Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sự Bình An Không Gì Lay Chuyển (Ajahn Chah)

Một bài pháp thiền sư Ajhan Cha thuyết cho một vị sư chuyên nghiên cứu pháp học và nhóm Phật tử tại chùa Wat Pah Pong trong những năm 1960.

Toàn bộ mục đích của việc nghiên cứu Phật Pháp là để tìm con đường giải thoát khổ, đạt đến hạnh phúc và bình an. Dù chúng ta nghiên cứu các hiện tượng thân hay tâm, tâm vương (citta) hay tâm sở (cetasikā), chỉ khi lấy sự giải thoát khổ làm mục đích cuối cùng thì chúng ta mới ở trên con đường chánh - không gì khác. Khổ có mặt là bởi vì có nhân, có duyên để nó tồn tại.

Hãy hiểu thật rõ rằng khi tâm tĩnh lặng, nó ở trạng thái tự nhiên, bình thường. Ngay khi tâm chuyển động, nó trở thành các hành (sankhāra), bị ràng buộc (bị tạo nên bởi các điều kiện, nhân tố khác nhau). Khi tâm bị thu hút bởi một đối tượng nào đó, nó bị ràng buộc, bị tạo thành bởi các điều kiện. Khi sân hận khởi nên, nó bị ràng buộc. Ý muốn đi chỗ này chỗ kia sanh khởi từ việc bị ràng buộc. Chánh niệm của chúng ta không theo kịp được sự sinh sôi của tâm khi chúng diễn ra, tâm đuổi theo chúng và bị chúng trói buộc. Bất cứ khi nào tâm chuyển động, ngay lúc đó, nó trở thành một thực tại chế định.

Vì vậy, Đức Phật dạy chúng ta quán chiếu những điều kiện cấu tạo, thường biến chuyển này của tâm mình. Mỗi khi tâm chuyển động, nó trở nên không bền vững và vô thường (anicca), khổ (dukkha), vô ngã (anattā). Đây là những đặc tính luôn có của tất cả mọi sự vật, hiện tượng bị tạo nên bởi các điều kiện. Đức Phật dạy chúng ta quan sát và quán chiếu những chuyển động này của tâm.

Giáo lý về 12 nhân duyên (sự sanh khởi tùy thuộc vào nhân duyên- paticca samuppāda) cũng như vậy: vô minh (avijjā) là nhân duyên cho sự sanh khởi của các hành (sankhāra); hành là nhân duyên sanh thức (viññāna); thức là nhân duyên sanh khởi danh-sắc (nāma-rūpa), v.v...như chúng ta nghiên cứu trong kinh điển. Đức Phật tách rời từng mắt xích trong chuỗi nhân duyên ấy để dễ nghiên cứu. Đó là sự diễn tả chính xác và chi tiết về thực tại, nhưng khi tiến trình này thực sự xảy ra trong cuộc sống thực tế, các học giả không thể theo được những gì đang diễn ra. Nó giống khi bạn bị rơi từ ngọn cây xuống đất. Chúng ta chịu không thể biết mình đã rơi qua bao nhiêu cành cây. Tương tự như vậy, khi tâm bất ngờ tiếp nhận một tác động giác quan, nếu thích, nó lập tức bay bổng vào một tâm trạng tốt. Nó cho cái đó là tốt mà không hề ý thức được cả một chuỗi nhân duyên đã dẫn đến đó. Tiến trình diễn ra đúng theo lý thuyết, nhưng ngay lập tức cũng vượt ra ngoài giới hạn của lý thuyết ấy. Tìm mua: Sự Bình An Không Gì Lay Chuyển TiKi Lazada Shopee

Chẳng có cái gì tuyên bố lên: “Đây là vô minh đấy. Đây là hành đấy, thức đấy”. Tiến trình không cho nhà học giả cơ hội để đọc danh sách khi nó đang diễn ra. Mặc dù Đức Phật phân tích và diễn giải trình tự của tiến trình tâm đến tận chi tiết nhỏ nhất, đối với tôi, nó cũng giống như rơi từ trên cây xuống. Khi rơi xuống, chẳng có cơ hội nào để mà ước lượng mình đã rơi được bao nhiêu mét, bao nhiêu cm. Cái chúng ta biết chỉ là rơi bịch một cái xuống đất và đau điếng người.

