Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Siêu Phẩm Vu Sư

Vào mấy chục năm về trước, trên các truyền hình đều phát sóng một chương trình mang tên “Ba ở đây”. Nội dung chính là những người cha sẽ dẫn con gái của mình đến các vùng đất hẻo lánh, ít người hoặc các ngôi làng cũ xưa để khám phá mọi góc khuất chưa bao giờ thấy. Thì mấy chục năm sau lại có một thiếu niên hơn hai mươi tuổi dẫn theo chú chó vàng như người bạn tri kỉ của mình xuống núi, tiến vào thành phố. Cậu tên là Phương Minh, một người sống ở đạo quán và có sư phụ là đạo sĩ nên luôn bị hiểu lầm bản thân cũng giống như sư phụ. Nhưng thật ra thì không phải, mà hiểu lầm càng ngày càng nhiều nên Phương Minh chỉ giải thích thầm trong lòng. Sau khi sư phụ qua đời, trước khi nhắm mắt đã lệnh cho cậu xuống núi giúp đỡ một người bạn của mình vượt qua kiếp nạn sắp tới đang chuẩn bị diễn ra. Tuân theo lời sư phụ, Phương Minh tiến vào đô thị phồn hoa, nơi bản thân chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy hay hòa chung cuộc sống. Vì bản thân quanh năm suốt tháng ở trên núi nên vừa mới bắt đầu cậu vẫn còn khá bỡ ngỡ. Mặc trên mình một trường sam kì lạ, thu hút ánh nhìn của người khác nhưng cậu cũng không quá quan tâm mà chỉ để ý con đường đến nhà người bạn của sư phụ. Sau khi đưa lá bùa bình an, việc cần làm đã hoàn thành. Phương Minh lúc này mới chính thức bắt đầu một cuộc sống mới tại nơi xa lạ này. *** Một bộ truyện danh khá xưng với thực, giới thiệu cho người đọc thêm rất nhiều thông tin về phong thủy để có thêm cái nhìn chính xác hơn về điều này, ngoài ra còn giúp lưu ý một số điều nên và có thể tránh (có thờ có thiêng có kiêng có lành mà) Truyện thuộc thể loại linh dị, phong thủy, trừ tà và huyền huyễn. Cực kỳ hấp dẫn với những bạn thích thế giới tâm linh và cõi âm, cũng như những điều huyền học của vũ trụ. Tác giả nắm kiến thức khá vững ở nhiều lĩnh vực, nội dung truyện lại liền mạch và liên kết và dĩ nhiên không thiếu hào quang nhân vật chính. *** Nhóm: Thánh Thiên Tiên Vực Dịch: Nguyệt Ẩn Các Nguồn: TruyenYY -------------------- Mặt trời lặn về phía tây, ở một làng nhỏ hẻo lánh! Sao giăng đầy trời, chiếu rọi lên thân hình hai thiếu niên trên đồng cỏ, bên tai là từng tràng tiếng chim hót, tiếng côn trùng kêu vang. “Đạo sĩ ca ca, anh nói xem ngôi sao sáng nhất trên bầu trời kia tên là gì vậy?” “Nó à.” - Thiếu niên ngẩng đầu, nhìn ngôi sao sáng nhất kia rồi đáp: “ Nó gọi là sao Kim, nhưng chúng ta gọi nó là Thái Bạch, nó xuất hiện lúc bình minh lại gọi là Sao Mai, lúc hoàng hôn thì chúng ta gọi nó là sao Sao Hôm. Cái gọi là "Phía đông có Sao Mai, phía tây có Sao Hôm" chính là nó.” “Cái gì mà "Phía đông có Sao Mai, phía tây có Sao Hôm", thật khó nhớ quá, em gọi nó là sao Đạo Sĩ nha. Hì hì, sao Đạo Sĩ cũng đẹp như anh đạo sĩ vậy.” Thiếu niên chép miệng, nhìn lúm đồng tiền ngây thơ sáng ngời của cô bé này, có mấy lời muốn nói cuối cùng lại thôi. Kỳ thực, hắn cũng không phải đạo sĩ. ... Thượng Hải. (*) Tháng bảy nắng gắt như lửa! Trên tàu điện ngầm vẫn chen chúc như mọi khi, nhưng với nhiều tên đàn ông, bọn họ rất thích sự chen chúc này, bởi vì bọn họ có thể được thưởng thức những cô gái ăn mặc tươi mát xinh đẹp, thậm chí còn có cơ hội tận hưởng thú vui tiếp xúc da thịt. Đương nhiên, đa số đàn ông cũng chỉ lén lút ngắm nhìn vài lần, nhưng có một người thì khác. Đó là một tên thanh niên ăn mặc khác người, trong khi tất cả người mặc áo ngắn tay, cậu ta mặc bộ áo trường sam cực kỳ bắt mắt. Nhưng điều khiến tất cả đàn ông trong toa xe này bội phục không phải là điều này, mà là thanh niên trẻ tuổi lại dám dán mắt nhìn chằm chằm vào cô gái xinh đẹp nhất trong toa xe. Đó là một cô gái xinh đẹp hơn hai mươi tuổi, cô mặc một chiếc váy ngắn thắt eo màu đen, làn da trắng ngần lộ ra ngoài, hấp dẫn vô số ánh mắt của mấy tên sói đói. Mà quan trọng nhất chính là, cô gái này còn có một gương mặt rất đẹp. Tưởng Doanh Doanh cau mày, cô có hơi hối hận, sớm biết thế này cô đã không đánh cược với bạn thân, bây giờ thua cuộc phải mặc hở hang như vậy để cho mấy tên sói đói kia nhìn trộm. Nhất là tên phía trước, từ lúc cô lên xe đến giờ, mắt hắn cứ nhìn chằm chằm vào bộ phận nào đó trên người cô, việc này khiến cô không nhịn nổi nữa. “Anh nhìn đủ chưa!” Nhìn thấy ánh mắt khinh bỉ của cô gái trước mặt, Phương Minh mới nhận ra, xem ra đối phương đã coi mình như tên dê xồm. “Cô gái này, tôi nhìn tướng mạo của cô, ngày hôm nay cô...” “Ấn đường tôi hôm nay màu đen, sẽ gặp tai nạn hại thân!” Tưởng Doanh Doanh ngắt ngang lời Phương Minh, phương thức bắt chuyện quê mùa như vậy quá lỗi thời rồi! Phương Minh đáp lại, vẻ mặt không chút biến sắc: “Cô nói không sai.” “Tiếp theo có phải là anh nói mình có cách hóa giải, muốn đưa tay cho anh xem thử, đúng không?” “ Cũng không cần, tướng mạo là đã có thể thấy được.” - Phương Minh nghiêm túc lắc đầu. “Cô chỉ cần nhớ kỹ một câu, gặp nước thì dừng, chắc chắn sẽ tránh được kiếp nạn.” Keng keng! Đúng lúc đó, tàu điện ngầm vừa lúc đến trạm dừng, Tưởng Doanh Doanh hung dữ trừng Phương Minh, tên yêu râu xanh này diễn thật đạt, cô mắng một câu "đồ thần kinh", sau đó thì nhấc giày cao gót đi ra khỏi tàu điện ngầm. Nhìn bóng lưng rời đi của Tưởng Doanh Doanh, Phương Minh cười khổ, hắn biết cô gái này chắc chắn không tin lời của mình, nhưng mà, nói đến mức này là hắn đã cố hết sức rồi, nói tiếp nữa thì sẽ là tiết lộ thiên cơ như sư phụ nói. ----- Lối vào ga tàu điện ngầm, Tưởng Doanh Doanh thấy cô bạn thân đang chờ ở đó, tức giận liếc cô bạn của mình một cái. “Doanh Doanh, thế nào rồi, mặc như vậy có phải là rất khó chịu đúng không, có phải là ánh mắt của cả đám đàn ông trên tàu điện ngầm đều nhìm trộm cậu đúng không?” “Mặc kệ cậu.” Tưởng Doanh Doanh đẩy cô bạn mình rồi đi thẳng ra bên ngoài. Cô biết cô bạn của mình là đứa nhiều chuyện, trước giờ không giữ được bí mật, nếu như nói cho cô nàng nghe ở trong toa xe mình hầu như bị người ta thị gian thì chưa tới một ngày cả đám bạn bè đều biết. “Nói tí đi mà, rốt cuộc trên trên tàu điện ngầm đã xảy ra chuyện gì?” “Cậu muốn biết thì hai chúng ta cứ đổi quần áo, sau đó cậu lên một chuyến tàu điện ngầm là biết chứ gì.” Cả quãng đường tới lúc đi ra cửa ga tàu điện ngầm cứ cãi cọ như vậy, nhưng không lâu sau thì Tưởng Doanh Doanh đột nhiên dừng bước, bởi vì lúc này đài phun nước trên quảng trường trước mặt cô đang phun nước. Nhìn thấy đài phun nước, Tưởng Doanh Doanh đột nhiên nhớ đến câu gặp nước thì tránh của tên thanh niên trẻ tuổi kia, cô vô thức dừng bước lại. “Doanh Doanh, cậu làm sao vậy?” Cô bạn thân của Tưởng Doanh Doanh nhìn thấy Doanh dừng bước lại cũng đứng lại theo, tò mò hỏi thăm. “Không có gì, tụi mình... Á!” Tưởng Oánh Oánh sợ hãi hét lên, ánh mắt nhìn chằm chằm vào cây cột đèn ngã xuống đài phun nước, vị trí cột đèn kia ngã xuống cách cô chưa tới ba thước, nếu như lúc nãy cô không dừng lại... Tưởng Doanh Doanh run rẩy cả người, mà bạn thân của cô cũng sợ hãi, sau vài giây, nhìn thấy mặt Tưởng Doanh Doanh tái nhợt thì mới vội vàng an ủi: “Doanh Doanh, không chuyện gì đâu, tụi mình không có bị thương.” Nhưng mà lúc này Tưởng Doanh Doanh không còn nghe thấy lời nói của bạn thân nữa, trong đầu cô cứ vang vọng câu nói đó. “Cô gái chỉ cần cô nhớ kỹ một câu, gặp nước thì gặp nước thì dừng, chắc chắn sẽ tránh được kiếp nạn.” Mãi một lúc lâu sau, khi cô bạn bạn thân đang sốt ruột thì Tưởng Oánh Oánh tự lẩm bẩm: “Thì ra lời của hắn đều là thật.” ---- Long Hoa Nhất Phẩm, một khu biệt thự xa hoa, mỗi căn đều hơn ba mươi triệu, người sống ở trong không phú cũng quý. “Theo địa chỉ mà sư phụ cho thì chính là chỗ này.” Ở cửa khu dân cư, Phương Minh chăm chú nhìn quanh chốc lát, khẽ nói: “Phong thuỷ bát trạch, lý khí loan đầu, cũng có thể coi là một nơi tụ tài, chắc người mở ra khu dân cư này cũng có mời thầy phong thủy tới xem rồi.” “Nhờ các anh thông báo một chút cho chủ nhân căn nhà số 16, nói là cố nhân Diệu Hà Hương đến đây thăm hỏi.” Ngôi biệt thự số 16 ở Long Hoa Nhất Phẩm. Bên trong phòng khách, một người phụ nữ sang trọng đang đánh giá Phương Minh, tuy rằng gương mặt mang vẻ tươi cười nhưng cũng không che đậy được sự rầu rĩ. “Con chính là tiểu đạo sĩ Phương Minh năm đó ư, dì từng xem qua ảnh của con, thật không ngờ đã qua nhiều năm như, con cũng đã lớn rồi.” Lương Quỳnh đánh giá Phương Minh, trong lòng không khỏi oán trách chồng mình, năm đó khi không lại bằng lòng một ước định như vậy, bây giờ thì hay rồi, chẳng lẽ thật sự phải gả con gái mình cho thằng nhóc này à?” “Làm đạo sĩ khổ cực cỡ nào, cả ngày ăn chay tụng kinh, người trẻ tuổi bình thường còn không chịu được khổ như vậy, con gái của dì ấy, chính là ngày nào không có thịt không vui. “Thưa dì, không phải đạo sĩ nào cũng ăn chay, người dì nói là đạo sĩ của Toàn Chân giáo, được gọi là đạo sĩ xuất gia, còn có người tu tại gia không kiêng những điều này.” Phương Minh cười trả lời, đương nhiên còn có một câu hắn không nói, hắn cũng không phải đạo sĩ, chẳng qua