Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Lerouge

Vào ngày thứ 5, 6 tháng 3 năm 1862, một vụ án mạng đã làm ngôi làng La Jonchère thanh bình bị chấn động: bà quả phụ giàu có Lerouge bị sát hại dã man tạị nhà riêng. Điều tra viên Lecoq đã phải nhờ sự giúp đỡ của một thám tử nghiệp dư cũng là người thầy của mình, lão Tabaret, tham gia vào cuộc điều tra. Với sự cẩn trọng, tỉ mỉ,  kĩ thuật  phát họa tâm lí tội phạm xuất sắc cùng phương pháp suy luận chặt chẽ, tài tình, lão Tabaret đã lần theo manh mối và dễ dàng tóm được thủ phạm. Khi vụ án tưởng chừng đã khép lại thì những bước ngoặt của số phận lại bất ngờ mở ra một hướng đi mới, khiến các điều tra viên phải xem xét lại toàn bộ những suy luận của mình. Những tình tiết mới xuất hiện sẽ đưa vụ án này đi đến đâu? Những bí mật đen tối nào đang bị lớp màn của thời gian che phủ. BẤT NGỜ, HẤP DẪN là những gì độc giả nhận xét khi đọc cuốn tiểu thuyết trinh thám này của Gaboriau. Giới thiệu tác giả Émile Gaboriau Émile Gaboriau (1832 - 1873) là một trong những tiểu thuyết gia “mở màn” cho thời kỳ đỉnh cao của trinh thám Pháp, đưa trinh thám Pháp sánh ngang với trinh thám Anh, trinh thám Âu Mĩ.  Bạn đọc ở Việt Nam biết đến ông với Hồ sơ số 113 và Tội ác ở Orcival.  Bằng việc xây dựng thành công hình tượng nhân vật thám tử tài ba, tài trí Lecoq, Émile Gaboriau đã trở thành một trong những nhà văn trinh thám kiệt xuất trên thế giới và được mệnh danh là "Ông tổ" của tiểu thuyết trinh thám Pháp.  *** “Liệu có gì ghê tởm hơn sự gán ghép hai ý nghĩ ấy với nhau, lòng căm hận và công lý! Không cần coi thường mình hơn so với những kẻ xấu xa mà mình đã kết án, liệu một quan tòa có thể cho phép nhớ rằng một kẻ tội nhân mà số phận đang nằm trong tay mình đã từng là kẻ thù của ông? Một Thẩm phán điều tra liệu có được phép sử dụng những quyền lực thái quá của mình để chống lại một bị can, khi mà sâu trong tâm can ông ta vẫn còn một giọt mật đắng?” Một đoạn miêu tả tâm lý nhân vật thật xuất sắc với những đấu tranh nội tâm về việc có nên đem chuyện riêng tư vào phép công hay không? Thực chất, nếu đặt bản thân vào hoàn cảnh của nhân vật, chúng ta liệu có công tư phân minh được hay không? Hay cũng chỉ áp dụng quyền hành mà bản thân đang có để triệt tiêu tất cả những mối thù hận và căm hờn lên kẻ thù đang đứng trước mặt? Đôi khi đọc sách là thế, là khiến tôi phải suy ngẫm về những đoạn nhỏ trong sách để tự vấn lòng mình xem bản thân sẽ làm như thế nào với tình huống đó. “Vụ án Lerouge” mở ra với bối cảnh làng La Jonchere bình yên, thế nhưng tất cả mọi người đã bị chấn động bởi cái chết của bà quả phụ Lerouge. Hàng loạt thắc mắc được đặt ra và người ta không hiểu tại sao bà ta bị giết, ai có thể ra tay tàn độc như vậy. Lần này, sự xuất hiện của ông thám tử nghiệp dư Tabaret là một điểm nhấn thú vị và rõ ràng là ông ta có phần tài giỏi hơn cả Lecoq khi sớm tìm ra được hung thủ. Ở nhân vật này, chúng ta sẽ thấy được bóng dáng của Holmes bởi khả năng quan sát mọi việc và tình tiết rất cẩn trọng. Một chút tự mãn được thêm vào tài năng phá án của lão đã tạo ra một cá tính hết sức riêng biệt, đôi chút hài hước và đôi chút khó ưa. Thực ra, ở “Vụ án Lerouge”, việc hung thủ bị lộ diện không còn là yếu tố hút bạn đọc nữa. Điểm hay nhất chính là mối tình xưa cũ của nhân vật được tiết lộ khiến cho chúng ta thêm phần đồng cảm và thích thú nhiều hơn. Tình yêu bi ai được khai thác triệt để và rõ ràng sẽ lấy được nước mắt bạn đọc. Khổ trong tình yêu và tội ác được nảy sinh không phải là một mối kết nối quá mới nhưng với việc khai thác sâu sắc đã khiến cho câu chuyện thật sự thành công và đầy sâu sắc. Nếu những định kiến của xã hội và kiêu hãnh của con người có thể áp chế tình yêu thì sao nó không thể áp chế được luôn cả những bi kịch đã nảy sinh từ những uất ức đó?! Nhìn chung, “Vụ án Lerouge” đã mang tới một câu chuyện đầy ai oán cho bạn đọc với sự lồng ghép tuyệt vời giữa miêu tả tâm lý nhân vật với những đoạn phá án khá kịch tính. Sự thật và những mâu thuẫn tâm lý đã đẩy câu chuyện đến mức cao trào nhất; đôi lúc, tôi còn cảm thấy bất ngờ như chính cảm xúc của nhân vật trong truyện vì không ai có thể ngờ mọi chuyện lại diễn biến theo chiều hướng ấy. Tham, sân, si của lòng người đều hiện rõ qua cách diễn đạt của tác giả Émile Gaboriau và nếu phải suy ngẫm về tình đời, tình người thì mọi chuyện đều diễn ra cay đắng quá, khó mà chấp nhận được. (Trần Nguyễn Phước Thông, FB Trần Thông, 25-01-2020) Trần Thông *** Émile Gaboriau Chắc các bạn chưa quên “trai đẹp” trong Hồ sơ số 113, “gái đẹp” trong Tội ác ở Orcival. Nay các bạn sẽ biết thêm “ông già” Tabaret rất thú vị. Tại ngôi làng La Jonchere thanh bình, bà quả phụ Lerouge bị sát hại tại nhà. Ở một ngôi làng từ trước tới giờ luôn thanh bình, tại sao bà quả phụ Lerouge lại bị sát hại? Nguyên nhân khiến bà bị sát hại là gì? Tất cả các câu hỏi đó được giải đáp nhờ sự trợ giúp của vị thám tử nghiệp dư, lão Tabaret. Người được gọi là thầy của anh chàng thám tử gà trống Lecoq. Dưới con mắt của thanh tra Gevol, lão Tabaret là một ông già tự phụ như một con công, dễ nổi khùng, dễ mắc lừa, lão làm trinh thám chỉ để chứng tỏ tài năng của mình, giống như một nghệ sĩ không hơn không kém. Mặc dù đôi lúc có sự nhiệt tình thái quá nhưng không thể phủ nhận tài năng của lão Tabaret. Sự cẩn trọng, tỉ mỉ, khả năng quan sát, suy luận sắc bén. (Sự quan sát tỉ mỉ có bóng dáng của thám tử Sherlock Holmes quen thuộc). Dĩ nhiên có sai lầm thì mới là con người, đâu phải ai cũng thông minh hoàn hảo. Lecoq “trai đẹp” chỉ là cameo trong tập này thôi. Sân khấu chính là lão Tabaret. Không biết có phải do đọc kha khá trinh thám rồi nên “khôn” hơn hay do vụ án mà Boog đoán