Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ghi Đơ Môpatxăng (Isaac Babel)

Isaac Babel (1894 - 1941) được đánh giá là nhà văn Do Thái đầu tiên bước vào văn đàn Nga với tư cách là một tác giả văn xuôi Nga. “Babel đã trải qua thời thơ ấu và thời thanh niên ở Odessa, chịu đựng cảnh đau khổ trong ghetto (khu vực cư trú dành riêng cho người Do Thái). Babel học giỏi, từ nhỏ cho đến khi 16 tuổi ông đã học tiếng Do Thái, tiếng Pháp, Kinh Thánh, Kinh Talmut. Babel đến với văn chương từ rất sớm. 15 tuổi ông đã viết những truyện ngắn đầu tiên bằng tiếng Pháp. Giống Gogol, 1915 ông đến Peterburg ôm ấp mộng văn chương. 1916 đánh dấu bước ngoặt lớn trong đời Babel khi nhà văn gặp được Gorky. Gorky đồng ý in truyện ngắn của Babel. Nhà văn lão thành khuyên Babel đi thực tế để có vốn sống và viết. Thế là từ một chàng công tử Do Thái Babel đã trở thành một người lính của Quân đoàn Kỵ binh số Một, tham gia vào các công tác cách mạng (làm việc trong các ủy ban quân sự cách mạng, làm phóng viên, làm ở nhà in…).

Tập đoàn quân Kỵ binh ra đời năm 1926 - là tập hợp những truyện ngắn Babel viết về cuộc sống, chiến đấu của Quân đoàn Kỵ binh số Một trên mặt trận truy quét quân Ba Lan và Bạch vệ thời kỳ những năm 20 - 30 của thế kỷ XX. Ngay từ khi mới ra đời tác phẩm đã tạo ra hai luồng dư luận trái chiều: một ủng hộ Babel, ca ngợi Tập đoàn quân Kỵ binh; còn một phê phán, lên án kịch liệt tác phẩm này, thậm chí còn buộc tội tác giả của nó. Tương phản trở thành một thủ pháp được sử dụng hữu hiệu trong các tác phẩm của Babel, nhất là Tập đoàn quân Kỵ binh nhằm tạo ra muôn vàn khuôn mặt cách mạng, chiến tranh và những suy ngẫm về sự sống, cái chết…

Trong 25 năm cầm bút Babel để lại không nhiều tác phẩm: hai vở kịch (Hoàng hôn, Maria), ba tập truyện ngắn (Tập đoàn quân Kỵ binh, Truyện ngắn Odessa, Truyện ngắn); nhưng những tác phẩm của ông đều được đánh giá rất cao, đặc biệt là truyện ngắn. Nhưng 13 năm sau thời điểm Tập đoàn quân Kỵ binh ra đời (1939) Babel cùng nhiều nhà văn khác bị bắt một cách bí mật, bị ép buộc phải nhận những tội danh vô lí trong đó có tội “phản bội Tổ quốc”. Ông bị đưa ra xét xử trước tòa án quân sự vào ngày 26/ 1/ 1940 và bị hành quyết ngày 17/ 3/ 1941, khi ông 47 tuổi. Suốt 15 năm sau đó, tên ông bị xoá hẳn trong sách vở văn chương của Liên Xô. Từ năm 1954, các tác phẩm của ông mới được công nhận.

Tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt

- Babel I.E: Tuyển tập (Nguyễn Thụy Ứng dịch từ tiếng Nga, I. Erenburg và Nguyễn Thụy Ứng giới thiệu). Nxb. Văn hóa thông tin, H, 2000.*** Tìm mua: Ghi Đơ Môpatxăng TiKi Lazada Shopee

Mùa đông năm mười sáu tôi nương náu ở Petecburg với tấm căn cước giả và không một xu dính túi. Người cho tôi ở nhờ là một anh giáo dạy văn học Nga tên là Alecxây Kazansev.

Anh sống ở Peski, một khu phố lạnh lẽo, vàng xỉn, hôi hám. Anh kiếm tiền để phụ vào số tiền lương còm bằng cách dịch tiếng Tây Ban Nha; thời ấy Blasko Ibanes đang nổi như cồn.

