Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Trẻ Băn Khoăn (Demian: Câu Chuyện Tuổi Trẻ Của Emil Sinclair) - Hermann Hesse

"Chú chim non đấu tranh thoát khỏi quả trứng. Quả trứng là thế giới. Ai muốn được sinh ra, Trước hết, phải phá hủy một thế giới" Giống như chúng ta, nếu muốn trưởng thành, nếu muốn được sống thật sự thì phải dám bước ra khỏi ngưỡng cửa an toàn của bản thân. Câu chuyện kể về Emil Sinclair, một cậu bé được sinh ra trong một gia đình trung lưu và bước tới ngưỡng tuổi trưởng thành. Cậu có những nhận thức đầu tiên về sự tồn tại của “hai thế giới”, đang băn khoăn giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thiện và ác. Đây là câu chuyện của một người trẻ, đại diện cho biết bao người trẻ tuổi khác, bước lên hành trình đi tìm bản ngã của mình. “Tuổi Trẻ Băn Khoăn (Demian: Câu Chuyện Tuổi Trẻ Của Emil Sinclair)” là cuốn sách khơi gợi cảm hứng cho MV 'Blood, Sweat & Tears' và còn là mạch nguồn xuyên suốt album 'WINGS' của BTS. Trong chương trình Culture Plaza của đài KBS vào ngày 17/10/2016 các thành viên BTS đã chia sẻ suy nghĩ về tác phẩm này.  RM: “Chúng tôi cảm thấy có những nét tương đồng giữa cuốn sách và những điều mà nhóm muốn nhắn gửi nên chúng tôi đã sử dụng rất nhiều những chất liệu của tác phẩm trong jacket photos và MV”. Và suốt từ năm 2016 đến 2018, BTS đã liên tiếp phát hành chuỗi Album “Love Yourself” – tất cả đều được lấy cảm hứng từ cuốn sách này “Tuổi Trẻ Băn Khoăn (Demian: Câu Chuyện Tuổi Trẻ Của Emil Sinclair)” *** Văn hào lỗi lạc người Đức Hermann Hesse sinh ngày 2/7/1877 tại Đức. Cha mẹ ông đều là những nhà truyền giáo từng làm nhiệm vụ ở Ấn Độ, còn ông ngoại là nhà nghiên cứu nổi tiếng về Ấn Độ, bởi vậy tư tưởng của Hesse chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Cảnh gia đình trí thức ngoan đạo với sự pha trộn của nhiều nền văn hoá khác nhau ảnh hưởng rất sâu đậm trong con người nhà văn Hermann Hesse. Tâm hồn ông luôn chuyển động giữa hai cực Đông - Tây để đi tìm một nhân loại thuần khiết, một nhân loại sống trong cảnh bình yên. Hermann Hesse khởi nghiệp sáng tác bằng thơ ca năm 1898, với tập thơ "Romantische Lieder" (Các bài hát lãng mạn). Tuy nhiên, tên tuổi ông được biết đến nhiều hơn qua các tiểu thuyết "Peter Camenzind", "Demien", "Steppenwolf" (Sói đồng hoang), "Siddhartha" và "Das Glasperlenspiel" (Trò chơi với chuỗi hạt cườm). Con đường sáng tác của Hesse đi từ tình cảm cô đơn và nỗi buồn lãng mạn của cuối thế kỷ XIX đến tầm nhìn xa trông rộng, có trách nhiệm đối với xã hội ở thế kỷ XX, ước mơ và tin chắc vào tương lai tốt đẹp hơn của con người. Hermann Hesse đã từng viết : "Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này". Cuộc đời ông đã trải qua vô vàn những thăng trầm đau đớn, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học. *** Trọn một chu kỳ đã trôi qua kể từ khi tôi bắt tay lần cuối cùng với Hermann Hesse. Thật ra, thời gian dường như còn dài hơn, trong lúc ấy biết bao sự việc đã xảy ra – biết bao điều đã xảy đến trong lịch sử thế giới và ở cả giữa sự xôn xao, hỗn loạn của cái thời đại rối loạn này, biết bao điều đã đến từ sự tận tụy không ngừng nghỉ do bàn tay của chính chúng ta. Những biến cố bên ngoài, đặc biệt là sự sụp đổ không thể tránh được của nước Đức bất hạnh, cả hai chúng tôi đã thấy trước và cả hai đã từng chứng kiến – mỗi người ở cách xa hẳn trong không gian, xa đến nỗi có những lúc không thể liên lạc với nhau được, song luôn luôn cùng có nhau, luôn luôn nghĩ đến nhau. Lộ trình phổ quát của chúng tôi, rõ ràng là tiến hành một cách riêng rẽ qua lãnh vực tinh thần; theo một lề lối cái này xa cách với cái kia. Và tuy vậy trong một vài ý nghĩa thì chúng tôi là bạn đồng hành và là bằng hữu với nhau, hay có lẽ tôi nên nói, là một sự thân thiết không che đậy của những kẻ cùng chung một đoàn thể; bởi vì tôi thích nghĩ đến mối liên quan của chúng tôi, trong những giới hạn của sự gặp gỡ giữa các nhân vật của ông là Joseph Knecht và tu sĩ Jacobus Dòng thánh St. Benedict, trong tác phẩm Tuồng ảo hóa1 không thể xảy ra mà không “đầy thú vị và kéo dài ra cái cử chỉ lễ phép của những cái cúi đầu vô tận, giống như sự chào nhau giữa hai vị thánh hay những tay cự phách của giáo hội” – một cử chỉ lễ phép, nửa hài hước, trong đặc tánh của người Trung hoa, mà Knecht hết sức thích thú điều ấy, y nhận xét, Magister Ludi Thomas von der Trave cũng là bậc thầy quá khứ. Tự nhiên cho tới bây giờ tên tuổi của chúng tôi chỉ thỉnh thoảng mới được đề cập đến cùng nhau, và ngay khi việc này xảy ra trong cái cách thức kỳ lạ nhất nó lại làm cho chúng tôi dễ chịu. Một soạn nhạc gia tuổi tác nổi tiếng ở Munich, một người Đức cố chấp và giận dữ cay cú, trong một bức thư gửi cho nước Mỹ mới đây, đã gọi cả hai chúng tôi, Hesse và tôi, là “những kẻ đê tiện” bởi vì chúng tôi không tin rằng dân tộc Đức là những người cao cả và cao thượng nhất, là “một con chim kim tước ở giữa bầy chim se sẻ”. Chính sự so sánh thì đặc biệt yếu đuối và điều gàn dở hoàn toàn không ăn nhập gì với sự vô học, nội cái tính ngạo mạn bướng bỉnh phô bày ra đó khiến người ta sẽ nghĩ rằng, chỉ cái điều ấy không thôi, cũng đủ mang đến nỗi khốn khổ cho dân tộc xấu số này. về phần tôi, tôi đã chấp nhận X với sự cam chịu điều phán xét này của “linh hồn Đức”. Rất có thể ở trong nước tôi, tôi không là gì cả mà chỉ là một con chim se sẻ xám xịt thông minh, giữa một bầy chim hay hót đa cảm, và như thế, vào năm 1933, họ đã hết đỗi hân hoan tống cổ tôi đi, mặc dù ngày nay họ cố hết sức chứng tỏ là đã bị thương tổn sâu xa vì việc tôi không trở lại. Nhưng còn Hesse? Những gì là dốt nát, những gì là thiếu thốn văn hóa, để xua đuổi con chim họa mi này, bởi vì dù thực ông không phải là con chim kim tước giai cấp trung lưu từ lùm cây Đức quốc của nó, nhà thi sĩ trữ tình này mà Moerike đã từng ôm siết vào lòng với mối cảm kích, người đã tạo nên từ ngôn ngữ của chúng ta những hình ảnh thuần túy nhất và hình thức tinh tế nhất, người đã sáng tạo nên từ những bài hát và châm ngôn, sự sáng suốt thâm trầm có nghệ thuật nhất – gọi ông là một “kẻ đê tiện”, kẻ bội phản di sản Đức quốc của ông, đơn thuần chỉ vì ông giữ cái ý kiến riêng rẽ từ cái hình thức mà nó thường được ngụy tạo đến như vậy; bởi vì ông nói với người đời cái sự thực mà nguồn gốc của nó vốn là những điều từng trải hãi hùng nhất vẫn không thể làm cho họ hiểu, và bởi vì những hành động bất chánh đã phạm phải bởi cái chủng tộc này trong sự hãnh tiến của nó đã đánh động lương tâm ông. Nếu ngày nay, khi chủ nghĩa cá nhân quốc gia đang hấp hối, khi không một vấn đề đơn thuần nào còn có thể giải quyết dược từ một quan điểm quốc gia thuần túy, khi tất cả đã liên quan với “tổ quốc”, trở nên chủ nghĩa địa phương ngột ngạt, phi tinh thần và không hề tiêu biểu cho truyền thống Âu châu như một toàn thể những phẩm giá được kính trọng gì cả, nếu ngày nay cái tinh thần quốc gia chân thật, đặc biệt thuộc về dân gian, vẫn còn bất cứ giá trị nào – và một giá trị tốt đẹp có thể nó vẫn còn giữ – rồi thì chắc chắn điều cốt yếu là, như bao giờ cũng vậy, không phải là cái ý kiến huyên náo om sòm mà là sự thành tựu hiện tại. Đặc biệt ở nước Đức, những kể nào ít bằng lòng với những điều thuộc về Đức quốc thì bao giờ cũng là những người Đức chân thật nhất. Và ai có thể không thấy rằng, nội cái việc làm giáo hóa lao khổ của Hesse, con người văn sĩ – ở đây tôi không nói đến nhà văn sáng tạo – bao quát những hoạt động tận tụy của ông như nhà xuất bản và người sưu tầm, có cái phẩm chất đặc biệt Đức quốc? Cái ý niệm “văn học thế giới” tác tạo ra bởi Goethe, thì tự nhiên và bẩm sinh nhất đối với ông. Một trong những tác phẩm của ông, mà thật ra nó đã xuất hiện ở Mỹ, “xuất bản trong những lợi tức công cộng bởi uy thế của Người Bảo quản Quyền Sở Hữu người Ngoại Quốc, 1945”, mang đúng cái tiêu đề này: “Thư viện Văn học Thế giới” và là cái chứng tích đọc rộng và nhiệt thành với việc đọc sách, đặc biệt thân thuộc với những đền đài cẩn trọng của Đông phương và của một người theo chủ nghĩa nhân bản cao thượng thân thiết với “những tặng vật thiêng liêng và cổ nhất của tinh thần con người”. Các nghiên cứu đặc biệt của ông là những tiểu luận viết về Francis Assisi và Boccaccio mang niên hiệu 1904, và ba chương của ông viết về Dostoievski mà ông gọi là Blick in Chaos (Thoáng nhìn vào sự hỗn loạn). Những ấn bản truyện trung cổ, trung thiên và truyện ngắn của các văn gia Ý tiền bối, những chuyện thần tiên Đông phương, Ca khúc của các thi sĩ Đức, các ấn bản mới của Jean Paul, Novalis và các nhà lãng