được cả hung thủ lẫn nguyên nhân gây ra tội ác nên không bất ngờ lắm về hung thủ. Tuy nhiên, để lại cảm xúc ở vụ án này không phải ở khía cạnh trinh thám mà là khía cạnh tình cảm. Boog khá là xúc động, cảm thông cho mối tình bi ai của nhân vật. Tại sao yêu nhau không đến được với nhau, để giờ đây hai ta phải khổ đau. Những rào cản định kiến, sự ngăn cách của xã hội, sai lầm bồng bột của tuổi trẻ đã để lại một bi kịch mà lớp đất thời gian không thể chôn vùi. Đánh giá cá nhân: 7,5/10 Binh Boog *** Thứ Năm ngày 6 tháng Ba năm 1862, hai ngày sau ngày Thứ Ba Ăn Mặn*, năm người đàn bà ở làng La Jonchère đã đến trình diện tại Sở Cảnh sát xã Bougival. Ngày được ăn thịt sau Mùa chay (ND). Họ báo với cảnh sát rằng từ hai ngày nay không ai nhìn thấy hàng xóm của họ là bà quả phụ Lerouge, người sống một mình trong một ngôi nhà nhỏ biệt lập. Sự im ắng này khiến họ lo lắng. Sợ là có án mạng hay ít nhất là một tai nạn gì đó, họ yêu cầu “luật pháp” phá cửa vào nhà xem có chuyện gì để được yên tâm. Bougival là một xứ sở đáng yêu, cứ Chủ nhật là trai gái lại chèo xuồng về đây; tội phạm cũng nhiều nhưng hiếm có án mạng. Vì thế, ban đầu viên thanh tra khước từ lời cầu xin của mấy người đàn bà, nhưng họ cứ nài nỉ mãi và cuối cùng nhà chức trách đã phải nhượng bộ. Ông cho gọi viên cai đội hiến binh đến cùng với hai nhân viên, sai người tìm một anh thợ khóa, rồi cả tốp cùng đi theo hàng xóm của bà quả phụ Lerouge. Làng La Jonchère là một ngôi làng nhỏ nằm trên triền dốc đổ xuống sông Seine, giữa xã Malmaison và xã Bougival. Nó cách con đường lớn hai mươi phút, con đường lớn đó chạy từ Paris đi Saint-Germain qua Rueil và Port-Marly. Dẫn đến làng là một con đường dốc đứng mà ngành cầu đường chưa hề biết đến. Thế là nhóm người, dẫn đầu là tốp hiến binh, đi theo con đường lớn đắp thành một con đê ngăn cách sông Seine với khu vực này, rồi chẳng mấy chốc họ quẹo phải rẽ vào một con đường ngang sâu hút kẹp giữa hai dãy tường gạch. Đi khoảng một trăm bước, họ dừng lại trước một căn nhà đơn sơ nhưng có vẻ ngoài lịch sự. Với bề sâu kéo dài hơn bề rộng, ngôi nhà có một tầng trệt hai phòng và một tầng áp mái ở trên. Quanh nhà trải rộng một khu vườn gần như không được chăm sóc. Thông ra vườn là một chiếc cổng gỗ nhẹ được buộc hờ bằng một sợi dây thép. - Ở đây này. - Mấy người đàn bà lên tiếng. Viên thanh tra cảnh sát dừng bước. Trong lúc đi đường, nhóm người của ông đã nhanh chóng được những kẻ hiếu kỳ và những kẻ vô công rồi nghề ở quanh đây gia nhập. Giờ đây ông đang bị khoảng bốn mươi kẻ tò mò vây quanh. - Không ai được vào đây! - Ông nói. Và, để cho mệnh lệnh của mình chắc chắn được tuân thủ, ông cắt cử hai anh hiến binh đứng gác trước lối vào, rồi ông bước tới, theo sau là viên cai đội và anh thợ khóa. Ông đích thân chĩa đầu cây gậy cạp chì gõ mạnh nhiều lần, đầu tiên là vào cánh cửa, sau đó là tất cả các ô cửa con. Sau mỗi cú gõ ông lại áp tai vào vách gỗ nghe ngóng. Không thấy động tĩnh gì, ông quay sang anh thợ khóa, ra lệnh: - Mở khóa đi. Anh thợ khóa mở túi dụng cụ và chuẩn bị đồ nghề. Anh đang lùa một cái que móc vào ổ khóa thì trong đám người hiếu kỳ có tiếng reo lên: - Chìa khóa! Chìa khóa đây này! Quả thực, một cậu bé chừng mười hai tuổi, trong lúc đang chơi với tụi bạn đã nhìn thấy một chiếc chìa khóa to nằm trong cái rãnh bên đường; cậu bé nhặt lên và đắc thắng đem tới. - Đưa đây, cậu bé, - viên cai đội nói - đưa chúng ta xem nào. Chìa khóa được đưa vào mở thử; đúng là chìa của ngôi nhà. Ông thanh tra và anh thợ khóa nhìn nhau đầy vẻ lo lắng sợ sệt. - Không hay rồi! - Viên cai đội lẩm nhẩm. Rồi họ vào trong nhà, trong khi đám đông, bị hiến binh vất vả giữ lại, vừa giậm chân sốt ruột, vừa cố ngó qua tường để nhìn vào trong xem chuyện gì đã xảy ra. Thật đáng tiếc là những kẻ phỏng đoán có án mạng đã không nhầm, ông thanh tra cảnh sát tin chắc như vậy ngay từ ngưỡng cửa. Trong căn phòng đầu tiên, tất cả đã tỏ rõ sự có mặt của những kẻ bất lương. Đồ đạc trong nhà, một chiếc tủ ngăn kéo và hai chiếc hòm lớn, đã bị phá đáy. Trong căn phòng thứ hai, là phòng được dùng làm buồng ngủ, quang cảnh còn lộn xộn hơn. Có thể hình dung rằng một bàn tay giận dữ đã vô cớ làm đảo lộn mọi thứ. Cuối cùng, bên cạnh lò sưởi, xác bà quả phụ Lerouge nằm dài với khuôn mặt vùi trong tro. Nửa khuôn mặt và tóc bị cháy thui, và thật kỳ diệu là lửa không bén đến quần áo. - Bọn vô lại, - viên cai đội thì thầm - chẳng lẽ chúng không thể ăn cắp mà không phải giết chết người đàn bà tội nghiệp này ư! - Nhưng bà ta bị đâm ở chỗ nào? - Ông thanh tra hỏi - Tôi không thấy máu. - Đây này, giữa hai vai đó, thưa ngài thanh tra. - Viên cai đội nói tiếp. - Hai cú đâm mạnh! Tôi xin lấy quân hàm của tôi để đánh cược là thậm chí bà ta đã không kịp kêu lên một tiếng “Ối!”. Ông cúi người, đặt tay lên thi thể. - Ồ, - ông nói tiếp - xác bà ấy đã lạnh thật rồi. Mặc dù có vẻ chưa cứng lắm, ít nhất bà ấy cũng đã tắt thở được ba mươi sáu giờ đồng hồ. Ông thanh tra ngồi vào một góc bàn ghi vội tờ biên bản. - Thôi không nói dông dài nữa, - ông bảo viên cai đội - giờ là lúc phải tìm ra thủ phạm. Hãy đi báo cho ngài Thẩm phán hòa giải và ngài xã trưởng đi. Còn nữa, hãy chạy đi Paris đưa bức thư này cho Viện Công tố. Trong hai giờ đồng hồ một Thẩm phán điều tra sẽ có mặt tại đây. Trong khi chờ đợi, tôi sẽ tiến hành một cuộc khám xét sơ bộ. - Chính tôi phải đưa bức thư này ư? - Viên cai đội hỏi. - Không, hãy cử một nhân viên của ông đi. Ông sẽ ở đây giúp tôi ngăn đám người tò mò kia và kiếm cho tôi các nhân chứng. Cứ để yên hiện trường đó, tôi sẽ sang căn phòng đầu tiên kia. Bà quả phụ Lerouge này là ai, quê ở đâu, bà làm nghề gì, lấy gì để sống, và sống như thế nào? Bà có thói quen