhưng còn cần phải có thêm những chi tiết khác? - Tối nay ba sẽ viết. Alexy có vẻ mệt mỏi hơn, ba muốn nhanh chóng đưa em con ra khỏi nơi trật hẹp thiếu không khí này. Một nếp nhăn lo lắng hiện ra trên vầng trán rất trắng của Marysia: - Vâng, ở đây em con xanh xao lắm. Cả ba nữa! Chắc chắn là không khí đồng quê sẽ mang lại lợi ích to lớn. - Ba cũng tin vậy. Cả con nữa, con cũng sẽ khá hơn. Trông con có vẻ mệt mỏi lắm rồi. Con đã phải làm việc quá sức mình để chăm sóc em con và ba. Ba chẳng còn làm được việc gì nữa. Marysia cúi xuống đưa bàn tay vuốt ve cổ cha, hôn lên vầng trán đã nhăn nheo của cha và thỏ thẻ: - Thưa ba yêu quý, nếu ba biết được những nhiệm vụ đó đối với con thân thiết biết bao, con gái ba sẽ rất sung sướng được chăm sóc ba và em con với tất cả tình thương yêu của mình. Và con còn muốn được làm nhiều hơn thế nữa kia. Cặp mắt xúc động của ông Adrian nhìn vào khuôn mặt đẹp đang cúi xuống: - Ừ, ba vẫn biết là con là đứa con ngoan. Ba biết là con rất thương yêu người cha tội nghiệp của con lúc nào cũng ốm yếu. Nhưng lòng ba mong muốn biết bao được thấy con thanh bình và sung sướng, giải thoát khỏi những công việc lặt vặt và được tự do phát triển trí thông minh mà Chúa đã ban cho con. Một nụ cười rất tươi nở trên môi cô gái: - Thưa ba thân mến, thực tâm con chỉ yêu cầu một điều, đó là được tiếp tục hầu hạ ba và em con, được ba và em con yêu mến, giữ được hoạt động và can đảm mà Chúa đã ban cho con. Được như vậy, chừng nào con còn được giữ lòng tin Chúa, Marysia của ba sẽ không bao giờ bị đau khổ... Kìa, món xúp đã được rồi. Thiếu nữ lao vào trong bếp. Giáo sư cũng đứng lên và cảm động thì thầm: - Lúc nào nó cũng vui vẻ... Và dũng cảm nhường kia. Lạy Chúa, người nhân từ biết bao đã cho con một đứa con gái như thế. Ông đi vào phòng bếp, phòng ăn cũng đồng thời là phòng tiếp khách. Trên một chiếc ghế dài đặt trước cửa sổ, một cậu thiếu niên trạc mười lăm tuổi đang nằm. Thấy cha vào, cậu ngoảnh lại nhìn ông, cặp mắt thẫm, quá to đối với khuôn mặt gầy và nổi lên rất đậm trên nước da tái. Diện mạo trẻ trung ấy có một sức hấp dẫn kỳ lạ bởi vẻ đẹp đặc biệt và hơn nữa bởi vẻ đau đớn, chịu đựng. - Con yêu của cha có thấy khá hơn không? Ông dịu dàng hỏi và đưa tay vuốt mái tóc đen rất dày và xoăn của con trai. - Có khá hơn, ba ạ. - Con này, đây là giải pháp giúp chúng ta giải quyết được vấn đề - sau khi thấy con trai đọc xong bài báo, ông hỏi tiếp - Alexy,... con thấy thế nào? - Có lẽ thế, ba ạ. Ba sẽ viết thư chứ? - Ngay bây giờ đây, con ạ! Sau khi đã viết thư trả lời cho địa chỉ I.L... ông trở lại chỗ con trai nằm. Alexy đang giở những trang giấy trong một tập giấy cũ, cậu nói vẻ suy nghĩ: - Cha ơi, thật lạ quá, sao chẳng bao giờ thấy ba tìm nguồn gốc của gia đình chúng ta? Tuy nhiên con thấy hình như ba có thể tìm được một số hướng dẫn ở bên Ba Lan. - Ba cũng đã có bắt đầu đấy chứ. Nhưng khi mẹ con mất, ba nản lòng, nên đã bỏ dở. Ba chỉ biết là ở bên Ba Lan - ba không còn họ Lienkwicz và danh từ đó đã bị lãng quên hoàn toàn. Có lẽ tổ tiên chúng ta từ nhiều thế kỷ nay đã ngụ cư bên Áo. Tuy nhiên cũng thật lạ lùng, chúng ta chẳng có một tờ gia phả nào. Ông con có nói rằng chúng ta xuất thân từ dòng dõi quý tộc, nhưng dù sao cũng chẳng được lợi lộc gì. - Tất nhiên là thế. Tuy nhiên con rất muốn biết tổ tiên chúng ta là những ai và chút ít lịch sử ra sao. Con rất sung sướng được lục tìm trong quá khứ và tất nhiên dĩ vãng của gia đình chúng ta làm con say mê hơn cả. - À. con đúng là con trai của ba. - Giáo sư nói và vui vẻ nắm lấy tay Alexy. - Ở tuổi con, ba cũng có niềm