mạn Đức khác mang tên ông. Chúng tiểu biểu việc làm cần mẫn, trang trọng, chọn lọc, sắp đặt bài vở, tái bản và viết những bài tựa giới thiệu – đủ choán nhiều cuộc sống của một người cầm bút thông thái. Với Hesse nó chỉ là một sự yêu thích quá nhiều (và năng lực nữa chứ) một hoạt động tiêu khiển ưa thích thêm vào với cá nhân ông, một cá nhân lạ thường nhất, làm việc – làm việc mà trong nhiều bình diện của tưởng đã động cập và liên quan đến những vấn đề của thế giới và của cái tự ngã mà không để ý đến những người đương thời với ông. Ngoài ra, ngay như một thi sĩ, ông thích cái vai trò nhà xuất bản và người bảo quản văn khố, một trò chơi của cuộc khiêu vũ hóa trang đằng sau bề ngoài của kẻ “đưa ra ánh sáng” các trang giấy của những kẻ khác. Thí dụ lớn nhất của điểm này là tác phẩm tuyệt vời của tuổi già của ông, Tuồng ảo hóa, tác phẩm rút ra từ tất cả các nguồn văn hóa nhân loại, cả Đông phương và Tây phương, với phụ đề “Thử Phác họa Cuộc đời của Magister Ludi Thomas Knecht cùng với Di cảo của Knecht, Hermann Hesse xuất bản”. Lúc đọc nó tôi đã cảm thấy rất quả quyết rằng, (như tôi đã viết cho ông vào lúc đó), biết bao yếu tố mô phỏng, sự mơ hồ và nhẹ chế giễu của một tiểu sử dựa trên những ước đoán lượm lặt được, nói tóm lại, bằng lời lẽ khoái hoạt, đã giúp giữ trong vòng những giới hạn tác phẩm cuối cùng này, với sự tiến bộ trí năng hiểm nguy và việc góp phần vào sự bi đát hiển nhiên của nó. Người Đức ư? Vâng, nếu đó là câu hỏi, thì tác phẩm cuối cùng này cùng với hết thảy tác phẩm trước quả là người Đức, người Đức với một độ gần như không thích hợp, người Đức trong sự lỗi lầm của nó ‘đã từ chối cố gắng làm hài lòng thế giới, một sự khước từ mà chung cục sẽ là vô hiệu, bất cứ điều gì mà người tuổi tác có thể làm, bởi danh tiếng thế giới; vì một lý do giản dị thì đây là thuộc về người Đức trong tuổi già, hạnh phúc, tự do và ý nghĩa trí thức mà tên tuổi Đức quốc nợ nó cái tiếng tốt nhất, mà đối với điều ấy nó nợ sự giao cảm của nhân loại. Tác phẩm táo bạo và trong trắng này đầy sự lạ lùng và đồng thời tinh thần cao cả, thì đẩy truyền thống, trung tín, ký ức, kín đáo – quyết không hề bị chuyển nghĩa. Nó xây dựng sự thân thiết và quen thuộc với một tinh thần mới. Vâng; bình diện cách mạng – cách mạng không trực tiếp với chính trị hoặc ý thức xã hội, nhưng có phần thuộc về tâm linh, một thứ cách mạng đầy thi vị; trong cái phương thức chính tông và chân thật thì nó là tiên tri của tương lai. Tôi không biết làm cách nào khác diễn tả sự đặc biệt, sự hỗn tạp và sự quyến rũ vô song mà tác phẩm ấy gợi ra cho tôi. Nó sở hữu cái thanh sắc lãng mạn, mỏng manh, sự phức tạp, tính tình ưu uất của linh hồn Đức – khí quan và cá nhân buộc chặt với những yếu tố rất khác biệt và ít xa vời đặc tính của tình cảm, những yếu tố của sự phê bình ở Âu châu và của Tâm lý phân tích pháp. Mối liên quan của nhà văn Swabian trữ tình và chất phác này với sự phân tích sâu xa về luyến ái quan của thành Vienne chẳng hạn, đã được phô diễn trong tác phẩm Narziss und Goldmund, một cuốn tiểu thuyết thi vị, độc đáo, hấp dẫn tuyệt vời và là cái tinh thần nghịch thường hấp dẫn nhất của loại đó. Sự hấp dẫn lạ thường và độc đáo của tác giả này không thua gì thiên tài Tiệp Khắc – Do thái, Franc Kafka mà trước đây ông ta đã được gọi là một “Hoàng đế không ngai của văn xuôi Đức” và đối với ông ta, ông đã phê bình tỏ lòng tôn kính ở mỗi cơ hội thuận tiện – trước rất lâu, trước khi tên tuổi của Kafka trở thành cái mốt ở Paris và New York như thế. Nếu ông là “người Đức”, rõ ràng về ông không có chi xấu xa hay đáng trách. Sự ảnh hưởng đầy phấn khích của tác phẩm Demian, đến cả một thế hệ ngay sau cuộc đệ nhất thế chiến, từ ngòi bút của anh chàng Sinclair huyền diệu, chắc chắn không sao quên được. Với sự chính xác kỳ bí, tác phẩm thơ mộng này đã đánh vào cân não thời đại và kêu gọi lòng hoan hỉ biết ơn của cả một thế hệ tuổi trẻ mà họ tin rằng sự chú giải cuộc sống nội tâm của họ đã mọc dậy từ giữa con người họ – trong khi đó thì một người đã bốn mươi hai tuổi đầu dâng hiến cho họ những gì mà họ tìm kiếm. Và cần bày tỏ rằng, như một cuốn tiểu thuyết thực nghiệm, thì cuốn Sói đồng hoang táo bạo đâu có thua gì Ulysses2 và The Counterfeiters3. Đối với tôi, tác phẩm cả đời ông, bắt nguồn từ chủ nghĩa lãng mạn của quê hương Đức quốc, trong mọi cơ hội lại là chủ nghĩa cá nhân một cách kỳ lạ, lúc thì nó nóng nảy buồn cười, khi thì nó tỏ vẻ khao khát sự làm mất thiện cảm một cách huyền bí từ thế giới và thời gian, những chí nguyện tinh thần cao cả và thuần khiết nhất và những việc làm vất vả của thời đại chúng ta. Cái thế hệ văn học mà tôi thuộc vào, trước hết tôi chọn ông, người mà nay đã thực hiện được cái tuổi già đạt đạo, như một người gần gũi và thân thiết nhất với tôi và tôi đã theo dõi sự khai triển của ông với một mối giao cảm nổi bật lên từ những khác biệt cũng như những tương tự của chúng tôi. Tuy nhiên, điều sau đôi khi đã làm tôi hết sức ngạc nhiên. Ông đã viết những điều – tại sao tôi sẽ không nhìn nhận nó nhỉ? – như là Badegast và quả thật, có nhiều trong tác phẩm Tuồng ảo hóa, đặc biệt là sự giới thiệu trang trọng, mà tôi đã đọc và cảm thấy, “như thể nó là một phần của tôi”. Tôi cũng yêu Hesse như một con người, tính vui vẻ thâm trầm của ông, những lối nô đùa ầm ĩ, cái đẹp xa vời của cái nhìn của ông, ôi chao, cặp mắt đau khổ, mà ánh biếc của nó đã làm sắc sảo cho cái khuôn mặt của lão nông phu miền Swabian tinh khôn sắc sảo. Tôi mới chỉ biết ông một cách thân mật lần thứ nhất, trước đây mười bốn năm, khi đau đớn do sự xúc động về sự thất bại của xứ sở tôi và quê hương tôi, tôi thường ở với ông trong căn nhà và khu vườn xinh xắn của ông ở Ticino. Trong những ngày đó tôi đã thèm thuồng cuộc sống của ông biết bao! – không nói chỉ việc ẩn dật của ông ở một xứ tự do, mà trên hết cả là cái mực độ khó nhọc để thu đoạt cái tinh thần tự do mà do việc làm ấy ông đã vượt hơn tôi, bởi cái triết lý tách riêng ra tất cả các chính sách Đức quốc của ông. Không có gì vui thú hơn, xoa dịu hơn trong những ngày xáo trộn nọ hơn là sự đàm thoại với ông. Bởi vì trong một chu kỳ và hơn nữa, tôi đã từng thúc giục là tác phẩm của ông phải được ban tặng giải thưởng văn chương quốc tế của nước Thụy điển. Điều ấy cũng không đến ngay vào giáp lục tuần của ông, và sự chọn lựa làm công dân của quốc gia trung lập Thụy Điền sẽ là một lối xử thế khôn ngoan, ở một cải thời khi mà Hitler (vì Ossielky) đã ngăn cấm việc nhận giải thưởng cho tất cả công dân Đức ở bất cứ lúc nào. Nhưng nay cũng đã có nhiều danh dự xứng đáng hơn, khi một tác giả bảy mươi tuổi thọ chính ông ta tưởng thưởng cho mình cái tác phẩm dồi dào phong phú với một cái gì tuyệt vời cao nhã, tiểu thuyết giáo dục trọng đại của ông. Giải thưởng này mang đến khắp thế giới cái tên tuổi mà cho tới nay đã không được chú ý thích đáng tại khắp các quốc gia và cũng như nó không thể nào không làm nổi lên thanh danh của tên tuổi này ở Mỹ. Vì vậy tôi lấy làm thích thú viết một lời tựa giao cảm cho ấn bản Anh ngữ của tác phẩm Demian nồng nàn đáng ca ngợi này, tác phẩm được viết trong một thứ văn xuôi vị thi khích động, được viết trong thời trung niên cường tráng của ông. Một tác phẩm mỏng manh, nhưng đó là những tác phẩm cỡ nhỏ thường hàm chứa cái cơ năng vĩ đại nhất, chẳng hạn như tác phẩm Die Leiden des jungen Werthers trong việc lưu tâm đến kết quả của nó ở Đức, thì Demian mang một sự tương tự xa xôi. Tác giả ắt đã có một giác quan rất linh hoạt ở hiệu lực của khả năng sáng tạo, vượt trên cá nhân ông như đã được chứng tỏ bởi cái chủ tâm không cho rõ nghĩa của nhan đề, “Câu chuyện của Tuổi Trẻ”, mà nhan đề ấy có thể ứng dụng cho cả thế hệ thanh niên tuổi trẻ cũng như cho một cá nhân. Cảm tưởng này cũng đã được bày tỏ bởi cái sự kiện là Hesse, không muốn cho tên mình xuất hiện trên cuốn sách đặc biệt này mà nó đã được biết đến và trở thành đặc trưng tiêu biểu. Thay vì thế, ông dùng bút hiệu là Sinclair – một tên được tuyển chọn trong giới Hoerlderlin – cho in trên cái bìa rời bên ngoài và trong một thời gian dài đã cẩn thận giấu tên tác giả của ông. Lúc đó tôi đã viết thư cho ông giám đốc nhà xuất bản, ông s. Fischer củng là người xuất bản tác phẩm độc đáo, cảm động này, và “Sinclair” có thể là kẻ nào vậy. Ông ta đã nói dối một cách trung thành: ông nhận bản thảo từ Thụy điển qua một người thứ ba. Song le, sự thật dần dà trở nên biết được, một phần qua sự phê bình phân tích bút pháp nhưng một phần cũng qua những sự khinh xuất để lộ ra. Tuy nhiên, tới lần tái bản thứ mười là ấn bản đầu tiên có mang tên Hesse. Ở cuối tác phẩm (thời gian là năm 1914), Demian nói với bạn cậu Sinclair: “Sẽ có chiến tranh… Nhưng Sinclair ạ, cậu sẽ thấy rằng đây chỉ là mới bắt đầu. Có lẽ nó sẽ trở thành một cuộc chiến tranh trên một bình diện khổng lồ. Nhưng ngay cả điều ấy nó cũng chỉ là mới khởi đầu. Thế giới mới đang bắt đầu: và đối với những kẻ nào còn khư khư bám vào cái cũ thì thế giới mới ấy sẽ là một điều khủng khiếp. Cậu sẽ làm gì?” Câu trả lời đúng sẽ là: “Nâng đỡ cái mới mà không hy sinh cái cũ”. Những tên nô bộc tuyệt nhất của cái mới – Hesse chẳng hạn – có thể là người hiểu biết và yêu cái cũ và mang nó vào trong cái mới. Mời các bạn đón đọc Tuổi Trẻ Băn Khoăn (Demian: Câu Chuyện Tuổi Trẻ Của Emil Sinclair) của tác giả Hermann Hesse.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nàng Tóc Đỏ