là hắn ở đạo quán mà thôi. Lương Quỳnh cứng họng, bà ta vốn muốn dùng lời này để nói cho Phương Minh biết, cậu cũng là đạo sĩ rồi, đừng nhớ thương con gái của tôi nữa, nhưng câu trả lời của Phương Minh thoáng chốc đã phá hỏng lời nói kế tiếp của bà ta. Đạo sĩ còn có thể ăn thịt lấy vợ, bà ta đúng là không biết chuyện này. “Hồi đó dì nghe nói, nếu như không nhờ lời của sư phụ con thì chú Diệp của con đã mất mạng rồi, sự phụ của con là đại ân nhân của nhà dì.” - Lương Quỳnh chỉ có thể đổi chủ đề. “Mấy năm nay chú Diệp bận bịu không có thời gian quay về thăm sư phụ của con, dạo này ông cụ thế nào rồi?” “Ba tháng trước sư phụ đã đi rồi.” “Đi rồi?” Lúc đầu Lương Quỳnh không phản ứng kịp, sau khi hiểu ra ngụ ý thì vội vàng xin lỗi. “Thật xin lỗi, nhắc đến chuyện đau lòng của con.” “Sư phụ ra đi viên mãn phi thăng, đây là chuyện vui, không gọi là buồn được.” Phương Minh không để ý chút nào, nếu như chẳng phải vì hắn thì từ mấy năm trước sư phụ đã phải rời hồng trần rồi. Nhưng mà, câu trả lời này và cả thái độ của Phương Minh làm cho Lương Quỳnh căng thẳng trong lòng, bà ta thầm nghĩ: Thằng bé này làm đạo sĩ riết mà ngu ra rồi, chết thì là chết, phi thăng ở đâu ra. Không được, càng không thể gả con gái cho nó. Lương Quỳnh càng kiên quyết giữ vững ý định của mình, ai biết tên Phương Minh đã bị tẩy não này có đột nhiên vào một ngày nào đó kéo con gái mình theo để làm cái gọi phi thăng để tìm chết không chứ. Nhưng mà dù sao bà ta cũng xuất thân từ gia đình có học thức, không tiện trực tiếp bội ước. Trầm ngâm chốc lát, trong lòng Lương Quỳnh đã có cách. “Phương Minh à, nói thật cho con biết, con gái của thím theo Cơ Đốc giáo, cả ngày nhắc với thím gì mà Thượng Đế, Jehovah, còn nói muốn đi Vatican thăm đức Giáo Hoàng.” Lương Quỳnh vừa nói vừa quan sát vẻ mặt của Phương Minh, sau khi thấy Phương Minh cau mày thì vui mừng trong lòng, bởi vì bà ta từng nghe nói, những người có tôn giáo tín ngưỡng hình như hơi ghét người tôn giáo khác. Với cách này, Phương Minh sẽ không có ý định với con gái mình nữa. “Dì à, con sửa một chút, Vatican là trung tâm quyền lực của giáo hội đạo Thiên Chúa, bọn họ không gọi là thượng đế mà gọi là đức Chúa Trời, gọi Thượng Đế là đạo Tin Lành của Cơ Đốc giáo, đạo này không có đức Giáo Hoàng.” Phương Minh vừa mở miệng là làm cho Lương Quỳnh cứng họng một lần nữa. “Hơn nữa, có thể dì đã hiểu sai về Đạo giáo rồi, thực tế là Đạo giáo có tính bao dung lớn nhất, gần như tiếp nhận tất cả các giáo phái.” Lúc nãy Phương Minh cau mày là bởi vì nghe thấy cách hiểu sai của Lương Quỳnh về Đạo giáo, mà lời của Lương Quỳnh cũng chính là sự hiểu biết tiêu biểu của phần lớn mọi người về Đạo giáo. Trên thực tế, nếu như Đạo giáo không có có tính dung nạp mọi thứ, vậy thì xưa kia Phật giáo cũng không thể hòa nhập vào. Lấy một ví dụ đơn giản, nếu như đi đến đạo quán, người ta sẽ nhận ra bên trong rất nhiều đạo quán đều có thờ Bồ Tát, đây chính là đặc tính của Đạo giáo. Đạo pháp tự nhiên, vạn vật hòa sinh. Thiện lành như nước, không tranh với ai. Chỉ cần các tín đồ nguyện ý bỏ tiền thì thờ cúng thần thánh của tôn giáo khác bên trong đạo quán cũng không bị ngăn cấm, nhưng tôn giáo khác lại không như thế. Lấy ví dụ như Phật giáo, rất ít chùa miếu thờ thần linh của Đạo giáo, hơn nữa Phật giáo còn một một đặc điểm lớn, đó chính là sẽ tụ hợp thần linh của của rất nhiều nơi. Người cẩn thận sẽ phát hiện ra, nếu như vùng địa phương có vị thần khá linh thiêng nào đó, hoặc là vài đại thiện nhân trong truyền thuyết thời xưa, miễn là được chùa miếu thờ cúng, thì sẽ có kinh văn giới thiệu, giải thích vị thần linh này là do vị Bồ Tát nào đó hóa thân hoặc là đệ tử bên người của vị Phật Tổ nào đó hóa thân, từ đó mà phát triển tín đồ. Đây cũng là lý do vì sao ở trong nước, với tư cách là một tôn giáo du nhập vào nhưng Phật giáo lại còn thịnh hành hơn Đạo giáo. Phong cách xử sự của hai giáo phái khác nhau, một bên thì không tranh không chấp, một bên thì cố hết sức mở rộng sức ảnh hưởng của mình. Lương Quỳnh hiển nhiên không biết nguyên nhân Phương Minh cau mày là vì sự hiểu biết sai của bà ta về Đạo giáo, nhưng nghe thấy lời này của Phương Minh bà ta cũng hiểu, chút tâm tư này của mình đã bị người trẻ tuổi trước mắt nhìn thấu. Nếu đã nhận ra, Lương Quỳnh cũng không che che giấu giấu nói quanh co nữa, bà ta nói thẳng: “Phương Minh, dì biết hồi xưa chồng dì có hứa hẹn với sư phụ con, nhưng bây giờ không còn là xã hội cũ của ngày trước, chỉ phúc vi hôn ép duyên gì đó đều trái pháp luật, hôn nhân chủ yếu là hai bên tình nguyện..” “Mặt khác, lại nói, cho dù dì đồng ý, bậc cha chú trong nhà, ông ngoại, bà ngoại, ông nội, bà nội của Tử Du cũng sẽ không bằng lòng.” “Dù bây giờ không bàn về môn đăng hộ đối, nhưng con là một đứa bé thông minh, thế cũng có thể nhìn ra điều kiện của nhà dì, từ nhỏ Tử Du lớn lên trong sự cưng chiều của mọi người, tiền tiêu vặt mỗi tháng còn nhiều hơn thu nhập một năm của nhà bình thường.” “ Phương Minh à, ngoài việc muốn gả Tử Du cho con, điều kiện khác con có thể nói ra, chỉ cần dì có thể làm được thì nhất định sẽ làm thỏa mãn con.” Phương Minh vẫn lẳng lặng nghe, Lương Quỳnh trong lòng thầm thở dài, thằng bé thật ra cũng có phẩm chất tốt, nếu là những những người trẻ tuổi khác nghe đến câu này thì đoán chừng là đã tức giận và trở mặt lâu rồi. Nếu như xuất thân của nó khá hơn một chút, mình cũng sẽ cho nó một cơ hội, đáng tiếc... “Lời của dì con hiểu, thật ra lần này con đến đây chủ yếu là được sư phụ dặn dò đến thăm hỏi chú Diệp một phen, nhưng mà...” Câu nói kế tiếp Phương Minh cũng không nói tiếp, nếu như lúc này hắn mở miệng nói cho dì Diệp là sư phụ nói năm nay chú Diệp sẽ gặp khó khăn, muốn mình đến hỗ trợ nhà họ Diệp hóa giải, e rằng là Lương Quỳnh cũng sẽ không tin. Sau khi trầm ngâm chốc lát, Phương Minh lấy ra từ trong ngực một cái hộp gỗ. “Đây là thứ sư phụ kêu con gửi cho chú Diệp, bên trong là một lá bùa bình an, mong rằng dì chuyển lại cho chú Diệp, để cho chú Diệp mang theo bên người.” Lương Quỳnh có hơi ngạc nhiên nhìn Phương Minh, không ngờ mình đã nói như vậy mà Phương Minh vẫn lấy ra thứ này, gương mặt bà ta lộ vẻ xấu hổ, nhưng mà vẫn cầm lấy hộp gỗ. Hộp gỗ chẳng qua lớn bằng bàn tay, nhưng cầm trong tay thì nặng trịch, mở ra thì thấy bên trong là một gói giấy hình tam giác màu trắng bạc. “Xin dì đừng đụng vào, lá bùa bình an này ngoài chú Diệp ra không được đụng vào tay người nào khác.” - Nhìn thấy Lương Quỳnh sắp cầm lấy, Phương Minh vội vàng mở miệng ngăn cản. “Bùa bình an này chỉ có người đeo mới được chạm vào, nếu không sẽ mất hiệu lực, mong dì nhớ kĩ.” Lương Quỳnh hậm hực rút tay về, bà ta cũng không mấy tin lời của Phương Minh, chẳng phải cũng chỉ là một lá bùa bình an thôi sao? Nhưng mà nghĩ đến việc Phương Minh ngay cả sư phụ mình qua đời cũng có thể nói là phi thăng, bà ta chỉ coi Phương Minh là một tên tín đồ si dại bị Đạo giáo tẩy não, cho nên cũng không để bụng. “Nhắn gửi lời của sư phụ đã xong, thưa dì, con xin cáo từ.” “Sao lại đi ngay, hay là ... ở lại ăn cơm tối đã?” Lương Quỳnh thật không ngờ Phương Minh dứt khoát như vậy, bà ta ngược lại là cảm thấy hơi ngại ngùng, nói gì thì nói, người ta từ nơi xa đưa bùa bình an đến, kết quả là mình chia rẽ uyên ương, trong lòng bà ta cũng hơi áy náy. “Con không làm phiền nữa.” “Con muốn đi đâu, để dì gọi lái xe đưa con đi, đây là số điện thoại của dì, nếu có việc thì cứ gọi điện cho dì.” Lần này Phương Minh không từ chối nữa, lên xe rồi rời khỏi khu dân cư. “Ai da, hy vọng con đừng trách dì, dì cũng xuất phát từ tấm lòng của một người mẹ, ai không hi vọng con gái mình hạnh phúc chứ.” Nhìn chiếc xe biến mất khỏi tầm mắt, Lương Quỳnh khẽ cảm thán một câu, sau đó liếc nhìn lá bùa bình an trong hộp gỗ, đưa tay muốn lấy ra, nhưng mà nửa chừng vẫn rút tay về. “Dù thế nào đây cũng là tấm lòng của đứa nhỏ này.” Sau ba giờ đồng hồ, lái xe nhìn Phương Minh nhắm mắt ngồi phía sau, rốt cuộc không chịu được nữa mà mở miệng hỏi: “Thưa ngài, rốt cuộc ngài muốn đi đâu?” Con đường này ông ta đã chạy qua hai lần rồi, mấy con phố gần đây ông ta cũng vòng đi vài lần. “À, vậy cứ xuống đây đi.” Phương Minh mở mắt, khi nhìn thấy gương mặt đầy nghi ngờ của tài xế nhìn về phía mình, hắn vừa cười vừa nói: “Có phải là ông cảm thấy kì quặc là tại sao hai lần trước chạy đến đây tôi không kêu ông dừng xe đúng không?” Tài xế không trả lời nhưng biểu cảm trên gương mặt đã nói rõ ông ta quả thật có nghi vấn như vậy. “Không có lý do gì, chỉ là khó chịu thôi.” Nói xong lời này, Phương Minh trực tiếp mở cửa xuống xe, mà sau khi tài xế sửng sốt chốc lát thì chửi đổng một câu "Có bệnh", sao đó thì nhấn chân ga đi thẳng. “Có bệnh à?” Nhìn con phố đông nghịt, mắt Phương Minh híp lại. Hắn suy cho cùng chỉ là một người hơn hai mươi tuổi, sao có thể không có tính tình bốc đồng. Tuy rằng đây chỉ là một hành động trút giận rất ấu trĩ. --- *Thượng Hải: Bản gốc là Ma Đo, tên gọi riêng của Thượng Hải. Mời các bạn đón đọc Siêu Phẩm Vu Sư của tác giả Cửu Đăng Hiền Lành.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tim Mực
