Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nói Vậy Mà Không Phải Vậy - Robert J. Samuelson

John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học và nhà văn, đã dùng cụm từ “quan niệm phổ biến”[1] (conventional wisdom) từ cách đây hơn bốn thập kỷ, trong cuốn sách bán chạy nhất của ông năm 1958 với tựa đề Xã hội Thịnh vượng (The Affluent Society). Theo định nghĩa của Galbraith thì các quan niệm phổ biến là tập hợp các niềm tin của đại bộ phận con người về một đề tài hay chủ thể nhất định. Những niềm tin đó không nhất thiết phải là đúng đắn, mà chỉ đơn giản là chúng được hiểu rộng rãi và được tôn trọng. Từ đó, cụm từ này dần dần xâm nhập vào ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày, và khi ý nghĩa ban đầu của Galbraith vẫn tồn tại thì nó đã khơi gợi cảm hứng cho những biến thể hiện đại khác của khái niệm trên. “Quan niệm phổ biến” của Galbraith là đồng nhất, vững chắc và lan tỏa rộng khắp, còn các phiên bản sau này lại cho rằng chúng là những điều hợp xu thế, hợp thời trang một cách khôn ngoan. Nhưng cho dù cũ hay mới thì quan niệm phổ biến (như Galbraith đề cập đến) lại thường là điều sai. Đôi khi quan niệm phổ biến còn đối lập với sự thật. Nó thường là sự sắp đặt các dữ kiện và nhận thức một cách nghệ thuật và có chọn lọc, để cho thấy một chân lý đáng tin cậy - mặc dù đó là sự dối trá. Nhưng các quan niệm phổ biến tồn tại được, bởi vì nó kể lại một câu chuyện khá hấp dẫn, xét theo một mức độ nhất định nào đó. Quan niệm phổ biến có được sức mạnh là nhờ vào khả năng đáp ứng được nhu cầu tâm lý hoặc chính trị. Sau đó hành vi của chúng ta lại giúp củng cố niềm tin. Chúng ta sẽ nhìn thấy những gì mình muốn thấy, sẽ nghe được những điều mình muốn nghe. Chúng ta tìm kiếm những người có uy tín để được lặp lại và củng cố lại các niềm tin và thành kiến của mình. Galbraith đã viết: “trong một chừng mực nào đó thì sự gắn kết của quan niệm phổ biến là một nghi thức tôn giáo, đó là hành động để xác nhận lại, như đọc Kinh Thánh hay đi lễ nhà thờ”. Sớm muộn gì thì quan niệm phổ biến cũng sẽ phải thay đổi hoặc sụp đổ. Nhưng các yếu tố phá hủy nó lại hiếm khi là các phân tích logic hay sự thuyết phục. Đó thường là các tình huống hoặc tác động của các sự kiện thực tế. Với bản chất của mình, quan niệm phổ biến sẽ “phòng vệ” bằng các ngôn từ hoặc lập luận. Người ta không muốn tỉnh ngộ từ các ý tưởng quen thuộc, vị kỷ, và làm vừa lòng họ. Người ta có xu hướng triệt tiêu sự hoài nghi, loại bỏ những bất đồng khó chịu hoặc chối bỏ sự mâu thuẫn. Những gì có thể làm thay đổi tâm trí con người thường là các trải nghiệm rõ ràng không thể phủ nhận và đôi khi khắc nghiệt, sau đó thường thì quan niệm phổ biến bị sụp đổ. Nhưng đây không phải là lý do dễ chấp nhận. Tôi trực tiếp biết điều này. Năm 1969, tôi là phóng viên của một tờ báo. Sự hấp dẫn chủ yếu của công việc này (ngoài việc được nhìn thấy cái tên của mình in trên báo chí) là các cơ hội học hỏi các điều mới mẻ và giải thích các khám phá này trước độc giả. Đó là cái cớ để đặt câu hỏi, thường là không giới hạn, đối với các công dân bình thường. Cái