Tuổi thơ vắng bóng sự hiện diện của người cha, Cem theo thầy học nghề đào giếng để rồi dần coi người đàn ông trung niên nghiêm khắc ấy như một người cha trong lòng. Cậu không thể ngờ cuộc đời mình vĩnh viễn thay đổi, mùa hè rực lửa ấy, khi cậu gặp một người đàn bà tóc đỏ… Phương Tây, Oedipus vô tình giết cha. Phương Đông, Rustam đâm chết Sohrab mà không hay biết đó là con trai mình. Hai truyền thuyết Hy Lạp và Ba Tư ấy hợp lại làm một, phủ bức màn ngụ ngôn bí ẩn, ám ảnh quá trình vật vã trưởng thành của một cậu trai trên nền một Istabul những năm 1980 quay cuồng thay đổi. Nàng tóc đỏ là câu chuyện về sự mất kết nối giữa các thế hệ, về gia đình và tình yêu, Đông và Tây, truyền thống và hiện đại. Có vẻ ngắn gọn hơn Orhan Pamuk mà ta quen, nhưng vẫn tìm thấy trong cuốn sách này, không lẫn vào đâu được, sức cuốn hút cố hữu đến từ bút lực của một nhà kể truyện bậc thầy. “Đẹp lặng lẽ.” - 1843 “Cuốn tiểu thuyết thứ 10 xuất sắc của Pamuk… khiến độc giả cảm giác như vừa bất thần chui ra khỏi một cái giếng sâu bước vào ánh sáng chói lòa.” - Observer (London) “Một cái kết khiến ta phải lật sách đọc lại từ đầu.” - Sunday Times “Thấm đẫm cảm thông cùng cảm thức về nơi chốn, cuốn sách vạch nên chặng đường một cậu trai bước vào tuổi trưởng thành và Istanbul bước vào sự thay đổi không thể vãn hồi.” - Financial Times *** Tiểu thuyết "Nàng tóc đỏ" của Orhan Pamuk (Thiên Nga dịch, Nhã Nam và NXB Dân Trí, 2020) có dung lượng không như các tiểu thuyết khác của cùng tác giả: "Tên tôi là Đỏ", "Tuyết", "Bảo tàng ngây thơ"… nhưng "Nàng tóc đỏ" không vì thế mà thiếu sức nặng của văn hóa, sự mê đắm trong cái đẹp cũng như những giằng xé Đông - Tây trong lòng xã hội Thổ Nhĩ Kỳ thế kỷ XX. Cuộc tìm kiếm câu trả lời tấn bi kịch "Nàng tóc đỏ" là tác phẩm về mối quan hệ cha con. Một mối quan hệ phức tạp mà nhà phân tâm học Freud đã dùng tên nhân vật trong thần thoại Hy Lạp để đặt tên cho phức cảm đã trở thành điển phạm trong việc phân tích nhiều tác phẩm văn học - nghệ thuật: phức cảm Oedipus. Nhưng Pamuk nhảy cóc qua Freud để đi tìm gặp Oedipus trong kịch của Sophocles (496-406 TCN). Ngay đề từ tác phẩm, nhà văn đã dẫn một câu thoại trong vở "Vua Oedipus" của kịch tác gia Hy Lạp cổ đại: "Oedipus: Biết tìm nơi đâu dấu vết của tội ác ngày xưa". Có thể xem toàn bộ cuốn tiểu thuyết là cuộc tìm kiếm câu trả lời trong mớ hỗn độn của "ngày xưa" đó. Nhưng xưa đến đâu? Là thời xưa ở một nước Thổ của thế kỷ trước, có cậu thiếu niên học nghề đào giếng, sau trở thành một nhà thầu. Hay xưa như thần thoại Hy Lạp? Pamuk dường như trở lại nghệ thuật của những nhà vẽ tiểu họa trong cuốn tiểu thuyết "Tên tôi là Đỏ". Khi vạn vật đều bình đẳng, cậu chàng học việc đứng ngang hàng với người anh hùng huyền thoại. Tất cả đồng hiện, xoắn bện với nhau trong cùng một thực tại và trở thành niềm ám ảnh cả đời nhân vật chính. Anh thấy ở Oedipus một sự đồng cảm, một người bạn có thể hiểu được anh. Trong câu chuyện của anh lúc nào cũng có bóng hình của Oedipus, còn Nàng tóc đỏ hiện ra như một chất xúc tác để hoàn thành nốt tấn bi kịch, hay như ở đây ta có thể gọi là "lời tiên tri". Một lời tiên tri anh tự phán cho mình và càng muốn vượt qua nó, anh ngày càng sa vào nó. Trong nhiều tiểu thuyết của Orhan Pamuk lúc nào cũng tồn tại một tội ác. Nhưng không có tội ác nào rõ ràng và dễ nhận diện, đoán định ngay từ sơ khởi như trong "Nàng tóc đỏ". Một tội ác kinh khủng, nhưng không cưỡng lại. "Nàng tóc đỏ" vì thế tinh gọn và mới mẻ theo nhiều lẽ, một trong số đó chính là việc chúng ta nhận ra trong bóng hình những câu chuyện quen thuộc của ông, có thể được kể lại theo một cách hoàn toàn khác. Câu chuyện Đông - Tây Nhưng "Nàng tóc đỏ" không chỉ có hình bóng Oedipus mà còn có Rostam, để cân bằng sự hiện diện của cả phương Đông và phương Tây trong các tác phẩm của Orhan Pamuk. Rostam là vị anh hùng của thần thoại Ba Tư, nhân vật chính trong thiên sử thi "Shahnameh" của nhà thơ Ferdowsi (940-1020). Rostam có một người con trai mà bản thân ông cũng không biết, Sohrab. Trong một cuộc chiến, Rostam không nhận ra con và đã giết Sohrab. Nếu Oedipus là câu chuyện con giết cha thì Rostam là câu chuyện cha giết con, trong sự "vô minh". Vậy thì, nếu tội ác sinh ra từ cái không biết thì liệu có thể tha thứ, hay chính xác hơn chính vì không biết mới sinh ra tội ác. Bất chấp câu chuyện được kể lại theo một trình tự mạch lạc, "Nàng tóc đỏ" vẫn khiến ta trăn trở bởi sự bất lực của con người chống lại định mệnh. Rostam không phải là phản đề của Oedipus, nó là sự bổ sung toàn vẹn, chi phối tư tưởng của Pamuk trong tiểu thuyết này. Hình ảnh chiếc giếng cũng trở đi trở lại như một ẩn dụ tăm tối của tìm kiếm, khám phá nội tâm của sâu xa và phức tạp của con người. Nó là nơi hai thầy trò đi tìm nguồn nước, là nơi khởi đầu cho tội ác đầu tiên và cũng là nơi phán xử tội ác đầu tiên đồng thời sinh ra tội ác thứ hai. Nó trở thành một thông đạo, gắn kết cả câu chuyện, để chúng nối với nhau trong sự xuyên suốt tưởng chừng bảng lảng mà vững chắc. Cuốn tiểu thuyết này cũng theo cấu trúc xoay vòng và lặp lại. Khi ta tưởng đã đi đến cuối cuốn tiểu thuyết thực chất ta đang trở lại điểm xuất phát từ trang đầu tiên. Độc giả sẽ tự hỏi mình đang đọc câu chuyện do người cha kể hay đọc câu chuyện do người con "tiếm ngôi" cha để kể. Một cuốn tiểu thuyết "quy hồi" các chủ đề mà tác giả đeo đuổi. Khi Đông và Tây đồng hiện trong một không gian, dù cách biệt về địa lý, thời gian, con người thuộc về văn minh phương Đông hay phương Tây vẫn "nhận mặt" nhau ở những tương đồng thuộc về phức cảm sâu thẳm nhất.  Nhà văn duy nhất của Thổ Nhĩ Kỳ đoạt giải Nobel Orhan Pamuk là nhà văn duy nhất của Thổ Nhĩ Kỳ đoạt giải Nobel Văn học tính đến nay. Có nhận định cho rằng giải Nobel là kết thúc sự nghiệp của một nhà văn, vì sau giải thưởng họ không viết hoặc không thể viết được tác phẩm nào hay như trước. Nhưng với Pamuk, ông đã chứng minh điều ngược lại qua "Nàng tóc đỏ". Đây cũng chỉ là cuốn tiểu thuyết thứ 10 của ông. Ngay từ lúc cầm bút, những tác phẩm và phát ngôn của ông thường gây tranh cãi trong chính tổ quốc của mình. Bản thân ông từng bị những phần tử cực đoan đe dọa tính mạng. Từ lâu, các tác phẩm của Pamuk đã trở nên quen thuộc với độc giả Việt Nam, nổi tiếng nhất là tiểu thuyết được đánh giá cao của ông: "Tên tôi là Đỏ" Huỳnh Trọng Khang *** Đọc "Nàng tóc đỏ" sẽ có cảm giác như vừa bất thần chui ra khỏi cái giếng sâu, bước vào ánh sáng chói lòa. Một cái kết bất ngờ, đủ sức mê hoặc tất cả. Cuốn tiểu thuyết thứ mười xuất sắc của Pamuk, tập trung các mối quan hệ cha - con, đã khơi sâu đáy ám ảnh, tội lỗi trong mỗi người, để làm bùng lên sự thật về danh tính, nỗi ám ảnh nhân sinh ở nơi mảnh đất giao thoa Đông - Tây. Cha - con và bi kịch mất kết nối thế hệ Cốt truyện của cuốn tiểu thuyết rất đơn giản: Một thợ đào giếng giỏi, Mahmut, thuê Cem, 16 tuổi, học việc của mình. Họ bắt đầu công việc tìm kiếm nước ở vùng ngoại ô khô cằn của Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Sau giờ làm việc, họ thường nghỉ ngơi và mua những nhu yếu phẩm ở thị trấn Ongoren. Ở đó, Cem gặp nàng tóc đỏ. Nàng trông có vẻ gấp đôi anh tuổi anh nhưng chàng ta không thể nào tránh khỏi sự si mê, và theo đuổi nàng. Về sau, anh phát hiện nàng là diễn viên của gánh hát dân gian. Sau buổi tối xem nàng diễn, anh và nàng tóc đỏ có một đêm ân ái. Đó là bước ngoặt khiến cuộc đời Cem hoàn toàn thay đổi. Tại sao anh sơ ý làm rơi thùng đất xuống người thầy đang đào dưới giếng sâu, rồi để lại thầy một mình, quay trở về thành phố.  Cem đã sống cả cuộc đời sau đó với nỗi ám ảnh giết người. Đó lại là người thầy đáng kính anh đã ngấm ngầm xem là cha.  