Tâm cũng y hệt như vậy. Khi nó đổ vỡ vì một cái gì đó, cái chúng ta ý thức được chỉ là nỗi đau. Tất cả những nỗi khổ, đau đớn, u sầu và thất vọng ấy đến từ đâu? Nó không đến từ mớ lý thuyết trong sách vở. Chẳng có chỗ nào ghi lại chi tiết nỗi khổ của chúng ta cả. Cái khổ của chúng ta sẽ không hoàn toàn chính xác như trong lý thuyết, nhưng cả hai đều đi trên cùng một con đường. Vì vậy, chỉ mỗi lý thuyết thì không thể theo kịp thực tế. Chính vì lý do đó mà Đức Phật dạy chúng ta phát triển sự hiểu biết rõ ràng về chính bản thân mình. Bất cứ cái gì sanh khởi, nó sanh khởi trong cái biết này. Những cái mà nó biết, nó biết đúng theo chân lý, khi đó tâm và các thành phần của nó (tâm sở) sẽ được nhận diện là không phải của ta. Cuối cùng tất cả chúng đều bị ta từ bỏ và vứt đi như rác. Chúng ta không nên bám víu lấy nó hay cho nó bất cứ ý nghĩa gì.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Ajahn Chah":Hương Vị Của Giải ThoátThân Và TâmLẽ Sinh Diệt, Lý Tu HànhThiền ĐịnhSuối Nguồn Tâm LinhNhững Lời Dạy Vượt Thời GianChẳng Có Ai CảChỉ Là Một Cội CâyTâm Tĩnh LặngThiên Nhiên TâmSự Bình An Không Gì Lay ChuyểnPhật Tại TâmTrong Vòng Sinh DiệtPháp Đơn Giản - 108 Ẩn Dụ Về Pháp

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Sự Bình An Không Gì Lay Chuyển PDF của tác giả Ajahn Chah nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Ấn Độ giáo nhập môn
Đến Ấn Độ bạn sẽ thấy các tượng thần ở khắp mọi nơi. Những tượng thần được đặt trong những ngôi đền lộng lẫy và trên những bàn thờ nhỏ bên đường, hoặc được tạc ngay vào đá. Ta bắt gặp ánh mắt độ lượng của các vị thần từ những tờ áp phích quảng cáo, những tờ lịch, poster phim. Những bức tượng thần nhỏ xíu hay những món trang sức có hình các vị thần lẫn trong những sạp hàng và trong những tủ kính trưng bày. Những vị thần đã hòa vào cuộc sống của những làng quê lẫn thành phố tại Ấn Độ, và giờ đây những vị thần còn xuất hiện trong những cộng đồng người Ấn Độ ở khắp nơi trên thế giới, từ Caribbean đến Bắc Mỹ, từ Nam Phi đến các nước Đông Á... Các vị thần xuất hiện ở khắp mọi nơi, dưới đủ mọi dạng thức, biểu thị sự phong phú và đa dạng của văn hóa Ấn Độ. Đất nước Ấn Độ luôn hiện hữu trong tâm trí hàng triệu người trên khắp thế giới như một xứ sở thần bí với những đền đài lộng lẫy, những tượng thần kỳ lạ, với sông Hằng linh thiêng và các nhà tu khổ hạnh trầm tư dưới ánh mặt trời nhiệt đới.Ấn Độ còn là nơi phát xuất những tôn giáo lớn của nhân loại: Hindu giáo, Phật giáo… và là một trong những nền văn minh phong phú nhất, có ảnh hưởng nhất đến tiến trình lịch sử. Tại Ấn Độ, Hindu giáo (hay Ấn giáo) không phải chỉ là một tôn giáo mà là cả một nền văn hóa, và vượt ra ngoài ranh giới của văn hóa, Ấn giáo đã hòa tan vào đời sống tâm linh và xã hội của người Ấn và đặt ra nhiều vấn đề về bản chất của vũ trụ và con người.Quyển sách này sẽ dẫn các bạn vào hành trình tìm hiểu về xứ sở thần bí này và về đời sống tinh thần của nó - Ấn Độ giáo.