gì, những mối giao du của bà thế nào? Kẻ nào có hiềm thù với bà, bà có hà tiện không, liệu bà có tiền không? Đó là những điều quan trọng mà ông thanh tra muốn biết. Nhưng cho dù có nhiều nhân chứng thì họ cũng chẳng biết gì hơn. Khi lần lượt được hỏi, những người hàng xóm chỉ đưa ra những lời khai vô nghĩa, thiếu mạch lạc và không đầy đủ. Chỉ có một bà làm vườn và một bà bán sữa cho bà quả phụ Lerouge là có vài thông tin chính xác, mặc dù chẳng mấy giá trị. Cuối cùng, qua ba giờ hỏi cung mệt mỏi, sau khi thu thập những lời chứng mâu thuẫn nhất và những chuyện ngồi lê đôi mách khôi hài nhất, ông thanh tra cảnh sát hình dung được sự việc gần đúng như sau: Cách đây hai năm, bắt đầu từ năm 1860, bà Lerouge đến xã Bougival với một chiếc xe dọn nhà lớn chở đầy đồ đạc, chăn mền và quần áo. Bà vào một quán trọ và bày tỏ ý định muốn ở lại trong vùng, rồi bà lập tức đi tìm thuê một căn nhà. Khi tìm thấy căn nhà vừa ý này, bà thuê ngay không mặc cả, với điều kiện trả trước 320 franc nửa năm, nhưng bà không đồng ý ký hợp đồng thuê nhà. Thỏa thuận thuê nhà xong, bà dọn đồ vào ở ngay hôm đó và bỏ ra khoảng 100 franc cho việc sửa chữa. Đó là một người phụ nữ tầm năm mươi tư, năm mươi lăm tuổi, trông rất trẻ, đẫy đà và rất khỏe mạnh. Chẳng ai biết tại sao bà lại chọn cái nơi hoàn toàn không quen biết một ai này để về ở. Người ta đoán bà là người Normandie vì thường thấy bà đội chiếc mũ trùm bằng vải bông vào buổi sáng. Thứ mũ dùng cho ban đêm này vẫn khiến bà rất duyên dáng vào ban ngày. Bà thường mặc những chiếc váy dài rất đẹp, cuốn nhiều dải ruy băng quanh mũ và đeo đầy đồ trang sức giống như một bức tượng thờ. Có thể bà là người miền biển, vì trong lúc chuyện trò bà rất hay nhắc đến biển và tàu thủy. Bà không thích nói đến chồng mình, là người, theo bà, đã mất trong một vụ đắm tàu. Chưa bao giờ bà hé mở một chi tiết nhỏ nhất nào về chuyện này. Chỉ có một lần bà nói với bà bán sữa trước sự có mặt của ba người khác, “Chưa có một người đàn bà nào bất hạnh như tôi trong chuyện vợ chồng.” Bà quả phụ Lerouge được coi là giàu có, hoặc ít nhất là rất sung túc. Bà không phải là người hà tiện. Bà thích sống thoải mái, tiêu nhiều cho chuyện ăn uống và thường mua rượu vang từng nửa thùng. Niềm vui của bà là được thiết đãi bạn quen và những buổi dạ tiệc của bà thật thịnh soạn. Nếu người ta khen bà giàu có thì bà cũng chẳng phản đối nhiều. Người ta thường nghe bà nói, “Tôi không có tiền lợi tức, nhưng tôi có tất cả những gì cần thiết. Nếu tôi muốn hơn nữa thì tôi sẽ có.” Ngoài ra, chưa bao giờ người ta nghe thấy có lời bóng gió nào, dù là nhỏ nhất, về quá khứ, về quê hương hay về gia đình bà. Bà rất hay nói chuyện, nhưng khi nói chuyện, bà chỉ nói đến những điều xấu xa của đồng loại. Dù sao, chắc là bà đã trải đời và biết nhiều chuyện. Với tính rất hay ngờ vực, bà cố thủ trong nhà mình như trong một pháo đài. Buổi tối không bao giờ bà ra khỏi nhà. Người ta biết rằng bà thường uống rượu say vào bữa tối và sau đó đi nằm luôn. Rất hiếm khi người ta nhìn thấy có người lạ đến nhà bà. Khoảng bốn, năm lần có một quý bà và một cậu thanh niên trẻ, và một lần khác có hai quý ông, một ông già đeo đầy huân huy chương và một chàng trai trẻ; hai người này đi trên một chiếc xe lộng lẫy. Nói tóm lại, người ta không tôn trọng bà mấy. Bà thường có những lời lẽ chướng tai và lập dị phát ra từ miệng một người ở tuổi đó. Người ta đã nghe thấy bà đưa ra những lời khuyên khó chịu nhất dành cho một cô gái. Tuy nhiên có một ông bán thịt lợn ở Bougival, một người buôn bán vụng về, cũng tán tỉnh bà. Bà đã gạt đi và nói bà lấy chồng một lần là đủ rồi. Mấy lần khác, người ta nhìn thấy có những người đàn ông đến nhà bà. Đầu tiên là một chàng trai trẻ trông có vẻ là một nhân viên hỏa xa, rồi sau đó có một ông cao lớn tóc nâu khá già, mặc một chiếc áo blouse và trông có vẻ rất dữ tợn. Người ta đoán rằng cả hai đều là nhân tình của bà. Vừa hỏi cung, ông thanh tra vừa ghi tóm tắt lời khai của nhân chứng, và ông đang viết đến đây thì ông Thẩm phán điều tra xuất hiện. Ông này dẫn theo ông Đội trưởng an ninh cùng một nhân viên. Ông Thẩm phán điều tra Daburon, người mà sau này bạn bè đã từng vô cùng ngạc nhiên thấy ông xin từ chức để về quê vui thú ruộng vườn vào đúng lúc vận may đang đến với ông, năm nay ba mươi tám tuổi, có thân hình đẹp, trông dễ mến mặc dù có vẻ lạnh nhạt, có một khuôn mặt hiền hậu và hơi buồn, vẻ buồn rầu này là di chứng của một căn bệnh hiểm nghèo mà cách đây hai năm đã suýt khiến ông mất mạng. Làm Thẩm phán điều tra từ năm 1859, ông nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Là người cần cù, kiên nhẫn, có trực giác tinh tế cùng óc sáng suốt hiếm có, ông biết cách tháo gỡ những vụ án rắc rối nhất, và, giữa trăm nghìn mối tơ vò, ông biết cách nắm được sợi dây dẫn lối. Được trang bị một bộ óc lập luận logic chặt chẽ, chỉ ông mới có thể giải quyết được những vấn đề hóc búa mà gã X nào đó là thủ phạm. Là người biết khôn khéo suy luận từ cái đã biết để tìm ra cái chưa biết, ông rất giỏi trong việc tập hợp các sự kiện và tập trung những tình tiết phù phiếm nhất và có vẻ ngoài vô can nhất thành một cụm chứng cứ không thể chối cãi. Tuy nhiên, mặc dù có những phẩm chất đáng quý như thế, nhưng ông lại tỏ ra không phải sinh ra để làm những chức phận khủng khiếp này. Ông rùng mình thực hiện những chức phận đó với sự ngờ vực trước sự lôi kéo của những năng lực tài hoa của mình. Ông không có sự táo bạo để thực hiện những cú bất ngờ mạo hiểm có khả năng làm bộc lộ sự thật. Mời các bạn mượn đọc sách Vụ Án Lerouge của tác giả Émile Gaboriau & Nguyễn Văn Dân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Không Có Gì Mãi Mãi - Sidney Sheldon.