Anh xem xét những tài liệu xung quanh chuyện Oedipus giết cha và Rostam vô tình giết con mình. Hai bi kịch cổ đại ấy, một ở Hy Lạp, một ở Ba Tư, nhưng đều trở thành bóng ma ám ảnh cả cuộc đời nhân vật chính.  Đến khi mọi việc diễn ra như những câu chuyện thần thoại, tựa một lời tiên tri đã định sẵn về số mệnh của Cem mà anh không thể nào chối bỏ. Tại sao lại không thể cưỡng lại vận mệnh, chính bởi cảm xúc sâu thẳm thật sự của Cem, nỗi dày vò và niềm kính trọng của anh đối với thầy Mahmut. Anh có một người cha, nhưng chưa bao giờ có cảm giác gần gũi với cha. Và Mahmut lại là người duy nhất đem đến cho anh cảm giác kết nối cha – con, nhưng chính anh phá hủy đi cái kết nối ấy, để rồi dần đánh mất đi ngay cả danh tính của mình. Cái giếng - biểu tượng của tội lỗi và ám ảnh Cái giếng xuất hiện nhức nhối trong tiểu thuyết Nàng tóc đỏ của Orhan Pamuk, mang đầy cảm giác tội lỗi và xấu hổ, ẩn nấp trong bóng tối, đầy de dọa và ám ảnh. Heraclitus nói rằng sự thật nằm ở đáy giếng Hành động của Cem được thể hiện đặc quánh ở biểu tượng cái giếng, nó len lỏi khắp cuộc đời anh, và làm “vấy bẩn” toàn bộ cuộc đời sau này, bằng tất cả những ám ảnh mà nó biểu lộ. Với biểu tượng cái giếng, sự mâu thuẫn, mất kết nối thế hệ, mà ở đây cụ thể là kết nối cha - con, ta có thể dễ dàng nhận thấy mối liên hệ giữa Paul Auster và Orhan Pamuk. Ở Nhạc đời may rủi, hay Moon Palace ta có thể nhìn thấy vòng xoắn trong mối quan hệ cha – con mà Paul đã dựng nên, đầy cô độc, và thất lạc. Cuộc đời Cem có cảm giác về mối quan hệ cha con lần đầu tiên bắt đầu từ cái giếng, và cuộc đời Cem, kết thúc ở chính cái giếng mà anh đã bỏ lại người thầy khốn khổ của mình khi ấy. Anh đã có thể chìm sâu giếng đáy giếng, nơi dòng nước lấp lóa, chực chờ đón anh, để anh phải đối diện với tất thảy tội lỗi mình gây ra, cũng là để anh giải thoát tất cả những bóng ma ám ảnh đeo đẳng anh cả đời. Chương cuối cùng của cuốn sách được kể bởi người phụ nữ tóc đỏ, khiến cho mọi thứ buồn tẻ trước đó trở nên bừng sáng. Nó là đoạn văn phi thường, khiến các chủ đề lỏng lẻo, mơ hồ của những câu chuyện trước đó chặt chẽ với nhau, mở ra cho người đọc những quan điểm mới đáng ngạc nhiên về các sự kiện của cuốn tiểu thuyết. Vòng xoắn cuối cùng của cuốn sách khiến ta nhớ đến cách Orhan Pamuk đã dùng trong Tên tôi là đỏ, nó khiến bí mật được khai mở, như ánh sáng lấp tỏa tỏa lên từ đáy giếng, đột ngột và chói mắt. Chương cuối cùng tuyệt vời của cuốn sách đã khiến nhiều nhà phê bình cho rằng: “Một cái kết khiến ta phải lật sách đọc lại từ đầu”. Istanbul - nàng thơ của Orhan Paumuk Istanbul, nhà của ông và nàng thơ của ông, là nhân vật luôn hiện diện trong tiểu thuyết của ông. Orhan Pamuk từng nói "Istanbul là số phận của tôi". Thành phố của ông luôn nằm giữa những ranh giới khắc khoải của Đông và Tây, thế tục và thiêng liêng, truyền thống và hiện đại, đã làm tăng thêm căng thẳng cho mọi câu chuyện ông sáng tác. Câu chuyện trong Nàng tóc đỏ diễn ra trên bối cảnh thành phố Istanbul từ những năm 1980, đang trong một guồng quay thay đổi điên cuồng, với những cao ốc mọc lên như nấm, những con đường dần xóa bỏ mọi không gian…  Cũng giống như trong Tên tôi là đỏ, Orhan Pamuk trăn trở với nghệ thuật vẽ tiểu họa đang dần phai tàn, thì ở Nàng tóc đỏ, truyền tải một ám ảnh khó quên, trữ tình và nghiệt ngã, về nghệ thuật đào giếng ở vùng nông thôn Thổ Nhĩ Kỳ trước khi máy móc xuất hiện và hiện đại. Khoảng cách giữa các thế hệ và hậu quả của sự thay đổi đột ngột đã khiến Cem, và những người khác giống anh dân mất kết nối với gốc rễ của họ. Khi Orhan Pamuk viết về đoạn nàng tóc đỏ nhìn đống đổ nát và nói rằng, không ai từng kể những câu chuyện cũ này cho các sinh viên nghe nữa, nhưng bằng cách nào đó, đôi khi mọi người vẫn biết, sâu thẳm, những điều họ đã quên, Orhan Pamuk muốn nói điều gì với chúng ta? Phải chăng đó là điều ông luôn muốn nói trong cả mười cuốn tiểu thuyết của mình, về nỗi day dứt, nỗi hoài niệm, u sầu của thành phố Istanbul trong ký ức. Mời các bạn đón đọc Nàng Tóc Đỏ của tác giả Orhan Pamuk & Thiên Nga (dịch).
Một Gánh Xiếc Qua
Đó là một câu chuyện có thể khiến độc giả đọc xong không nhớ được tên nhân vật. Cũng như, các tiểu thuyết của Patrick Modiano không bao giờ đòi hỏi người đọc quá nhiều, ngược lại, chúng mang lại cả một thế giới huyền hoặc và tinh tế của tuổi trẻ, với nỗi hoang mang, kèm theo đó là lòng can đảm, những nỗi đau, và cả niềm hân hoan tràn ngập. Đến cả nỗi buồn, trong văn chương của Modiano, lúc nào cũng như thể sắp nhẹ nhõm bay đi. Một gánh xiếc qua giống như một chương đặc biệt của bản nhạc dài bao gồm cả Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối và Từ thăm thẳm lãng quên. Một bản nhạc đặc biệt da diết, như để nói lên một điều: Dẫu ở độ tuổi nào, bao giờ người ta cũng quá trẻ khi sống ở Paris. *** Trước khi bắt đầu đọc Một gánh xiếc qua thì mình đã từng xem trước một số bài đánh giá và cảm nhận về tác phẩm này, vì “đọc sách Modiano để trở thành chúa tể” chứng tỏ những cuốn sách này sẽ rất khó nhai. Thật may trí nhớ hạn hẹp của mình đã không phá hỏng trải nghiệm với Một gánh xiếc qua, ngược lại những thông tin mà mình nhớ được từ các bài review đã giúp mình hiểu được một số chi tiết trong truyện, cũng như tự nghiệm thêm một số thứ mà có lẽ phải nhiều ngày sau mình mới nhận ra được. Bài viết này là những cảm nhận đầu tiên của mình nên sẽ còn thiếu sót. Một ngày nào đó mình sẽ viết một bài cảm nhận đầy đủ hơn, chắc vậy. Một gánh xiếc đã qua có một câu chuyện đơn giản đến mức làm người đọc cảm thấy khó hiểu vì sao nó có thể tối giản như thế. Cuốn sách là một bản thuật lại diễn biến một chuyện tình xảy ra trong năm ngày liên tục từ một ngày thứ 5 của tháng 11 năm 1963 ở thành phố Paris. Cực kỳ đơn giản, nhưng cũng cực kỳ khó hiểu. Ta hiểu đơn giản đây là một chuyện tình, nhưng khó hiểu vì sao chuyện tình xảy đến quá nhanh và kết thúc cũng rất nhanh. Ta biết đơn giản đây là mối tình chân thành Obligado và Gisele, nhưng rồi sẽ cảm thấy khó hiểu vì trong những lời nói dối liệu họ có thật sự yêu nhau không. Ta đọc cái kết đơn giản nhưng cũng đầy chóng vánh sau 162 trang giấy, và khi suy ngẫm hồi lâu, một loạt câu hỏi sẽ đổ ra vì cái kết quá đỗi đơn giản như thế. Chúng ta được nghe Obligado kể về mối tình năm ngày của anh với Gisele, một cô gái xinh đẹp với quá khứ bí ẩn và sự chuẩn bị cho cuộc đời mới ở Rome. Nàng sẽ dẫn Obligado và người đọc tới một loạt các câu hỏi về thân phận thực sự của nàng, rồi nàng đưa chúng ta gặp gỡ những con người bí ẩn và một loạt câu hỏi khác. Thoạt tiên, ta sẽ tưởng tác giả đang sử dụng cốt truyện đơn giản kia để che lấp hành trình truy tìm danh tính thật sự của Gisele, nhưng khi tất cả sự thật sắp hiện ra trước mắt, bạn nhận ra dòng chữ kết thúc cho mối tình và cả cuốn sách đã hiện lên trước mắt bạn rồi. Vậy mục đích của tác giả là gì? Patrick Modiano chỉ muốn hé lộ chút thông tin về quá khứ của Gisele, hay tìm cách làm độc giả bàng hoàng và bất ngờ khó tả, hay chỉ đang mượn tay Obligado để kể cho chúng ta nghe một câu chuyện vỏn vẹn 160 trang sách? Chẳng ai biết được ý đồ của tác giả, và có khi chính ông cũng không xác định được ý đồ thật sự của mình là gì. Tác giả bày ra một mê cung với điểm đầu là văn phòng cảnh sát nơi Obligado và Gisele lần đầu gặp nhau, đường đi là năm ngày diễn ra chuyện tình, và điểm cuối ở khách sạn khi cuốn sách kết thúc. Nhiệm vụ của người đọc là băng qua mê cung do Patrick Modiano bày ra kia bằng mọi con đường có trong mê cung. Con đường người đọc đã chọn chính là cách hiểu của họ về cuốn sách, hay chính là cách hiểu về năm ngày diễn ra chuyện tình kia. Năm ngày của Obligado và Gisele về cơ bản là năm ngày của tình yêu, nhưng người đọc chúng ta có thể nhìn ra đó là năm ngày thay đổi trong tâm hồn của hai nhân vật, hoặc năm ngày để Obligado tiếp tục sống ở thành phố anh từng có ý định rời đi, hoặc năm ngày một cô gái điếm như Gisele thực sự được biết hai chữ hạnh phúc. Một gánh xiếc qua hay ở chỗ đó. Sự đơn giản trong cốt truyện là yếu tố để độc giả “phức tạp hoá” mọi thứ theo cách hiểu của họ. Sẽ không có một motif chung để review cuốn sách này, vì mỗi người chúng ta có một con đường riêng để truy tìm ý nghĩa ẩn sâu trong cái mê cung mà Patrick Modiano đã bày ra. Nhưng mê cung của Patrick Modiano thật quá ngắn. Vào cái lúc cao trào và mọi dự định về một cuộc sống mới sắp được thực hiện thì bùm, câu chuyện kết thúc. Câu chuyện diễn ra quá nhanh và kết thúc cũng thật quá nhanh. Những dòng chữ cuối cùng khiến cho độc giả bị ứ nghẹn bởi thứ cảm xúc khó tả và sự ngạc nhiên vô cùng. Mình sẽ không viết dòng chữ đó ở đây vì đây là chi tiết làm bùng nổ cảm xúc nhất, ít nhất với mình là vậy. Mình chỉ dám tiết lộ đây là một kết thúc không có hậu, một bad ending. Gisele đã rời khỏi cuộc tình năm ngày, để lại trong Obligado tới cả chục năm sau những ký ức tươi đẹp và rõ ràng đến nỗi anh có thể kể lại toàn bộ diễn biến và nội tâm của anh như chuyện mới xảy ra ngày hôm qua. Còn với người đọc, ngay cả những người đa cảm nhất cũng không thể rơi được một giọt nước mắt ngay khi họ đọc đến cuối truyện, vì câu chuyện đã kết thúc trước khi họ được chứng kiến một chuyện tình viên mãn. Thật sự quá đột ngột, và ta sẽ liên tục hỏi Patrick Modiano “Ông có nhất thiết phải làm như vậy không?”