Kazansev chưa từng đặt chân đến Tây Ban Nha, dù chỉ là đi ngang qua, nhưng tình yêu xứ ấy xâm chiếm toàn bộ con người anh. Anh biết hết mọi lâu đài, công viên, sông ngòi ở Tây Ban Nha. Ngoài tôi ra, chỗ Kazansev còn cả một lô nhưng kẻ bị bật ra khỏi cuộc sống ngay lành. Chúng tôi sống rất đói rách. Thảng hoặc, mấy tờ báo lá cải mới dành vài dòng chữ nhỏ đăng những mẩu tin vặt của chúng tôi.

Sáng sáng tôi la cà ở những khu nhà xác và đồn cảnh sát.

Người hạnh phúc hơn trong bọn vẫn là Kazansev. Anh còn có Tây Ban Nha là Tổ quốc.

Tháng mười một, tôi được giới thiệu một chân thư lại ở nhà máy Ôbukhôv, một chỗ làm không đến nỗi tồi tránh cho tôi khỏi phải vào lính.

Tôi đã từ chối không làm một gã thầy ký.

Ngay từ lúc ấy - mới hai chục tuổi đầu - tôi đã tự nhủ: thà đói khát, tù đày, lang bạt còn hơn ngồi lỳ ở phòng giấy suốt mười giờ đồng hồ mỗi ngày. Chẳng phải có gì táo tợn lắm trong lời nguyền ấy, nhưng tôi đã và sẽ không đời nào vi phạm nó. Tôi vẫn giữ được cái phong tục của ông cha: Chúng ta sinh ra trên đời là để tận hưởng thú vui làm lụng, đánh nhau, yêu đương, chúng ta sinh ra là cho những việc ấy chứ không phải vì cái gì khác.

Nghe tôi lý sự, Kazansev cứ xoắn mãi cái chỏm tóc vàng hoe ngắn ngủn trên đầu. Nỗi sợ hãi trong ánh mắt anh pha lẫn vẻ thích thú.

Đến hôm lễ Giáng sinh thì chúng tôi gặp may. Luật sư Benderski, chủ sở hữu nhà xuất bản “Ansiona” có ý định xuất bản một tác phẩm mới của Môpatxăng. Việc dịch do Raisa, vợ ông, đảm nhiệm. Cái trò chơi quý tộc chẳng đi đến đâu.

Người ta hỏi Kazansev, người dịch tiếng Tây Ban Nha xem anh có biết ai giúp việc được cho Raisa không. Kazansev ra lệnh cho tôi.

Hôm sau, khoác một cái áo vét đi mượn, tôi đến nhà Benderski. Họ sống ở góc đường Nevski và Môika, trong một ngôi nhà xây bằng đá hoa cương Phần Lan, bên ngoài có ốp những hàng cột giả màu hồng, lỗ châu mai và gia huy chạm đá. Những tay chủ nhà băng mất gốc, mới cải đạo và phất lên nhờ nghề chạy hàng đã cho xây lên ở Pêterburg trước ngày có chiến tranh hàng lô thứ lâu đài chướng mắt, ngạo nghễ đến lố bịch ấy.

Cầu thang trải một tấm thảm đỏ. Ở chiếu nghỉ cầu thang có đặt những con gấu nhung đứng chồm hai chân lên.

Trong những cái mõm há hốc của chúng các núm thủy tinh lóe sáng.

Vợ chồng nhà Benderski sống trên tầng ba. Ra mở cửa là một cô hầu gái đội mũ mào, ngực cao. Cô ta đưa tôi vào gian tiếp khách bày biện theo lối Slavơ cổ. Trên tường treo những bức tranh gam xanh lơ của Rerikhơ - những tảng đá và quái vật thời tiền sử. Khắp các góc nhà - đặt trên bệ, bày la liệt các tượng thánh kiểu cổ. Cô hầu gái có bộ ngực cao diễu khắp phòng một cách trịnh trọng. Cô ta người cân đối, mắt cận thị, vẻ kiêu kỳ. Trong cặp mắt xám mở to của cô lộ rõ vẻ phóng đáng trơ trẽn. Cô đi lại chậm chạp. Tôi thoáng nghĩ rằng khi yêu chắc hẳn cô ả vần vũ cuồng nhiệt và sành sỏi lắm. Tấm rèm gấm treo nơi cửa ra vào chợt lay động. Bước vào phòng, mang một bộ ngực đồ sộ là một phụ nữ tóc đen có cặp mắt màu hồng. Chẳng cần nhiều thời gian cũng nhận ra là bà Benderski là thuộc loại phụ nữ Do Thái làm cho người ta say mê, đến đây từ Kiev và Pôntava, từ những miền thảo nguyên, những thành phố sung túc trồng đầy dẻ và keo. Tiền của do các đức ông chồng khéo xoay xở được những người đàn bà này chuyển hóa thành lớp mỡ hồng hào nơi bụng, gáy, trên đôi vai tròn lẳn. Cái khóe cười mỉm ngái ngủ, mướt mịn của họ khiến các chàng sĩ quan đồn trú mê mẩn như bị hớp hồn.