Nếu bạn đã đọc và say mê Harry Potter của J.K.Rowling thì không thể bỏ qua Tim Mực của Cornelia Funke, hiện đang đứng đầu danh sách Bestseller tại CHLB Đức và Mỹ. Với bộ tác phẩm Tim Mực, Cornelia Funke được coi là J.K.Rowling của nước Đức. Một đêm nọ, cha của Meggie, ông Mo, đọc to thành tiếng cuốn Tim Mực. Và thế là tên trùm nanh nọc đen ác tên là Capricom cựa quậy, sổng ra ngoài ranh giới của sự tưởng tượng và xuất hiện sừng sững trong phòng khách. Bằng cách nào đó Meggie và ba Mo phải học cách chế ngự phép thuật để giải thoát khỏi cơn ác mộng này. Bằng cách nào đó, họ phải thay đổi diễn biến của câu chuyện để thay đổi cuộc sống của họ mãi mãi… *** Cornelia Caroline Funke là một nhà văn người Đức dành rất nhiều giải thưởng trong lĩnh vực văn học cho trẻ em. Funke được biết đến nhất với bộ ba Inkworld; bản dịch tiếng Anh của tập thứ 3 Inkdeath đã được phát hành vào 6 tháng 10 năm 2008. Các tác phẩm của bà phần lớn thuộc thể loại giả tưởng, phiêu lưu và rất nhiều trong số đó đã được dịch sang tiếng Anh. Hiện bà đang sống tại Los Angeles, California.   Cornelia Funke đã bán được hơn 10 triệu bản sách trên toàn thế giới.   Cornelia Funke sinh năm 1958 tại thị trấn Dorsten nước Đức, là con của Karl-Heinz và Helmi Funke. Lúc còn nhỏ, bà muốn trở thành một phi hành gia hoặc phi công, nhưng sau đó đã quyết định theo học ngành sư phạm tại Đại học Hamburg. Sau khi hoàn thành việc học, Funke làm nhân viên xã hội trong 3 năm, tập trung chủ yếu vào những đứa trẻ có hoàn cảnh thiếu thốn. Cornelia Funke có một công việc minh họa sách, nhưng bà đã sớm bắt đầu viết những tác phẩm của riêng mình, được truyền cảm hứng từ những câu chuyện đã hấp dẫn lũ trẻ nghèo khổ mà bà làm việc cùng. Vào cuối những năm 80 và thập kỷ 90, Funke đã gây dựng tên tuổi tại Đức với 2 loạt truyện cho trẻ em có hơi hướng giả tưởng là Gespensterjäger (Ghosthunters) và Wilde Hühner (Wild Chicks). Tiểu thuyết giải tưởng Kỵ sĩ rồng (1996) là bước đột phá quốc tế của bà. Tác phẩm này đã lọt vào danh sách Sách bán chạy nhất của tờ New York Times trong 78 tuần, và sau đó là The Thief Lord (Vua Trộm) (2000, dịch sang tiếng Anh năm 2002), đã leo lên vị trí thứ 2 trong danh sách này trong 19 tuần và bán được 1.5 triệu bản. Tiểu thuyết tiếp theo của Cornelia Funke là Inkheart (2003) đã giành giải thưởng BookSense Book of the Year Children's Literature năm 2004. Inkheart (Tim Mực) là phần đầu tiên của bộ ba Inkworld, tiếp đó là Inkspell (Máu Mực) (2005) đã tiếp tục giành giải BookSense Book of the Year Children's Literature năm 2006. Bộ ba được kết thúc với Inkdeath (xuất bản tại Đức năm 2007, phát hành bản tiếng Anh vào năm 2008, bản Mỹ vào mùa thu 2008).   Trên trang chủ của mình, Cornelia Funke phát biểu rằng điểm khởi đầu sống còn cho một quyển sách hay là “ý tưởng”, và nếu ý tưởng đó có giá trị thì hãy nghiên cứu những chủ đề thú vị để phục vụ nó và tìm kiếm những địa điểm và nhân vật thích hợp. Bà nói về những ý tưởng: “chúng đến từ mọi nơi và chẳng từ đâu cả, cả trong lẫn ngoài. Tôi có rất nhiều và không thể viết hết chúng trong một cuộc đời này được.” Cornelia Funke cũng nói về các nhân vật của mình: “Hầu hết bọn họ bước vào phòng viết của tôi và sống động đến mức tôi phải tự hỏi bản thân, rằng họ từ đâu đến. Dĩ nhiên, một vài nhân vật là kết quả của suy nghĩ kỹ lưỡng, thêm vào tính cách, cử chỉ..., nhưng những người khác đều sống từ ngay giây phút đầu tiên họ xuất hiện”. Bà cũng cho biết Dustfinger trong “Inkheart” là một trong những nhân vật sống động nhất đã từng nảy ra trong đầu bà. Đối với những người đang mơ ước trở thành nhà văn, Funke khuyên: “Đọc – và hãy tò mò. Nếu có ai đó nói với bạn: ‘Mọi thứ là như vậy. Bạn không thể thay đổi được’ – thì đừng tin một lời nào.”  *** Khi bắt đầu viết tiểu thuyết Tim Mực, tôi hoàn toàn không linh cảm được rằng câu chuyện này rồi sẽ lớn lên trong đầu tôi, lớn đến mức nó đổ đầy hơn một cuốn sách. Đã từ rất lâu rồi tôi muốn viết một câu chuyện nơi các nhân vật trở thành thực thể sống, bởi ai mê sách mà không biết cảm giác đó: rằng các nhân vật trong một cuốn sách đối với ta còn thực hơn và gần gũi hơn là những con người ta quen trong đời thực.   Lời giải thích thật đơn giản. Đã có người thực nào cho phép ta nhìn thật sâu vào trái tim anh ấy, giống như cách mà người kể chuyện cho phép ta làm với những nhân vật? Ta có thể đào đến đáy sâu tâm hồn, có thể nhìn thấy mọi nỗi sợ, mọi tình yêu, mọi giấc mơ.   Nhưng còn một điều nữa thúc cho tôi viết Tim Mực – một hình ảnh mà tôi luôn nhìn thấy trước mắt mình: một cô bé, quỳ trên giường trong đêm, trước một khuôn cửa sổ ướt nước mưa, và phía ngoài kia có một người đang đứng. Tôi nhìn thấy hình ảnh đó thật rõ ràng, giống như một cảnh trong phim, và tôi chỉ cần tìm cho ra câu chuyện nào đang núp đằng sau hình ảnh đó. Dĩ nhiên tôi đọc rất nhiều, kể cả những cuốn sách về những người sưu tầm sách, những người ăn cắp, những người giết sách, những người mê sách, những người đóng sách (như Mo)… và tìm thấy rất nhiều thứ cùng rất nhiều ý tưởng để có thể chăm bón cho câu chuyện của mình.   Chưa bao giờ việc viết sách đối với tôi trở nên dễ dàng đến như thế, như khi viết Tim Mực, chưa bao giờ có một câu chuyện thúc hối được tràn xuống mặt giấy như vậy – rất có thể bởi đó là nỗi đam mê về một câu chuyện của bản thân tôi, nỗi đam mê dành cho sách vở, và kể cả dành cho việc đọc sách cho người khác nghe. Giờ đây Tim Mực đã được xuất bản.   Tôi đang viết tiếp phần ba của câu chuyện này – và nó vẫn là một cuộc phiêu lưu lớn lao! Tôi hoàn toàn không biết trước kết cục sẽ ra sao, nhưng như vậy là tốt! Tôi rất thích để những nhân vật của mình gây ngạc nhiên cho bản thân mình. Nếu tôi biết chính xác con đường rồi sẽ dẫn tới đâu, chắc là tôi sẽ nhàm chán đến chết khi viết mất.   Như vậy đấy – tôi hy vọng khi đọc sách bạn cũng sẽ thấy vui thú y hệt như khi tôi viết sách – xin chào mừng bạn vào mê hồn trận của các chữ cái!   CORNELIA FUNKE   Mời các bạn đón đọc Tim Mực của tác giả Cornelia Funke.
Ma Cà Rồng Ở Dallas
Khi chàng ma cà rồng Bill Thompton tiếp nhận vị trí Điều tra viên khu vực Số Năm, Sookie Stackhouse mặc nhiên được những ma cà rồng quyền lực nhất vùng bảo vệ. Nhưng, được coi như món đồ thuộc quyền sở hữu của Bill, cô buộc phải sử dụng khả năng đọc tâm trí của mình để phục vụ những kẻ khát máu. Với điệp vụ đầu tiên trong vai trò một tay lính đánh thuê, cô phải lặn lội cùng Bill tìm lời giải đáp cho sự mất tích bí ẩn của một ma cà rồng đồng tính tận Dallas. Cô những tưởng mình chỉ cần đọc tâm trí một vài người thường nào đó. Cô cũng đã tưởng mình có thể bảo vệ những con người liên quan đến vụ việc. Chỉ có điều, mối nguy hiểm không phải lúc nào cũng chỉ đến từ phía ma cà rồng. Và, lý thuyết bao giờ cũng đơn giản hơn thực tế… Một lần nữa, chính mạng sống của cô lại bị treo trên đầu sợi tóc… Charlaine Harris (sinh 25/11/1951) sinh ra và lớn lên tại Tunica, Mississippi và hiện giờ đang sống ở Arkansas cùng chồng và ba người con. Bà sáng tác thơ, truyện ngắn, kịch và tiểu thuyết. Chết trước hoàng hôn (Dead Until Dark) là tập đầu tiên trong bộ tiểu thuyết ăn khách The Southern Vampire Mysteries (Bí ẩn ma cà rồng miền Nam), từng giành được giải Anthony Award cho Tác phẩm thần bí xuất sắc nhất 2001. Bộ tiểu thuyết này cũng được đạo diễn Alan Ball chuyển thể thành series phim truyền hình ăn khách nhiều năm liên tiếp True Blood. “Thật khó tưởng tượng ra cảnh ma cà rồng và người sói cùng lượn lờ ở mỗi góc đường, nhưng Harris đã biết cách khiến người đọc yêu thích, bị lôi cuốn và cuối cùng là mê mệt những câu chuyện của bà.” – The Monroe News-star “Một cuốn sách bạn muốn đọc trước giờ đi ngủ, chắc mẩm sẽ chỉ theo dõi hết chương đầu tiên, nhưng hóa ra lại chỉ dừng lại được khi đã đi đến trang cuối cùng.” – Alan Ball, biên kịch American Beauty và đạo diễn True Blood “Bằng sự hòa quyện của những pha hành động, tình cảm và các chi tiết hài hước, Harris đã tạo ra một thế giới sống động đầy tính hiện thực, tất nhiên, nếu không kể đến ma cà rồng và những sinh vật siêu nhiên khác.” – The Toronto Stars *** Andy Bellefleur đã say khướt. Chuyện này chẳng bình thường với Andy chút nào - tin tôi đi, tôi biết hết mấy tay nát rượu ở Bon Temps. Nhờ nhiều năm làm việc trong quán bar của Sam Merlotte, tôi đã quen mặt tất cả bọn họ. Nhưng Andy Bellefleur, người gốc địa phương và là thanh tra trong lực lượng cảnh sát ít ỏi ở thị trấn Bon Temps, thì trước giờ chưa từng say xỉn ở quán Merlotte. Tôi cực kỳ tò mò muốn biết vì sao tối nay lại là ngoại lệ. Vì Andy và tôi chẳng hề quen thân nên tôi không thể hỏi thẳng anh ta được. Nhưng vẫn còn vài cách khác mà, thế là tôi quyết định dùng các cách ấy. Mặc dù tôi luôn cố hạn chế sử dụng khiếm khuyết, hay tài năng của mình, muốn gọi sao cũng được, để tìm ra những thứ có thể ảnh hưởng đến tôi hoặc