. Patrick Modiano xây dựng một chuyện tình đẹp đẽ giữa hai con người xa lạ ở Paris, ông để kế hoạch trong sang Rome tiến triển thật thuận lợi, và chỉ một chút nữa thôi, Obligado và Gisele có thể cùng nhau lên đường tiến về cuộc sống mới ở thành Rome lộng lẫy. Và rồi Patrick Modiano bóp vụn nó, chỉ trước lúc khởi hành độ 10 phút. Nhưng đó chính là cái tài kể chuyện của Patrick Modiano. Rất nhiều lần trong cuốn sách này Obligado đã tự hỏi và lo lắng Gisele “sẽ biến mất và để lại tôi với cái xe vô tích sự này”. Tác giả dùng những ý nghĩ và cảm xúc của Obligado để người đọc chúng ta cũng cảm thấy tò mò về thân phận bí ẩn của Gisele, e ngại về những người bạn và khoản tiền kỳ lạ trong một căn nhà cũ, lo lắng mỗi khi nàng biến mất trong một góc phố hay một tòa nhà. Đặc biệt nhất là ông sử dụng Obligado của hàng chục năm sau để kể về mối tình năm ngày. Điều đó có ý nghĩa gì? Vì những lời bộc bạch của Obligado trưởng thành trong lúc xen kẽ với lúc Obligado 18 tuổi cho ta biết rằng Gisele bằng một cách nào đó sẽ rời khỏi cuộc tình và từ bỏ kế hoạch trốn thoát tới Rome, để lại một Obligado có thể “òa khóc nức nở một cách ngu xuẩn” khi có người vô tình hỏi “Thế anh vẫn còn gặp cô gái đấy chứ?”. Patrick Modiano nhá trước cho chúng ta một cái kết không mấy tốt đẹp, ông lại lồng thêm cảm giác nơm nớp và sợ sệt một lúc nào đó Gisele sẽ rời đi mất, và rồi tự hỏi nàng có thật sự yêu Obligado hay không. Để rồi khi chúng ta đọc đến những con chữ cuối cùng của cuốn sách, ta mới biết lý do cặp đôi chia lìa và câu trả lời cho nỗi băn khoăn khi nãy. Thế đấy, chúng ta đã sập vào cái bẫy của Patrick Modiano. Cái bẫy của ông tài tình tới mức người đọc cứ đi thẳng vào nó, và họ sẽ chẳng biết mình đang kẹt trong một cái bẫy nếu cuốn sách của họ nằm phủ bụi sau lần đầu đọc đầu tiên. Tuy thế, đây mới chỉ là bề nổi của Một gánh xiếc qua. Một gánh xiếc qua là một mê cung được tạo bởi kiến trúc xư tài ba Patrick Modiano. Ông tạo dựng một cốt truyện đơn giản đến khó tin bằng những con chữ đen cỡ 14, để khỏa lấp hàng tầng ý nghĩa ẩn sau cuộc tình ngắn ngủi kia. Đó là mối quan hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai; là lý do để Obligado ở lại Paris thay vì trốn tránh quá khứ như cha mẹ; là cái tên thực sự của Obligado và Gisele. Nếu mình còn viết tiếp thì đây sẽ là một bài phân tích chứ không phải là một bài review nữa. Bề sâu của tác phẩm, tốt hơn hết các bạn hãy nên tự khám phá để tìm ra ý nghĩa thực sự mà tác phẩm dành cho bạn. Vả lại, tự tay cầm lên cuốn truyện và thưởng thức nó đến trang cuối cùng mà không biết trước điều gì đang chờ đợi vẫn là cách cảm thụ hay hơn cả. Bài review này chỉ đóng vai trò giúp các bạn xác định được phương hướng khi bước vào mê cung của Patrick Modiano, để các bạn không bị mắc vào cái bẫy vô hình ông đặt ra trước mắt. Và mình tin rằng, sau khi đọc hết 160 trang giấy kia, các bạn sẽ tự mình tìm được ý nghĩa riêng của tác phẩm với bản thân mình mà không phải theo một khuôn mẫu nào. Vì đó là cái tài của Patrick Modiano: tạo ra một cuốn sách giản đơn để độc giả tự bồi đắp cho chính cuốn sách bằng những suy nghĩ của họ. Đánh giá: 10/10. Tuyệt phẩm của nền văn học hiện đại. *** Cái tên ấy vô cùng lạ lẫm với đại đa số độc giả ngoài biên giới nước Pháp. Năm ấy, người ta hướng về Svetlana Alexievich, đợi cái tên Murakami Haruki được xướng lên, nhiều hơn là một nhà văn “ít tên tuổi”. Cứ như thể từ thinh không, Modiano xuất hiện, và ngay giây phút “ra đời” ấy, ông đã sừng sững bước lên bậc đá chỉ dành cho những người vĩ đại nhất. Tờ Telegraph trong một bài viết về ông thậm chí đã giật tít thế này: “Patrick Modiano - Chủ nhân giải Nobel Văn học, mà chúng ta chưa ai từng đọc tới”. Dĩ nhiên, đó chỉ là cách nói phóng đại mà nhà báo vui tính người Anh nào đã tạo nên. Nhưng quả thực, trước cái ngày định mệnh ấy, nhà văn của kinh đô ánh sáng Paris hầu như không để lại chút tiếng tăm nào vượt qua mảnh đất mình sinh ra. Ngay cả trong nước Pháp, ông cũng sống như một ẩn sĩ của làng văn, chẳng màng danh lợi, trốn tránh truyền thông. Dẫu vậy, không ai phải tranh cãi nhau về giải thưởng này, khác với những giải Nobel được trao cho Elfriede Jelinek hay Mạc Ngôn - những nhà văn nổi tiếng hơn ông rất nhiều. Văn chương của ông ngay lập tức được chú ý sau đó, và dĩ nhiên, dễ dàng hạ gục mọi người đọc còn đương nghi ngờ. Dù hiểu thế giới của ông hay không, dù yêu thích không khí Paris trong văn ông hay không thì tất cả đều đồng ý một điều, rằng: Ông xứng đáng là một cây bút ăn giải Nobel. Không cần phải được rọi sáng dưới ánh đa sắc lộng lẫy, bản thân những trang văn giản dị và ngắn ngọn của Modiano đã tiềm tàng sức hút ghê gớm đầy lạ kì. Những tác phẩm của ông là bài ca của nỗi buồn da diết, của những ẩn ức quá khứ bất tử, của những băn khoăn mông lung về bản thể thực sự của một con người. Khi lạc vào văn chương Modiano, ta sẽ bị cái khoảng không nhẹ bẫng, mơ hồ, tinh tế với những nhân dạng nhờ nhợ mắc kẹt trong những tình huống kì lạ - mà người ta gọi là Modianesque, cuốn lấy. Và khi ta gập trang sách cuối cùng và ngơ ngẩn ngước về thinh không, sẽ chỉ còn nỗi buồn ngân vang dừng lại trong tâm trí. Di sản của ông để lại phần lớn là những tác phẩm chỉ dài hai trăm trang sách trở lại. Thoạt đầu, ta ngỡ rằng rất nhiều cuốn giống nhau, là sự lặp lại nhau. Những suy nghĩ ấy thực ngây thơ, bởi văn của ông nói nhiều hơn độ dài của nó, những câu chuyện của ông đan xen lấy nhau, nhưng không hòa tan vào nhau mà mỗi câu chuyện là một mảnh ghép tạo nên vương quốc của kí ức. Giống như trò chơi Trí Uẩn, với bảy mảnh ghép mà thôi, ta có thể dệt nên cả thế giới. Trong ấy, có một bộ ba “na ná” nhau hơn cả, ba trường đoạn của một bản trường ca. Đó là cuốn “Một gánh xiếc qua”, “Từ thăm thẳm lãng quên” và “Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối”. Đó là những khúc ca Patrick Modiano dành cho Paris hoa lệ mà ông đã mắc kẹt trong nó như một tù nhân, dành cho những cuộc tình say đắm, và đặc biệt, dành cho những người trẻ đang sống mà chẳng thực sống. Nhưng hãy khoan đi đến hai tác phẩm phía sau, hôm nay, hãy chỉ khám phá và chia sẻ về chương đầu tiên của trường ca ấy: “Một gánh xiếc qua”. Đằng sau cuốn sách, dịch giả Trần Bạch Lan đã tóm lược một điều mà tác phẩm này muốn cất lên: “Dẫu ở độ tuổi nào, bao giờ người ta cũng quá trẻ khi sống ở Paris”. Đọc một cuốn sách không đơn thuần là tiếp nhận ngôn từ ở bề mặt, mà đó là một hoạt động tinh tế hơn thế rất nhiều. Ta phải bóc tách lớp chữ đen trên mặt giấy để giải mã những chi tiết tế vi, mà đôi khi chỉ thấy được khi ta trôi vào những khoảng không phía sau từ ngữ. Thiên chức của một nhà viết tiểu thuyết, chính Patrick Modiano đã nói trong Diễn từ nhận giải của mình: “...trước cái trang giấy trắng mênh mông của lãng quên để làm bật dậy vài lời đã nửa phần bị bôi xóa, như những tảng băng sơn lạc loài trôi dạt trên bề mặt của biển cả”. Ở tảng băng đó, phần nổi có khi chỉ mang vai trò của một chiếc mặt nạ, còn bề sâu, ấy mới là thứ người đọc phải xâm lấn. Nói dài đến vậy, để ta thấy rằng, tác phẩm của Modiano đích thực là một mê cung mà nếu chẳng tỉnh táo, ta sẽ bị cốt truyện đơn giản đến tối giản lừa lọc, bị lạc lối trong khu phố mà chẳng hề nhận ra, ở góc đường, khuất sau cột đèn vàng vọt thờ ơ, chính là lối thoát mong đợi. Và “Một gánh xiếc qua” là minh chứng rõ rệt hơn cả cho quan niệm ấy. Hãy mở trang đầu tiên để đi vào thế giới huyền hoặc bí ẩn của Modiano, trong “Một gánh xiếc qua” - một thiên truyện tình mê hoặc, một nỗ lực lần lại sợi dây kí ức để giải đáp về hiện tại, một khao khát hướng người trẻ đến sự sống cao hơn, một lời khuyên về cách ta đọc một cuốn sách. “Một gánh xiếc qua” ở bề mặt của nó, ắt hẳn là một câu chuyện về tình yêu. Tình yêu của hai người trẻ. Cậu trai mới mười tám, đã bỏ học, nói dối mình đã hăm mốt, bị cha mẹ bỏ rơi và phải sống cùng “cấp dưới” của cha trong một căn hộ sắp biến mất - Obligado. Nàng là một người đẹp bí ẩn như đứng giữa sương khói - Gisèle. Họ tìm thấy nhau tình cờ, trong một buổi chiều Paris, lần lượt bị tra khảo. Obligado là người đầu tiên, bị hỏi về những cái tên khác lạ lẫm, chỉ vì “tên cậu xuất hiện trong sổ agenda của một người”. Kế đến là Gisèle, với một cuộc thẩm vấn dài hơn rất nhiều. Và Obligado quyết định chờ nàng, chẳng vì lý do xác đáng nào. Có lẽ, anh đã mơ màng nhìn thấy tình yêu, qua cái chạm mắt trong khoảnh khắc đó, khi anh rời đi. Chờ nàng, để rồi nàng nhờ anh cầm chiếc va li nặng mà trong ấy anh nghĩ là có vàng. Và để rồi họ ngủ với nhau, trong căn phòng tạm bợ của Obligado. Đời họ cắt nhau lãng xẹt như thế. Chỉ trong năm ngày bên nhau, năm ngày yêu nhau, mà ngỡ là cả một đời người. Họ lên kế hoạch trốn thoát khỏi Paris, để sang Rome kiếm một cuộc đời khác. Và tình thì si. Chàng trai trẻ sẵn sàng bỏ lại tất cả, dù hầu như anh chẳng còn lại gì, để trốn chạy cùng người mình yêu. Trong những ngày ấy, Gisèle đưa anh gặp những người lạ kì, những kiểu người chỉ lướt qua đời ta như cơn gió tạt vào ta rồi vĩnh viễn chìm vào hư không. Nhưng những người ấy đều được bọc trong bầu không khí của sự bí ẩn. Họ gặp Jaques de Baviere, một người đàn ông có lẽ mang một tình cảm đặc biệt với Gisèle, sẵn sàng cho họ mượn chiếc xe ôtô của mình. Họ gặp Ansart, một gã trung niên luôn có chút nuối tiếc hoặc buồn bã mỗi khi nói về tuổi trẻ, nhưng đồng thời cũng là kẻ có hành tung đáng nghi. Rồi Ansart muốn họ chuyển lời tới một người đàn ông vô danh - người sẽ biến mất, cùng với cả Ansart lẫn Jacques, ngay sau đó. Rồi thì Guelin, cái gã đã nói cho Obligado về tên thật của nàng, Suzanne Kraay, về việc nàng từng đi tù, từng cưới chồng và có lẽ, làm điếm ở ngôi nhà số 34 phố Desaix. Nhưng những cái tên ấy thì có nghĩa gì? Họ thi thoảng sẽ quấy rầy Obligado của tuổi bốn mươi. Nhưng chẳng ai làm anh đau đớn như Gisèle (hay là Suzanne nhỉ?). Nhưng chẳng cái tên nào ngoài tên người anh yêu có thể khiến trái tim anh run rẩy, đầu óc anh quay cuồng, và làm bất chợt có cái gì ươn ướt lướt dài dưới hàng mi anh... Ngay sau phi vụ Ansart, ngay trước khi họ rời bỏ Paris sang Rome tươi đẹp, cô mất. “Bạn gái cậu. Tai nạn. Ngay sau cầu Suresnes” - những dòng kết lại cuốn sách, đầy gấp gáp, đầy đau đớn. Như có gì nghẹn lại trong họng ta, ta chỉ có thể thốt lên vài ba từ, về cái chết của người yêu. Obligado như thể đã đoán ra được cái kết tất yếu ấy, ngay sau phi vụ mà anh tưởng chính mình là tòng phạm, mà ngẩn ngơ: “... tôi đã hiểu hết trước cả khi kịp nghe”. Obligado đã cô đơn hầu như cả phần đời tươi trẻ của mình. Cha anh ắt hẳn là một tội phạm từng làm nhọc lòng nhiều thẩm phán, đã sang Thụy Sĩ. Mẹ anh là một nghệ sĩ, đâu đó ở Nam Tây Ban Nha, chẳng rõ sống chết. Họ rời bỏ anh, để anh lại với Grabley, người đàn ông chung thuyền với người cha đầy những bí mật. Có lẽ chỉ đến khi Gisèle giành một chỗ trong đời anh, Obligado mới không sống như một bóng ma. Bóng ma trong một căn phòng rỗng tuếch, của một khu nhà sắp dỡ. Bóng ma trong trường đại học mà anh chẳng hề là sinh viên, dẫu có bằng chứng giả cho việc anh học tại ấy. Bóng ma ở đời khi Obligado luôn thiếu động lực, mơ màng về tương lai và u uất khi nhìn về quá vãng, luôn nghĩ người khác đúng còn mình sai, thiếu bản sắc riêng của một con người. Chỉ đến khi gặp nàng, anh mới có dũng khí và sức sống, để sẵn sàng rủa vào mặt tên Guelin: “...thằng già đê tiện!”, và dám đưa tiền cho gã gác đêm của khách sạn mà trước đó anh còn ngại ngần đối đầu, để có phòng cho cả hai người họ. Thế mà rồi nàng ra đi. Lời hẹn lát gặp của họ mãi mãi ra đi. Chẳng có Rome, chẳng có đời sống nào khác. Chỉ còn ở lại nỗi tiếc nuối. Những người yêu nhau có lẽ sẽ hiểu cảm giác ấy hơn cả. Dẫu cho người yêu không mất đi, nhưng chỉ cần tưởng tượng nên viễn cảnh ta thả tay nàng một lát, ta khuất bóng nhau vài giây là tuột khỏi nhau cả đời, ta đã có thể nức nở. Còn gì đau hơn việc người ta yêu, sẽ biến mất khỏi đời ta, và chỉ còn lại những kí ức có thể chìm vào lãng quên bất cứ lúc nào. Cái nức nở của Obligado ở độ tuổi bốn mươi, khi được một người hỏi về việc có còn gặp lại nàng không, như một vết chích côn trùng, ta cứ ngỡ là chẳng sao, để rồi khi dấu chấm kết chương đến thì nó hóa thân thành viên đạn bạc, xoáy vào vết thương kia một cách thô bạo: “Tôi kinh ngạc trước câu hỏi đến nỗi phải ấp úng một câu trả lời mơ hồ. Khi chỉ còn lại một mình, ngoài đại lộ, tôi đã òa khóc một cách ngu xuẩn”. Nhưng nước mắt của người đàn ông đã đi qua câu chuyên kia hai mươi năm thì có thể làm gì để vực dậy hiện tại? Câu chuyện tình ấy chẳng thỏa mãn bất kì ai. Nó buồn và để ngỏ nhiều điều mãi không được hồi đáp: Nàng thực sự là ai? Có phải nàng làm điếm ở căn nhà số 34 phố Desaix? Có thực là nàng quen Jacques, Ansart, Martine mới ba tuần? Phi vụ đem cho họ một phong bì tiền để tới Rome, thực chất có phải một vụ bắt cóc? Cái chết của nàng có phải một sự sắp đặt, để bịt miệng một nhân chứng cho cuộc bắt cóc kia? Nếu thế thì sao Obligado lại sống sót? Hay nàng tự kết liễu cuộc đời khốn khổ của mình? Ôi, câu chuyện tình của những điều ta chẳng biết. Modiano đâu có nói cho ta hay? Ta chỉ biết họ đã yêu, đã say, đã cuồng nhiệt. Ta chỉ rõ họ đã mơ, rồi giấc mơ đã tan vỡ. Ta chỉ hay tình yêu tuổi trẻ thì luôn đầy hoang mang - như cái cách Obligado luôn sợ nàng sẽ bỏ anh đi, nhưng cũng đầy bản lĩnh. Ta, sau rốt, thấy nỗi đau của tình yêu có thể ám ảnh mình, dẫu có chạy khỏi nó xa đến cả hai mươi năm. Mời các bạn đón đọc Một Gánh Xiếc Qua của tác giả Patrick Modiano & Cao Việt Dũng (dịch).
Mattia Pascal Quá Cố
ĐANG CÓ cuộc sống khốn đốn ở tỉnh lẻ, một ngày kia Mattia Pascal bỗng phát hiện ra rằng mình được cho là đã chết. Anh nghĩ rằng đây chính là dịp để rũ bỏ ràng buộc cơm áo gạo tiền thường nhật, cơ hội để thoát khỏi số phận tầm thường của mình. Anh đến một thành phố mới, với một cái tên mới, một ngoại hình mới, một cuộc sống mới. Liệu đó sẽ là tự do hay bất hạnh? Thân phận đâu phải là thứ người ta có thể đơn giản mà đoạn tuyệt. Căn tính đâu phải là thứ dễ dàng từ bỏ. Phải chăng hạnh phúc không phải là được làm những gì mình thích, mà là luôn luôn thích cái mình làm?... *** Để nói về cuốn sách này, tôi muốn đặt hài hước và đen tối cạnh nhau, bởi câu chuyện rất buồn cười nhưng cũng rất cay đắng. Có cách nào thoát khỏi cuộc đời đáng chán, đáng tuyệt vọng, bế tắc và quẩn quanh không? Mattia Pascal phát hiện ra là có. Có một cách. Là chết – một cái chết chính thức, của cái nhân dạng mình, trên giấy tờ, được người thân và toàn thể cư dân chòm xóm công nhận, trịnh trọng thông cáo lên báo. Sau khi bàng hoàng đọc tin báo tử chính mình, Mattia Pascal bỗng thấy tràn trề hạnh phúc và tự do. Giờ anh có thể đi bất cứ đâu, tiêu số tiền mình có theo bất cứ cách nào mà ko phải lo về cô vợ tiều tuỵ và bà mẹ vợ ác quỷ, thoát khỏi lũ chủ nợ và tất cả những rắc rối đáng chán của cuộc đời trước kia. Ôi cuộc sống mến thương sau khi chết sao mà thênh thang thế. Anh giũ bỏ được kẻ mang tên Mattia Pascal. Anh sẽ là một con người mới, hoàn toàn khác. Một Adirano Meis. Nhưng, ơ kìa, sao hạnh phúc này lại có mùi đắng cay và tự do này lại bị những xích xiềng của dối trá bủa vây thế kia?! “Điên rồ! Làm sao tôi lại tự dối mình rằng một thân cây có thể sống sót khi bị cắt bỏ khỏi gốc rễ? Thế nhưng, thế nhưng, đó, tôi vẫn nhớ chuyến đi nọ, từ Alenga tới Torino: khi đó, tôi đã cho rằng mình hạnh phúc, cũng bằng cách ấy. Điên rồ! Tự do! Tôi đã nghĩ… Tôi đã tưởng ấy là tự do!” Sẽ thế nào khi mọi thứ thuộc về nhân dạng anh bị chôn dưới một nấm mồ, còn anh thì lang thang nay đây mai đó khắp chốn? Tới một lúc, anh nhận ra, dẫu cho nhân dạng có được chứng tử thì nó vẫn là anh và anh vẫn là nó, nó vẫn là cái bóng đi theo anh hoặc anh vẫn là cái bóng sống dưới sức kiềm toả của nó. Thiếu anh, cái tên Mattia Pascal vẫn có nghĩa, nhưng thiếu nó, anh sống không ra sống… “Người hùng, đó, tôi làm sao có thể là một người hùng thực sự được nữa. Chỉ trừ khi tôi chết đi… Nhưng tôi đã chết rồi mà!” “Giờ đây tôi là gì nếu không phải là một người giả tưởng?” Ngoài một vài đoạn hơi lê thê và đôi chỗ liên can tới kiểu cách suy nghĩ của người Ý thế kỷ trước – thứ dễ gây nhàm chán cho người thế kỷ này, thì cuốn sách là một cuộc dạo chơi ngắn thú vị vào hành trình phân tích sự tồn tại của một bản thể người. Những chương đầu sách được tác giả viết theo kiểu vừa chớt nhả vừa úp úp mở mở làm tôi cũng hơi khó khăn chạy theo, nhưng quen rồi, lại ấn tượng với nan đề “nhân dạng” mà tác giả đặt ra, thì tôi cứ thế bị cuốn đi và càng đi tới cuối thì càng thích thú mà bật cười sảng khoái! *** Luigi Pirandello là nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng người Italia. Ông là con thứ hai trong số sáu người con của một gia đình tư sản chủ mỏ lưu huỳnh. Tài năng văn học của ông thể hiện khá sớm, ngay từ khi còn học phổ thông. Năm 1887, ông vào học ngành ngữ văn ở Đại học Palermo và Roma. Không hài lòng với trình độ giảng dạy ở đây, ông chuyển sang Bonn học và nhận chứng chỉ tốt nghiệp vào năm 1891. Năm 1903, gia đình ông phá sản vì nước lụt phá sập hầm mỏ, người vợ mắc bệnh tâm thần nặng, nhưng ông vẫn tiếp tục sáng tác; cuốn tiểu thuyết Il fu Mattia Pascal (Mattia Pascal Quá Cố, 1904) đã mang lại cho Pirandello thành công lớn, cuốn sách luôn được xếp vào hàng kinh điển của văn chương thế giới. Được viết theo phong cách tiểu sử, Mattia Pascal đưa ra những khía cạnh về thân phận, của căn tính cá nhân và tự do trong khuôn khổ.  