Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phía Đông Mặt Trời - Julia Gregson

Là chuyến hành trình của nàng Rose đến Ấn Độ để chuẩn bị cho kế hoạch kết hôn với một người đàn ông mà cô không hề quen biết. Đi với Rose còn có Victoria, cô phù dâu, đang tìm kiếm một đấng phu quân. Ngoài ra, một phụ nữ khác đi cùng hai cô gái cũng muốn nhân chuyến đi khám phá Ấn Độ để tìm lại tuổi thơ của mình. *** "Ấm áp, quyến rũ, đầy thuyết phục và không thể buông tay một khi quyết định đọc Phía Đông mặt trời." (NHS Magazine) "Một cuốn tiểu thuyết đầy màu sắc với bối cảnh diễn ra tại Ấn Độ trong những năm cuối thập niên 1920 tác động đến tất cả (các tuyến nhân vật), những câu chuyện được kể một cách hoàn hảo, không thể dự đoán." (The Times) *** London, tháng chín năm 1928 Phụ nữ, có trách nhiệm, hai mươi tám tuổi, yêu trẻ em, có kiến thức về Ấn Độ, nhận làm bảo mẫu trong chuyến đi từ Tilbury tới Bombay với thù lao thanh toán bằng một nửa chi phí cho lộ trình. Điều kỳ diệu cuối cùng cũng đã đến với Viva Holloway, sau khi cô phải mất ba đồng sáu xu trả cho mẩu quảng cáo của mình trên ấn bản tháng Chín của tờ Quý cô. Năm ngày sau, Viva có mặt tại một nhà hàng ở Derry & Toms, nội đô thành London, chờ đợi cuộc hẹn với khách hàng đầu tiên của mình, quý bà Jonti Sowerby đến từ Middle Wallop, Hampshire. Thay vì mặc bộ váy bằng lụa may mắn tìm được trong một lần dạo chợ mua bán đồ cũ từ thiện, Viva đến với cuộc hẹn phỏng vấn trong bộ dạng của một người đánh máy thuê, công việc cô đang nhận làm tạm thời dăm bữa nửa tháng, cô ghét cay ghét đắng bộ âu phục được may từ thứ vải len xù xì xám xịt đang khoác trên người. Mái tóc dày đen nhánh thường ngày vẫn rủ từng lọn hoang dại buông hờ xuống bờ vai giờ được Viva buộc túm lên thành búi ẩm ướt thắt chặt trên đầu. Cô bước vào phòng trà được trang hoàng lộng lẫy tràn ngập những tiếng rì rầm cười nói, xen lẫn giữa những tiếng ồn ào là giai điệu rời rạc của người nghệ sĩ đang nhấn nhá từng phím trên chiếc dương cầm đặt trong góc phòng. Một người phụ nữ nhỏ nhắn, mảnh dẻ, trên đầu đội một chiếc mũ màu xanh khá đặc biệt (nom hệt như một chiếc lồng kín đặc được trang trí bằng những sợi lông chim tua tủa đâm ngược ra sau) nhanh nhẹn đứng dậy vẫy chào Viva. Ngồi sát bên cạnh bà ta là một cô gái khá bụ bẫm, im thin thít từ giây phút đầu tiên, tên cô, Victoria, con gái của Sowerby. Một tách cà phê được mang ra, nhưng khá nhạt, không có bánh ngọt đi kèm. Từ sáng đến giờ Viva vẫn chưa có chút gì bỏ bụng, ánh mắt cô liếc nhanh về phía chiếc bánh ngọt được trang trí bằng những hạt óc chó nom khá ngon miệng nằm im lìm trong tủ kính phía dưới quầy hàng. “Trông cô ta mới kinh khủng làm sao”, bà Sowerby lập tức quay sang than vãn với cô con gái, như thể không hề nhận thấy một Viva bằng xương bằng thịt đang ngồi ngay trước mắt. “Mẹ”, Victoria phản đối, giọng cô gái trẻ khá lạ, và khi bắt gặp ánh mắt cô gái ngước lên nhìn mình, Viva chợt nhận ra Victoria sở hữu một đôi mắt tuyệt đẹp: to tròn, sâu hun hút và xanh thẳm thẳm như những đóa xa cúc lam. Tôi xin lỗi vì đã không thể ngăn những lời bà ấy vừa thốt ra, hai đóa xa cúc lam như muốn nói với Viva như thế. Cuối cùng