Mấy thầy tu huyền bí ở Tây Tạng và Mông Cổ (Scan) - Đoàn Trung Còn
Mấy Thấy Tu Huyền Bí Ở Tây Tạng Và Mông Cổ Mấy Thấy Tu Huyền Bí Ở Tây Tạng Và Mông Cổ Mấy Thấy Tu Huyền Bí Ở Tây Tạng Và Mông Cổ Mấy Thấy Tu Huyền Bí Ở Tây Tạng Và Mông CổĐoàn Trung Còn dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Đoàn Trung Còn dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Đoàn Trung Còn dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhMẤY LỜI ĐẦU MẤY LỜI ĐẦU MẤY LỜI ĐẦUSách này được phân làm ba phần: Sách này được phân làm ba phần: Phần thứ nhất, từ mục thứ nhất đến mục thứ 9, là những điều trông thấy của bà Alexandra David Neel trong thời gian bà du hành bên xứ Tây Tạng. Phần thứ nhất, từ mục thứ nhất đến mục thứ 9, là những điều trông thấy của bà Alexandra David Neel trong thời gian bà du hành bên xứ Tây Tạng.Phần thứ hai, từ mục thứ 10 cho đến mục thứ 17, ghi lại những cuộc khảo sát và nghiên cứu của ông Jean Marquès Rivière, một người Pháp có đến Tây Tạng và thọ giới xuất gia, tu trì trong các ngôi chùa lớn bên ấy. Riêng về ông J. M. Rivière, sẽ được đề cập đến trong mục thứ 10. Phần thứ hai, từ mục thứ 10 cho đến mục thứ 17, ghi lại những cuộc khảo sát và nghiên cứu của ông Jean Marquès Rivière, một người Pháp có đến Tây Tạng và thọ giới xuất gia, tu trì trong các ngôi chùa lớn bên ấy. Riêng về ông J. M. Rivière, sẽ được đề cập đến trong mục thứ 10.Phần thứ ba, trích dịch trong quyển “Từ Súc sinh, Nhân loại đến Thánh thần” của ông Ferdinand Ossendowski, một nhà mạo hiểm người Ba-lan đã từng đến Mông Cổ và Tây Tạng. Ông này được một vị thượng tọa chùa Na-ra-băn-si, là người được tôn sùng như một vị Phật sống thời nay, ban cho một chiếc nhẫn quý. Nhờ vậy, nên khi đi qua các nơi trong xứ Mông Cổ và Tây Tạng, ông thường được người ta ủng hộ một cách nhiệt thành. Nhất là giới tăng sĩ ở các chùa luôn đón tiếp ông như một người đã đắc Đạo đi truyền Pháp. Nhờ vậy mà ông được biết lắm điều huyền bí trong chốn cửa Thiền. Phần thứ ba, trích dịch trong quyển “Từ Súc sinh, Nhân loại đến Thánh thần” của ông Ferdinand Ossendowski, một nhà mạo hiểm người Ba-lan đã từng đến Mông Cổ và Tây Tạng. Ông này được một vị thượng tọa chùa Na-ra-băn-si, là người được tôn sùng như một vị Phật sống thời nay, ban cho một chiếc nhẫn quý. Nhờ vậy, nên khi đi qua các nơi trong xứ Mông Cổ và Tây Tạng, ông thường được người ta ủng hộ một cách nhiệt thành. Nhất là giới tăng sĩ ở các chùa luôn đón tiếp ông như một người đã đắc Đạo đi truyền Pháp. Nhờ vậy mà ông được biết lắm điều huyền bí trong chốn cửa Thiền.Ở đây, xin nói qua về bà Alexandra David Neel. Bà là một nhà tu người Pháp. Có kẻ nói bà là người Mỹ, song theo lời tự nhận của chính bà, thì bà là người Pháp. Vì ham mộ giáo lý đạo Phật nên bà đã từng đặt chân đến nhiều nơi có những ngôi chùa xưa và tham học với nhiều vị danh tăng. Bà đã viếng khắp cõi Thiên Trúc, có làm lễ ở những nơi thờ dấu tích và tro tàn xá-lợi của đức Phật. Bà cũng có đến nước Nhật, dự nhiều buổi lễ trang nghiêm trong các chùa lớn do các vị lão tăng chủ trì. Bà có sang Trung Hoa, từng sống cuộc đời thanh tĩnh giữa chư tăng trong một số ngôi chùa cổ ở Bắc Kinh. Đặc biệt là bà có viếng qua khắp những miền linh thiêng trong xứ Tây Tạng, nương náu trong vòng mười bốn năm ở các đỉnh núi tuyết, gần gũi với các vị danh tăng đạo cao đức cả. Chính bà có quen thân với đức Ban-thiền Lạt-ma, một trong các vị đứng đầu hàng tăng sĩ Tây Tạng mà khắp xứ đều tôn trọng và xem như là hóa