Câu chuyện bắt đầu với cuộc sống khốn đốn và bất hạnh của một chàng trai trẻ tỉnh lẻ người Ý – Mattia Pascal – Cha chết, gia đình phá sản, chủ nợ chầu chực, hôn nhân bi thảm, bị mẹ vợ khinh bỉ và coi thường; con gái chết, mẹ cũng qua đời, Mattia rơi vào khủng hoảng, anh rời bỏ quê hương để tìm kiếm tự do và cơ hội đổi đời. Và rồi cơ hội cũng đến khi anh thắng được một số tiền lớn ở sòng bạc, anh hớn hở vui mừng định quay lại quê nhà, nhưng trên đường trở về quê Mattia Pascal bỗng phát hiện ra rằng mình được cho là đã chết. Anh nghĩ rằng đây chính là dịp để rũ bỏ ràng buộc cơm áo gạo tiền thường nhật, cơ hội để thoát khỏi số phận tầm thường của mình, một lối thoát cho một cuộc sống mới tự do, một bản ngã thay đổi không bị ràng buộc với nghĩa vụ xã hội, những rắc rối đời thường mà anh đang phải gánh. Với số tiền lớn trong túi, anh đến một thành phố mới, với một ngoại hình mới, và một cái tên mới: Adriano Meis. Tự do là điều ai cũng khao khát để thoát khỏi thực tại bất hạnh khắc nghiệt và cái chết được coi là một viễn cảnh giải phóng của Mattia khỏi toàn bộ gánh nặng kinh tế, nợ nần và cả cảm xúc. Adriano Meis được tạo ra từ những mối quan hệ bị đổ vỡ của Mattia Pascal, là bóng ma được tạo ra từ những thất bại trong cuộc sống của Mattia Pascal.  Mới đầu anh thực sự hài lòng, cái tên mới, ngoại hình mới đã ban cho Mattia Pascal một cuộc sống mới dễ thở hơn, tự do tự tại hơn, cho đến khi ký ức của anh ùa về, tràn ngập những nỗi niềm hoài cổ, nhớ thương bản thể cũ, dần dần bản thể mới đã biến thành một nhà tù. Cuối cùng, cho dù đó là Mattia hay Adriano – bản thể mới của anh, chỉ đang cố phơi bày một bóng ma tự tạo vì cả hai bản thể không thể tách rời khỏi nhau. Adriano Meis không thể yêu người phụ nữ yêu anh, anh cũng không có bạn bè, khi mất trộm anh cũng không dám báo cảnh sát, khi bị xúc phạm anh cũng không thể làm gì để bảo vệ danh dự, v.v. Vì khi làm những điều này sẽ cần một tên thật, một tấm căn cước thật mà Adriano Meis không có. Ở đây Pirandello đã lý giải cho tính hợp pháp của xã hội và thực tế hình thành nên những bóng tối đã bị thuyết phục bởi những cá nhân không bao giờ có thể tự giải thoát, trừ khi cái chết vượt qua tâm trí, cơ thể và tâm hồn. Danh tính cần thiết cho đời sống dân sự hợp pháp có phải là gánh nặng của mỗi công dân? Con người tự do đến đâu trong việc xây dựng cho một bản sắc cá nhân? Đâu là tự do tuyệt đối, tự do có cần sự bảo hộ hợp pháp không? Mattia Pascal nhận ra rằng tự do của mình là giả, không tồn tại. Thực tế anh bị ràng buộc với cuộc đời cũ và luật pháp biến anh thành một bóng ma không có tự do, cuộc đời anh treo lơ lửng giữa sự sống và cái chết. Phải chăng cái giá của tự do là cô đơn, cái giá của hạnh phúc là ràng buộc. Nếu anh muốn yêu thương anh phải phụng sự.   Những lý giải về tự do và trách nhiệm xã hội của nhà văn xuất chúng Pirandello cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, đặc biệt nếu so sánh với những danh tác thời hiện đại. Chủ nghĩa hoài nghi của ông cho đến nay vẫn còn giúp chúng ta có được một tri kiến sáng suốt với sự tồn tại các giá trị tự thân, mặt khác cũng cảnh báo chúng ta không nên để tâm hồn chạy theo lối giáo điều thô thiển và mù quáng. Các tác phẩm của Pirandello cũng thường mang khuynh hướng duy thực, đi sâu vào tâm lý, miêu tả nỗi đau khổ của con người. Tên tuổi của Luigi Pirandello không chỉ được biết đến ở Ý mà ở toàn châu Âu. Năm 1934 ông nhận giải Nobel và đã đọc một bài diễn từ, trong đó đề cao thái độ thành thực ngưỡng mộ cuộc sống của các nhà văn, theo ông, đó là điều quyết định cho sự nghiệp.   Mời các bạn đón đọc Mattia Pascal Quá Cố của tác giả  Luigi Pirandello & Trần Dương Hiệp (dịch).
Lời Thú Nhận Của Tay Lừa Đảo Felix Krull
Lời thú nhận của tay lừa đảo Felix Krull là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Thomas Mann, nhà văn Đức đoạt giải Nobel năm 1929. Dù chưa hoàn thành, Lời thú nhận của tay lừa đảo Felix Krull là bức tranh chi tiết về châu Âu cuối thế kỷ 19, một câu chuyện hài hước với văn phong mượt mà uyển chuyển, mang nhiều suy tư triết lý đậm chất Thomas Mann. *** Lời thú nhận của tay lừa đảo Felix Krull là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Thomas Mann, nhà văn Đức đoạt giải Nobel năm 1929.  Câu chuyện dẫn dắt người đọc đi cùng Felix Krull, một cậu bé sinh ra trong một gia đình trung lưu sung túc miền Rhine nước Đức. Sau khi người cha tán gia bại sản và tự sát, cậu sống trong cảnh nghèo khó với mẹ, những vẫn luôn nuôi mộng về một cuộc sống xa hoa. Felix đã lừa các bác sĩ quân y để trốn đi nghĩa vụ quân sự. Rồi, với công việc chạy buồng thang máy và bồi bàn ở một khách sạn sang trọng ở Paris, nhờ vẻ bề ngoài đẹp như nam thần Hy Lạp, cậu kiếm được bộn tiền từ những quý bà khát tình. Sau đó, Felix có bước ngoặc cuộc đời, cú lừa đảo lớn nhất, khi cậu giả danh một hầu tước trẻ Luxembourg làm chuyến du lịch vòng quanh thế giới, trong khi vị hầu tước ở lại Paris với người tình. Felix tới Lisbon trong lộ trình đi tới Nam Mỹ, và ở đây, cậu có những khám phá kiến thức và lạc thú xa hoa. Nhân vật Felix Krull được giới thiệu lần đầu trong một truyện ngắn của Thomas Mann năm 1901 nhưng mãi đến năm 1936 mới được xuất bản trong tập "Truyện ba thập kỷ", tập hợp các truyện ông viết từ năm 1896 đến 1929. Sau này Thomas Mann viết tiếp và mở rộng câu chuyện, nhưng ông mất năm 1955 khi bản thảo còn dang dở. Dù chưa hoàn thành, Lời thú nhận của tay lừa đảo Felix Krull là bức tranh chi tiết về châu Âu cuối thế kỷ 19, một câu chuyện hài hước với văn phong mượt mà uyển chuyển, mang nhiều suy tư triết lý đậm chất Thomas Mann. *** Khi đặt bút viết những dòng này trong cảnh ẩn dật an nhàn - trí óc vẫn hoàn toàn minh mẫn, mặc dù thể chất mệt mỏi, rất mệt mỏi (vậy nên tôi chắc chỉ có thể tiến hành việc viết lách theo từng chặng nhỏ, xen lẫn nhiều khoảng nghỉ ngơi), tóm lại, khi quyết định trao gửi lời thú nhận này vào trang giấy nhẫn nại, bằng nét chữ viết tay gọn gàng đẹp mắt của chính mình, trong lòng tôi đã gợn lên một thoáng lo ngại, sợ mình không đủ kiến thức hàn lâm để đương đầu với thử thách trí tuệ này. Song, bởi tất cả những điều tôi muốn kể đều tập hợp từ kinh nghiệm sống của bản thân tôi, từ những sai lầm cũng như đam mê tôi đã trực tiếp trải qua, nên tôi có thể đoan chắc rằng mình nắm vững cốt truyện một cách tuyệt đối, và như thế nỗi lo của tôi chỉ tập trung vào chỗ chọn lựa hình thức diễn đạt để có được sự tế nhị và lịch lãm cần thiết, mà về mặt này thâm tâm tôi vẫn tin rằng học hành bằng cấp đầy mình cũng không bằng năng khiếu tự nhiên và được giáo dục tốt trong gia đình. Khoản ấy thì tôi không thiếu, bởi tôi xuất thân từ một gia đình khá giả với nếp sống phong lưu, mặc dù có hơi phóng túng. Chị Olympia của tôi và tôi trong nhiều tháng trời đã được hưởng sự kèm cặp của một cô gia sư người Vevey*, cô này tuy nhiên về sau phải cuốn gói vì một sự cạnh tranh mang đặc thù nữ giới với mẹ tôi - mà đối tượng là cha tôi. Thêm vào đó, cha đỡ đầu của tôi, ông Schimmelpreester, một người rất thân thiết, gần gũi đối với tôi, là một nghệ sĩ được đánh giá cao trên nhiều phương diện, tất cả cư dân của cái thị trấn tỉnh lẻ quê hương tôi đều gọi ông là “giáo sư”, mặc dù có lẽ chưa bao giờ ông được chính thức trao tặng cái danh hiệu cao quý rất được ham chuộng ấy. Còn cha tôi, mặc dù thân thể to béo kềnh càng nhưng bù lại ông có nhiều nét duyên dáng và đặc biệt là rất sính nói chữ. Cha tôi được