thì Sowerby cũng chịu đi thẳng vào vấn đề, bằng chất giọng khô khan, hướng về Viva, bà tóm tắt vấn đề của họ, rằng Victoria chuẩn bị sang Ấn Độ để làm phù dâu cho cô bạn gái thân nhất của mình, Rose, con bé, theo như những gì bà Sowerby kể lại bằng chất giọng lè nhè đầy ắp sự khoe khoang, “đang chuẩn bị đính hôn với đại úy Jack Chandler thuộc trung đoàn kỵ binh số 3 tại nhà thờ thánh Thomas ở thành phố Bombay”. Người bảo mẫu họ thuê trước đây, bà Moylett, đã quyết định từ chối không đi cùng vào phút chót - nguyên nhân từ chối, theo như những gì Sowerby kể lại, là bởi bà Moylett đột nhiên được một quý ông già cả thuê mướn làm bảo mẫu cho gia đình ông ta. Viva đặt tách cà phê xuống bàn, trong mắt người đàn bà đứng tuổi trước mặt, cô như một thứ gì đấy được gọi tên bằng hai tiếng tuyệt vọng, gánh trên vai niềm khao khát không thể che đậy về mong muốn những khó khăn của mình sẽ nhanh chóng được bà ta giải quyết. “Tôi khá hiểu Bombay”, cuối cùng Viva cũng lên tiếng, chỉ dựa vào một sự thật duy nhất: tròn mười tám tháng, cô từng nằm ngửa trên cánh tay mẹ mình để cùng bà bước dọc thành phố Bombay; vài năm sau, khi Viva tròn năm tuổi, một lần nữa cô có mặt trên bãi biển, ngon lành mút que kem mát lạnh ngọt lịm dưới nắng trời Bombay, và lần cuối cùng, ấy là khi cô lên mười, bàn chân Viva lại chạm vào Bombay, kể từ đấy, chưa một lần cô quay lại thành phố này. “Chắc chắn Victoria sẽ được trông nom cẩn thận”. Cô gái hướng ánh mắt đầy ắp hy vọng vào Viva. “Chị có thể gọi tôi là Tor nếu thích”, Victoria nhẹ nhàng. “Các bạn đều gọi tôi bằng tên ấy”. Khi người bồi bàn đến bên cạnh, bà Sowerby bắt đầu cao giọng phàn nàn về đồ uống, rồi yêu cầu một chút nước thuốc hãm thay cho thứ “trà Anh tầm thường”. “Một nửa máu trong người tôi thuộc về nước Pháp”, bà giải thích, không quên bĩu môi như để chứng minh cho điều mình vừa nói. “Cô biết gì về những chiếc rương đựng hành lý khổ lớn?”. Bà Sowerby vừa nói vừa kiểm tra một chiếc răng của mình bằng chiếc gương nhỏ xíu gắn trên mặt trong của hộp phấn bỏ túi. “Đấy là một trong những điều bà Moylett đã hứa hẹn sẽ giúp đỡ chúng tôi”. Đến lúc này thì phép màu thực sự xảy ra với Viva: một tuần trước, khi cô sục sạo nghiền ngẫm đến nát tờ Người tiên phong với hy vọng tìm được một công việc thích hợp, tình cờ cô đã đọc được mẩu quảng cáo của một người thợ may tên Ram về vấn đề bà Sowerby đang quan tâm. Viva bình tĩnh nhìn thẳng vào mắt bà Sowerby. “Sản phẩm của hãng Viceroy là tốt nhất”, cô nói. “Mặt trong chúng được viền thép trước khi bọc vải bạt bên ngoài. Bà có thể tìm mua tại cửa hàng Quân trang và quân dụng. Tôi không nhớ chính xác giá thành của loại rương này nhưng tôi đoán khoảng hai mươi lăm si-ling một chiếc”. Không gian bên trong nhà hàng đột nhiên xao động. Tiếng leng keng lách tách của dao nĩa thìa ly chạm vào nhau đột nhiên im bặt. Một quý bà xinh đẹp, khá quyến rũ trong bộ váy áo nhạt màu chậm rãi bước vào, miệng khẽ nhoẻn cười khi tiến về phía bàn bà Sowerby. “Xin giới thiệu, đây là bà Wetherby”. Tor tươi cười đứng dậy ôm hôn chào đón người phụ nữ xinh đẹp vừa bước vào. “Cô ngồi xuống đây”, Tor nom hoạt bát hẳn lên, vỗ nhẹ vào chiếc ghế bên