say mê ấy, ba thích nghiên cứu như con nhất là nghiên cứu lịch sử quá khứ. Các bạn ba gọi ba là "ông già tước vị". Thực tế đối với ba không có gì vui thú bằng được lần mò trong tay những tờ giấy thiêng liêng, chứng minh cho thời quá khứ bất hủ... thú thật là lúc nào cũng hấp dẫn ba. Với nó ta quên được một chút hiện tại chẳng vui vẻ gì lắm... - Không, không phải bao giờ cũng thế. Alexy ngước mắt lên trời lẩm bẩm. Mấy ngày sau giáo sư Adrian Lienkwicz nhận được thư trả lời của I.L... bằng nét chữ phụ nữ, bức thư ghi rõ những điều kiện yêu cầu: Có năng lực dạy học mấy đứa trẻ từ mười một đến mười ba tuổi, xuất trình những giấy chứng chỉ tốt nhất, có phong cách nhã nhặn và thanh tú. Được cung cấp một căn hộ có bốn phòng rộng rãi, bày biện đẹp, thực phẩm giản dị và tinh khiết, đun nấu, sưởi tùy ý và có công viên để dạo chơi. Ngược lại, phải lên lớp bốn giờ mỗi ngày và chấm, sửa bài. Bức thư nói tiếp: Nếu những điều kiện thích hợp, xin cho chúng tôi biết về gia đình ông và tôn giáo, những người mà chúng tôi có thể hỏi thăm tình hình. Sau đó chúng tôi sẽ cho biết địa chỉ của chúng tôi. - Ba có thấy thật là bí ẩn không? Marysia hỏi sau khi đã đọc bức thư viết bằng một lối văn lịch sự nhưng khá vắn tắt... Lại vẫn những chữ đầu ấy... - Có lẽ con người đó không muốn phô tên mình ra trước sự tò mò của bất kỳ ai. Cũng là lẽ tự nhiên. Con thấy đấy, người ta rất khó khăn về vấn đề danh giá, như vậy càng tốt. - Vâng, về vấn đề này chúng ta chẳng có gì đáng lo ngại. Còn về những điều kiện khác, chúng ta có đầy đủ chẳng khó khăn. Hai ba con đều có thể lên lớp theo yêu cầu và còn chán thì giờ để cha hoàn thành cuốn "Lịch sử Ba Lan", còn con để làm việc nhà. Tình hình có vẻ dễ chịu đấy. Nhưng cũng cần phải tìm hiểu trước. Giáo sư viết cho địa chỉ không quen, trả lời chi tiết những yêu cầu và cho biết những người danh giá để hỏi thăm tình hình về ông. Mười lăm ngày trôi qua không có trả lời. Nhưng rồi một buổi sáng người đưa thư trao cho Marysia một phong bì có dấu gia huy, dán tem, đóng dấu bá tước quan. Nét chữ vẫn cùng một người đã viết bức thư trước. Marysia vội chạy vào phòng ăn đưa bức thư cho cha: - Ba ơi, đây là thư trả lời. Giáo sư vội bẻ dấu niêm phong và đọc to: "Kính thưa giáo sư, Những chứng chỉ của ông làm tôi thoả mãn hoàn toàn, cả về gia đình ông nữa. Nếu ông đã quyết định, xin ông cho biết. Về phần tôi, chúng tôi đã sẵn sàng tiếp đón gia đình tôi đến Runsdorf, lâu đài của chúng tôi đấy, ngoài giờ học, ông được hoàn toàn tự do. Vậy tôi chờ đợi câu trả lời chính thức của ông. Thưa giáo sư, kính chúc... IOLANTHE Nữ bá tước Lendau, Lâu đài Runsdorf-Dufelden". - Ôi, ôi, một dòng họ đại quý tộc. Giáo sư nói. Lendau là một gia đình cổ kính, dòng họ gần gũi của hoàng thân. Các con thấy thế nào? - Thưa ba, Marysia nói, con thấy là về phần chúng ta cũng nên tìm hiểu xem thế nào đã, mặc dù họ nhà Lendau là quý tộc. - Con nói đúng, con gái khôn ngoan của ba. Nhưng hỏi ai bây giờ? - Ba có một gia đình ông bạn thân là Conrad Duntz làm giám thủ[1] lãnh địa Nunsthel ở ngay gần Dufelden có phải không? Giáo sư vỗ vào trán đáp: - À, đúng rồi. Vấn đề là ở đây. Ba sẽ viết thư cho ông ấy và yêu cầu trả lời ngay, để cho bà đại quý tộc ấy đỡ phải chờ lâu. Mấy ngày sau nhận được thư trả lời của ông giám thủ do con trai ông viết: "Bố cháu gặp tai nạn xe cộ bị gẫy tay. Nếu không bố cháu chẳng chịu nhường cho cháu thú vui được viết thư trả lời bác... Runsdorf là một cơ ngơi rất cổ kính, rất rộng lớn, ở trong một thung lũng cách Dufelden mười kilomet. Mời các bạn đón đọc Ảo Ảnh Vàng Son của tác giả Delly.