thừa hưởng dòng máu Pháp của một người bà, bản thân ông đã sống ở Pháp trong thời gian học nghề, từ đó ông luôn quả quyết rằng mình rành Paris như lòng bàn tay. Trong lúc trò chuyện, ông rất thích xen vào những từ như c‘est ça, épatant hay parfaitement* - mà với một lối phát âm cực chuẩn - hoặc giả ông thường hay nói: “Về phần moi... ”* Đến tận cuối đời ông vẫn được hưởng rất nhiều ưu ái của phái nữ. Nhưng tôi nói trước ra ngoài lề mất rồi. Trở lại năng khiếu trời cho của tôi trong cách diễn đạt, tài ăn nói là cái xưa nay tôi vẫn vận dụng không chút khó khăn, điều này đã được chứng tỏ trong suốt cuộc đời ba chìm bảy nổi của tôi, và tôi tin rằng mình có thể phát huy năng khiếu ấy cả trong việc viết lách. Hơn nữa tôi cũng đã quyết tâm khi chấp bút sẽ tôn trọng sự thật một cách tuyệt đối, dẫu có vì thế mà bị mang tiếng là huênh hoang hay tự đắc. Lời thú tội còn có ý nghĩa và giá trị đạo đức gì nữa, nếu được viết ra một cách không chân thực! Thành phố Thụy Sĩ thuộc vùng Pháp thoại, hồi thế kỷ XIX nổi tiếng là nơi cung cấp các cô bảo mẫu và gia sư cho toàn châu Âu. (Các chú thích đều là của người dịch, tham khảo thêm lời bình của Thomas Sprecher và Monica Bussmann in trong tập 12.2 bộ Thomas Mann, Khảo luận ấn bản Frankfurt bao gồm tác phẩm - thư từ - nhật ký do S. Fischer Verlag GmbH xuất bản năm 2012.) Vậy đó, tuyệt vời hay hoàn hảo (tiếng Pháp). “Về phần tôi...” (dịch lấy ý). Tôi là một đứa con của Rheingau*, dải đất được thiên nhiên ưu đãi khí hậu ôn hòa và đất đai trù phú, thành phố làng mạc đông đúc, dân cư vui nhộn, một trong những vùng tươi đẹp nhất trên quả địa cầu. Nơi đây được dãy núi Rheingau che chắn gió bấc và được mặt trời hào phóng ban nắng ấm, nhờ thế các đô thị mọc lên như nấm với những địa danh nổi tiếng chỉ cần nghe tên các tay đệ tử Lưu Linh đã mở cờ trong bụng, nào Rauenthal, nào Johannisberg, nào Rüdesheim, và cả cái thị trấn nhỏ bé cổ kính nơi tôi mở mắt chào đời vài năm sau ngày thành lập Đế chế Đức vinh quang*. Thị trấn quê hương tôi nằm hơi xế về phía Tây khúc gấp nơi con sông Rhein lượn quanh thành phố Mainz, là bến chính của các chuyến tàu thủy xuôi ngược dọc dòng sông, dân số chỉ khoảng bốn ngàn nhưng nổi tiếng nhờ các hãng rượu vang đóng đô ở đó. Kế bên chúng tôi là thành phố Mainz phồn hoa và các khu suối nước nóng dưỡng bệnh lừng danh của vùng Taunus như: Wiesbaden, Homburg, Langenschwalbach và Schlangenbad, địa điểm sau cùng này đi từ chỗ chúng tôi chỉ mất độ nửa giờ đồng hồ ngồi xe lửa đường ray hẹp lên núi. Vào mùa đẹp trời, gia đình chúng tôi gồm cha mẹ tôi, chị Olympia và tôi đã bao lần du ngoạn khắp bốn phương bằng tàu thủy, xe ngựa hay xe lửa, vì xung quanh đâu đâu cũng có những danh lam thắng cảnh được tạo dựng bởi thiên nhiên và bàn tay con người. Tôi vẫn như thấy trước mắt hình ảnh cha tôi mặc bộ đồ vét mùa hè rộng rãi bằng vải kẻ ca-rô, ngồi cùng chúng tôi ở một tiệm ăn ngoài trời nào đó - cái bụng bự không cho phép ông ngồi sát vào bàn - và với sự khoan khoái vô cùng tận, ung dung thưởng thức món cua bể với chất nước vàng óng của cây nho. Cha đỡ đầu của tôi, ông Schimmelpreester cũng thường hay có mặt trong những chuyến dã ngoại của gia đình, ông ngồi lặng lẽ chĩa cái nhìn soi mói qua cặp kính gọng nhựa trong mắt tròn to tướng, quan sát phong cảnh và người qua kẻ lại, hấp thụ tất cả mọi ấn tượng lớn nhỏ vào tầm hồn nghệ sĩ của mình. Vùng trồng nho làm rượu nổi tiếng của Đức nằm ở hữu ngạn sông Rhein. Đế chế Đức được thành lập năm 1871. Người cha tội nghiệp của tôi sinh thời là chủ hãng Engelbert Krull, cơ sở sản xuất loại rượu vang “Loreley extra cuvée”*, một nhãn hiệu nay đã biến mất tăm khỏi thị trường. Hãng chúng tôi có các hầm rượu nằm dọc bờ sông Rhein, không xa bến tàu thủy là mấy, và khi còn là một cậu bé, tôi đã không ít lần lẻn xuống dưới các mái vòm mát rượi, rón rén dạo bước trong các hành lang lót đá chạy ngang dọc giữa những hàng giá cao ngất, ngắm nhìn không biết chán đội quân bằng chai xếp nghiêng tầng tầng lớp lớp trên giá, lòng miên man suy nghĩ. Các ngươi nằm đây, tôi nghĩ thầm trong bụng (tất nhiên khi ấy tôi chưa biết diễn tả ý nghĩ của mình bằng những từ ngữ chính xác như thế này), các ngươi nằm đây trong bóng tối nhá nhem dưới lòng đất, và trong bụng các ngươi diễn ra quá trình lên men thầm lặng của thứ chất lỏng màu vàng sủi bọt kia, thứ chất lỏng thần thánh làm những trái tim rộn ràng tăng nhịp đập, làm những cặp mắt rực sáng long lanh! Giờ đây các ngươi còn trần trụi xấu xí, nhưng sẽ đến một ngày các ngươi trang điểm lộng lẫy ngoi lên thế giới bên trên, xuất hiện trong hội hè, đám cưới, lễ lạt, tự hào bật nút văng lên trần nhà với tiếng nổ giòn tan, đem đến cơn say, sự bốc đồng và hứng thú cho con người. Cậu bé con hồi đó đã có những ý nghĩ đại loại như thế, và trong đó chí ít cũng có một điều đúng, đó là hãng Engelbert Krull rất chú trọng việc trang hoàng hình thức bề ngoài của các chai rượu, công đoạn hoàn thiện sau cùng mà từ chuyên môn gọi là coiffure. Chiếc nút bấc được ép chặt vào miệng chai, chụp lên trên một lưới thép nhỏ mạ bạc và chằng buộc bằng một sợi dây đay mạ vàng gắn sáp niêm phong đỏ thẫm, một con dấu tròn trang trọng như dấu sắc lệnh của Giáo hoàng hay chiếu chỉ của Hoàng đế treo toòng teng bằng sợi chỉ vàng nơi cổ chai quấn giấy thiếc sáng choang, và quanh bụng chai nổi bật một nhãn hiệu cầu kỳ do cha đỡ đầu Schimmelpreester của tôi thiết kế riêng cho hãng, trên đó ngoài một mớ huy hiệu, ngôi sao, tên ba tôi và dòng chữ “Loreley extra cuvée” mạ vàng, còn có hình một người đàn bà ngoài vòng tay vòng cổ tịnh không mang thêm một thứ trang phục nào khác trên mình, ngồi vắt tréo chân trên một mỏm đá, vươn tay đưa chiếc lược chải vào mái tóc dài bồng bềnh. Cũng phải nói thêm rằng phẩm chất rượu trong chai không hoàn toàn tương xứng với cái vỏ ngoài hào nhoáng. “Này Krull”, cha đỡ đầu Schimmelpreester của tôi có lần bảo cha tôi, “ông là người đáng kính, nhưng rượu champagne của ông lẽ ra phải bị cảnh sát cấm mới đúng. Tám ngày trước tôi dại dột uống nửa chai, và cho đến tận hôm nay vẫn còn dở sống dở chết. Ông pha cái chết tiệt gì vào đấy thế? Hay ông trộn xăng dầu vào làm chất phụ gia? Tóm lại, rượu của ông đúng là thuốc độc. Ông nên dè chừng luật pháp!” Nghe vậy, người cha tội nghiệp của tôi tỏ ra rất bối rối, vì ông là người nhu mì và không quen với những lời chỉ trích nặng nề. “Ông chê thì dễ lắm, Schimmelpreester”, cha tôi chống chế, vừa nói vừa theo thói quen đưa mấy đầu ngón tay nhẹ nhàng vuốt bụng, “nhưng tôi buộc phải bán rẻ, vì thiên hạ có thành kiến với rượu nội. Tóm lại, tôi chỉ cung cấp cho công chúng cái mà họ muốn. Đã thế các hãng cạnh tranh còn ngồi trên cổ tôi đây này, ông bạn thân mến, không hạ giá thành thì cầm cự làm sao nổi.” Đó là về cha tôi. “Rượu vang thượng hạng Loreley” (tiếng Pháp). Biệt thự của chúng tôi thuộc vào hàng những dinh cơ xinh xắn nằm dựa lưng trên sườn núi thoai thoải, mặt hướng xuống thung lũng sông Rhein. Mảnh vườn dốc thoai thoải được trang điểm một cách hào phóng nào là các chú lùn, cây nấm và đủ loại thú vật bằng sành giống như thật; một quả cầu thủy tinh bóng loáng nằm chễm chệ trên một cái bệ, soi gương vào đó sẽ thấy mặt mũi méo xệch đi rất tức cười; ngoài ra còn có cả một cái chuông gió hình cầy đàn lia, nhiều hòn giả sơn với hang động và một cái giếng phun nước: từ một bức tượng rất mỹ thuật, những tia nước không ngừng được ném lên không trung, dưới bể đàn cá bạc bơi lội tung tăng. Nội thất nhà chúng tôi được trang hoàng đúng theo sở thích của ba tôi, vừa ấm cúng vừa tươi tắn. Các bao lơn kín đặt sẵn ghế như mời mọc người ta ngồi nghỉ, và trong một góc còn dựng cả một cái xa quay sợi thật. Vô số vật trang trí nhỏ: các bức tượng bằng sứ, vỏ sò, vỏ ốc, hộp gương và chai dầu thơm nằm la liệt trên giá kệ và bàn bọc nỉ; gối lông bọc lụa thêu thùa rực rỡ nhiều không đếm xuể, rải đầy trên ghế xô pha và ghế nằm, vì ba tôi thích chỗ ngả lưng phải thật êm ái; rèm cửa sổ treo trên những ngọn kích dài, cửa thông giữa các phòng che bởi những tấm mành mành kết bằng ống trúc và hạt cườm sặc sỡ, nhìn thì kín đáo, nhưng có thể bước qua mà không cần phải nhấc một ngón tay, vì nó tự rẽ ra với tiếng lách cách vui tai rồi tự khép lại. Bên trên cửa trong khoang chắn gió có gắn một thiết bị tinh xảo, mỗi khi cánh cửa từ từ sập vào nó lại tấu lên những âm thanh thánh thót mở đầu bài hát “Hãy yêu đời đi”. Mời các bạn đón đọc Lời Thú Nhận Của Tay Lừa Đảo Felix Krull của tác giả Thomas Mann & Nguyễn Hồng Vân (dịch) & Trần Đàm Thành (dịch).