những thứ thuộc về tôi, nhưng đôi lúc sự tò mò lại thắng thế. Tôi hạ rào chắn tâm trí xuống để đọc suy nghĩ của Andy. Rồi tôi lại thấy hối hận. Sáng nay Andy đã tóm một tên bắt cóc. Gã đàn ông đó đã bắt cóc cô bé hàng xóm mới mười tuổi mang vào rừng hãm hiếp. Cô bé đó hiện đang ở bệnh viện, còn gã kia đang ở trong tù, nhưng tổn hại mà hắn đã gây ra thì chẳng thể nào khắc phục được. Tôi buồn đến phát khóc. Tội ác ấy chạm vào sâu thẳm quá khứ của chính tôi. Sự trầm uất của Andy làm tôi thấy thích anh ta hơn một chút. “Này Andy Bellefleur, đưa chìa khóa xe anh đây,” tôi nói. Gương mặt to bành của Andy ngước lên nhìn tôi, ngơ ngác. Sau một hồi lâu ngẩn ngơ để cho lời tôi nói thẩm thấu vào trí óc rối bời của mình, Andy thò tay lục túi quần kaki rồi đưa tôi một chùm chìa khóa nặng trịch. Tôi đặt thêm một ly bourbon pha coca trên quầy bar trước mặt anh ta. “Tôi mời,” tôi nói, rồi lấy điện thoại ở cuối quầy bar gọi cho Portia, em gái Andy. Hai anh em nhà Bellefleur sống ở một căn biệt thự lớn kiểu tiền Nội Chiến hai tầng màu trắng trước đây hẳn rất tráng lệ nhưng giờ đang xuống cấp, nằm trên con phố xinh xắn nhất trong khu vực đẹp nhất thị trấn Bon Temps. Trên đường Magnolia Creek, mọi ngôi nhà đều quay mặt ra phía dải công viên có dòng suối nhỏ len qua, bắc rải rác ngang con suối là những cây cầu hoa hòe hoa sói chỉ dành riêng cho người đi bộ; đường lộ chạy dọc hai bên công viên. Trên đường Magnolia Creek còn có vài căn nhà xưa khác nữa, nhưng tất cả đều được chăm chút hơn nơi ở của gia đình Bellefleur, căn Belle Rive. Việc duy tu căn nhà Belle Rive vượt quá khả năng chi trả của Portia, một luật sư, và của Andy, một cảnh sát, vì số tiền để duy trì căn nhà cùng đất đai vườn tược chung quanh đã hết từ lâu rồi. Nhưng bà của họ, Caroline, lại gàn bướng không chịu bán. Portia nhấc điện thoại sau hồi chuông thứ hai. “Portia à, tôi là Sookie Stackhouse đây,” tôi phải lên giọng để át đi âm thanh ồn ã trong quán bar. “Hẳn là cô vẫn đang ở chỗ làm.” “Phải rồi. Andy đang ở đây, say mèm rồi. Tôi đã thu chìa khóa xe của anh ấy. Cô đến đón Andy được không?” “Andy quá chén à? Hiếm nhỉ. Được rồi, tôi sẽ đến đó trong vòng mười phút,” cô ta hứa, rồi cúp máy. “Cô tốt bụng quá, Sookie,” tự nhiên Andy thốt lên. Anh ta đã nốc cạn ly rượu tôi vừa rót. Tôi gạt cốc ra chỗ khuất mắt, mong rằng anh ta không đòi thêm nữa. “Cảm ơn anh, Andy,” tôi nói. “Anh cũng là người tốt bụng mà.” “Bạn trai… đâu ấy nhỉ?” “Ngay đây này,” một giọng nói lạnh lùng đáp lại, và Bill Compton xuất hiện ngay đằng sau Andy. Tôi mỉm cười với anh qua đầu Andy lúc này đang gục xuống. Bill cao khoảng một mét tám, tóc và mắt cùng một màu nâu sẫm. Anh có bờ vai rộng và đôi cánh tay cuồn cuộn cơ bắp như của người đã lao động chân tay suốt nhiều năm liền. Trước khi đi lính, Bill đã làm việc ở trang trại, đầu tiên là cùng bố, sau đó làm một mình. Trong cuộc Nội Chiến thì phải. “Chào M.B.!” Micah, chồng của Charlsie Tooten, cất tiếng. Bill phẩy tay đáp lại, Jason, anh trai tôi, thì chào hỏi vô cùng lịch sự, “Chào buổi tối nhé, ma cà rồng Bill.” Jason, trước đây không mấy sẵn lòng đón chào Bill bước vào gia đình nhỏ của chúng tôi, nhưng giờ lại thay đổi thái độ hoàn toàn. Trong thâm tâm tôi gần như vẫn nín thở chờ xem thái độ được cải thiện này có tồn tại mãi không. “Này Bill, anh là một tay hút máu tốt bụng đấy,” Andy nói vẻ đánh giá, rồi xoay người đối mặt Bill. Tôi lại nâng cấp quan điểm của mình về Andy khi say xỉn, vì khi tỉnh táo có bao giờ anh ta tỏ ra sẵn lòng chấp nhận ma cà rồng vào xã hội con người trên đất nước này đâu cơ chứ. “Cảm ơn anh,” Bill đáp bằng giọng khô khốc. “Với một tay nhà Bellefleur thì anh cũng đâu quá tệ.” Anh rướn người qua quầy hôn tôi. Đôi môi anh cũng lạnh như chính giọng nói. Phải làm quen với điều này thôi. Như khi ngả đầu lên ngực anh, chẳng ai nghe thấy được nhịp tim đập trong ấy. “Chào buổi tối, cưng à,” anh nói nhỏ. Tôi đẩy qua quầy bar một ly B trừ, loại máu nhân tạo được Nhật Bản phát chế, anh ngửa cổ nốc cạn rồi liếm môi. Gần như ngay lập tức trông anh hồng hào hẳn. “Cuộc họp sao rồi cưng?” tôi hỏi. Bill đã ở Shreveport hầu như cả đêm hôm nay. “Anh sẽ kể cho em sau.” Tôi hy vọng những chuyện liên quan đến công việc của anh không quá bi thương như chuyện của Andy. “Được thôi. Em mong là anh sẽ giúp Portia dìu Andy ra xe cô ấy. Cô ấy đến kia kìa,” tôi nói, hất đầu về phía cửa. Đấy là lần đầu tiên tôi không thấy Portia vận bộ đồng phục váy công sở, sơ mi, áo khoác, tất dài cùng giày đế bệt. Portia đã thay quần jean xanh và một chiếc áo lạnh Sophie Newcomb nhàu nhĩ. Thân hình Portia to cao như người anh mình, nhưng cô có mái tóc màu hạt dẻ dài và dày. Chăm sóc cho mái tóc mình đẹp đẽ là một nét đặc trưng của bản thân mà Portia chưa muốn từ bỏ. Cô chỉ đưa mắt khắp đám đông om sòm chăm chăm tìm một thứ. “Ôi, anh ấy xỉn quá rồi, hay nhỉ,” cô thốt lên, thẩm định tình trạng ông anh trai của mình. Portia cố phớt lờ Bill, người đang làm cô thấy hết sức khó chịu. “Chuyện này không xảy ra thường xuyên đâu, nhưng nếu đã muốn uống thật là anh ấy sẽ uống quắc cần câu luôn.” “Portia này, Bill có thể dìu anh ấy ra ngoài xe giúp cô,” tôi nói. Andy cao và đậm người hơn Portia, rõ ràng là nặng quá sức cô em gái. “Tôi nghĩ mình có thể tự lo được,” Portia quả quyết với tôi, vẫn không thèm nhìn qua Bill, lúc này đang nhướn mày nhìn tôi. Thế là tôi để cô vòng tay qua người ông anh trai, cố nhấc anh ta ra khỏi ghế. Andy vẫn ì ra đó. Portia liếc nhìn quanh tìm Sam Merlotte, chủ quán bar, tuy anh này có vẻ ngoài nhỏ thó gầy gò nhưng thật ra lại rất khỏe. “Sam đang đi pha chế rượu cho một buổi tiệc kỷ niệm ở câu lạc bộ ngoại ô mất rồi,” tôi nói. “Tốt hơn hết là cứ để Bill giúp đi.” “Ừ thôi cũng được,” cô luật sư cứng nhắc đáp, mắt nhìn chăm chăm lên mặt gỗ quầy bar bóng loáng. “Cảm ơn rất nhiều.” Trong chớp mắt Bill đã xốc Andy lên đi ra phía cửa, mặc cho hai chân Andy cứ muốn nhũn như chi chi. Micah Tooten bật dậy mở cửa, để Bill có thể dìu Andy thẳng ra ngoài bãi đỗ xe. “Cảm ơn cô, Sookie,” Portia nói. “Tiền rượu anh ấy đã trả hết chưa?” Tôi gật đầu. “Được rồi,” cô nói, vỗ nhẹ tay xuống bàn để ra hiệu là cô về đây. Cô phải nghe hàng đống lời khuyên đầy thiện chí khi theo bước Bill ra khỏi cửa chính của quán Merlotte. Đó là lý do vì sao mà chiếc Buick cũ kỹ của thanh tra Andy Bellefleur lại đỗ trong bãi xe quán Merlotte suốt đêm đến tận ngày hôm sau. Sau này hẳn anh ta sẽ thề rằng dĩ nhiên không có ai trong chiếc Buick ấy khi mình bước ra khỏi xe đi vào quán. Hẳn anh ta cũng sẽ khai rằng trước đó do quá bận tâm về cơn hỗn loạn nội tâm nên đã quên khóa cửa. Đâu đó trong khoảng thời gian từ tám giờ tối, khi Andy bước vào quán Merlotte, đến mười giờ sáng hôm sau, khi tôi đến để giúp mở cửa tiệm, xe của Andy đã có thêm một hành khách mới. Người này chắc chắn sẽ gây ra một nỗi xấu hổ trầm trọng cho viên cảnh sát. Hắn đã chết. Đáng lẽ ra tôi không nên đến đây làm gì. Đêm trước tôi đã làm ca khuya, và nhẽ ra tối hôm sau tôi lại phải làm ca khuya nữa. Nhưng Bill đã yêu cầu tôi đổi ca với một đồng nghiệp khác, bởi anh cần tôi đi cùng đến Shreveport, và Sam đã không phản đối. Tôi đã nhờ chị bạn Arlene đổi ca với tôi. Hôm ấy là ngày nghỉ của chị, nhưng Arlene luôn muốn kiếm những món tiền boa hậu hĩnh hơn khi làm việc ca tối, nên chị đồng ý đến quán vào lúc năm giờ chiều. Kỳ thực, lẽ ra Andy đã phải đến lấy xe buổi sáng hôm đó, nhưng anh ta vẫn còn quá váng vất không đủ sức làm trò buộc Portia cho quá giang đến quán Merlotte, quán này thì không nằm trên đường tới đồn cảnh sát. Cô bảo buổi trưa sẽ đến đón anh ở chỗ làm, và cả hai sẽ dùng bữa ở quán. Sau đó thì anh ta có thể lấy xe. Thế nên chiếc Buick, cùng vị hành khách câm lặng của mình, đã phải chờ lâu hơn thời gian cần thiết mới được phát hiện. Tôi đã ngủ khoảng sáu tiếng đêm trước đó, nên cảm thấy trong người khá khỏe khoắn. Hẹn hò với ma cà rồng có thể sẽ làm khó cho sự cân bằng của bạn nếu bạn thực là người sống về ban ngày, như tôi đây này. Tôi giúp mọi người đóng cửa quán, rồi về nhà với Bill trước một giờ sáng. Hai chúng tôi cùng tắm trong bồn tắm nước nóng nhà anh, rồi làm vài chuyện khác nữa, nhưng tôi đã đi ngủ sau hai giờ một chút, và mãi đến gần chín giờ sáng mới thức dậy. Lúc đó thì Bill đã xuống lòng đất từ lâu rồi. Tôi uống thật nhiều nước, nước cam cùng một viên vitamin tổng hợp và một viên bổ sắt vào bữa sáng, đó là chế độ dinh dưỡng của tôi kể từ khi Bill bước vào đời tôi và mang theo (cùng với tình yêu, trò phiêu lưu, lẫn sự phấn khích) mối đe dọa triền miên của chứng thiếu máu. Thời tiết đang dần trở nên mát mẻ hơn, tạ ơn Chúa, khi tôi ngồi trước hiên nhà Bill, mặc áo len móc dài tay và chiếc quần dài màu đen mà chúng tôi vẫn mặc làm việc ở quán Merlotte mỗi khi trời quá lạnh không thể mặc quần soóc được. Chiếc áo sơ mi đánh gôn trắng của tôi có thêu chữ BAR MERLOTTE’S bên ngực trái. Khi đang đọc lướt qua tờ báo buổi sáng, một phần