cạnh chỗ cô ngồi. “Cháu và mẹ đang nói với nhau về công việc, kinh khủng, những chủ đề tẻ nhạt”. “Phải đấy, Victoria”. Bà Sowerby xen vào, “bé giọng thôi, không cả cái nhà hàng này nghe hết chuyện của chúng ta đấy”. Rồi bà quay sang Viva. “Bà Wetherby đây là mẹ của Rose, con bé sắp đính hôn với ngài đại úy Chandler ở Ấn Độ ấy. Con bé xinh đến nao lòng”. “Tôi không thể chờ đến lúc được gặp bạn ấy”. Tor đột nhiên hào hứng, khuôn mặt cô bừng lên rạng rỡ. “Rose rất vui tính, một người bạn hoàn hảo, bất kể ai tiếp xúc với Rose đều yêu quý bạn ấy - bọn tôi chơi với nhau từ hồi còn để chỏm, đến trường cùng nhau, cưỡi chung những chú ngựa Pony xinh xắn...”. Viva bỗng thấy cơn đau nhói lên trong lồng ngực, những cảm xúc thân quen chợt ùa về - những kỷ niệm không bao giờ quên về những người bạn thân thiết từ thời thơ ấu. “Victoria”, bà Sowerby mắng khẽ cô con gái. Những chiếc lông chim xanh thẫm cắm trên mũ rủ xuống im lìm ngang chân mày khiến bà trông giống như một chú chim bé bỏng đang bị kẻ khác làm mếch lòng. “Mẹ không chắc chúng ta phải kể cho cô Holloway đây nghe mọi chuyện. Chúng ta vẫn chưa quyết định, đúng không nào? Hơn nữa, Rose yêu quý của chúng ta đang ở đâu?”. “Tại tư gia của bác sĩ”. Giọng bà Wetherby trở nên lúng túng. “Cháu biết đấy...”. Nhấp một ngụm cà phê, Wetherby trao đổi với bà Sowerby một ánh nhìn thoáng qua, như ra dấu. “Hai mẹ con cô đã có cả một buổi sáng tuyệt vời nhất bên nhau từ trước đến nay trước khi cô để con bé rời khỏi xe”, giọng bà Wetherby nhẹ như thở. Bọn cô cùng đi mua quần áo, vợt tennis, một giờ sau cô gặp lại Rose tại Beauchamp, con bé chuẩn bị sắp xếp đồ đạc đưa về nhà chồng. Cuộc đời tẻ nhạt của con bé cuối cùng cũng hoàn toàn chấm dứt sau đêm nay. Cô không nghĩ mình có thể mua được nhiều áo quần đến thế chỉ trong một ngày. Giờ thì, cô gái xinh xắn này là ai vậy?”. Lập tức Viva được giới thiệu với bà Wetherby như một “bảo mẫu chuyên nghiệp”. Wetherby mỉm cười, điệu đà đặt một tay lên vai Viva, vui vẻ chào hỏi cô bằng tất cả niềm hứng khởi có trong người bà. “Tôi vừa mới phỏng vấn cô ta xong”, bà Sowerby nhanh nhảu nói với Wetherby. “Cô ta hiểu rõ Ấn Độ như lòng bàn tay, không chỉ có thế, cô ta còn biết khá rõ mọi vấn đề liên quan đến rương hòm hàng hóa - cô ta bảo sản phẩm của Viceroy là tốt nhất”. “Các cô gái bao giờ cũng nhạy cảm”, giọng bà Wetherby đột nhiên đượm mùi âu lo. “Chúng chỉ cảm thấy an tâm khi có ai đấy theo cùng và để mắt đến mọi chuyện”. “Nhưng tôi e là chúng tôi chỉ có thể trả cô năm mươi pao cho việc trông nom cả hai con bé”, giọng bà Sowerby chắc nịch, “không thêm không bớt một xu nào nữa”. Viva nhanh chóng lẩm nhẩm vài phép tính trong đầu, giá vé một chiều từ London đi Bombay là tám pao. Cô đã để dành được một trăm hai mươi pao, chắc chắn cô sẽ cần nhiều tiền hơn khi đặt chân đến Bombay. “Nghe có vẻ hợp lý”, Viva thản nhiên trả lời, cố giữ giọng thật nhẹ nhàng như thể những lời mình vừa thốt ra chỉ là những thứ quen thuộc vẫn xảy ra mỗi ngày. Tor thở phào, rối rít. “Ơn Chúa!”. Cô gái không giấu giếm niềm hân hoan. “Tuyệt thật đấy!”