- Môpatxăng là niềm say mê duy nhất của đời tôi, - Raisa nói với tôi.

Cố giữ cho cặp đùi đồ sộ đừng đong đưa quá, chị ta ra khỏi phòng rồi trở lại với bản dịch “Cô Garriet”. Trong bản dịch ấy của chị ta không còn để lại chút dấu vết nào câu chữ của Môpatxăng, cái giọng văn khoáng đạt, mượt mà, nghe như có tiếng thở dài say đắm. Những câu văn của bà Benderski đúng văn phạm đến mức khó chịu, tẻ ngắt và thô kệch - hệt lối viết tiếng Nga ngày trước của dân Do Thái.

Tôi đem tập bản thảo về nhà và trong gian gác áp mái của Kazansev - giữa đám người đang ngủ say - suốt đêm cặm cụi gọt đẽo bản dịch của người. Kể ra thì công việc ấy cũng không đến nỗi buồn tẻ như tôi nghĩ. Câu cú được sửa sang vừa hay lại vừa dở cùng một lúc. Bí quyết là ở sự xoay chuyển khó nhận thấy được. Cây đòn bẩy phải ở trong tay và ấm nóng lên. Và chỉ được xoay tay đòn một lần, chứ chớ đến hai.

Sáng ra, tôi đem đến bản thảo đã sửa xong. Raisa đã thật lòng khi nói chị mê Môpatxăng. Chị ngồi bất động suốt thời gian đọc lại bản dịch, tay đan chéo vào nhau: hai cánh tay mịn màng buông thõng, vầng trán trắng nhợt, viền đăng ten giữa hai bầu vú bị dồn ép xô lệch đi, hết dâng lên lại hạ xuống.

- Anh đã làm cách nào vậy?

Lúc ấy tôi đã nói về văn phong, về đội quân từ ngữ, đội quân mà trong đó sử dụng đủ loại khí giới. Không có thứ sắt thép nào có sức làm tê buốt trái tim người ta bằng một dấu chấm câu đặt đúng chỗ. Chị ta lắng nghe, đầu cúi, đôi môi thoa son hé mở. Một ánh đen sáng lên trên mái tóc chải dầu bóng và để ngôi. Đôi bắp chân mang tất ôm khít, khỏe và thon duỗi trên tấm thảm trải sàn.

Cô hầu gái đưa cặp mắt dâm đãng trơ trẽn nhìn sang phía khác, bưng mâm dọn bữa sáng lên.

Ánh nắng Peterburg lấp lánh rọi xuống tấm thảm trải sàn mấp mô bột màu. Hai mươi chín tập sách của Môpatxăng xếp chật cái giá nhỏ phía trên bàn viết. Tia nắng lung linh nhảy nhót vuốt ve những gáy sách bọc da, nấm mộ tuyệt vời của một trái tim người.

Cà phê sáng đem lên cho chúng tôi đựng trong những cái tách màu xanh lơ, và chúng tôi bắt đầu dịch “Idillia” (“Khúc đồng dao”). Ai mà chẳng nhớ truyện ngắn kể về anh chàng thợ mộc bú bầu sữa đang căng tức của cô nhũ mẫu đẫy đà. Chuyện ấy xảy ra trên một chuyến tàu chạy từ Nisơ đến Macxây, vào một buổi trưa oi ả, ở xứ hoa hồng, quê hương của hoa hồng, nơi mà những cánh đồng trồng hoa tràn xuống tận mép biển…