cần được tìm kiếm luôn luôn là “sự thật”, mặc dù “sự thật” đúng nghĩa - thường là rất phức tạp, không rõ ràng và gây nhiều tranh cãi - là khó hoặc không thể xác định được. Khi tôi trở thành người phụ trách một chuyên mục (columnist) của báo năm 1976, mục tiêu vẫn không đổi: đó là chuyển tải các hiểu biết đầy đủ hơn về một vấn đề hay hiện tượng nào đó. Càng làm việc này thì tôi càng “đụng đầu” với các quan niệm phổ biến, bởi vì đó là nơi mà nội dung bài viết dẫn tới. Các bài bình luận của tôi ngày càng đặt câu hỏi hoài nghi hoặc bác bỏ các quan niệm phổ biến. Một số bài bình luận của tôi đã được thu thập lại và trình bày trong cuốn sách này. Tôi không viết bất cứ điều gì để kết tội quan niệm phổ biến. Một số người có xu hướng “chạy theo thời thượng” mới nổi đã quay lại cáo buộc những điều đáng được lãng quên, chỉ vì các sự kiện đó đã làm họ mất uy tín. Vào những năm giữa thập niên 80, đã có những cảnh báo về việc “quá trình suy thoái công nghiệp của Hoa Kỳ” (deindustrialization) khiến chúng ta trở thành một đất nước mà tại đó những người làm hamburger và thợ giặt ủi được trả mức lương thấp (xem “Chúng ta không phải là đất nước của các tiệm giặt ủi”); khái niệm này đã không thể tồn tại sau sự bùng nổ kinh tế trong thập niên 90. Và cũng không có chuyện Nhật Bản sẽ qua mặt chúng ta về mặt kinh tế khi đất nước này vượt qua được sự đình trệ trong thập niên 90. Nhưng những hoài nghi vẫn tiếp diễn, có vẻ như không thay đổi chút nào trước những bằng chứng và lập luận logic bất lợi. Chúng ta được nghe rằng các nhóm lợi ích giàu có và bảo thủ đang thống trị Washington, nhưng thực tế không phải như vậy (xem “Các nhà môi giới quyền lực âm thầm”). Mới gần đây, internet đã được quảng bá là một trong những thành tựu công nghệ vĩ đại nhất từ sau khi ngành in ấn ra đời, sự so sánh này làm tổn thương lịch sử (xem “Internet và Gutenberg”). Đương nhiên, không phải tất cả các quan niệm phổ biến đều sai. Nếu tất cả chúng đều là sai thì xã hội đã tan rã. Những sai lầm của từng ngày, phát xuất từ các ý tưởng sai, sẽ nhân rộng ra và làm cho sự hỗn loạn lan tràn. Nhưng chúng ta không cưỡng lại được các xu hướng mơ hồ. Tại sao vậy? Galbraith đưa ra vài manh mối. Theo cách này hay cách khác, ông chỉ đơn giản là dán lên cái nhãn mới cho thứ đã xưa cũ: tính ỳ của lòng tin. Người ta bám chặt lấy những gì họ đã biết và những gì làm họ cảm thấy thoải mái. Galbraith đã quy cho hiện tượng này là việc không thích quá nhiều cái mới. Mà không chỉ có vậy. Đó là sự nhượng bộ thực dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta liên tục xem xét lại các niềm tin và giả định, chúng ta sẽ đờ đẫn ra vì do dự. Chúng ta sẽ thường xuyên trầm tư và chần chừ không quyết. Nhưng trong văn hóa truyền thông hiện đại, quan niệm phổ biến không còn là những gì như trước đây - và khi đó nó đặt nền móng cho những sai lầm. Theo Galbraith, quan niệm phổ biến bao gồm các ý tưởng cổ điển. Nó giống như rượu vang để lâu ngày. Nó có danh tiếng thông qua việc được vô số các nhân vật có uy tín nhắc đi nhắc lại liên tục qua nhiều năm. Giống như rượu vang, quan niệm