. Viva bắt tay chào tạm biệt ba người đàn bà trước mặt, nhanh nhẹn rời khỏi nhà hàng bằng những bước dài hoan hỷ; những điều sắp tới mới thật sự là một miếng bánh ngọt ngào: một con bé nhút nhát với cặp mắt xanh biếc, cùng một bà mẹ nom rõ ngớ ngẩn rõ ràng đang trong cơn tuyệt vọng; bạn gái của con bé, Rose, chuẩn bị kết hôn và không còn lựa chọn nào khác. Cuộc hẹn tiếp theo diễn ra tại khách sạn Hải quân, tại đây Viva sẽ gặp gỡ bà Bannister cho những nhiệm vụ sắp tới: bảo mẫu cho một nam sinh đến gặp bố mẹ cậu bé đang sinh sống ở Assam. Cô quờ tay vào túi xách tìm mẩu giấy ghi cuộc hẹn. Tên cậu bé, Guy Glover. Ít phút sau Viva đã đối mặt với bà Bannister, một quý bà mặt mũi lúc nào cũng cau có, hai hàm răng sin sít, có vẻ là một người khá nóng nảy. Chắc phải ngoài bốn mươi, Viva thầm đoán, mặc dù chưa bao giờ cô được xem là người chính xác trong trò đoán tuổi người đối diện. Bà Bannister gọi hai tách trà ấm, không bánh ngọt, không cả bánh qui đi kèm. Bannister nhanh chóng đi thẳng vào vấn đề, bởi theo như lời bà ta nói, thì đúng ba giờ rưỡi bà phải bắt chuyến tàu trở về Shrewsbury. Anh trai của bà ta, chủ đồn điền chè xanh ở Assam, và vợ của ông ấy, Gwen, đang rơi vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan”. Con trai của họ, Guy, đứa con duy nhất, đột ngột nhận được yêu cầu rời khỏi trường học. Thằng bé chỉ mới mười sáu tuổi. “Thằng bé khá khó tính, nhưng như tôi đã nói, ẩn sau vẻ khó tính ấy là một đứa trẻ cực kỳ tốt bụng”, bà cô của khách hàng trấn an Viva. “Nó đã theo học tại trường thánh Christopher suốt mười năm nay và chưa một lần quay trở lại Ấn Độ. Vì một số lý do khác nhau, tôi không có thời gian để giải thích với cô tại sao chúng tôi lại không thể tiếp tục chăm sóc thằng bé ở đây mặc dù chúng tôi rất muốn điều đấy. Nhưng sau tất cả, bố mẹ Guy đã quyết định sẽ tốt hơn cho nó khi ở Ấn Độ. Nếu cô chăm nom nó cẩn thận, họ sẽ thanh toán toàn bộ chi phí cho chuyến đi của cô”. Viva có cảm giác khuôn mặt cô lúc này đang đờ đẫn vì vui sướng trước những lời bà Bannister vừa thốt ra. Nếu toàn bộ chi phí chuyến đi lần này được bố mẹ cậu bé thanh toán, cô sẽ giữ được nguyên vẹn năm mươi pao của bà Sowerby, cô có thể dùng nó để trang trải cho một kỳ nghỉ xả hơi ở Ấn Độ, ơn Chúa vì điều đó. Phấn khích với viễn cảnh trước mắt, thậm chí trong đầu của Viva lúc này không mảy may một chút nghi ngờ tại sao một thiếu niên ở tuổi mười sáu lại không thể tự mình thực hiện được một cuộc hành trình không lấy gì làm khó khăn, hay chí ít, cô không hề thắc mắc tại sao bố mẹ của cậu bé, ông bà Glover, lại không thể quay về nước Anh để đón đứa con trai duy nhất của hai người. “Tôi gửi cô bản đồ trường học của Guy và một khoản tiền tạm ứng trước”, Bannister nhanh nhảu. “Cảm ơn cô đã nhận lời”. Bà nhanh chóng kết thúc mọi thủ tục và đứng dậy. Nhìn điệu bộ vội vàng đến hấp tấp của Bannister khi rời khỏi nhà hàng bước đến bên cạnh xe taxi, chiếc áo choàng mưa của bà ta khẽ phập phồng phần phật sau lưng theo chiều gió, Viva chợt bùng lên nỗi áy náy, cô tự hỏi tại sao người ta lại có thể dễ dàng bị lừa dối đến thế, đặc biệt là khi họ đang muốn nghe về điều mình đang nóng lòng chờ đợi. Viva không phải hai mươi tám tuổi như lời cô nói với các khách hàng, cô chỉ mới hai lăm, và Ấn Độ trong cô chỉ là một chấm nhỏ ký ức mơ hồ xa xôi từ những ngày còn thơ ấu, bao nhiêu năm đã trôi qua, ngần ấy lần vật đổi sao dời. Những gì Viva biết về Ấn Độ lúc này có lẽ giống như những gì cô biết về một nơi xa xôi nào đấy nằm trong lòng mặt trăng vẫn treo trên đầu London bao nhiêu năm qua. ... Mời các bạn đón đọc Phía Đông Mặt Trời của tác giả Julia Gregson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cái Giá Phải Trả - Warren Fellows