Sách Nói Không Có Gì Mãi Mãi   Câu chuyện là cuộc đời của 3 nữ bác sỹ trẻ cùng làm việc tại một bệnh viện lớn ở San Fancisco, và khát vọng mãnh liệt của họ... Nữ bác sĩ Paige Taylor. Cô đã thề đó là cái chết không đau đớn, nhưng khi Paige được thừa hưởng một triệu đô la từ một bệnh nhân, thẩm phán gọi đó là một vụ giết người. Bác sĩ Kat Hunter. Cô đã thề không bao giờ để cho người đàn ông nào lại quá gần mình - cho đến khi cô chấp nhận thách thức một vụ cá cược chết người. Bác sĩ Honey Taft. Để làm việc trong y khoa, cô biết mình sẽ cần một cái gì đó còn hơn cả là người giỏi nhất mà Chúa Trời đã cho cô. “Không có gì mãi mãi” chạy đua từ những quyết định sống còn của một bệnh viện lớn ở San Francisco cho đến sự nóng hổi đầy căng thẳng của một phiên tòa xét xử vụ giết người. Nó sắp đặt những tham vọng và nỗi sợ hãi của những người chữa bệnh và những kẻ giết người, lòng ti tiện và sự hào hiệp của kẻ phản bội và những người yêu nhau… Khi câu chuyện lên đến cao trào, hướng tới đỉnh điểm không thể đoán trước, Sidney Sheldon lại một lần nữa chứng minh rằng không độc giả nào có thể thắng được một bậc thầy của sự kiện bất ngờ. *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. *** Tiểu thuyết The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Ký ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) Kịch Rehead (1957) Dream of Jeannie (1967). Phim The Bachelor and the Bobby Soxer Easter Parade Annie Get Your Gun, Jumbo và Anything Goes *** SAN FRANCISCO Mùa xuân - 1995 Chưởng lý quận Carl Andrew đang cáu kỉnh: - Chuyện chết tiệt gì thế này? - ông ta nói. - Ba bác sĩ sống chung phòng và làm việc trong cùng một bệnh viện. Một người khiến cho bệnh viện suýt phải đóng cửa, người thứ hai giết bệnh nhân vì một triệu đô- la, còn người thứ ba thì lại bị giết. Andrew ngừng lại, hít một hơi rõ dài: - Mà lại rất là đàn bà! Ba con mụ bác sĩ trời đánh! Báo chí đãi đằng chúng cứ như những danh nhân. Nào Chương trình 60 phút. Nào thì phóng sự đặc biệt của Barbara Walters. Tôi không thể cầm một tờ báo hay tạp chí nào lên mà không phải nhìn ảnh hay đọc bài viết về chúng. Chẳng mấy đâu, rồi Hollywood sẽ tung ra một bộ phim biến ba con mụ này thành những nữ kiệt? Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên nếu Chính phủ trưng mặt các ả lên tem bưu điện như Presley vậy. Ôi, lạy Chúa, thật chịu hết nổi! - Ông ta giáng một quả đấm xuống bức hình người đàn bà in trên bìa tạp chí Time. Dòng tít viết: "Bác sĩ Paige Taylor - Thiên thần từ bi hay đồ đệ của ác quỷ?" - Bác sĩ Paige Taylor, - giọng ông chưởng lý quận đầy ghê tởm. Ông ta quay sang Gus Venable, viên chánh công tố. - Tôi giao vụ này cho anh đấy, Gus. Tôi muốn kết án. Tội sát nhân. Phòng hơi ngạt. - Đừng lo, - Gus Venable trầm giọng, - cứ để nó cho tôi. Ngồi trong phòng xử án nhìn bác sĩ Paige Taylor, Gus Venable nghĩ: Cô ta lẩn tránh toà. Rồi ông ta tự cười mình. Không ai có thể lẩn tránh được toà. Cô ta dáng cao, thon thả, với đôi mắt nâu huyền nổi bật trên gương mặt nhợt nhạt. Một người quan sát thờ ơ chắc chỉ xem cô ta như một loại đàn bà quyến rũ. Người tinh ý hơn mới nhận thấy còn những điều khác. Đó là tất cả những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời cùng tồn tại trong cô ta. Nét hớn hở vui tươi của đứa bé thêm vào vẻ băn khoăn e lệ của tuổi hoa niên và sự khôn ngoan, nỗi đau khổ của đàn bà. Có một vẻ ngây thơ nơi cô ta. Cô ta là cô gái mà một người đàn ông có thể lấy làm hãnh diện dẫn về giới thiệu với cha mẹ mình, Gus nghĩ mỉa mai, nếu cha mẹ anh ta hợp gu với những tên giết người máu lạnh. Có một nét gì xa xăm, gần như huyền bí trong mắt cô ta, một vẻ gì đó nói lên rằng bác sĩ Paige Taylor đã lùi sâu vào nội tâm, tới một thời gian khác, một nơi chốn khác, xa khỏi phòng xử án lạnh lùng, cằn cỗi, nơi cô ta đã bị đẩy vào. Phiên xử diễn ra tại Toà Công lý San Francisco tôn nghiêm, cổ kính trên phố Bryant. Nơi đặt toà án tối cao và nhà tù tiểu bang là một công trình trông đầy hăm doạ, cao bảy tầng, bằng đá vuông, xám xịt. Khách đến dự phiên toà được lùa qua một dãy hành lang kiểm soát điện tử. Trên gác, tầng ba, là phòng xử án. Trong phòng 121, nơi xét xử những vụ giết người, ghế quan toà tựa sát mặt tường chính diện, đằng sau là lá cờ nước Mỹ. Bên trái là chỗ ngồi của bồi thẩm đoàn, chính giữa đặt hai bàn được ngăn bằng lối đi, một bàn dành cho luật sư bên nguyên, bàn kia dành cho luật sư bên bị. Phòng xử án đã chật ních phóng viên và đầy ắp loại khán giả say mê dự các phiên toà xử tai nạn giao thông trên đường cao tốc và tội giết người. Trong các phiên xử tội giết người, đây là vụ hấp dẫn nhất. Chỉ riêng Gus Venable, luật sư công tố, cũng đáng để xem rồi. Ông ta to cao lừng lững, với bờm tóc xám, chòm râu dê, và cung cách lịch lãm của một điền chủ miền Nam, mặc dù ông chưa bao giờ ở miền Nam cả. Ông có vẻ mặt ngơ ngác vô tư và bộ óc của một cỗ máy tính. Nhãn hiệu của ông ta, đông cũng như hè là bộ complê trắng khoác ngoài chiếc sơ- mi cổ hồ cứng đã lỗi thời. Alan Penn, luật sư của Paige Taylor, là sự tương phản với Venable, một con người rắn chắc, năng nổ, lừng danh bới tài gỡ tội cho các thân chủ của mình. Hai luật sư này không bao giờ thiếu cơ hội để đối mặt nhau trước toà án và quan hệ của họ là sự nể trọng nhau miễn cưỡng và ngờ vực nhau hoàn toàn. Venable ngạc nhiên khi thấy