thân của đức Phật A-di-đà. Bà là người tận tâm với Phật Pháp, đã từ bỏ nếp sống phong lưu, quý phái mà chịu nhọc nhằn sống đến các nơi hẻo lánh để cầu Đạo, cho nên bà biết nhiều chuyện tích rất hay. Tuy chính phủ Tây Tạng vẫn cấm người da trắng vào xứ này, song bà được chính giới tăng sĩ giúp đỡ nên bước đường tu niệm và nghiên cứu của bà đều được dễ dàng hơn. Bà có soạn nhiều quyển sách giá trị về Phật giáo và về phong tục xứ Tây Tạng. Có thể kể ra đây một số như là: Ở đây, xin nói qua về bà Alexandra David Neel. Bà là một nhà tu người Pháp. Có kẻ nói bà là người Mỹ, song theo lời tự nhận của chính bà, thì bà là người Pháp. Vì ham mộ giáo lý đạo Phật nên bà đã từng đặt chân đến nhiều nơi có những ngôi chùa xưa và tham học với nhiều vị danh tăng. Bà đã viếng khắp cõi Thiên Trúc, có làm lễ ở những nơi thờ dấu tích và tro tàn xá-lợi của đức Phật. Bà cũng có đến nước Nhật, dự nhiều buổi lễ trang nghiêm trong các chùa lớn do các vị lão tăng chủ trì. Bà có sang Trung Hoa, từng sống cuộc đời thanh tĩnh giữa chư tăng trong một số ngôi chùa cổ ở Bắc Kinh. Đặc biệt là bà có viếng qua khắp những miền linh thiêng trong xứ Tây Tạng, nương náu trong vòng mười bốn năm ở các đỉnh núi tuyết, gần gũi với các vị danh tăng đạo cao đức cả. Chính bà có quen thân với đức Ban-thiền Lạt-ma, một trong các vị đứng đầu hàng tăng sĩ Tây Tạng mà khắp xứ đều tôn trọng và xem như là hóa thân của đức Phật A-di-đà. Bà là người tận tâm với Phật Pháp, đã từ bỏ nếp sống phong lưu, quý phái mà chịu nhọc nhằn sống đến các nơi hẻo lánh để cầu Đạo, cho nên bà biết nhiều chuyện tích rất hay. Tuy chính phủ Tây Tạng vẫn cấm người da trắng vào xứ này, song bà được chính giới tăng sĩ giúp đỡ nên bước đường tu niệm và nghiên cứu của bà đều được dễ dàng hơn. Bà có soạn nhiều quyển sách giá trị về Phật giáo và về phong tục xứ Tây Tạng. Có thể kể ra đây một số như là:– Những cuộc thuyết pháp của các vị Lạt-ma) – Những cuộc thuyết pháp của các vị Lạt-ma)– Cuộc du hành của một người phụ nữ Paris đến Lhassa – Cuộc du hành của một người phụ nữ Paris đến Lhassa– Pháp thuật vì ái tình và tà thuật – Những phong tục xứ Tây Tạng mà rất ít người biết đến – Pháp thuật vì ái tình và tà thuật – Những phong tục xứ Tây Tạng mà rất ít người biết đến– Vị Lạt-ma đắc ngũ thông – Vị Lạt-ma đắc ngũ thông– Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây Tạng – Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây TạngPhần thứ nhất trong sách này có 9 mục, được soạn từ nơi quyển “Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây Tạng” vừa kể trên. Quý độc giả có lòng muốn tu học, nên xem qua cho biết sự tu luyện khó nhọc, cam go của các vị tăng sĩ trên vùng cao núi tuyết. Quý ngài sẽ thấy nhiều sự linh diệu, ly kỳ và nhiều phép huyền vi của các vị tu hành chân chính. Phần thứ nhất trong sách này có 9 mục, được soạn từ nơi quyển “Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây Tạng” vừa kể trên. Quý độc giả có lòng muốn tu học, nên xem qua cho biết sự tu luyện khó nhọc, cam go của các vị tăng sĩ trên vùng cao núi tuyết. Quý ngài sẽ thấy nhiều sự linh diệu, ly kỳ và nhiều phép huyền vi của các vị tu hành chân chính.Soạn dịch và cho ra đời quyển sách này, tôi mong muốn là sẽ góp được một phần nào phổ biến rộng thêm giáo lý nhà Phật, khuyến khích những ai còn nghi ngờ trở nên tin chắc, giúp cho các vị cư sĩ tu tại gia đem lòng tín phục mà công nhận rằng: tinh thần được trau luyện kỹ thì trở nên mạnh mẽ vô ngần, và cầu cho các bậc xuất gia càng dũng mãnh mà tiến tới trên đường đức hạnh và giải thoát. Soạn dịch và cho ra đời quyển sách này, tôi mong muốn là sẽ góp được một phần nào phổ biến rộng thêm giáo lý nhà Phật, khuyến khích những ai còn nghi ngờ trở nên tin chắc, giúp cho các vị cư sĩ tu tại gia đem lòng tín phục mà công nhận rằng: tinh thần được trau luyện kỹ thì trở nên mạnh mẽ vô ngần, và cầu cho các bậc xuất gia càng dũng mãnh mà tiến tới trên đường đức hạnh và giải thoát.Đoàn Trung Còn Đoàn Trung Còn Đoàn Trung Còn