Năm 1978, Warren Fellows đã bị kết án tù chung thân ở Thái Lan do buôn bán và vận chuyển heroin. Cái Giá Phải Trả là câu chuyện về một cơn ác mộng không thể tưởng tượng trong một nơi mà chuột cống và gián là nguồn thực phẩm bổ dưỡng duy nhất, và nơi diễn ra hình phạt tồi tệ nhất là khun deo - phòng biệt giam, theo phong cách Thái. Warren Fellows biết mình phạm tội, nhưng ông đã phải chịu đựng và tồn tại trong một môi trường kinh hoàng ngoài sức tưởng tượng. Tác giả viết cuốn sách này không vì mục đích cầu xin sự tha thứ, cũng không phủ nhận mình là kẻ tội lỗi, nhưng đây là câu chuyện về một thử thách mà không ai muốn trải qua… Đau lòng, hấp dẫn và không thể đặt xuống là điểm nổi bật của cuốn sách này. "Warren Fellows thừa nhận rằng ông bị bắt là chính đáng, nhưng ngay cả một tù nhân phạm tội nặng nhất cũng thành vô tội trong hoàn cảnh này. Bức tranh mà ông miêu tả thật khủng khiếp. Nếu bạn muốn biết điều gì đã khiến Warren Fellows kinh hoàng, hãy đọc cuốn sách này". *** Hãy suy nghĩ về những ngày tồi tệ nhất trong cuộc đời bạn. Có lẽ đó là khi người mà bạn yêu thương qua đời; hoặc khi bạn bị thương nặng trong một tai nạn, hoặc bạn gặp một điều ghê sợ đến nỗi khó có thể chịu đựng nổi. Bây giờ hãy hình dung 4000 ngày như thế trong một nhà tù lớn. Trong cuốn sách này, W. Fellows mô tả những gì ông đã trải qua suốt 12 năm tại nhà tù Bangkok. Thật khó để tưởng tượng làm thế nào có thể tồn tại với tình trạng tinh thần kiệt quệ mỗi ngày. Hãy tưởng tượng bạn bị buộc phải đứng trong một hệ thống cống với tay chân bị xiềng. Một vài phút có lẽ sẽ dài bằng cả thế kỷ. Hãy tưởng tượng bạn phải ăn gián và chuột cống để duy trì sự sống. Nghe có vẻ siêu thực quá, phải không? Nhưng đó chỉ là một trong những khoảnh khắc mà tác giả cuốn sách này đã chịu đựng trong 12 năm ròng rã. “Cái giá phải trả” chính là những trải nghiệm đau thương mà Warren Fellows muốn gửi đến độc giả. Chỉ vì thiếu suy nghĩ, muốn kiếm tiền thật nhanh và thật dễ dàng nên ông đã đánh mất tuổi thanh xuân, đánh mất ý nghĩa cuộc sống. Nhưng trên hết, những hình ảnh kinh hoàng về cách con người đối xử với nhau trong nhà ngục đã trở thành nỗi ám ảnh khôn nguôi. Câu hỏi đọng lại trên tất cả các trang sách của ông là liệu con người có đáng phải chịu đựng những gì có lẽ chỉ tồn tại trong ác mộng như vậy? Tác giả không trực tiếp trả lời nhưng chắc chắn bạn sẽ có câu trả lời khi đọc xong trang cuối cùng của cuốn sách. Mạn phép gửi đến bạn đọc cuốn hồi ký này, hy vọng sẽ góp một phần nhỏ trong việc thức tỉnh những ai đang mê muội dấn thân vào con đường tội lỗi! Rằng, việc gì cũng có cái giá của nó. Người dịch Ung Thị Bạch Tuyết Mời các bạn đón đọc Cái Giá Phải Trả của tác giả Warren Fellows.