Alan Penn đến gặp ông vào tuần trước khi phiên xử bắt đầu. - Hãy cảnh giác với những tay thầy cãi có tài. - Anh đang mưu tính chuyện gì thế, Alan? - Nghe đây, tôi chưa bàn với thân chủ của tôi, nhưng giả sử, chỉ giả sử thôi, tôi có thể thuyết phục cô ta nhận tội để xin giảm án và đỡ cho nhà nước một khoản án phí, thì sao? - Anh định thương lượng với tôi đấy à, Alan? - Gus Venable với tay xuống bàn giấy, lục lọi - Chẳng thấy cuốn lịch chết tiệt của tôi đâu cả. Hôm nay ngày bao nhiêu nhỉ? - Mùng 1 tháng Sáu. Sao? - Khoan nào, tôi cứ tưởng phải là Giáng sinh cơ đấy nếu không anh đã chẳng hỏi xin một món quà như vậy. - Gus… Venable nhoài người về phía trước. - Anh biết không, Alan, bình thường thì tôi có thể bị anh thuyết phục rồi đấy. Nói thật, bây giờ tôi khoái đi câu ở Alaska hơn. Nhưng câu trả lời là không. Anh biện hộ cho một tên sát nhân tàn nhẫn đã vì tiền mà giết một người bệnh bất lực. Tôi đề nghị án tử hình. - Tôi nghĩ cô ta vô tội, và tôi… - Không, anh không nghĩ thế đâu. Và không ai có thể làm cho bất cứ ai nghĩ như thế. Trường hợp rõ mười mươi rồi. Khách hàng của anh tội lỗi như Cain 1 vậy. - Chưa đâu, chừng nào bồi thẩm đoàn chưa kết tội. - Họ sẽ, - Gus để một khoảng lặng, - họ sẽ kết tội thôi. Sau khi Alan Penn ra về, Gus Venable ngồi nghĩ lại về cuộc đối thoại vừa xảy ra. Việc Penn đến gặp ông là một dấu hiệu của sự thất bại. Penn hẳn đã hiểu mình ít có cơ thắng nổi vụ này. Venable nghĩ về những chứng cớ không thể chối bỏ mà ông đang nắm cùng các nhân chứng ông sẽ gọi ra thẩm vấn và ông thấy hài lòng. Không còn nghi ngờ gì nữa, bác sĩ Paige Taylor sẽ vào phòng hơi ngạt. .. Mời các bạn đón đọc Không Có Gì Mãi Mãi của tác giả Sidney Sheldon.
Bầy Chó Riga - Mankell Henning
“Bầy chó Riga”, cuốn sách thứ ba trong series truyện trinh thám của Henning Mankell, nhà văn trinh thám nổi tiếng Thụy Điển đã được Nhã Nam cho ra mắt bạn đọc Việt Nam. Nếu là người yêu thích truyện trinh thám, chắc chắn bạn đã biết đến Henning Mankell qua hai tác phẩm trước đây của dịch giả Cao Việt Dũng:  “Tường lửa” cuối năm 2006 và “Chậm một bước” giữa năm 2007.  Kể từ khi “Tường lửa”, tác phẩm đầu tiên của Henning Mankell - tác giả trinh thám hàng đầu Bắc Âu được Nhã Nam giới thiệu ở Việt Nam đến nay đã 4 năm, thời gian quá dài để chờ đợi một món quà quý giá. Tôi nhớ khi cho ra mắt “Tường lửa”, Nhã Nam đã thông báo cả ba tiểu thuyết hay nhất của Henning Mankell viết về thanh tra Kurt Wallander đã được Cao Việt Dũng chuyển ngữ và sẽ sớm ra mắt. Vậy mà phải mất gần 4 năm chúng ta mới tiếp tục được đón nhận thêm một luồng hơi thở mới của dòng văn trinh thám Bắc Âu... Nói như vậy để bạn thấy, tôi đã mong mỏi cuốn sách “Bầy chó Riga” này như thế nào. Thanh tra Kurt Wallander và các cộng sự phải đối mặt với một vụ án khá hóc búa: điều tra về cái chết của hai người chưa rõ tung tích trên một chiếc xuồng cứu hộ trôi dạt vào bờ biển Mossby Strand, Thụy Điển. Khi Wallander bắt đầu hướng mũi điều tra đến các nước Đông Âu thì ông nhận được thông tin từ Latvia. Thiếu tá Liepa, một quan chức cao cấp trong ngành cảnh sát của nước này được cử đến Thụy Điển để hỗ trợ công tác điều tra. Thời gian ngắn ngủi Liepa lưu lại Thụy Điển không ngờ cũng là lần gặp gỡ cuối cùng của Wallander với viên thiếu tá cận thị gầy gò nhưng để lại cho ông nhiều thiện cảm. Cái chết của Liepa do bị ám sát ngay sau khi quay về nước lại chính là nguyên nhân đưa Wallander lần đầu tiên đến với Latvia, đến với thủ đô Riga, nơi mà sau đó xảy ra rất nhiều biến cố không chỉ trong việc điều tra vụ án này mà còn cả với đời sống tình cảm của Wallander. *** Sống tại Thụy Điển thanh bình, Wallander hoàn toàn xa lạ với Latvia, nước láng giềng có chế độ chính trị đang trong giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ của những năm 1991-1992. Như tác giả bộc bạch trong phần Tái bút: “Đối với nhà văn, tự thân việc viết ra một cuốn sách với cốt truyện diễn ra trong một bối cảnh xa lạ là rất phức tạp”... Nhưng chính điều này đã cho thấy tài năng vượt bậc của tác giả Henning Mankell. Xuyên suốt trong gần 400 trang sách, bạn sẽ rất hồi hộp và nôn nóng muốn ngay lập tức cùng nhân vật chính, thanh tra Wallander nhanh chóng đi hết hành trình của cuộc điều tra. Cuốn sách không dàn xếp những tình huống giật gân, gay cấn; không đi sâu vào miêu tả chi tiết vụ án, cũng không kể lại tỉ mỉ những tội ác gây kinh hoàng, nhưng tác giả Henning Mankell đã hoàn toàn lôi cuốn người đọc. Và đây chính là thành công nhất của một tác giả trinh thám. Khác với hai cuốn sách trước mà bạn đọc đã biết, vụ án này diễn ra chủ yếu tại Riga, thủ đô của Latvia.  Tại đây, mặc dù ngôn ngữ bất đồng, hoàn toàn không có cộng sự và không có bất cứ mối liên hệ nào để có thể dẫn đường, chỉ với sự giúp đỡ của Baiba Liepa, vợ của thiếu tá Liepa và những người khác, bằng kinh nghiệm và tài năng Wallander đã dần dần vén tấm màn bí ấn xung quanh cái chết của viên thiếu tá đáng kính và hai kẻ xấu số được phát hiện tại bờ biển Mossby Strand, nơi khởi đầu của vụ án này. Cuộc điều tra ngoài phạm vi Thụy Điển đã góp phần phơi bày thực trạng hỗn loạn của xã hội Latvia đang trong cơn chuyển mình; sự lũng đoạn, tha hóa của ngành cảnh sát khi những người nắm giữ chức vụ quan trọng của bộ máy an ninh lại bị đồng tiền thao túng hay trở thành kẻ hai mang, phục vụ cho những mục đích chính trị riêng… Diễn biến khám phá vụ án cũng đồng hành cùng diễn biến tâm lý của Wallander. Bạn sẽ được chia sẻ những suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật trong những tình huống cân não, hay đôi khi chỉ là những suy nghĩ miên man, những độc thoại về cuộc sống và hạnh phúc, sự đối diện với cái chết, với cuộc sống nhàm chán...  