tâm trí khác của tôi giúp tôi nhận ra một thực tế rõ ràng là cỏ mọc không nhanh như trước kia. Có vẻ như một vài ngọn cỏ bắt đầu ngả màu dần. Tình trạng sân bóng trong trường trung học chắc hẳn sẽ khá xấu vào tối thứ Sáu tới đây. Mùa hè ở Louisiana cứ dùng dằng mãi không dứt, kể cả ở miền Bắc Louisiana cũng thế. Mùa thu đến rất miễn cưỡng, cứ như thể bất cứ lúc nào mùa thu cũng có thể bỏ cuộc để lại nhường chỗ cái nóng hầm hập của tháng Bảy vậy. Nhưng tôi vốn mẫn cảm, và có thể điểm mặt được những dấu hiệu của mùa thu vào buổi sáng hôm nay. Mùa thu và mùa đông đến có nghĩa là đêm được dài hơn, thời gian ở bên Bill được lâu hơn, và giấc ngủ được thêm vài giờ nữa. Nên tôi đi làm với tâm trạng vui vẻ. Khi thấy chiếc Buick vẫn còn đỗ một mình trước quán bar, tôi nhớ lại chầu rượu say bí tỉ bất thường của Andy tối qua. Phải thú thật rằng, tôi đã mỉm cười khi nghĩ đến cảm giác của anh ta sáng nay. Ngay khi chuẩn bị vòng xe ra đằng sau để đỗ xe cùng với những nhân viên khác, tôi nhác thấy cửa sau của xe Andy mở he hé. Nếu cứ để như vậy thì đèn trần chắc chắn sẽ sáng hoài, phải không nào? Và ắc quy xe anh ta sẽ cạn mất. Và chắc hẳn anh ta sẽ cáu điên lên, rồi phải vào trong quán bar mà gọi xe đến cẩu đi, hoặc nhờ ai đó làm nóng xe cho mình… nên tôi đỗ xe vào bãi rồi ra khỏi xe, cứ để máy nổ. Hóa ra đây lại là một sai lầm tai hại vì lạc quan quá mức. Tôi ẩy cánh cửa vào, nhưng nó chỉ nhích tới có một phân. Thế nên tôi tì cả người vào cánh cửa, nghĩ rằng nó sẽ dập khóa lại và tôi có thể đi làm việc khác. Nhưng một lần nữa, cánh cửa không chịu sập lại. Tôi sốt ruột giật toang cửa ra để xem thứ gì kẹt trong cửa xe. Một luồng hôi thối ùa tràn ra bãi đỗ xe, một mùi hôi thối chết chóc. Tôi nghẹn họng mất hết tinh thần, vì tôi chẳng xa lạ gì với mùi hôi thối ấy. Tôi thò đầu vào trong băng ghế sau của xe, tay bịt chặt miệng, dù rằng làm thế cũng chẳng ngăn được thứ mùi này. “Ôi, trời ơi,” tôi thì thào. “Ôi, chết tiệt.” Lafayette, tay bếp làm một ca ở quán Merlotte, đã bị nhồi vào ghế sau. Trần truồng. Chính bàn chân nhỏ màu nâu của Lafayette với những móng chân sơn màu mận chín đã ngăn không cho cánh cửa đóng sập lại, và chính cái xác của Lafayette đã tạo ra thứ mùi xóc cả óc đó. Tôi vội nhảy phắt ra sau, lẩy bẩy leo vào xe mình rồi lái vòng ra phía sau quán, bấm còi inh ỏi. Sam chạy ra từ phía cửa dành cho nhân viên, tạp dề cột quanh eo. Tôi tắt máy xe và lao bắn ra ngoài nhanh đến nỗi chính bản thân còn không nhận thức được mình đã ra khỏi xe, và tôi ôm choàng lấy anh như một chiếc tất tích điện. “Chuyện gì thế?” Tiếng Sam vang lên trong tai tôi. Tôi ngửa người ra sau ngước nhìn anh, chẳng phải ngước lên quá cao làm gì vì Sam hơi nhỏ con. Mái tóc vàng hoe hoe đỏ của anh lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi sớm. Cặp mắt xanh biêng biếc đang mở to khiếp đảm. “Lafayette đó,” tôi nói, bắt đầu thút thít. Khóc lóc thì kỳ cục, ngớ ngẩn và vô tích sự thật, nhưng tôi không kìm lại được. “Anh ấy chết rồi, trong xe của Andy Bellefleur ấy.” Vòng tay của Sam siết chặt sau lưng tôi khi anh lại kéo tôi sát vào lòng. “Sookie, thật tiếc là em đã phải nhìn thấy cảnh ấy,” anh bảo. “Chúng ta sẽ gọi cảnh sát. Lafayette tội nghiệp.” Việc làm đầu bếp ở quán Merlotte không nhất thiết đòi hỏi tay nghề bếp núc cao siêu gì, vì Sam chỉ bán vài món sandwich và khoai tây chiên, nên vị trí này thay người luôn. Nhưng bất ngờ thay, Lafayette lại là người làm việc ở đây được lâu nhất. Lafayette là người đồng tính, đồng tính kiểu hoa hòe hoa hoét, kiểu trang-điểm-và-để-móng-tay-dài. Người dân miền Bắc Louisiana vẫn còn khó chấp nhận được chuyện này hơn dân ở New Orleans, nên tôi ngờ rằng Lafayette, một người da màu, đã phải hứng chịu khó khăn gấp đôi. Mặc cho - hay nhờ vào - những khó khăn đó, anh ấy vẫn luôn vui vẻ, lém lỉnh khôi hài, thông minh, và là đầu bếp giỏi thực thụ. Anh ấy đã chế một loại xốt đặc biệt để ướp hamburger, và người ta gọi món burger Lafayette khá thường xuyên. “Anh ấy có người thân nào ở đây không nhỉ?” tôi hỏi Sam. Chúng tôi tự giác rời nhau ra và rảo bước về phía tòa nhà, vào văn phòng của Sam. “Anh ấy có một tay anh em họ nào đó,” Sam vừa nói vừa nhấn 9-1-1. “Làm ơn đến quán Merlotte trên đường Hummingbird ngay,” anh nói với người trực tổng đài. “Có một xác chết đàn ông trong xe ở đây. Phải, trong bãi đỗ xe, ngay trước cửa quán. À, chị cũng làm ơn báo cho Andy Bellefleur đi. Xe của anh ta đấy.” Từ chỗ đang đứng, tôi có thể nghe thấy tiếng trả lời bai bải ở phía đầu dây bên kia. Danielle Gray và Holly Cleary, hai phục vụ bàn ca sáng, bước vào qua cửa sau, cười hô hố. Hai cô này đều đã ly dị lúc hai lăm hai sáu tuổi, là bạn với nhau từ thuở thiếu thời, có vẻ như đều khá hài lòng với công việc này miễn là được làm việc cùng nhau. Holly có một cậu con trai năm tuổi đang học mẫu giáo, còn Danielle có một cô con gái bảy tuổi và một cậu con trai chưa đến tuổi đi học để ở nhà cho bà trông khi cô ấy đến quán Merlotte làm việc. Tôi chẳng bao giờ gần gũi được với hai người phụ nữ này - dù rằng họ cũng sàn sàn tuổi tôi - bởi họ luôn chăm chắm quan tâm tới nhau mà thôi. “Có chuyện gì vậy?” Danielle hỏi khi cô ta nhìn thấy mặt tôi. Khuôn mặt choắt và đầy tàn nhang của cô ta lập tức trở nên lo lắng. “Sao xe của Andy ở trước cửa quán vậy?” Holly hỏi. Có thời cô ấy đã cặp kè với Andy Bellefleur, tôi chợt nhớ ra. Holly có mái tóc vàng tém ngắn lòa xòa quanh mặt như những cánh hoa cúc dại héo rũ, và làn da đẹp nhất mà tôi từng thấy. “Anh ta ngủ qua đêm trong xe à?” “Không phải,” tôi đáp, “mà là người khác kia.” “Ai?” “Lafayette ở trong xe.” “Andy để một tay lập dị da đen ngủ trong xe của mình sao?” Câu này của Holly, người khi nào cũng thẳng thừng vô duyên. “Chuyện gì đã xảy ra với anh ta thế?” Câu này của Danielle, người thông minh hơn trong hai cô. “Tụi này không biết nữa,” Sam đáp. “Cảnh sát đang trên đường đến đây.” “Ý anh là,” Danielle nói, thật chậm rãi từng chữ một, “anh ta đã chết.” “Phải,” tôi bảo cô ta. “Đó chính xác là ý của tụi này.” “Này, một giờ nữa là chúng ta phải mở cửa rồi,” Holly chống tay lên bờ hông tròn trịa của mình. “Chúng ta sẽ xử lý chuyện này ra sao đây? Nếu cảnh sát cho chúng ta mở cửa, ai sẽ làm bếp chứ? Mọi người vào quán, họ sẽ muốn dùng bữa trưa.” “Tốt hơn là cứ chuẩn bị sẵn sàng đi, để đề phòng thôi,” Sam nói. “Dù tôi đang nghĩ là mãi đến chiều mình mới được phép mở cửa kia.” Anh vào văn phòng để bắt đầu gọi cho mấy tay đầu bếp thay thế. Thật lạ lẫm khi phải làm những việc chuẩn bị thường ngày trước khi mở cửa quán, cứ như thể Lafayette sẽ đi vào bất cứ lúc nào cùng một câu chuyện về buổi tiệc nào đó mà anh ấy đã tham dự, như mới vài ngày trước đây anh cũng đã đi vào như thế. Tiếng còi hụ của xe cảnh sát vang vọng từ con đường chạy ngang qua trước quán Merlotte. Tiếng bánh xe nghiến lạo xạo trên bãi xe rải sỏi của Sam. Đến khi chúng tôi hạ hết ghế xuống, bày biện bàn ăn, cuộn thêm vài bộ dao nĩa dự phòng vào khăn ăn để sẵn sàng thay thế cho những bộ dao nĩa đã được dùng đến, thì cảnh sát bước vào. Quán Merlotte nằm ngoài phạm vi thị trấn, nên viên cảnh sát trưởng địa phương, Bud Dearborn, sẽ đảm trách vụ này. Bud Dearborn là một người bạn rất thân của ba tôi trước kia, giờ đây mái tóc đã điểm bạc. Ông có khuôn mặt bèn bẹt, như người mang mặt chó Bắc Kinh, và đôi mắt nâu mờ đục. Khi ông bước vào cửa trước quán, tôi nhận ra Bud vẫn còn đang đi đôi bốt nặng nề và đội chiếc mũ lưỡi trai đội bóng Saints. Chắc hẳn ông bị gọi đến khi vẫn đang làm việc ngoài nông trại. Bud đi cùng Alcee Beck, viên thanh tra da màu duy nhất trong lực lượng cảnh sát địa phương. Da Alcee đen đến nỗi chiếc sơ mi trắng của anh ta sáng lóa lên vì tương phản. Chiếc cà vạt được thắt ngay ngắn, bộ vét hết sức chỉnh tề. Còn đôi giày da thì được đánh bóng loáng lấp lánh. Bud và Alcee thay phiên nhau coi quản trong vùng… ít nhất thì cũng có vài người quan trọng hơn để giữ cho khu vực này còn hoạt động. Mike Spencer, giám đốc công ty mai táng kiêm nhân viên pháp y của địa phương, cũng là người có vai vế trong địa phương, là bạn thân của Bud. Tôi sẵn sàng đánh cuộc rằng lúc này Mike đã ra ngoài bãi xe, tuyên bố Lafayette tội nghiệp đã chết. Bud Dearborn hỏi, “Ai là người phát hiện ra cái xác?” “Tôi đây.” Bud và Alcee liếc nhìn nhau đầy ẩn ý và bước về phía tôi. “Sam à, bọn tôi mượn văn phòng của cậu được chứ?” Bud hỏi. Không cần đợi Sam trả lời, ông ta hất đầu ra dấu cho tôi đi vào. “Chắc chắn rồi, thẳng vào trong ấy đấy,” ông chủ của tôi đáp khô khốc. “Em ổn chứ, Sookie?” “Không sao đâu mà, Sam.” Tôi không chắc điều này có thật hay không, nhưng Sam có phản ứng kiểu gì với cái yêu cầu này thì cũng gặp rắc rối hết, vô ích thôi. Mặc dù Bud ra dấu cho tôi ngồi xuống, tôi lắc đầu khi ông ta và Alcee an vị trên hai cái ghế trong văn phòng. Bud, tất nhiên là ngồi trên cái ghế to bành của Sam, còn Alcee thì giành lấy chiếc ghế phụ vẫn còn ngon, chiếc ghế vẫn còn lại chút ít