Bước Đường Cùng - Nguyễn Công Hoan
Bước đường cùng - Nguyễn Công Hoan là tiểu thuyết gắn liền với số phận của anh Pha, một người nông dân với những khó khăn chồng chất đã đánh dấu đỉnh cao về tư tưởng của nhà văn Nguyễn Công Hoan và là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước Cách mạng *** Nguyễn Công Hoan  (1903 - 1977) là nhà văn tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đa dạng, phong phú, như một "bách khoa thư", một "tấn trò đời"mà đặc trưng là xã hội thuộc địa nửa phong kiến ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Với một số lượng khá lớn như vậy, truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan họp lại thành một bức tranh rộng lớn, khá đầy đủ về xã hội cũ. Về nghệ thuật viết truyện ngắn, phải nói rằng Nguyễn Công Hoan là người có nhiều khả năng và kinh nghiệm. Truyện của ông thường rất ngắn. Lời văn khúc triết, giản dị. Cốt truyện được dẫn dắt một cách có nghệ thuật và kết cục thường rất đột ngột để hấp dẫn người đọc. Mỗi truyện như một màn kịch ngắn có giới thiệu, thắt nút và mở nút. Tiêu biểu là các truyện ngắn: Kép Tư bền, Người ngựa, ngựa người..., tiểu thuyết  có Bước đường cùng... Ngay từ khi xuất hiện, Nguyễn Công Hoan luôn gây được sự chú ý, quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình và nhiều thế hệ độc giả. Mặc dù có nhiều người khen kẻ chê, nhưng truyện ngắn truyện dài của Nguyễn Công Hoan sừng sững tạo thành một thế Tam Đảo, Ba Vì hùng vĩ. Trong thời tiền chiến, ai mà chẳng đọc qua các quyển: Tắt lửa lòng, Bước đường cùng, Tấm lòng vàng, Cô giáo Minh, Trên đường sự nghiệp, Lệ Dung, Nợ nần, Bơ vơ, v. v... Hơn nữa, một số tác phẩm của ông đã được và Đoàn Kịch nghệ nổi tiếng thời ấy phóng tác thành tuồng cải lương, lưu diễn từ Nam chí Bắc và được đồng bào các giới tán thưởng nồng nhiệt! Ông sáng tác đủ mọi chiều hướng: Trữ tình, Xã hội, Tranh đấu, Giáo dục,... nhưng có một điểm nổi bật hơn hết là mỗi tác phẩm của ông đều mang một sắc thái đặc biệt... đánh dấu một bước tiến mới cho bộ môn tiểu thuyết thời ấy. Nhưng, từ 20 năm qua... những tác phẩm của ông hầu hết bị thất lạc, bị mai một vì nạn Đất Nước qua phân! *** Anh em rất ngạc nhiên về cái thái độ của Nghị Lại chịu nước lép. Thấy sự đoàn kết rất có công hiệu, Dự trỏ vào đống lúa xếp đầy sân: - Đáng lẽ mẫu bảy thóc của anh Thi với anh San đã vào túi tham không đáy hết cả. Pha lo ngại: - Nhưng quyết hắn trả thù, mà thù này phải biết hắn tính toán kỹ lưỡng lắm. Thi gật đầu: - Cho nên hôm nào lúa của anh chín, ta nên rủ người đi cho đông, và phải cẩn thận lắm, kẻo thua mất. San xua tay: - Nếu tám sào của anh Pha bị hắn cướp hết thì thóc của chúng mình gặt về, đem chia ba. Mấy anh em rất cảm động. Một lát Pha nói: - Bác trưng bảo rằng thua, nhưng tôi cho là không đúng. Chúng mình ba lần gặt, đã được đến hai lần, dù có thua một lần ta cũng vẻ vang quá rồi. Dự tiếp: - Như thế tức là đằng nào mình cũng giữ phần thắng lợi rồi. Bốn người cười vui vẻ, nghỉ tay để uống nước. Bát chè tươi sóng sánh dưới ánh trăng. Tiếng thình thịch đập lúa ở sân các nhà theo luồng gió lạnh hiu hắt đưa đi làm cho làng An Đạo có vẻ hoạt động. Một lát, San nói: - Từ nay chúng ta phải giữ mình. Hắn có đến hằng trăm thứ khí giới, mà ta chỉ có trơ mỗi đứa hai cánh tay không. Dự đáp: - Nhưng hai cánh tay mạnh mẽ, hai cánh tay làm cho đất cát có giá trị. ... Mời các bạn đón đọc Bước Đường Cùng của tác giả Nguyễn Công Hoan.