Trải qua một trong những sự kiện lớn lao, nguy hiểm nhất từng xảy ra trong cuộc đời, nhưng khi vụ án được khám phá, Wallander lại không được hưởng niềm vui chiến thắng. Tại Riga, trái tim tưởng như băng giá của ông được sưởi ấm bởi Baiba Liepa, vợ góa của người đồng nghiệp Latvia - người phụ nữ ngay từ lần gặp đầu tiên đã khiến ông không thể quên. Chẳng có một “kết thúc có hậu” nào bởi cuối cùng người phụ nữ ấy, rốt cục, có lẽ cũng chỉ là giấc mơ hạnh phúc của Wallander.  Gấp lại cuốn sách tuyệt vời này, tôi không thể không đặt ra một câu hỏi cho dịch giả Cao Việt Dũng và Nhã Nam: vụ án của “Bầy chó Riga” xảy ra 6 năm trước vụ án của “Tường lửa”, nơi mà bạn đọc Việt Nam đã được làm quen với thanh tra Wallander, với nỗi buồn cô đơn nhớ nhung Baiba Liepa của nhân vật chính. Có lý do nào giải thích cho sự hoán đổi thứ tự này không nhỉ? Phải chăng đây là chủ ý của dịch giả: để cho bạn đọc trước hết được làm quen với Wallander, người lúc nào cũng cô đơn và buồn bã, sau đó chúng ta mới được biết ông đã làm quen với người phụ nữ này như thế nào...   Dù thế nào chăng nữa, chắc chắn “Bầy chó Riga” và “Tường lửa”, “Chậm một bước” sẽ là món quà quý giá giành cho các bạn yêu sách. *** Bầy chó  Riga, cuốn thứ hai trong series tiểu thuyết trinh thám về Thanh tra Kurt Wallander, là nơi viên cảnh sát Thụy Điển gặp những sự việc và con người sẽ còn ám ảnh suốt phần đời còn lại của ông. Một lần hiếm hoi ra khỏi thành phố nhỏ bé của mình để nhận lấy một nhiệm vụ không ai hay biết, không đồng sự và không có chi viện, Wallander lúng túng trong nỗ lực xoay xở tại một đất nước vùng Baltic đang trong cơn chuyển mình hỗn loạn. Chỉ có thể dựa vào khả năng suy đoán, Wallander lần mò đi tìm một bằng chứng tưởng chừng như không tồn tại nhưng lại có tầm quan trọng đặc biệt với tương lai cả một đất nước. Và trên hành trình đầy sợ hãi ấy, ông đã gặp một người kể từ nay giữ một vị trí không thể phai mờ trong đời sống tình cảm của ông: Baiba Liepa. Bộ sách về Kurt Wallander đã khiến Henning Mankell đến với độc giả của trên 30 thứ tiếng, mang lại rất nhiều giải thưởng văn học (trong đó có giải Gold Dagger, giải The Glass Key, giải Gumshoe…); nhiều cuốn đã được dựng thành phim điện ảnh và phim truyền hình tại nhiều nước.  *** “Lối viết kiệm lời, cách xây dựng nhân vật tài tình, bầu không khí sôi sục và sự gay cấn lúc nào cũng mạnh mẽ.” - The Times Literary Supplement “Một câu chuyện về giới cảnh sát đầy lôi cuốn và suy tư, không cho người đọc buông sách xuống ngay từ trang đầu tiên.” - Irish Independent “Một câu chuyện đầy ắp văn hóa địa phương… Cốt truyện đủ chất bất ngờ, Wallander, như vẫn luôn luôn vậy, làm người ta rối trí và rất mực sắc sảo.” - Los Angeles Times Book Review Mời các bạn đón đọc Bầy Chó Riga của tác giả Mankell Henning.
Ký Ức Nửa Đêm - Sidney Sheldon
Sách Nói Ký Ức Nửa Đêm   Cuốn tiểu thuyết Kí ức nửa đêm mô tả quá trình phục hồi trí nhớ và quay trở lại xã hội thượng lưu của cô gái Catherine. Đan xen vào đó là những câu chuyện tình tay ba, những vụ thanh toán lẫn nhau cũng như con đường tiến thân đầy tội lỗi của những ông chủ như Constantin Demiric. Tất cả chỉ xoay quanh việc thỏa mãn dục vọng cùng những khát khao quyền lực, tiền bạc của con người. Thế nhưng rồi tất cả đều phải trả giá cho chính mình, gieo nhân nào gặt quả ấy. Là tác giả của rất nhiều cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất trong năm, nữ văn sĩ Mỹ Sidney Sheldon luôn được người đọc chào đón nồng nhiệt mỗi khi một cuốn tiểu thuyết của bà xuất hiện. Ký ức vốn tập trung những điều có thật và cả sự tưởng tượng về những việc xảy ra trong quá khứ. Ký ức của Catherine chất chứa nỗi đau và cả niềm hạnh phúc. Cô đã bị người chồng phản bội, bị trở thành mục tiêu oan uổng cho những mưu mô thấp hèn. Một điều lạ là những kẻ xấu liên can đến cô đều bị giết. Họ âm mưu thanh toán lẫn nhau để rồi cuối cùng bị giết bởi chính âm mưu của mình. Còn Catherine, người phụ nữ xinh đẹp với ước mơ đơn giản, chỉ mong cầu một mái ấm và một tình yêu chân chính. Cô như con nai vàng giữa bầy sói dữ. Tuy nhiên, cuối cùng cô đã sống sót nhờ vào những hình ảnh của ký ức. Nó như một lời cảnh báo cho những gì sắp xảy ra quanh cô. *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1982, Sheldon tâm sự: “Tôi cố gắng viết những tác phẩm để người đọc không thể đặt chúng xuống. Tôi viết để khi người đọc đọc tới cuối chương, họ phải đọc thêm một chương nữa”. Giải thích lý do tại sao có quá nhiều phụ nữ là các nhân vật chính trong các tác phẩm của ông, Sheldon nói: “Tôi thích viết về những người phụ nữ tài giỏi, và quan trọng hơn, là họ vẫn đầy quyến rũ, nữ tính. Phụ nữ có một sức mạnh vô cùng to lớn - đó là nét quyến rũ và người đàn ông không thể làm gì nếu thiếu điều này”. Không giống như những nhà văn khác thường sử dụng máy chữ hoặc máy tính để viết tác phẩm, Sheldon thường đọc ra 50 trang truyện mỗi ngày cho thư ký hay máy thu âm ghi lại. Sau đó, ông sửa bản sáng tác vào