Bồ Đề Đạt Ma quán tâm pháp - Thích Minh Thiền
Tài liệu này ghi lại phần luận của Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma trong quyển sách Bồ-Đề Đạt-Ma Quán Tâm Pháp do thầy Minh Thiền dịch và giảng giải tại chùa Hội Tông, Phú Định, vào năm 1973, xuất bản bởi Nhà xuất bản Quế Sơn, Võ Tánh. Quán Tâm Pháp là tên chung cho ba thiên luận về Huyết Mạch, Ngộ Tánh và Phá Tướng.   LUẬN HUYẾT MẠCHBa cõi lăng xăng đều từ một tâm. Phật trước Phật sau đều chỉ dùng tâm truyền tâm, chẳng lập văn tự. Có người hỏi: Nếu không lập văn tự, vậy lấy gì là tâm?Đáp: Ông nói tôi tức là tâm của ông, tôi trả lời với ông tức là tâm của tôi.Nếu tôi không có tâm thì lấy đâu biết để trả lời với ông; ông nếu không có tâm thì làm sao ông biết hỏi tôi. Cho nên biết: Hỏi tôi tức là tâm của ông đó. Từ lũy kiếp đến giờ, nhẫn đến hành tung hoạt động bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào đều là cái tâm vốn có của ông, đều là Phật vốn có của ông. Cái nghĩa “chính tâm là Phật” là như thế. Ngoài tâm này rốt ráo không có Phật nào khác có thể được. Nếu lìa tâm này mà tìm Bồ-đề, Niết-Bàn, thì thật là không tưởng. Tánh chơn thật của mình không phải pháp nhân pháp quả, đó là nghĩa của tâm. Tự tâm là Niết-Bàn. Nếu nói ngoài tâm có Phật và Bồ-Đề có thể được thì thật là không tưởng.Phật và Bồ-Đề ở chỗ nào? Ví như có người dang tay bắt hư-không có được gì không? Vì sao thế? Vì hư-không chỉ có tên chớ nào có hình tướng! Bắt đã chẳng được, bỏ cũng chẳng được. Thế là hư-không không thể bắt được.Trừ tâm này ra mà tìm Phật rốt rồi không được cũng giống như vậy. Phật là tự tâm làm ra. Tại sao lìa tâm mà tìm Phật? Phật trước Phật sau chỉ nói về tâm. Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm; ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm. Nếu nói ngoài tâm có Phật vậy Phật ở đâu? Ngoài tâm đã không Phật sao lại còn làm ra cái thấy có Phật để mà dối gạt lẫn nhau, rồi không thể rõ được cái tâm vốn có của mình, lại bị vật vô tình nó nhiếp mất tự do; nếu không tin hiểu như thế, để tự dối gạt thật là vô ích. Phật không lỗi lầm, chúng sanh điên đảo chẳng biết giác ngộ tâm mình là Phật. Nếu biết tự tâm là Phật chớ nên tìm cầu Phật ngoài tâm.(Lược trích)
HỌC LÀM PHẬT (TRANH CHĂN TRÂU) - THÍCH TRƯỜNG LẠC
Nhan đề sách "Học Làm Phật" không đúng hẳn với nội-dung. Thật ra đây là cuốn "Tranh Chăn Trâu" hay "Thập Mục Ngưu Đồ", một cuốn sách rất được nhiều người biết đến trong Phật-học. Sách gồm có 3 phần: một là "Họa" = tranh vẽ, là 10 bức tranh vẽ cảnh mục-đồng chăn trâu, từ lúc khởi đầu trâu đi lạc hoặc trâu còn hung dữ cho đến khi bắt được trâu và huấn-luyện cho thuần-thục; hai là "Tụng" là những bài kệ (4 câu) đi kèm theo mỗi búc họa, và ba là "Luận Giải" là những bài bình-luận hoặc giảng-giải thêm những bức họa và những bài tụng, cần cho người sơ học dễ nắm bắt được ý-nghĩa. Hiện nay có nhiều sách "Thập Mục Ngưu Đồ", và 3 phần nói trên tuỳ-nghi thay đổi nhiều ít dài ngắn theo mỗi soạn giả.