Thừa Tự - Khái Hưng
Tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn" là tên gọi mà nay đã trở nên thông dụng. đó là sự xác định về một thiên tiểu thuyết có luận đề, tức là một câu chuyện hư cấu với những nhân vật và cốt truyện hư cấu, nhằm thể hiện một hoặc một vài tư tưởng xã hội, nhân sinh của tác giả. So với truyện truyền kỳ, truyện Nôm, truyện chương hồi, thì đây là một cơ cấu nghệ thuật khác, được tạo dựng theo mô hình tiểu thuyết châu Âu. Các tiểu thuyết gia Tự Lực văn đoàn đã đem chất liệu đời sống Việt Nam, ngôn từ Việt Nam đan dệt theo cái mô hình dù sao cũng còn xa lạ ấy, dân tộc hóa nó đi để nó có thể được tiếp nhận bởi công chúng Việt Nam. Và họ đã thành công trên hướng này. Link Suport:  Hồn bướm mơ tiên (1933), Nửa chừng xuân (1934), Tiêu Sơn tráng sĩ (1934), Gia đình (1936), Thoát ly (1937), Thừa tự (1938) của Khái Hưng; Đoạn tuyệt (1934), Lạnh lùng (1936), Đôi bạn (1937)… của Nhất Linh, Con đường sáng (1938) của Hoàng Đạo, v.v… đã gây được dư luận về các vấn đề xã hội và văn học. Người ta thấy các câu chuyện trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn thường là những chuyện tình, xoay quanh tình yêu, hôn nhân. Nhưng các chuyện tình ở đây khác với chuyện tình trong truyện Nôm tài tử giai nhân ở mức độ chống lễ giáo phong kiến quyết liệt không khoan nhượng của nó. Đây là chuyện tình của những con người đô thị, của những "chàng" những "nàng" tân thời, học chữ Tây, sống ở đô thị, hấp thụ văn minh châu Âu. Tình yêu và hôn nhân là lĩnh vực mà họ dễ vấp phải những gò bó của lễ giáo cũ; họ phải vượt qua để tự khẳng định nhu cầu tự do của mình. Họ đòi tự do trong cuộc sống, trước hết là tự do yêu đương, tự do kết hôn. Họ tìm thấy cái đẹp, thấy giá trị trong cuộc sống Âu hóa: cá nhân, tự do, hạnh phúc. Họ phủ nhận con người chức năng trong luân thường đạo lý Nho giáo. (2) Tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn tìm tòi và thể hiện những con người mới ấy, trong cuộc sống mới, đô thị hóa. Nó xây dựng một văn hóa nhân cách mới mà giá trị trung tâm là con người cá nhân tự do: không có những "con người mới" kiểu này thì trong cộng đồng xã hội người không thể có "dân chủ", "dân quyền". Lúc đầu, tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn bị phản đối quyết liệt: cả ở nội dung đòi hỏi giải phóng con người cá nhân tự do, cả ở hình thức văn học ít nhiều xa lạ với truyền thống. Nhưng rồi, từng bước một, tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn chinh phục được công chúng, trở nên quen thuộc với họ, nhất là lớp công chúng thị dân, học sinh. Và khi các nhà tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn đã đi hết chặng đường sáng tạo của họ, thì "kiểu dáng" tiểu thuyết họ tạo dựng đã trở thành cái nền, thành điểm tựa để nhiều nhà văn thuộc các xu hướng khác tiếp nhận để đi tới những thành tựu cao hơn. Ngày nay nhìn lại, chúng ta buộc phải nhận rằng: các tiểu thuyết gia Tự Lực như Khái Hưng, Nhất Linh đã không tạo ra được những tác phẩm kết tinh cỡ như một Số đỏ (của Vũ Trọng Phụng), một Chí Phèo (của Nam Cao), nhưng sẽ không công bằng nếu chúng ta không thấy rằng ngay ở những kiệt tác không phải của