ngày hôm sau và cứ tiếp tục công việc như vậy cho tới khi tác phẩm của ông dài từ 1.200 tới 1.500 trang. Sheldon nói: “Tôi đọc và sửa lại bản viết cuối cùng từ 12 tới 15 lần. Có thể tôi chỉ dùng cả năm để sửa lại bản viết đó”. Sidney Sheldon sinh ngày 11/2/1918 tại Chicago, Illinois dưới tên Sidney Schechtel, trong một gia đình có bố là người Do Thái gốc Đức, mẹ là gốc Nga. Ông bắt đầu việc viết lách ngay từ khi còn rất nhỏ. Lên 10 tuổi, cậu bé Sheldon đã kiếm được 10 USD cho một bài thơ. Thời trai trẻ, Sheldon từng làm nhiều nghề để kiếm sống trong khi là sinh viên tại Northwestern University và tham gia một nhóm chuyên viết những vở kịch ngắn. *** Đêm nào, nàng cũng nằm mơ, la hét rồi tỉnh dậy. Nàng cảm thấy như đang lênh đênh ở giữa mặt hồ rộng lớn trong cơn giông tố khủng khiếp, có một người đàn ông và một người đàn bà đang đè đầu nàng dìm xuống nước băng giá để cho nàng chết đuối. Mỗi lần bừng tỉnh như vậy tâm hồn hoảng loạn, nàng cố lấy lại hơi thở và mồ hôi toát ra đầm đìa. Nàng không biết nàng là ai và nàng không còn trí nhớ về dĩ vãng. Nàng nói tiếng Anh - nhưng nàng cũng chẳng biết nàng là người nước nào và vì sao nàng lại đến đây, đất Hy Lạp này, sống trong tu viện Carmelite nhỏ bé, nơi đã che chở cho nàng. Rồi thời gian cứ trôi đi, những ký ức quá khứ cứ thoáng hiện như nhử trêu nàng, những ý nghĩ mơ hồ, những hình ảnh mờ ảo hiện lên rồi lại tan đi nhanh chóng không cho nàng tóm chặt được nó, giữ nó và ngắm nghía nó. Những hình ảnh đó xuất hiện đột nhiên ở một lúc nào đó chộp vào đúng lúc nàng không có chút đề phòng, và làm nàng lẫn lộn hết cả. Lúc mới đầu, nàng còn tự đặt ra những câu hỏi. Các bà xơ ở Carmelite rất tử tế và hiểu nàng nhưng hình như họ được lệnh phải im lặng, và chỉ có một người được phép nói với nàng là Xơ Theresa, người nhiều tuổi nhất và là Mẹ Bề trên yếu đuối. - Xơ có biết con là ai không? - Không, con của ta ạ, - Xơ Theresa trả lời. - Làm sao con lại được đến nơi đây? - Ở chân những quả núi kia có một cái làng tên là Ioanina. Con ở trong một con thuyền nhỏ lênh đênh trên mặt hồ khi trời giông bão, cái năm ngoái ấy. Con thuyền đang chìm nhưng nhờ ơn Chúa, hai trong các xơ của con đã thấy và cứu sống con. Họ đã mang con về đây? - Nhưng… trước đó, con từ đâu đến hở Xơ? - Xin lỗi con, ta không biết. Nàng không thể thoả mãn với những điều đó. - Đã có ai hỏi gì về con? Đã có người nào muốn tìm con? Xơ Theresa lắc đầu. - Không có ai cả, con ạ. Nàng muốn oà khóc vì thất vọng. Nàng lại cố nhớ một lần nữa. - Báo chí… họ phải có chuyện về việc ta mất tích. - Như con biết. Chúng ta không được phép liên hệ với thế giới bên ngoài. Chúng ta phải theo ý của Chúa, con ạ. Chúng ta phải cám ơn Người về những ban ơn của Người. Con còn sống. Và đó là tất cả những gì mà nàng có thể biết được. Thời gian đầu, nàng quá yếu đuối để có thế hiểu được những điều đã xảy ra với mình, nhưng dần dà, sau nhiều tháng qua đi, nàng đã lấy lại được nghị lực và sức khỏe. Khi nàng đã khỏe hơn để có thể đi loanh quanh, suốt ngày nàng cúi mình trong khu vườn đầy hoa thuộc phần đất của tu viện, dưới ánh sáng ấm cúng đã toả khắp Hy Lạp như trong một thiên đường huyền ảo, với cả những làn gió nhẹ thổi qua, mang theo hương vị thơm ngon của những quả chanh và những chùm nho. Bầu không khí ở đây thật thần tiên và tĩnh mịch, tuy vậy nàng vẫn cảm thấy không yên. Ta đã bị lạc, nàng nghĩ vậy và chẳng ai chú ý. Tại sao? Ta có làm điều gì độc ác chăng? Ta là ai? Ta là ai? Ta là ai? Những hình ảnh lại tiếp tục xuất hiện, không theo một đòi hỏi nào cả. Một buổi sáng, nàng chợt tỉnh vì nhìn thấy mình trong buồng với một người đàn ông trần truồng đang cởi quần áo nàng. Phải chăng là một giấc mơ? Hay có điều gì đã xảy ra trong quá khứ đối với nàng? Người đàn ông đó là ai? Có phải rằng nàng đã lấy một người nào đó trước đây? Nàng đã có chồng rồi ư? Nàng không mang nhẫn cưới. Trong thực tế nàng không có một sở hữu gì khác ngoài những lệnh theo thói quen ở Carmelite mà Xơ Theresa đã ban cho nàng, một cái ghim cài áo, một con hoàng anh có đôi mắt mầu ngọc bích và sải cánh rộng. Nàng chỉ là một người vô danh, một người lạ sống giữa những kẻ lạ. Chẳng có ai giúp đỡ nàng, không có nhà nghiên cứu tâm thần nào có thể bảo cho nàng rằng trí óc của nàng đã bị rối loạn, và chỉ có thể yên ổn nếu ngăn cách hẳn với quá khứ khủng khiếp. Và rồi những hình ảnh lại đến, nhanh hơn và nhanh hơn. Cứ như là trí óc của nàng tự dưng rơi vào một trò chơi ghép hình vĩ đại, với các tấm hình rời rạc phải xếp vào đúng chỗ của nó. Nhưng những tấm hình này chẳng có nghĩa gì cả. Nàng như thấy một cảnh trường quay chật những người mặc quân phục. Họ như đang chuẩn bị làm một cuốn phim. Ta có là một diễn viên không? Một người lính đưa cho nàng một bó hoa. Cô phải trả tiền cho những bông hoa này đấy nhé, anh ta cười. Sau đó hai đêm, nàng lại mơ về cùng một người đàn ông. Nàng đã chào tạm biệt người đó tại sân bay, và khi tỉnh dậy, nàng đã thổn thức vì đã để mất ông ta. - Không còn có những giấc mơ thanh bình những lần sau đó. Toàn là mộng mị. Đó là những mảnh vụn của đời nàng, quá khứ của nàng. Ta phải tìm ra ta là ai. Hiện ta là ai. Và vào lúc nửa đêm, đột nhiên, một cái tên lóe ra trong tiềm thức nàng - Catherine - tên mình là Catherine Alexander. ... Mời các bạn đón đọc Ký Ức Nửa Đêm của tác giả Sidney Sheldon.