Tôi ra khỏi nhà Benderski với hai mươi lăm rúp tạm ứng trước. Cái hội của chúng tôi ở Peski tối ấy say ngất ngư chẳng khác gì đàn ngỗng no căng nước. Chúng tôi đã dùng thìa mà xúc món trứng cá tầm và nhắm nó với món giò lòng. Khi đã chếnh choáng, tôi quay ra bỉ nhạo Tônstôi:

- Cụ hãi rồi, cái cụ bá tước của các anh ấy, cụ nhát cáy… Tôn giáo của cụ là sợ hãi… Hãi đói, hãi già, thế nên ngài bá tước bèn may cho mình một cái áo bằng đức tin…

- Rồi sao nữa? Lắc lắc cái đầu chim, Kazansev hỏi tôi.

Chúng tôi lịm luôn bên chân giường. Tôi mơ thấy Katia, chị thợ giặt đã bốn chục tuổi, sống ở dưới nhà. Sáng sáng chúng tôi thường xuống chỗ chị ta xin nước sôi. Ngay đến mặt chị ta tôi cũng còn chưa kịp nhìn cho kỹ, ấy thế mà trong mơ có trời biết tôi và Katia đã làm những trò gì. Chúng tôi đã quần nhau hôn hít đến mệt nhoài. Sáng hôm sau, không cầm lòng được, tôi đã ghé xuống chỗ chị ta xin nước sôi.

Đón tôi là một người đàn bà dáng ủ ê, vai vắt khăn choàng, mớ tóc xám màu tro rối tung và đôi tay sưng mọng vì dầm nước.

Kể từ hôm ấy, sáng nào tôi cũng ăn ở đằng nhà Benderski. Trong căn gác áp mái của bọn tôi có thêm được một cái bếp lò mới, cá trích hộp, sô-cô-la. Hai lần Raisa còn đưa tôi ra đảo chơi. Không đừng được, tôi đã kể cho chị ta nghe về thời thơ ấu của mình. Câu chuyện kể nghe thảm đạm đến chính tôi cũng phải ngạc nhiên. Từ dưới viền mũ bằng lông điêu thử, đôi mắt sợ hãi long lanh nhìn tôi. Hàng mi hung khẽ chớp đượm vẻ thương xót.

Tôi đã làm quen với chồng Raisa - một tay Do Thái mặt bủng, đầu hói trụi và người dẹt lét, nhìn nghiêng cứ như chực dướn lên bay. Nghe đâu ông ta là chỗ thân cận với Rasputin. Những khoản lợi tức ông ta thu được nhờ chạy hàng quân nhu khiến ông ta có vẻ như một kẻ bị ma ám. Mắt ông ta lơ láo, với ông, tấm màn che thực tại đã rách nát rồi. Raisa thường ngại ngùng khi phải giới thiệu với chồng những người quen mới của mình. Vì còn non nớt nên hàng tuần sau tôi mới nhận ra điều đó.

Sau Tết, nhà Raisa có hai người em gái từ Kiev lên chơi. Đâu như tôi có mang tới tập bản thảo truyện “Lời thú nhận” và vì không gặp Raisa nên đến tối mới trở lại. Mọi người đang dùng bữa trong phòng ăn. Từ phía ấy vọng ra tiếng cười lanh lảnh như ngựa hý của đàn bà, và tiếng ồm ồm của đàn ông đang cơn hứng. Ở những nhà giàu không có nền nếp, người ta ăn uống rất ồn ào. Thứ tiếng ồn rất Do Thái, rộ lên từng đợt và về cuối trở nên du dương. Rai sa ra đón tôi trong bộ váy áo dạ hội hở lưng. Chân đi giày láng bóng, bước vụng về.

- Tôi say rồi, chú bồ câu ạ - Rồi chị chìa cho tôi đôi tay đeo đầy những chuỗi bạch kim và những ngôi sao hồng ngọc.

Tấm thân chị đong đưa, dướn cao như con rắn ngóc lên theo tiếng nhạc. Chị ta lắc lắc cái đầu uốn quăn làm cho mớ vòng khuyên kêu lanh canh, rồi bất thần ngã vật ra chiếc ghế bành trạm trổ kiểu Nga cổ. Trên khoảng lưng trần xoa phấn của chị hằn rõ những vết tím bầm.