nệm lót ấy. “Kể cho chúng tôi nghe về lần cuối cùng cô gặp Lafayette còn sống đi,” Bud gợi ý. Tôi suy nghĩ. “Anh ấy không làm việc tối qua,” tôi nói. “Mà là Anthony. Anthony Bolivar.” “Ai thế nhỉ?” Vầng trán rộng của Alcee nhăn lại. “Không nhận ra cái tên đó.” “Anh ta là bạn của Bill. Anh ta đang lang bạt qua vùng này, và cần một công việc. Anh ta có kinh nghiệm.” Anh ta đã làm việc tại quán ăn trong thời kỳ Đại Khủng hoảng. “Ý cô là tay đầu bếp tạm thời ở đây là một ma cà rồng? “Thì sao chứ?” tôi hỏi lại, khóe miệng cong lên ương bướng, lông mày nhíu lại, và tôi biết rằng khuôn mặt mình đang dần toát lên vẻ giận dữ. Tôi đang cố hết sức để không phải đọc tâm trí của họ, cố bằng mọi giá để hoàn toàn không thông tâm gì cả, nhưng việc này không dễ dàng. Bud Dearborn thì thường thường thôi, nhưng Alcee thì phóng suy nghĩ ra cứ như kiểu ngọn hải đăng truyền phát tín hiệu vậy. Ngay lúc này đây anh ta đang tỏ vẻ ghê tởm và kinh sợ. Trong thời gian trước khi gặp Bill, và nhận ra anh quý trọng khiếm khuyết của tôi - là tài năng, như cách anh nhìn nhận - tôi đã cố hết sức để dối gạt bản thân và lừa phỉnh mọi người rằng tôi thực sự không biết “đọc” tâm trí. Nhưng kể từ khi Bill giải thoát tôi khỏi lao tù nhỏ bé mà tôi tự xây lên cho bản thân, thì tôi đã thực tập và trải nghiệm, trong sự khuyến khích của Bill. Vì anh, tôi đã mô tả thành lời những thứ mà mình đã và đang cảm nhận suốt hàng mấy năm trời. Có vài người gửi đi những thông điệp hết sức mạnh mẽ, rõ ràng, như Alcee đây. Còn đâu thì hầu hết mọi người lúc này lúc khác, như Bud Dearborn vậy. Theo như những gì tôi biết thì chuyện này phụ thuộc rất nhiều vào việc cảm xúc của họ mãnh liệt đến đâu, mức độ tỉnh táo của họ ra sao, thời tiết như thế nào. Còn có vài người thì kín như bưng đến nỗi gần như không thể biết được họ đang nghĩ gì. Có lẽ tôi có thể đọc được tâm trạng của họ, nhưng tất cả chỉ có vậy. Tôi đã thừa nhận rằng nếu được chạm vào người khác khi cố đọc tâm trí họ, thì bức tranh trở nên sáng sủa hơn - như sử dụng đường truyền cáp sau khi dùng ăng ten ấy. Và tôi cũng phát hiện ra rằng nếu mình “gửi” những hình ảnh thư giãn cho người ta, thì tôi có thể len lỏi vào tâm trí của họ dễ như bỡn. Tôi thì không muốn thâm nhập vào suy nghĩ của Alcee Beck chút nào. Nhưng tôi đang hoàn toàn miễn cưỡng đón nhận bức tranh toàn cảnh về phản ứng mê tín đến độ cực đoan của Alcee khi anh ta nhận ra có một ma cà rồng làm việc ở quán Merlotte, về nỗi khiếp sợ của anh ta khi phát hiện ra tôi là người phụ nữ mà anh ta đã nghe nói đang hẹn hò với ma cà rồng, về lời kết tội từ trong sâu thẳm của anh ta cho rằng tên đồng tính công khai Lafayette là một nỗi ô nhục cho cộng đồng người da màu. Alcee đoán rằng ai đó hẳn là muốn chơi khăm Andy Bellefleur, khi tống xác của một gã đồng tính da màu vào xe của Andy. Alcee đang băn khoăn không rõ Lafayette có bị nhiễm AIDS không, rồi liệu làm sao đấy mà con virút ấy có thấm vào ghế xe Andy và cứ tồn tại ở đó không. Alcee sẽ bán xe ngay, nếu đó là xe của anh ta. Nếu chạm vào Alcee, hẳn là tôi sẽ biết được luôn cả số điện thoại và cỡ áo ngực của vợ anh ta nữa. Bud Dearborn nhìn tôi kỳ kỳ. “Chú vừa nói gì ạ?” tôi hỏi. “Phải. Ta thắc mắc không biết cháu có gặp Lafayette ở đây suốt tối qua không. Anh ta có ghé vào quán uống ẩm gì chăng?” “Cháu chẳng bao giờ gặp anh ấy ở đây cả.” Ngẫm lại chuyện này, thì tôi chẳng bao giờ thấy Lafayette uống rượu. Lần đầu tiên, tôi mới nhận ra rằng mặc dù đám người đến ăn trưa có cả người da màu và người da trắng, nhưng những vị khách đến quán buổi tối hầu như rặt là người da trắng. “Anh ta hay tụ tập ở đâu?” “Cháu chịu.” Tất cả những câu chuyện Lafayette kể đều được thay đổi tên họ để bảo vệ danh tính những người vô tội. À ừ, thực ra, là những kẻ có tội thì đúng hơn. “Lần cuối cùng cháu gặp anh ta là khi nào?” “Đã chết, nằm trong xe.” Bud cáu kỉnh lắc đầu. “Lúc còn sống cơ, Sookie à.” “Hừmm, cháu nghĩ là… cách đây ba ngày. Anh ấy vẫn ở đây khi cháu đến làm ca của mình, và bọn cháu chào nhau. À, anh ấy có kể cho cháu nghe về một buổi tiệc mà mình đã đến dự.” Tôi cố nhớ lại chính xác những lời của anh. “Anh ấy bảo đã đến một ngôi nhà nơi diễn ra đủ kiểu làm tình hoang đàng trụy lạc.” Hai người đàn ông há hốc nhìn tôi. “Vâng, anh ấy đã bảo thế đấy! Cháu cũng không biết chuyện đó có bao nhiêu phần sự thật.” Tôi hình dung ra khuôn mặt của Lafayette khi anh ta kể tôi nghe chuyện này, cái cách anh ta điệu đà đặt ngón tay ngang môi ngụ ý rằng anh ta sẽ không nói cho tôi biết bất kể cái tên hay địa điểm nào cả. “Cháu không nghĩ là người khác phải biết chuyện này à?” Bud Dearborn trông bàng hoàng. “Đó là một bữa tiệc riêng tư. Sao cháu phải kể cho người khác chứ?” Nhưng kiểu tiệc tùng như thế không được phép diễn ra trong địa phận của hai người này. Hai người đàn ông vẫn chằm chằm nhìn tôi. Bud hỏi qua kẽ răng, “Lafayette có kể cho cháu nghe gì về chuyện sử dụng ma túy trong buổi gặp gỡ ấy không?” “Không, theo cháu nhớ thì không.” “Bữa tiệc đó được tổ chức ở nhà người da trắng hay người da đen?” “Da trắng,” tôi đáp, rồi lại ước gì mình đã lấy cớ không biết. Nhưng Lafayette đã thật sự ấn tượng với ngôi nhà - mặc dù không phải vì căn nhà mỹ miều hay to lớn gì. Thế sao anh ấy bị ấn tượng đến thế? Tôi không chắc Lafayette sẽ thấy ấn tượng với những thứ gì, anh đã sinh ra, lớn lên và mãi đến bây giờ vẫn trong cảnh nghèo khó, nhưng tôi chắc chắn rằng anh ấy đã kể về nhà của một người da trắng nào đó, vì anh ấy có nói, “Tất cả ảnh trên tường đều chụp những người trắng như hoa huệ và mỉm cười như cá sấu.” Tôi không kể lời nhận xét đó ra cho đám cảnh sát, và họ cũng không hỏi gì thêm. Rời khỏi văn phòng của Sam, sau khi giải thích lý do trên hết vì sao xe của Andy lại ở trong bãi xe, tôi trở ra đứng sau quầy. Tôi không muốn quan sát những gì đang diễn ra ở bãi đỗ xe, và chẳng có khách hàng nào để phục vụ cả, vì mọi lối vào bãi đỗ xe đã bị cảnh sát chặn hết rồi. Sam đang sắp xếp những chai rượu đằng sau quầy, vừa đi vừa phủi bụi chúng, còn Holly và Danielle đã ngồi phịch xuống một bàn ở khu vực hút thuốc để Danielle có thể hút một điếu. “Mọi chuyện thế nào?” Sam hỏi. “Cũng chẳng có gì nhiều. Họ không thích nghe chuyện Anthony làm việc ở đây, và họ cũng không ưa những gì em kể về bữa tiệc mà Lafayette cứ lải nhải hôm trước ấy. Anh có nghe thấy anh ấy kể với em không? Cái vụ làm tình tập thể ấy?” “Có, anh ta cũng kể mấy chuyện đó với anh nữa. Buổi tối hôm đó với anh ta hẳn là đã lắm. Nếu quả thật là có bữa tiệc kiểu đó.” “Anh nghĩ rằng Lafayette bịa chuyện sao?” “Anh không nghĩ ở Bon Temps lại có nhiều buổi tiệc kiểu tạp chủng, lưỡng tính thế đâu,” anh đáp. “Nhưng đó chẳng qua là vì không có ai mời anh cả thôi,” tôi nói thẳng ra. Tôi băn khoăn không hiểu liệu mình có biết tí gì về những chuyện diễn ra nơi thị trấn nhỏ bé này không. So ra với tất cả mọi người ở Bon Temps thì tôi phải là người biết rõ mọi thứ từ trong ra ngoài, vì mọi thông tin ít nhiều gì cũng sẵn ra đấy, nếu tôi muốn bới móc tìm hiểu, “Ít nhất thì, theo em đây là lý do chứ nhỉ?” “Ừ đấy là lý do đấy,” Sam đáp, khẽ mỉm cười với tôi trong lúc chùi một chai whiskey. “Em nghĩ thiệp mời của em cũng bị thất lạc ở bên bưu điện mất rồi.” “Em có nghĩ rằng Lafayette trở lại đây tối hôm qua là để kể cho anh hoặc em nghe về bữa tiệc đó không?” Tôi nhún vai. “Có lẽ anh ta chỉ hẹn gặp ai đó ở bãi đỗ xe thôi. Dù sao thì, ai cũng biết quán Merlotte ở đâu mà. Mà anh ấy đã lấy lương chưa?” Đã cuối tuần rồi, thường thì đây là lúc Sam trả tiền cho bọn tôi. “Chưa. Có lẽ anh ấy đến cũng vì chuyện đó, nhưng anh định hôm sau mới đưa cho anh ta. Hôm nay này.” “Em thắc mắc không biết ai đã mời Lafayette đi dự tiệc.” “Câu hỏi hay đấy.” “Anh không nghĩ rằng anh ta ngu đến nỗi cố tống tiền ai đó chứ nhỉ?” Sam cọ cọ lớp gỗ giả trên mặt quầy bằng một chiếc giẻ sạch. Quầy đã sạch bóng lên rồi, nhưng anh vẫn cứ thích luôn chân luôn tay, tôi nhận thấy thế. “Anh không nghĩ vậy,” anh nói sau một hồi suy nghĩ. “Không thể nào, họ hẳn đã chọn nhầm người rồi. Em biết Lafayette tám đến cỡ nào mà. Anh ta không chỉ kể cho chúng ta nghe việc mình đi đến một buổi tiệc như thế - anh dám cá là anh ta không được phép kể - mà còn muốn lợi dụng buổi tiệc để làm tiếp những chuyện mà mấy người khác, à ừ, mấy người tham gia ấy, sẽ phải khó chịu.” “Kiểu như là, giữ liên lạc với những người cũng từng tham gia bữa tiệc ấy? Nháy mắt đưa tình với họ ở chốn đông người?” “Đại loại như thế.” “Em nghĩ rằng nếu ta có làm tình với ai đó, hoặc xem họ làm tình với nhau, ta sẽ cảm thấy rằng mình ngang hàng với họ.” Tôi không quả quyết lắm khi nói ra điều này, vì không có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực ấy lắm, nhưng Sam lại đang gật gù. “Điều Lafayette mong muốn nhất là được mọi người chấp nhận bản chất con người mình,” anh nói, và tôi buộc phải đồng ý. Mời các bạn đón đọc Ma Cà Rồng Ở Dallas của tác giả Charlaine Harris & Thiện Hoàn (dịch).