Sứ Giả của Thần Chết - Sidney Sheldon
Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"..., đã từ trần ở tuổi 89. Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1982, Sheldon tâm sự: “Tôi cố gắng viết những tác phẩm để người đọc không thể đặt chúng xuống. Tôi viết để khi người đọc đọc tới cuối chương, họ phải đọc thêm một chương nữa”. Giải thích lý do tại sao có quá nhiều phụ nữ là các nhân vật chính trong các tác phẩm của ông, Sheldon nói: “Tôi thích viết về những người phụ nữ tài giỏi, và quan trọng hơn, là họ vẫn đầy quyến rũ, nữ tính. Phụ nữ có một sức mạnh vô cùng to lớn - đó là nét quyến rũ và người đàn ông không thể làm gì nếu thiếu điều này”. Không giống như những nhà văn khác thường sử dụng máy chữ hoặc máy tính để viết tác phẩm, Sheldon thường đọc ra 50 trang truyện mỗi ngày cho thư ký hay máy thu âm ghi lại. Sau đó, ông sửa bản sáng tác vào ngày hôm sau và cứ tiếp tục công việc như vậy cho tới khi tác phẩm của ông dài từ 1.200 tới 1.500 trang. Sheldon nói: “Tôi đọc và sửa lại bản viết cuối cùng từ 12 tới 15 lần. Có thể tôi chỉ dùng cả năm để sửa lại bản viết đó”. Sidney Sheldon sinh ngày 11/2/1918 tại Chicago, Illinois dưới tên Sidney Schechtel, trong một gia đình có bố là người Do Thái gốc Đức, mẹ là gốc Nga. Ông bắt đầu việc viết lách ngay từ khi còn rất nhỏ. Lên 10 tuổi, cậu bé Sheldon đã kiếm được 10 USD cho một bài thơ. Thời trai trẻ, Sheldon từng làm nhiều nghề để kiếm sống trong khi là sinh viên tại Northwestern University và tham gia một nhóm chuyên viết những vở kịch ngắn. Sheldon từng thú nhận ông suýt tự tử vào năm 17 tuổi. Năm 17 tuổi, Sheldon quyết định thử vận may tại Hollywood. Công việc ban đầu duy nhất mà Sheldon nhận được là đọc kịch bản phim tại Universal Studio với giá 22 USD/ tuần. Trong khi đó, ban đêm ông viết kịch bản phim riêng của mình và bán lại cho Universal với giá 250 USD. Sau thế chiến thứ 2, từ một phi công của Lực lượng không quân Mỹ, Sheldon giải ngũ và về làm việc cho sân khấu kịch Broadway - nơi đánh dấu những bước đi quan trọng trong sự nghiệp viết văn của ông. Cũng tại đây, Sheldon nhận giải Tony award cho kịch bản hay nhất cho “Redhead”. Với hơn 300 triệu ấn bản được bán, Sheldon không chỉ là một trong những nhà văn “lão làng” của Mỹ mà còn có ảnh hưởng lớn trong nền văn học thế giới. Ông từng đoạt giải Oscar với kịch bản hay nhất cho phim “The Bachelor and the Bobby-Soxer” (1957), giải Tony Award cho vở nhạc kịch “Rehead” (1957) nổi tiếng của sân khấu kịch Broadway và giải Emmy cho “Dream of Jeannie” (1967) Tại Việt Nam, nhiều tác phẩm của Sheldon đã được dịch và xuất bản như “Âm mưu ngày tận thế”, “Bầu trời sụp đổ”, “Người lạ trong gương”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai”, “Kế hoạch hoàn hảo”, “Cát bụi thời gian”…. *** Tiểu thuyết kiếm cơm của Sidney Sheldon, như những cái nồi hơi ướt át sẽ tan nhanh vào không khí, chẳng đọng lại được gì nhiều cho mai sau. Nhưng trước khi qua đời, ông vẫn được coi là một trong những nhân vật kiệt xuất cuối cùng của thời kỳ hoàng kim trong nền văn học bình dân Mỹ.   Lần cuối cùng tôi gặp Sidney Sheldon là khi ông tham gia một bữa tiệc sang trọng tại Beverly Hills. Tôi còn nhớ, hôm đó, một tác giả có tuổi đã tẽn tò bước đến bên ông, cúi đầu, bày tỏ sự kính trọng của mình rồi rụt rè đưa cho nhà văn bậc thầy một bản thảo cuốn sách mới viết về cái chết của một ngôi sao Hollywood.   Hai người họ đều xúng xính trong những bộ trang phục cầu kỳ và được là ủi kỹ. Với lối chưng diện đó, Sheldon xứng đáng được gọi là "bảnh bảo" - một từ ông rất thích dùng trong các tiểu thuyết của mình. Nhưng ánh mắt của những thực khách có mặt tại bữa tiệc không nấn ná lâu ở Sheldon, người ta còn mải bàn luận về điều gì đó vừa đọc được trên tạp chí In Touch.   Sheldon có thể là một tài năng bậc thầy trong việc phóng các tiểu thuyết của mình lên bảng xếp hạng best-seller nhưng ngày hôm đó, ông thực sự không nhận được nhiều sự quan tâm, chú ý. Những ai đã đọc sách của Aimee Bender, Dave Eggers và Nick Hornby tất nhiên sẽ không bao giờ đọc bất cứ thứ gì Sheldon viết. Nhưng tôi tự hỏi, không biết bao nhiêu người say mê Mật mã Da Vinci từng lén lút mở những "chiếc nồi hơi" mà Sheldon "sản xuất" ra. Sheldon qua đời, nghĩa là thời đại huy hoàng của nền văn học bình dân Mỹ mất đi một trong những cây bút cuối cùng.   Sinh năm 1917, Sheldon thuộc về một thế hệ nhà văn tôn sùng (và cả ghen tỵ nữa) với những tên tuổi nổi tiếng trên văn đàn Mỹ như Steinbeck và Hemingway. Nhưng họ cũng là những người sẵn sàng dựa vào chút tài năng của mình để biến văn đàn thành một sàn kinh doanh nhằm hốt bạc. Thực chất, mẫu hình của Sheldon là Irving Wallace và Harold Robbins. Và những cụm từ được dùng nhiều nhất trong các điếu văn dành cho ông như "ướt át, vô giá trị" đã chứng tỏ, ông là tác giả điển hình của những cuốn tiểu thuyết được người ta ưỡn ẹo đọc trên bãi biển hoặc cạnh các bể bơi.   Những trang viết của Sheldon chưa từng làm hài lòng các nhà phê bình chân chính. Không một đứa con tinh thần nào của ông cơ hồ sống được thêm 100 năm nữa kể từ thời điểm này. Có chăng, lúc đó, ông chỉ còn được người ta nhắc đến như một ví dụ điển hình cho những tác giả từng lọt vào danh sách best-seller của Mỹ. Chính vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi trong bộ sưu tập giải thưởng của Sydney Sheldon, dù đã có giải Oscar và Tony, sẽ không bao giờ có thể có thêm một Pulitzer. Nhưng con số 300 triệu bản sách của ông được tiêu thụ tại 180 quốc gia không hẳn là con số vô nghĩa.   Ít nhất, Sheldon cũng phải có những ảnh hưởng nhất định trên văn đàn Mỹ. Dan Brown có thể phá vỡ kỷ lục cũ của Sheldon với cuốn Mật mã Da vinci 53 tuần năm trên bảng xếp hạng best-seller nhưng Brown chắc chắn mắc nợ người đàn ông đã tạo ra cái mà các nhà phê bình gọi là "thứ rác rưởi lắm người đọc".   Sheldon học ở trường đời nhiều hơn là ở các trường học. Dù trải qua rất nhiều nghề nhưng viết lách vẫn là mục đích hướng tới của ông. Từ một người đọc bản thảo với thu nhập 17 USD mỗi tuần, ông dần trở thành một tác giả kịch bản, nhà văn. Trước khi chết, tải sản của ông lên tới 3 tỷ USD - một con số mà cả Dan Brown lẫn J.K. Rowling đều khó lòng mà theo kịp.   Thế nhưng, ở tuổi 17, sau khi đã trải qua rất nhiều lỗi lầm trong đời. Bi quan với khả năng trở thành nhà văn của mình, Sidney Sheldon rơi vào trầm cảm và đã tìm cách tự vẫn. Nhưng bố ông kịp xuất hiện trước khi nhà văn kịp nhấm nháp một lô thuốc ngủ với rượu whisky. Nếu không, thế giới sẽ không biết đến một "hiện tượng Sidney Sheldon".   Mời các bạn đón đọc Sứ Giá của Thần Chết của tác giả Sidney Sheldon.