Phía sau tường lại vang lên tiếng phụ nữ cười. Hai cô em có ria mép từ phòng ăn đi ra, cũng vú to, người phổng phao y hệt Raisa. Ngực các cô ưỡn ra, tóc đen xõa tung. Cả hai đều lấy chồng người trong họ Benderski của mình. Căn phòng tràn ngập tiếng phụ nữ cười đùa, lối đùa cợt của những người đàn bà đã trưởng thành. Hai ông chồng ủ ấm cho các cô bằng áo bành-tô da hải sư, khăn choàng Ôđenbuốc, đi cho họ giày da cao cổ; sau lớp lông tuyết xù lên của vành khăn chỉ còn thấy đôi má đỏ lựng, chỏm mũi trắng như sứ và ánh mắt cận thị của dân Seemit. Đùa chán, họ đi đến nhà hát hôm ấy đang diễn vở “Judith” với Saliapin sắm vai chính.

- Tôi muốn làm việc, - Raisa thì thầm, dang hai cánh tay trần, chúng ta đã bỏ phí mất cả tuần nay rồi…

Nàng sang phòng ăn lấy một cái chai và hai cốc lớn. Bộ ngực không mang nịt núng nính qua lần áo, hai núm vú hằn rõ qua nền lớp lụa mềm.

- Thứ quí, - Raisa vừa nói vừa rót rượu ra, - loại nho xạ năm 83 đấy nhé, chồng tôi mà biết thì ông ấy giết tôi…

Tôi chẳng có việc gì với thứ nhục đậu khấu năm 83, và cũng không hề có ý định nốc cạn ba vại liền. Chúng lập tức lôi tuột tôi đến những hẻm phố chập chờn những đốm lửa màu da cam và vẳng nghe có tiếng nhạc.

- Tôi say rồi, chú bồ câu ạ… Hôm nay ta làm gì đây?