Sa Môn Không Hải Thết Yến Bầy Quỷ Đại Đường Tập 1
Nhà sư trẻ tuổi Không Hải, cùng người bạn thân Quất Dật Thế, từ Nhật Bản xa xôi vượt biển tới Đại Đường với tư cách sứ thần sang du học. Vào thời đại đó, Trường An, kinh đô của nhà Đại Đường là nơi nổi tiếng thịnh vượng phồn hoa, tập trung nhiều sắc dân từ khắp nơi đổ về. Như bóng tối luôn song hành cùng ánh sáng, nhiều loài yêu ma quỷ quái cũng bị thu hút về đây. Một con yêu quái mèo đã ám dinh cơ của viên chức dịch họ Lưu và đưa ra lời tiên tri về cái chết của hoàng đế. Tự tin vào vốn kiến thức uyên bác cùng tài ứng biến phi thường của bản thân, Không Hải đã dẫn Quất Dật Thế đến nhà họ Lưu để đương đầu với yêu mèo. Song họ không ngờ, mình đã vô tình dính líu vào một sự kiện lớn làm rung chuyển nhà Đường. Kiệt tác tiểu thuyết truyền kỳ Nhật Bản lấy bối cảnh Trung Hoa mở ra từ đây. *** Không Hải (Kukai, 774 - 835) là Tổ sư của phái Chân Ngôn Tông (Shingon-shu) Phật giáo Nhật Bản. Với phương tiện tra cứu ngày nay, người ta có thể dễ dàng tìm thấy tranh vẽ chân dung, bút tích và các trước tác của Không Hải trên mạng, trong các sách nghiên cứu xưa nay nhưng những thông tin ấy không hề làm giảm sút nét “siêu phàm thoát tục”, thần bí nơi vị Tổ sư này. Sách xưa không thuật rõ thuở nhỏ như thế nào chỉ biết năm mười lăm tuổi Không Hải đã học thông các sách chữ Hán căn bản như Luận Ngữ, Hiếu Kinh; năm mười tám tuổi làu thông Tả Thị Xuân Thu, Thượng Thư. Từ năm mười chín tuổi, Không Hải bắt đầu tu tập trong rừng sâu núi cao; năm hai mươi tư tuổi đã viết sách so sánh, bình luận Phật - Nho - Lão. Cũng vào thời gian này, Không Hải bắt đầu tiếp xúc và nghiên cứu Đại Nhật Kính - một trong những bộ kinh Mật giáo cơ sở, học tiếng Trung Hoa, chữ Phạn (Sanskrit) và chữ Tất Đàm (Shiddam). Đồng thời, Không Hải được một vị sư không rõ danh tính truyền cho phép tu “Hư Không Tạng Cầu Văn Trì” và lui vào chuyên tu trong một hang đá (nay vẫn còn di tích ở thành phố Muroto, tỉnh Kochi). Sau khi tu tập thành công, tương truyền Không Hải có trí nhớ siêu phàm - sự việc gì đã nghe, đã thấy một lần lập tức nhớ mãi không quên, về sau, chính nhờ trí nhớ siêu việt và trình độ, năng lực ngoại ngữ tuyệt vời mà Không Hải được triều đình Nhật Bản thời bấy giờ chọn đưa sang Trung Hoa du học. Truyền kỳ kể Hòa thượng Huệ Quả - tổ thứ bảy của Mật giáo Trung Hoa - vừa nhìn thấy Không Hải lần đầu tại Thanh Long Tự đã nói “ta chờ con đã lâu” và lập tức truyền thụ mọi sở học của mình cho Không Hải. Với năng lực phi phàm của mình, Không Hải đã hoàn thành chương trình học trong hai năm thay vì du học hai mươi năm như dự định ban đầu. Sư đã dùng một số tiền rất lớn, vốn mang theo để trang trải cho vỉệc du học, vào việc thỉnh kinh sách và các pháp khí cần thiết mang về Nhật Bản. Năm 806, Không Hải từ Trung Hoa trở về Nhật Bản, sớm hơn rất nhiều so với dự kiến nhưng phải đợi đến năm 809 mới được chấp thuận cho vào kinh đô yết kiến Thiên hoàng. Câu chuyện chậm trễ này cũng không có ghi chép cụ thể nào trong sử sách chính thống và, do đó, phủ thêm một lớp thần bí nữa lên cuộc đời Không Hải. Sau khi về kinh, Không Hải lập tức được trọng dụng, đóng góp rất nhiều cho triều đình thời đó. Không Hải xây dựng tổ đình ở núi Koya (tỉnh Wakayama, Nhật Bản) đúc kết và phát triển kiến thức tu học từ Trung Hoa thành Chân Ngôn Tông và truyền dạy cho rất nhiều đệ tử. Năm 835, Không Hải “nhập định vĩnh viễn” ở tuổi sáu mươi mốt. Người ta không dùng từ “viên tịch” hay “nhập diệt” mà dùng “nhập định” vì tin rằng Không Hải vẫn còn sống và chỉ nhập định trong căn phòng nhỏ được xây ngầm dưới nền một ngôi miếu ở phía sau tổ đình Chân Ngôn Tông trên núi Koya. Cho đến tận khi bạn đang đọc những dòng này thì hằng ngày, các vị sư ở nơi ấy vẫn đều đặn dâng cơm nước đúng giờ buổi sáng và buổi trưa vào tận cửa phòng. Mỗi năm, các sư lại dâng một bộ cà sa mới cho Tổ sư và mang bộ cũ đi đốt. Không Hải ở thế kỷ hai mươi mốt vẫn là một nhân vật thần bí sống động như thế. Bạn đọc đang cầm trên tay tập đầu tiên trong bộ trường thiên tiểu thuyết Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đường gồm bốn tập của nhà văn Yumemakura Baku - tác giả rất nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết truyền kỳ tại Nhật Bản, được Uyên Thiểm chuyển dịch sang tiếng Việt rất nhuần nhị. Uyên Thiểm là dịch giả quen thuộc được bạn đọc biết đến qua các bản dịch văn chương Nhật Bản do Nhã Nam ấn hành. Tôi tin bạn đọc lần này cũng sẽ đớn nhận và yêu quý tác phẩm Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đương, thích thú với tuyến nhân vật được xây dựng rất công phu, giàu cá tính và các tình tiết được đan xen khéo léo, đầy kịch tính. Mời các bạn vào truyện... Nguyễn Anh Phong Đà Lạt, Vu Lan 2019 *** CÁC NHÂN VẬT CHÍNH Từ đời Đức Tông hoàng đế đến đời Thuận Tông hoàng đế Không Hải (âm Nhật là Kukai): Vị tăng trẻ sang Đường tìm học Mật. Quất Dật Thế (âm Nhật là Tachibana-no-Hayanari): Nho sinh Nhật Bản tới Trường An theo đoàn thuyền Khiển Đường sứ. Bạn thân Không Hải. Đan Ông: Vị đạo sĩ luôn giúp rập và thoắt ẩn thoắt hiện xung quanh Không Hải. Lưu Vân Tiêu: Chức dịch Trường An, bị yêu miêu ám trong nhà và cướp mất người vợ yêu. Từ Văn Cường: Chủ nhân của cánh đồng trồng bông, nơi xảy ra vụ án có tiếng thì thầm bí ẩn. Trương Ngạn Cao: Chức dịch Trường An, người quen của Từ Văn Cường. Đại Hầu: Gã hộ pháp sinh ra ở Thiên Trúc. Ngọc Liên: Kỹ nữ của Hồ Ngọc Lâu. Lệ Hương: Kỹ nữ của Nhã Phong Lâu. Mohammed: Thương nhân người Ba Tư, cớ ba cô con gái là Trisnai, Tursungri, Griteken. Huệ Quả: Vị hòa thượng của Thanh Long Tự. Phụng Minh: Tăng môn của Thanh Long Tự. Người Tây Tạng. An Tát Bảo: Người coi giữ đền thờ Hiên giáo. Bạch Lạc Thiên: Một thi nhân lớn về sau. Đang ấp ủ bản trường ca về mối tình của Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi. Vương Thúc Văn: Tể tướng dưới thời Thuận Tông hoàng đế. Liễu Tông Nguyên: Kẻ thân cận của Vương Thúc Văn. Văn nhân tiêu biểu thời kỳ trung Đường. Hàn Dũ: Đồng liêu của Liễu Tông Nguyên. Cũng là một văn nhân tiêu biểu thời kỳ trung Đường. Tử Anh: Bộ hạ của Liễu Tông Nguyên. Xích: Bộ hạ của Liễu Tông Nguyên. Chu Minh Đức: Phương sĩ. Thủ hạ của Druj. Druj*: Karapan (một kiểu pháp sư ở Ba Tư). Đời Huyền Tông hoàng đế A Bội Trọng Ma Lữ (âm Nhật là Abe-no-Nakamaro): Sang Đường vào đời Huyền Tông. Sống ở Đường đến hết đời. Tên Trung Quốc là Triều Hành. Lý Bạch: Thi nhân tiêu biểu đời Đường. Được Huyền Tông sủng ái, nhưng về sau thì thất sủng. Huyền Tông: Hoàng đế nhà Đường. Mê đắm thiếp yêu là Dương Quý Phi. Dương Quý Phi: Thiếp yêu của Huyền Tông. Nhận được tất cả sự sủng ái của Huyền Tông, song đã phải chịu cải chết thê thảm bởi Loạn An Sử. An Lộc Sơn: Tướng nhà Đường. Được Quý Phi yêu mến và nhận làm con nuôi, nhưng về sau làm phản và đuổi bọn Huyền Tông chạy khỏi Trường An. Cao Lực Sĩ: Hoạn quan hầu cận của Huyền Tông. Hoàng Hạc: Đạo sĩ người Hồ. Kẻ đã hiến một kế về việc xử tử Dương Quý Phi. Đan Long: Đệ tử của Hoàng Hạc. Bạch Long: Đệ tử của Hoàng Hạc. Bất Không: Mật giáo tăng.   Mời các bạn đón đọc Sa Môn Không Hải Thết Yến Bầy Quỷ Đại Đường Tập 1 của tác giả Baku Yumemakura.
Địa Cung Rực Lửa
Thần Apollo chất chơi một thuở, giờ đây bị Zeus đày xuống trần trong hình hài thằng nhóc hậu đậu Lester Papadopoulos. Để trở về Olympus, Lester buộc phải khôi phục năm nguồn Sấm Truyền đã rơi vào tay kẻ địch. Nhưng thần phải thực hiện cái nhiệm vụ bất khả thi này mà chẳng có chút sức mạnh nào trong tay, cũng như phải phục dịch cho đứa con gái nhếch nhác của Demeter, Meg. Cám ơn nhiều nha bố yêu. Nhờ có một số á thần trợ giúp, Lester đã sống sót vượt qua hai thử thách đầu tiên, một ở Trại Con Lai, một ở Indianapolis, cũng là nơi Meg nhận được Lời Tiên Tri Hắc Ám. Những lời cô bé thốt ra trên Chiếc Ngai Kí Ức dự báo một cuộc tấn công vào Trại Jupiter của bọn Tam đầu chế. Leo vội vàng cưỡi Festus đi báo tin cho trại La Mã, còn Lester và Meg phải băng qua Mê Cung tới vùng tây nam nước Mỹ để tìm tên hoàng đế thứ ba, cùng với nguồn Sấm Truyền chuyên môn đánh đố. Lời tiên tri u ám chỉ mang đến một tia hy vọng duy nhất: Mang móng guốc, kẻ dẫn đường nắm rõ. Họ sẽ được đồng hành với một thần rừng, và Meg biết phải triệu hồi ai đây rồi… *** Bộ sách Những thử thách của Apollo gồm có: Sấm Truyền Bí Ẩn Lời Tiên Tri Hắc Ám Địa Cung Rực Lửa Lăng Mộ Bạo Chúa ,,, *** Rick Riordan là tác giả có sách bán chạy nhất do tờ New York Times bình chọn cho bộ truyện dành cho trẻ em: Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus và bộ Tiểu thuyết trinh thám dành cho người lớn Tres Navarre. Ông có 15 năm giảng dạy môn tiếng Anh và Lịch sử ở các trường trung học cơ sở công và tư ở San Francisco Bay Area ở California và Texas. Ông cũng từng nhận giải thưởng Giáo viên ưu tú đầu tiên của trường năm 2002 do Saint Mary’s Hall trao tặng. Rick Riordan hiện đang sống ở San Antonio, Texas cùng vợ và hai con trai. Ông dành toàn bộ thời gian cho sáng tác. *** Từng là Apollo Giờ chỉ là chuột trong Mê cung Cứu, mang theo bánh nữa Không. Ta từ chối chia sẻ khúc này trong chuyện đời của ta. Đó là cái tuần hèn mọn nhất, sỉ nhục nhất và tệ bạc nhất trong suốt 4000 năm cuộc đời có lẻ của ta. Bi kịch. Thảm họa. Đau lòng. Ta sẽ không kể cho các ngươi về nó đâu. Tại sao các ngươi vẫn ở đây hả? Đi ra đi! Lạy thánh thần trên cao, ta đoán là ta chẳng có lựa chọn nào nữa rồi. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính Zeus cũng muốn ta kể câu chuyện này cho các người vì nó là một phần trong hình phạt của ta. Việc ông ta biến ta, một người đã từng là vị thần Apollo tối cao, trở thành một thằng nhãi con đầy mụn, đầy mỡ, lại còn có cái tên giả Lester Papadopoulos nữa, vẫn là chưa đủ. Ông ta đẩy ta vào cái nhiệm vụ đầy nguy hiểm để giải cứu cho năm Nhà tiên tri cổ đại vĩ đại từ tay ba tên hoàng đế La Mã độc ác cũng vẫn là chưa đủ. Thậm chí là biến ta-người từng là đứa con trai yêu quý của ông ta-thành nô lệ của một đứa á thần huênh hoang 12 tuổi tên Meg, cũng vẫn chưa bao giờ đủ! Quá đáng nhất là, Zeus muốn ta ghi lại tất cả những sự nhục nhã này để truyền cho con cháu đời sau. Được thôi. Nhưng ta cũng phải cảnh báo các người. Ở những trang tiếp theo, chỉ toàn là những đau khổ đang chờ đợi các ngươi mà thôi. Bắt đầu từ đâu ta? Với Grover và Meg, dĩ nhiên rồi. Trong suốt hai ngày, chúng ta đã du hành ở trong Mê cung- đi qua hàng bao nhiêu cái hố đầy bóng đêm và những hồ thuốc độc, đi qua những khu mua sắm đổ nát chỉ có toàn mấy cửa hàng bán đồ Halloween giảm giá và những bữa tiệc buffet đồ Trung Quốc đáng ngờ. Mê cung có thể là một nơi khiến người ta hoang mang. Nó giống như một mạng lưới mao mạch chảy ngay bên dưới lớp da của thế giới. Nó kết nối những căn hầm, cống rãnh, và cả những đường hầm đã bị bỏ quên trên toàn địa cầu, bất chấp tất cả những định luật thời gian và không gian. Một người có thể bước vào Mê cung qua một lỗ cống ở Rome, đi tầm mười thước, mở cánh cửa ra, và nhận ra bản thân đang ở trại huấn luyện chú hề tại Buffalo, Minnesota. (Đừng có hỏi. Ám ảnh lắm.) Ta sẽ tránh xa Mê cung bằng mọi giá. Đáng buồn thay, lời tiên tri chúng ta nhận được ở Indianna lại chỉ điểm khá rõ ràng: "Xuyên qua mê cung tối tăm tới vùng đất tử thiêu". Hihi vui dễ sợ! "Duy nhất kẻ móng guốc dẫn đường mở lối." Trừ một việc, là kẻ dẫn dường có móng guốc của chúng ta, thần rừng Grover Underwood, có vẻ là đếch có biết cái đường nào hết. "Ngươi đi lạc rồi đấy," Ta nói, lần thứ 40. "Lạc đâu mà lạc!" Cậu ta cãi lại. Cậu ta chạy nước kiệu với cái quần bò thụng và chiếc áo phông màu xanh lá cây, hai đuôi móng guốc lảo đảo trong đôi giày New Balance 520s được làm riêng cho mình cậu ta. Một chiếc mũ đan tay màu đỏ che phủ mái tóc xoăn xoăn. Tại sao cậu ta lại nghĩ là cải trang kiểu này giúp cậu ta nhìn giống người thường hơn thì ta cũng không biết. Hai cái sừng của cậu ta nhú lên rõ ràng bên dưới chiếc mũ. Đôi giày của cậu ta bật ra khỏi bộ móng cứ mỗi ngày phải vài lần, và ta thì chán cái việc phải cong mông chạy đi nhặt lại giày cho cậu ta lắm rồi. Cậu ta dừng lại ở một ngã rẽ chữ T ở hành lang. Ở mỗi hướng đều là những bức tường bằng gạch cứng sù sì dẫn thẳng vào bóng tối. Grover giật giật chòm râu thưa. "Thế nào rồi?" Meg hỏi. Grover nao núng. Cũng như ta, cậu ta nhanh chóng trở nên sợ hãi trước sự không hài lòng của Meg. Không phải là Meg McCaffrey nhìn đáng sợ đâu. Cô bé thậm chí là nhìn còn nhỏ hơn tuổi, với bộ đồ đèn giao thông-váy xanh lá cây, tất bó màu vàng và chiếc áo đỏ-tất cả đều rách rưới và bẩn thỉu nhờ vào mấy trận bò lê bò lết trong mấy cái đường hầm chật hẹp. Tơ nhện giăng đầy trên mái tóc màu tối cắt ngắn ngang tai. Cặp kính mắt mèo bụi bặm tới mức ta không hiểu làm thế nào mà cô bé có thể nhìn thấy được. Nhìn tổng quan thì, cô bé trông như một đứa trẻ mẫu giáo vừa mới sống sót qua trận đánh nhau tranh giành trò đu dây. Grover chỉ về phía đường hầm phía bên phải. "Tôi-tôi khá chắc là Palm Springs ở hướng đó." "Khá chắc?" Meg hỏi. "Như lần trước, cái lần mà chúng ta đi vào một cái nhà tắm và làm một tên Cyclops đang ngồi toilet phát hoảng ấy hả?" "Đó đâu có phải lỗi của tôi!" Grover vặc lại. "Với lại, cái hướng này có MÙI khá đúng. Mùi... cây xương rồng." Meg khịt khịt vào không khí. "Tôi không có ngửi thấy mùi xương rồng." "Meg," ta nói, "Thần rừng là người dẫn đường của chúng ta. Chúng ta không có nhiều lựa chọn ngoài tin cậu ta đâu." Grover giận dỗi. "Cảm ơn vì giúp cho sự tự tin của tôi tăng lên nhé. Giờ thì là lời nhắc nhở trong ngày này: Tôi không hề YÊU CẦU được triệu hồi một cách thần kỳ từ nửa kia của đất nước và rồi tỉnh dậy ở một khu vườn cà chua trên một nóc nhà tại Indianapolis đâu nhé!" Nói thì lớn lao thế thôi, nhưng cậu ta lại nhìn chằm chằm vào chiếc nhẫn đôi ở ngón tay giữa của Meg, cứ như thể cậu ta lo sợ cô bé sẽ triệu hồi hai thanh mã tấu vàng rồi xẻ cậu ta thành món dê xiên nướng vậy. Từ khi biết được Meg là con gái của Demeter, nữ thần của vạn vật đâm chồi nảy lộc, Grover Underwood đã hành xử như thể cậu ta bị đe dọa bởi cô bé hơn là bởi ta, một cựu thần Olympus tối cao. Cuộc sống thật chẳng công bằng chút nào. Meg quẹt mũi. "Được thôi. Tôi chỉ không nghĩ là chúng ta sẽ cứ đi lòng vòng trong này trong suốt hai ngày vừa rồi thôi. Trăng non sẽ lên -" "Sau ba ngày nữa," ta nói, cắt lời cô bé. "Chúng ta biết." Có thể là ta đã quá lỗ mãng, nhưng ta không cần được nhắc nhở về phần còn lại của lời tiên trị đâu. Khi chúng ta đi về hướng nam để tìm Nhà tiên tri tiếp theo, anh bạn Leo Valdez của chúng ta đã lái con rồng đồng một cách tuyệt vọng tới Trại Jupiter, trại huấn luyện Á thần La Mã tại phía bắc California, hy vọng có thể cảnh báo họ về trận lửa, những chết chóc mất mát và những thảm họa mà họ có thể sẽ phải đối đầu khi kỳ trăng non tới. Ta cố dịu giọng lại. "Chúng ta phải tin là Leo và những Á thần La Mã có thể chống lại được bất cứ thứ gì đang tiến về phía bắc. Chúng ta có nhiệm vụ riêng của mình rồi. "Và hàng đống những trận lửa của riêng mình nữa." Grover thở dài. "Như thế nghĩa là gì?" Meg hỏi. Cũng như cách hành xử trong suốt hai ngày vừa rồi, Leo lại thoái thác. "Tốt nhất là không nên nói về chuyện đó . . . ở đây." Cậu ta liếc nhìn xung quanh một cách lo lắng như thể mấy bức tường có tai và đang lắng nghe vậy, điều mà dứt khoát là có thể xảy ra. Mê cung là một công trình sống. Dựa vào những mùi phát ra từ một vài hành lang, ta khá chắc là nó ít nhất cũng phải có một cái ruột. Grover cào cào vào hai bên sườn. "Tôi sẽ cố đưa chúng ta tới đó thật nhanh," cậu ta hứa. "Nhưng mà Mê cung cũng có suy nghĩ của riêng nó nữa. Lần trước khi tôi ở đây, với Percy . . ." Biểu cảm của cậu ta trở nên đăm chiêu, như bao lần cậu ta nhớ lại những cuộc hành trình xưa cũ cùng với người bạn thân nhất, Percy Jackson. Ta không thể trách cậu ta được. Percy đúng là một á thần có ích để có bên mình. Không may là, cậu ta không dễ để cứ thế triệu hồi từ một vườn cà chua như cậu Thần rừng dẫn đường này được. Ta đặt một tay lên vai của Grover. "Chúng ta biết là ngươi đang làm hết sức rồi. Hãy cứ đi tiếp thôi. Và trong khi ngươi tiếp tục ngửi thấy mùi xương rồng, nếu ngươi có thể tập trung lỗ mũi của mình vào mấy món ăn sáng nữa-chẳng hạn như là cà phê và bánh rán vòng vị chanh ấy-vậy thì sẽ tuyệt lắm." Chúng ta theo chân người dẫn đường tiến vào đường hầm bên tay phải. Chẳng mấy lâu sau, con đường hẹp lại, bắt buộc chúng ta phải né người và đi lạch bạch từng người một. Ta ở vị trí giữa, vị trí an toàn nhất. Các ngươi có thể không nghĩ đó là hành động dũng cảm, thế nhưng Grover là chúa tể của thế giới Hoang dã, một thành viên của Hội đồng Bô lão Cloven. Thế là cũng coi như là cậu ta sở hữu sức mạnh to lớn, mặc dù ta cũng chưa nhìn thấy cậu ta sử dụng sức mạnh bao giờ. Còn Meg, cô ấy không chỉ biết chiến đấu với hai lưỡi kiếm vàng, mà cô ấy còn có thể làm đủ trò hay ho với những túi hạt giống làm vườn mà cô bé đã chất đầy mình khi còn ở Indianapolis nữa. Ta, mặt khác, thì lại ngày càng trở nên yếu và không phòng ngự nổi hơn. Kể từ trận chiến với Hoàng đế Commodus, người mà ta đã làm mù bởi một trận ánh sáng của thần, ta chưa thể nào triệu hồi lại được dù chỉ một mẩu nhỏ sức mạnh thần thánh nào cả. Những ngón tay ta dần trở nên chậm chạp trên những sợi đàn của chiếc đàn ukulele chiến đấu. Khả năng cung thuật cũng ngày càng giảm đi. Ta thậm chí đã bắn trượt khi ta bắn tên Cyclops trong cái nhà vệ sinh đó đấy. (Ta không chắc ta hay là hắn là người xấu hổ hơn nữa.) Thêm vào đó, những viễn cảnh lâu lâu khiến ta tê liệt dạo này cũng xuất hiện thường xuyên hơn và khắc nghiệt hơn. Ta chưa chia sẻ nỗi lo lắng của ta với những người bạn của mình. Chưa phải lúc. Ta muốn tin là sức mạnh của ta chỉ là đang được nạp lại mà thôi. Xét cho cùng, thử thách ở Indianapolis cũng gần như phá hủy ta rồi. Nhưng cũng có một khả năng khác nữa. Ta đã bị đẩy từ đỉnh Olympus rồi ngã cắm mặt vào một thùng rác ở Manhattan từ hồi tháng Một rồi. Bây giờ đã là tháng Ba. Nghĩa là ta đã làm người thường trong vòng hai tháng rồi. Cũng có thể là ta ở dạng người thường càng lâu thì ta sẽ càng yếu đi, và cũng càng khó để ta trở lại thể thần thánh trước kia của ta. Hai lần trước Zeus đẩy ta xuống hạ giới có như thế này không ấy nhỉ? Ta cũng chẳng nhớ nữa. Một vài ngày, ta thậm chí còn không nhớ nổi vị của bánh thánh, hoặc là tên của những chú ngựa kéo cỗ xe mặt trời của mình, hoặc là khuôn mặt của cô em gái sinh đôi Artemis của ta. (Thường thì ta sẽ nói đó là một lời chúc phúc, không nhớ mặt cô em gái ấy, nhưng ta nhớ con bé đến điên cả lên. Đừng có hòng mách con bé là ta đã nói vậy đấy.) Chúng ta bò theo sườn hành lang, mũi tên thần kỳ của Dodona rung rung trong bao đựng tên như chiếc điện thoại đã tắt tiếng, như thể nó đang muốn được lấy ra và được hỏi ý kiến. Ta cố tảng lờ nó đi. Những lần trước khi ta hỏi mũi tên cho lời khuyên, nó không có ích cho lắm. Tệ hơn là, nó đưa mấy lời khuyên vô ích bằng tiếng Anh thời Shakespeare. Có quá nhiều những từ NGƯỜI, NHÀ NGƯƠI, TÁN THÀNH và VÔ CÙNG bằng tiếng Anh cổ, nhiều hơn những gì ta có thể chịu đựng. Ta chưa bao giờ thích những năm có đuôi 90s. (Ý ta là những năm 1590s ấy). Có thể ta sẽ bàn bạc với mũi tên khi chúng ta tới Palm Springs. NẾU như chúng ta tới được Palm Spring . . . Grover dừng lại ở một ngã rẽ chữ T nữa. Cậu ta đưa mũi ngửi ngửi bên phải, rồi bên trái. Mũi cậu ta chun lại như mũi con thỏ mới ngửi phải một con chó vậy. Bất chợt, cậu ta thét lên "Lùi lại!" và ngã ngửa lại đằng sau. Cái hành lang quá chật hẹp nên cậu ta đổ nhào lên đùi ta, bắt buộc ta phải ngã nhào lên đùi của Meg, cô bé ngồi phịch xuống một cách nặng nề và làu bàu hốt hoảng. Trước khi ta có thể cằn nhằn rằng ta không thích massage nhóm, hai tai của ta bật lên. Toàn bộ khí ẩm đang bị rút cạn khỏi không khí. Một mùi hương cay xè trườn qua người ta-như là mùi nhựa đường còn mới trên một con đường cao tốc ở Arizona vậy-và từ bên kia hành lang, ngay trước mặt chúng ta nổi lên một lớp lửa vàng kè, một xung điện của cái nóng khủng khiếp biến mất nhanh chóng như khi nó xuất hiện vậy. Hai tai ta nứt rạn . . . có thể là do dòng máu đang sôi sùng sục bên trong đầu ta. Miệng ta khô tới mức nuốt thôi còn thấy khó. Ta không thể nào nói được là chỉ có ta đang run rẩy đến mất cả kiểm soát hay là cả ba chúng ta đều vậy. "Cái-cái gì vậy?" Ta tự hỏi tại sao phản ứng đầu tiên của ta là hỏi đó là KẺ NÀO. Có gì đó về luồng hơi đó quen thuộc một cách đáng sợ. Trong luồng khói cay độc đang lơ lửng, ta nghĩ là mình nhận ra được cái mùi khó chịu của sự ghét bỏ, niềm hoang mang và cơn đói cồn cào. Chiếc mũ đan tay màu đỏ của Grover bốc khói. Cậu ta ngửi y như đống lông dê bị đốt cháy. "Cái đó," cậu ta nói một cách yếu ớt, "nghĩa là chúng ta đang ở rất gần rồi đó. Chúng ta cần phải nhanh lên." "Đúng như những gì tôi đã nói đi nói lại đấy," Meg gầm gừ. "Giờ thì đứng dậy ngay." Cô bé lấy đầu gối đá vào mông ta. Ta khó nhọc đứng dậy, ít nhất là đứng ở chiều cao mà cái hầm kẹp chặt cho phép. Đám lửa qua rồi, da ta cảm giác sền sệt. Hành lang trước mặt chúng ta trở nên tối tăm và im thin thít, như thể là chưa hề có một chút lửa địa ngục nào mới phun ra vậy, nhưng ta đã dành đủ thời gian với cỗ xe mặt trời để có thể đo độ nóng của lửa. Nếu như chúng ta bị luồng hơi đó phun trúng, thì chúng ta đã bị nấu chảy thành huyết thanh luôn rồi. "Chúng ta sẽ phải rẽ trái thôi," Grover quyết định. ... Mời các bạn đón đọc Những thử thách của Apollo Tập 3: Địa Cung Rực Lửa  của tác giả Rick Riordan.