phổ biến cũng có thể bị hỏng. Với các sự kiện hoặc các kiến thức mới, quan niệm phổ biến cũng có thể chỉ còn là chuyện đã qua hoặc lý thuyết lỗi thời. Ngược lại, quan niệm phổ biến ngày nay lại thường xuất hiện từ vô định. Các lý thuyết - hầu hết là bàn về các chủ đề mà gần như tất cả mọi người chưa nghĩ đến hay người ta chỉ có chút ít quan điểm rõ ràng - bất ngờ mang tính thời sự và được chấp nhận. Các lý thuyết này không chín muồi theo cách phù hợp, mà được “đóng gói” nhanh chóng, quảng cáo rầm rộ và “bán” một cách quyết liệt. Quan niệm phổ biến đã ít tự nhiên hơn và chứa đựng nhiều toan tính hơn so với trước kia. Nó ngày càng trở thành hoạt động buôn bán có tính trí tuệ hoặc chính trị. Tôi cho rằng điều này giúp giải thích tại sao đa phần quan niệm phổ biến đã trở nên hời hợt, nhầm lẫn và ngu xuẩn. Các ý tưởng là tay sai cho tham vọng của con người, các nhóm lợi ích hoặc các chương trình của giới chính trị hay trí thức. Nó không phát xuất từ những nỗ lực vô tư để khám phá sự thật. Nó là sự vận dụng của kinh doanh và phải gánh chịu mọi sự thái quá của kinh doanh. Người ta nhấn mạnh đến những gì làm nên hoàn cảnh của họ, và bỏ qua hoặc tối thiểu hóa những gì “không dính dáng”. Các tuyên bố là quá lời. Sự kiện được chọn lọc. Việc thẩm định bị phớt lờ hoặc không rõ ràng. Chính trị ảnh hưởng nhiều đến việc này. Nói đến chính trị, tôi không có ý nói riêng về hay tập trung phần lớn vào Đảng Dân chủ hay Cộng hòa, đến khuynh hướng tự do cấp tiến hay bảo thủ. Hình thái chính trị đang thắng thế ngày nay là cái mà tôi gọi là “chính trị giải quyết vấn đề”. Mọi khiếm khuyết trong xã hội, bằng cách nào đó, cần được chuyển đổi thành một “vấn đề” cụ thể, và sau đó có thể được “giải quyết”, thường là do chính quyền, còn nếu không là được giải quyết bởi “thị trường” hoặc một ai khác, một thứ gì khác. Nói chung người Mỹ lạc quan và thực dụng, rất sùng bái sự tiên tiến. Chúng ta gắn bó với ý tưởng cho rằng các vấn đề đều có thể được giải quyết - và từ đó sự không hoàn hảo được giảm đi. Tocqueville cho rằng, người Mỹ tin vào “sự hoàn thiện không giới hạn của con người”. Chúng ta phản đối ý niệm cho rằng một số thiếu sót chỉ đơn giản là những mảng bình thường của cuộc sống. Sau nữa, đây cũng không phải là một lực đẩy mới. Nhưng trong thời đại của chúng ta thì quan niệm phổ biến đã được nhắc đến nhiều hơn. Nó liên tục được nuôi dưỡng bởi các nhóm chủ trương biện hộ, các nhà chính trị doanh nhân (entrepreneurial politicians) - là các ứng viên hoặc viên chức văn phòng không thể dựa vào một bộ máy đảng phái mạnh tại trung ương để tiến lên phía trước, mà ngày càng phải tự thân vận động - và các trí thức lớn, của cả hai cánh Tả và Hữu. Tất cả họ đều rao giảng cho công chúng về tất cả mọi thứ, từ chính sách của chính phủ đến việc phổ biến văn hóa. Chúng ta được dẫn dắt để tin rằng hầu hết các vấn đề xã hội và kinh tế đều có thể được giải quyết và mong muốn của người dân là có thể được xoa dịu hay đáp ứng. Với những vấn đề được tìm ra để giải quyết, những nhóm chủ trương biện hộ, các chính trị gia, và các vị thương nhân kinh doanh ý tưởng khác nhau đã tự khẳng định mình. Họ thiết lập sự nhận biết, nâng cao tầm nhìn của họ, và kết nối các cử tri hoặc khán giả. Sự chủ trương biện hộ hòa lẫn với tự quảng cáo. Sản phẩm mà quá trình này tạo ra là sự thổi phồng bất tận. Một vấn đề không thể đơn giản là quá khiêm tốn, bất tiện, khó tránh khỏi, hoặc khó giải quyết. Vấn đề phải là chuyện lớn, nghiêm trọng, nguy hiểm, và bức xúc - và có thể giải quyết được. Vì vậy, các vấn đề được cường điệu hóa lên về mặt quy mô và mức độ nghiêm trọng, theo đó sức mạnh của các giải pháp đề xuất cũng được thổi phồng lên theo. Việc tìm kiếm các khoản đóng góp cá nhân để tài trợ cho chiến dịch chính trị không thể đơn giản chỉ mang tính tự hạ thấp mình và không “sạch”; nó phải khuấy động được những nền móng cho dân chủ - và có thể thu hồi được từ “chiến dịch cải cách tài chính” (xem “Cái Giá của Chính trị”). Chăm sóc sức khỏe được quản lý (managed care) không thể chỉ đơn giản là một phương pháp mới và chưa hoàn hảo để cung cấp các dịch vụ y tế; nó phải là một cuộc tổng công kích không thương xót dành cho sự tích hợp của y học hiện đại và khôi phục được từ “cải cách y tế” (xem “Chuyện hoang đường về “con quái vật” Chăm sóc sức khỏe được quản lý”). Trong những năm 1990, việc các thành viên Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế trong Quốc hội không thể chỉ đơn giản là sự thay đổi trong quyền lực chính trị để có thể sửa đổi đường lối và bầu không khí chính trị của đất nước. Nó phải là một “cuộc cách mạng” toàn diện làm thay đổi chính trị và cuộc sống như chúng ta đã biết (xem “Họ gọi đây là một cuộc cách mạng?”). Đến một mức độ nhất định, sự biện hộ đòi hỏi việc tranh luận phải trở thành các bài học đạo đức: người tốt (hoặc các ý tưởng tốt) đối lập với cái xấu. Người anh hùng và kẻ xấu xa cùng tạo nên “sức nặng” (throw-weight) của trí tuệ và chính trị để cho chương trình nghị sự được nâng cao, đầy hoài nghi, và có các đối thủ công kích nhau. Ở Hoa Kỳ, loại vận động này tìm thấy một đối tượng khán giả sẵn lòng. Vượt trên sự lạc quan - một niềm tin rằng những gì bị hỏng có thể được sửa chữa - là di sản mang tính nhiệm vụ của chúng ta. Người Mỹ luôn luôn tưởng tượng mình là một ngoại lệ đặc biệt và đúng đắn, nhất quyết cải tiến nhân loại với việc tấn công vào thành trì của sự ngu dốt, quyền lực thối nát hay điều ác. Những đặc tính này của dân tộc là rất tuyệt vời. Chúng thường làm chúng ta chìm vào sự ngây thơ ngấm ngầm rằng: nếu chỉ vì cái gì đó chưa được thực hiện trước đây thì không có nghĩa là điều đó không thể được thực hiện. Những niềm tin vào sự tiến bộ có thể tạo ra tiến bộ và thường xuyên là như vậy. Tuy nhiên, một số đức tính tốt của dân tộc, khi để vượt quá mức hợp lý, cũng trở thành thói xấu (xem “Các vết đen trong đạo đức của chúng ta”). Chính trị “Giải quyết vấn đề” là một trong những loại hỗn hợp khó chịu của sự thành công và thất bại. Khi thất bại, nó dẫn đến một thứ quan niệm phổ biến với đầy rẫy các điều giản đơn và ngớ ngẩn, trong khi vẫn gợi cảm hứng cho các “giải pháp” mà đôi khi có hại nhiều hơn là có lợi. Vấn đề của dịch vụ chăm