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ghi Đơ Môpatxăng PDF của tác giả Isaac Babel nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Có Những Bàn Tay Không Chạm Được Dẫu Gần (September Rain)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Có Những Bàn Tay Không Chạm Được Dẫu Gần PDF của tác giả September Rain nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Có Một Mầm Hoa Đã Nhú Dưới Tro Tàn (Lê Minh Quốc)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Có Một Mầm Hoa Đã Nhú Dưới Tro Tàn PDF của tác giả Lê Minh Quốc nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Có Một Loại Yêu Ai Dám Nói (Vô Xứ Khả Đào)
Khi tuổi còn trẻ, cô không biết nên sùng bái anh như thế nào, vì thế lựa chọn phản bội. Phản bội, có được danh lợi, cùng với tất cả những khát vọng mà cô ao ước, thế nhưng nỗi đau chôn giấu tận đáy lòng lại chưa bao giờ ngưng hẳn, cho đến tận khi gặp lại…… Cách một đoạn tình cũ bị phản bội, tất cả quên lãng, mưu mô, trả thù, thương tổn đều xảy ra quá tự nhiên. Chẳng qua là, bên bờ vực đó, tình yêu đã nảy mầm rồi. Cuối cùng khi chúng ta biệt ly tâm đã động, khắc ghi ở giữa tháng năm. Chúng ta thà cứ ôm lấy vết thương, cũng không muốn quên đi. Tình cũ của em, anh vĩnh viễn sẽ không biết được, em sẽ im lặng suốt đời, không dám nói ra, chỉ có yêu.***“Theo tin tức của các bên có liên quan, hai ngày trước khi vượt Ni Tát ở thành Ma Quỷ, nghiên cứu viên trẻ tuổi Đỗ Vi Ngôn của Viện Khoa học xã hội Trung Quốc(1) mất tích đến nay vẫn không rõ tung tích. Chính phủ đã điều động trực thăng để tìm kiếm ở tầng trời thấp trên diện rộng, còn trên mặt đất, điều động hơn mười chiếc xe việt dã, phạm vi tìm kiếm khoảng 4000 kilomet vuông. Trong đó khu vực chung quanh cách địa điểm xảy ra tai nạn khoảng 30 km được lấy làm trọng điểm tìm kiếm, tiến hành phân tách thành các mảng để rà soát. Nhưng cho tới bây giờ, vẫn không tìm thấy nhân viên mất tích ở bất cứ đâu.” Khi tin tức này phát trên ti vi, trời đang chạng vạng, thời điểm nhà nhà lên đèn. Trong viện nghiên cứu thông tin ngôn ngữ thành phố Thiên Doãn, tỉnh Lâm Tú còn có người chưa tan tầm. Nhân viên công tác trẻ tuổi Tiểu Lương tiếp nhận hết cuộc điện thoại này đến cuộc điện thoại khác, ngẩn người nhìn chuyên đề tin tức trên trang web, một lúc lâu sau, cô với tay tắt máy tính, lặng lẽ nghĩ: Vi Ngôn, cậu phải trở về. Trước đây nhiều khó khăn đến thế đều vượt qua được, ở đây còn có nhiều việc phải làm như vậy, cậu… sẽ không sao đâu. Tìm mua: Có Một Loại Yêu Ai Dám Nói TiKi Lazada Shopee Trong một khu dân cư phổ thông bình thường ở Minh Võ, thị xã phía nam thành phố Thiên Doãn, một bé trai vừa mới làm xong bài tập. Trước chiếc ti vi màu duy nhất trong nhà, ông nội ngồi thẳng mình xem vô cùng chăm chú. Trong TV xuất hiện một bức ảnh, rất quen thuộc…Trong chốc lát Trương Hiểu Hiểu có chút sững sờ, kéo tay ông nói: “Ông ơi, đây chẳng phải là… cô giáo Tiểu Đỗ sao?” Khi nhắc tới cái tên này, chẳng biết Trương Hiểu Hiểu nhớ đến điều gì, khuôn mặt nho nhỏ cau lại, “Cô… gặp chuyện không may ạ?” Ông cụ vẫn không lên tiếng, vẻ mặt phức tạp kéo tay cháu trai, chậm rãi nói: “Không có gì đâu. Cô giáo Tiểu Đỗ là người tốt… Cô ấy sẽ không sao cả.” Còn ở Châu Âu cách xa thiên sơn vạn thủy, vì lệch múi giờ, đang là đêm khuya. Trần Vũ Phồn ngồi thật lâu trong sân nhà, vẫn không nhịn được gọi điện thoại cho Giang Luật Văn: “Xem tin tức chưa?” Bên kia không nói gì, cộ lại tiếp tục hỏi một câu: “Thật sự… không có tin tức gì sao?” Giọng Giang Luật Văn dường như có chút mệt mỏi: “Anh ta đã đi sang bên đấy rồi, có thể