Tự Lực văn đoàn ấy vẫn có phần đóng góp của Tự Lực văn đoàn, bởi ảnh hưởng của lối viết tiểu thuyết kiểu mới do Tự Lực văn đoàn đề xuất có một ảnh hưởng rất đậm, rất mạnh, tác động đến hầu hết những người viết văn xuôi hư cấu đương thời. *** Tài xế! Tài xế đâu? Theo liền tiếng ông huyện Bỉnh gọi, tiếng “dạ” ran từ công đường vào tới nhà trong. Rồi một anh lính lệ thét lớn nhắc lại lời quan: - Bác tài! Bác tài đâu lên quan truyền! Một người từ vòm trại cơ đâm bổ ra, mắt như còn ngái ngủ, vừa chạy vừa cài vội khuy chiếc áo lương mới. Bỉnh đã đứng chờ ở bậc gạch xuống sân: - Tài xế! Đánh xe ra ga Hà Nội đón ông Hai, ông Ba. - Dạ. - Hai ông ở Nam lên chuyến hai giờ. Phải đi ngay mới kịp. Bây giơ mấy giờ rồi? Bỉnh móc túi lấy đồng hồ ra xem: - Năm giờ kém hai mươi. Từ đây ra Hà Nội chỉ độ nửa giờ là cùng. Còn kịp đấy. - Dạ. - Lúc về nhớ rẽ qua phố Hàng Buồm mua vài cân lẽ, vài cân cam với lại vài cân táo. - Dạ. - Bây, cầm lấy năm đồng. ... Mời các bạn đón đọc Thừa Tự của tác giả Khái Hưng.
Nhà Bác Học Mù - Lê Mai
Gián điệp là người đi thu lượm tin tức một cách bí mật khiến người bị theo dõi không biết rằng mình đang bị theo dõi. Yếu tố quan trọng của gián điệp là hoạt động bí mật vì nếu người bị theo dõi khám phá ra thì họ sẽ tìm cách thay đổi môi trường để không bị lộ mật. *** Một lần chót, Lệ Lan kiểm điểm lại mọi vật dụng và thực phẩm đựng trong một túi lớn được đan bằng sợi ni lông, rồi tắt lửa trên bếp hơi và ra khỏi phòng. Nàng khóa cửa rồi đứng nhìn đám trẻ nhỏ ngoài đường đang chạy đua ra bãi biển. Lúc đó chồng nàng là Yên Lịch vẫn mãi mê thảo luận với bác sĩ Giang Điền trong phòng khách. Đã ba tuần, Yên Lịch không ra khỏi nhà, chàng phải giam mình cả ngày lẫn đêm trong phòng nghiên cứu. Bác sĩ Giang Điền - y sĩ trưởng của Trung Tâm, đã nhiều lần thúc giục chàng nên đi hóng gió ngoài trời vài ba giờ. Mãi tới hôm nay Yên Lịch mới bằng lòng đi. Lợi dụng khoảng thời gian trống trong khi chồng nàng và Giang Điền chưa chấm dứt câu chuyện, Lệ Lan trong bộ trang phục thể thao ngắn gọn, đứng soi gương coi lại cách trang điểm của mình - đó là động tác thông thường của bất kỳ thiếu phụ nào, nhất là đối với một người trẻ đẹp và duyên dáng như nàng. Lúc ấy, tiếng bác sĩ Giang Điền lọt ra khỏi phòng khách: - Tôi không cho điểm ấy là quan trọng hơn hết. Vũ trụ tuyến là vấn đề sinh tử phải giải quyết. Lớp vỏ ngoài bằng nhôm của hỏa tiễn không đủ sức chống lại vì quá mỏng. Cần phải đặt những tấm bình phong bằng thép dày 5 xăng ti mét hay hơn nữa. Yên Lịch đáp: - Không được! Như vậy hỏa tiễn sẽ trở nên quá nặng. - Dĩ nhiên! Nhưng từ độ cao 30 ki lô mét trở lên, người nào không được trang bị thật đầy đủ và kỹ càng để che chở thân thể thì sẽ chết, vì trên đó sức tấn công của vũ trụ tuyến mạnh gấp 25 lần sức chịu đựng trung bình của cơ thể. Phải sớm tìm ra một giải pháp cho vấn đề trước khi chế tạo một "hành tinh nhân tạo" chở người theo. Yên Lịch cười rộ và tiếp lời bạn bằng một giọng khôi hài: - Dạ, thưa bác sĩ! Chúng tôi còn ở giai đoạn chế tạo một "Nguyệt cầu tí hon" không đủ sức và không có chỗ để mang theo một con mèo. ... Mời các bạn đón đọc Nhà Bác Học Mù của tác giả Lê Mai.