tìm về hay không, hiện giờ không ai biết được…” Bất ngờ là Trần Vũ Phồn không nói gì cả, chỉ “Vâng” một tiếng. Cho dù là giờ phút này, cô vẫn không có thiện cảm với Đỗ Vi Ngôn. Nhưng cô hiếu kì, người đàn ông tưởng chừng không gì không làm được kia, rốt cuộc có thể tìm Đỗ Vi Ngôn về không? Trên máy bay đi Ni Tát ở phía tây bắc Lâm Tú, chàng trai trẻ tuổi vươn tay mở cửa che sáng của máy bay. Tay áo sơ mi của anh xắn đến khuỷu tay, cổ áo nới lỏng, trong nháy mắt ánh sáng chiếu vào, anh nhẹ nhàng khép mi, nhắm mắt lại, biểu cảm trên mặt trầm tĩnh như nước. Đây là lần thứ tư tiếp viên hàng không đi qua bên người anh, cũng là lần thứ tư anh gọi cô ta lại, thấp giọng hỏi giờ. Đứng trước người đàn ông trẻ tuổi khôi ngô thế này, tiếp viên hàng không hơi đỏ mặt, nhưng không mất bình tĩnh, dịu dàng nói: “Còn 40 phút nữa, máy bay sẽ hạ cánh.” Anh gật đầu nói lời cảm tạ. 40 phút… Còn có 40 phút, khoảng giữa anh và cô có thể gần thêm chút nữa, chí ít cũng có thể làm được điều gì đó, không phải vô vọng chờ đợi ngoài ngàn dặm xa. Thân máy bay nhẹ nhàng rung lên, thuận lợi hạ cánh. Anh đứng lên, môi mỏng nhếch thành một đường mỏng manh trông tựa lưỡi đao. “Hoan nghênh qúy khách lần sau tiếp tục ngồi hàng không XX…” Tiếp viên hàng không ở cửa tiễn đưa tươi cười ngọt ngào. Nhưng dường như anh không nghe thấy, lúc này, chắc chẳng có gì có thể thu hút sự chú ý của anh… Anh bước vội vàng, bóng dáng cao gầy rất nhanh biến mất trong màn đêm. Ni Tát, thành Ma Quỷ ở nơi tây bắc rộng lớn tràn ngập đủ loại tiếng động cơ gầm rú. Từ khi Đỗ Vi Ngôn mất tích đến nay đã hai ngày rồi. Dựa vào các báo cáo, trước ngày bắt đầu vượt qua Ni Tát tổ khảo sát ngôn ngữ của Viện Khoa học xã hội Trung Quốc cũng dự tính là sau bốn ngày sẽ tới một địa điểm khác của thành Ma Quỷ. Mục tiêu khoa khảo lần này, là khảo sát ngôn ngữ của một tộc người Tây Bắc xưa nay vẫn ẩn cư ở giáp ranh đại mạc. Nhưng ngay ngày thứ hai khi vừa mới tiến vào Ni Tát, trong một lần dừng xe nghỉ ngơi chỉnh đốn đội ngũ, nữ thành viên duy nhất trong tổ là Đỗ Vi Ngôn đi chụp ảnh một khu vực mang địa mạo rãnh máng (2), không may lạc mất đội ngũ. Đồng nghiệp đã xác nhận là cô không mang theo bất cứ đồ ăn nước uống nào. Điều này có nghĩa là, trong hoàn cảnh sinh tồn khắc nghiệt ở sa mạc, thời hạn sống còn sẽ không vượt qúa ba ngày. Công tác tìm kiếm đã tiến hành suốt một ngày. Trên tivi chiếu đến cảnh máy thăm dò kim loại trong tay nhân viên tìm kiếm vang lên, đào các lớp đất lên, cuối cùng phát hiện hóa ra chỉ là một cái lon vứt đi đã lâu. Khi được phóng viên phỏng vấn, chuyên gia vô cùng lo lắng nói: “Những mỏm đá lớn trong thành Ma Quỷ có cấu tạo và tính chất đất rất xốp, trải qua thời gian dài gió thổi nắng chiếu, có thể sập xuống bất cứ lúc nào. Chúng tôi lo lắng người mất tích bởi vì sức cùng lực kiệt mà tránh ở chỗ râm mát phía dưới những mỏm đá này nghỉ ngơi. Nếu như bị mỏm đá sụp đổ vùi lấp, thổ tầng có khả năng sâu đến 2-3 thước. Nếu đúng là như thế, đối với công tác tìm kiếm cứu trợ của chúng tôi, hy vọng cũng rất mong manh…” Nhân viên tìm kiếm đều từng xem tấm hình của Đỗ Vi Ngôn. Đó là bức ảnh tập thể chụp tất cả đội viên trước khi tiến vào Ni Tát ở thành Ma Quỷ. Cô đứng ở hàng trước, mỉm cười hướng về phía ống kính, núm đồng tiền thật sâu lộ ra trên gương mặt, quả là một cô gái trẻ tuổi xinh đẹp. Chính dáng vẻ này là nguyên nhân khiến cho tất cả mọi người có mặt ở đây càng nghĩ càng cảm thấy thương tiếc. Một lượt tìm kiếm cứu hộ trong khoảng thời gian này đặc biệt quan trọng - thời gian sống còn quý giá nhất sắp qua đi, nếu vẫn không thể tìm được, hy vọng sống sót của cô sẽ vô cùng thấp. Đội viên đội cứu viện bắt đầu đăng ký cử xe đi tìm kiếm cứu hộ lượt này. Nơi không xa, có một chiếc việt dã xe nâng nắp capô, chạy về hướng đông bắc. “Hướng đông bắc, dẫn đội là ai?” “Ở đây nhé, đánh số mười bốn.” Có người trung niên nâng tay, “Lập tức xuất phát.” Người nọ nghi hoặc nâng ngẩng đầu: “Ơ? Chiếc xe kia do ai điều khiển?” Đoàn người ngơ ngác nhìn nhau. Cho đến khi có người nói: “Ấy, người thân của Đỗ Vi Ngôn vừa rồi đuổi theo đâu?” Có người nhớ lại đó là một chàng trai tuổi còn trẻ, từ phía nam tỉnh Lâm Tú vội vã đuổi theo, nhảy xuống xe việt là xem xét bản đồ trong lều trại chỉ huy cứu viện luôn, sắc mặt u ám giống như mưa gió sắp đến. “Anh ta… sẽ không tự mình lái xe đi tìm chứ?” Có người lắp bắp nói, “Người dẫn anh ta đến đâu? Người đâu?” Trong thành Ma quỷ đầy những mỏm đá lớn hình thù kỳ quái, màu nâu vàng, bị ánh sáng mặt trời lúc hoàng hôn quét qua, lại mang một loại rỉ sắt màu đỏ. Đỗ Vi Ngôn biết rõ lúc này cô không thể nằm ở dưới những mỏm đá râm mát. Những tầng trầm tích chưa thành đá lẳng lặng đứng sừng sững này nhìn như vô hại, nhưng một khi sụp đổ, có lẽ chỉ cần trong nháy mắt. Cô cảm thấy môi mình đã rạn nứt, có một giọt máu ứa ra, trong nháy mắt đã bị nhiệt độ cao nơi sa mạc làm bốc hơi, chỉ kết thành lớp rất mỏng trên môi, còn hiện ra những vẩy máu tanh. Chẳng lẽ thật sự sẽ phải bỏ mạng ở chỗ này sao? Cô mệt mỏi nghĩ, khóe môi khe khẽ động, môi lại tiếp tục rách ra đau đớn. Cô chậm rãi ngồi xuống, cát sỏi dưới thân mình nóng bỏng đáng sợ, cách một lớp vật liệu may mặc, da thịt chính mình dường như bị nướng chín cả… Cô không hề hoài nghi rằng thật sự sẽ có người bị phơi nắng thành thịt khô ở nơi đây. Mà lúc này, còn sót lại một cọng rơm lót trên lưng lạc đà. Không, không phải là rơm. Là một con rắn thôi. Tạo hóa lúc nào cũng thần kỳ như thế, tại đây, trong hoàn cảnh tàn khốc này, cũng có loài động vật sinh mệnh ngoan cường sống sót, bất cứ lúc nào cũng có thể hướng về phía người quấy nhiễu nhe răng nanh ra. Nơi nó nằm cách chỗ chính mình hai ba thước, đầu rắn ngóc lên cao cao, lưỡi dài nhỏ giữa đầu rắn phun ra nuốt vào, giống như là một dụng cụ tinh vi. Đỗ Vi Ngôn nhớ lại những cách cấp cứu thường biết, cô muốn trấn tĩnh, cố gắng không di chuyển thân thể… Nhưng con rắn kia, hình như đang chậm rãi tới gần, thân hình hình chữ S để lại phía sau vết nước miếng trăng trắng nhờ nhờ. “Mạc Nhan… Thật xin lỗi…” Đỗ Vi Ngôn dời tầm mắt khỏi thân mình con rắn kia, chuyển qua vầng dương như bánh xe vĩnh viễn không bao giờ hạ xuống, lòng thầm nói, “Thật xin lỗi, anh đã đợi lâu như vậy, nhưng có lẽ sẽ khiến anh thất vọng…” Đây là khoảnh khắc trước khi sinh mệnh sắp kết thúc chăng. Rất nhiều chuyện không thể ngăn lại từ trong đầu hiện ra, cố chấp của anh, trốn tránh của cô, vận mệnh chung của họ… Giờ đây cô không phải lựa chọn nữa rồi, như thế cũng tốt lắm. *Chú: (1) Chinese Academy of Social Sciences (CASS) (2) Yardang landform (formed by wind erosion).Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Vô Xứ Khả Đào":Có Một Loại Yêu Ai Dám NóiGió Nghiêng Mưa Nhẹ Chẳng Nên VềMột Giây Rung Động Cả Đời Không QuênNgự Phồn HoaTrở Về Nơi Tình Yêu Bắt ĐầuĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Có Một Loại Yêu Ai Dám Nói PDF của tác giả Vô Xứ Khả Đào nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Cọ Hoang (William Faulkner)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cọ Hoang PDF của tác giả William Faulkner nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.