sóc sức khỏe không phải là “được quản lý”, mà là mâu thuẫn trong nhu cầu của công chúng: chúng ta muốn bảo hiểm y tế toàn diện (universal health insurance), tuyệt đối tự chủ cho các bệnh nhân và bác sĩ trong quá trình điều trị và kiểm soát được chi phí y tế. Không có chế độ nào có thể đồng thời đáp ứng các nhu cầu không nhất quán này. (Nếu tất cả mọi người đã bảo hiểm cho tất cả mọi thứ, và bác sĩ hay bệnh nhân đều có thể yêu cầu bất cứ gì họ muốn - thì chi phí sẽ không thể kiểm soát được.) Vấn đề với “chiến dịch cải cách tài chính” là: nếu sử dụng kết luận logic của nó thì tự do ngôn luận chính trị sẽ bị bịt miệng. Điều phiền toái là truyền thông hiện đại (qua truyền hình, quảng cáo, gửi thư hàng loạt) đều cần tiền. Nếu truyền thông không phải là vấn đề ngôn luận, thì là cái gì? Và nếu mọi người không thể chi tiền để biện hộ cho các quan điểm chính trị và hỗ trợ các ứng cử viên chính trị mà họ tán thành, thì họ “tự do” như thế nào? Nghệ thuật biện hộ có hiệu quả để khỏa lấp các hoài nghi sẽ làm hỏng các thông điệp đạo đức. Vấn đề sẽ không còn đơn giản như vậy nữa, giải pháp không còn rõ ràng như vậy nữa. Xung đột giữa các mục tiêu mong muốn được tối thiểu hóa, và giới hạn thực tế của các giải pháp đề xuất cũng vậy. Chúng ta, những người trong báo giới, hỗ trợ cho sự lẩn tránh - và đôi khi còn xúi giục nó. Là người Mỹ, chúng ta chia sẻ tính nhạy cảm trong việc giải quyết vấn đề. Ngoài ra, chúng ta cũng có lợi ích riêng. Chúng ta cần thu hút và giữ được độc giả. Cả bản năng và lợi ích của chúng ta đều được đặt trong việc nghiên cứu các mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta thường hào hứng tham gia vào các cuộc vận động đạo đức hay chính trị. Đó là câu chuyện hay và thu hút các khách hàng của chúng ta. Mặc dù đó là sự thật từ lâu nay, nhưng thực tế cạnh tranh mới đã thổi phồng các hiệu ứng. Chỉ cách đây một vài thập kỷ, trong những năm của thập niên 1960 - phương tiện truyền thông tin tức quốc gia mới chỉ gồm một nhóm nhỏ và ổn định với các tổ chức: 3 mạng lưới truyền hình (ABC, CBS, và NBC); 3 tạp chí (Time, Newsweek, và Thông cáo Tin tức & Thế giới của Hoa Kỳ), một số báo chí quốc gia có tầm cỡ (Thời báo New York, The Wall Street Journal, Bưu điện Washington) trong đó chỉ có một tờ có phạm vi phát hành toàn quốc (tờ Journal) và một vài dịch vụ thông tin chính yếu (Hiệp hội báo chí (Associated Press), Liên đoàn báo chí quốc tế (United Press International). Điều này cho phép các chuyên gia tin tức - các nhà biên tập, các nhà báo - có quyền quyết định những gì là “tin tức” và những gì không phải là “tin tức”. Phán xét của họ rõ ràng là có thể sai lầm và không được “miễn nhiễm” với xu thế chính trị đang thống trị hay xu hướng của giới trí thức. Nhưng các phán xét phần lớn cũng chỉ là phán xét của riêng giới đưa tin mà thôi. Với lượng độc giả ổn định, áp lực thương mại buộc sử dụng tin tức để thu hút người đọc và người xem thời đó là chưa nhiều. Tình hình hiện nay là hoàn toàn khác. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông thật ấn tượng: đã có các kênh truyền hình cáp (MTV, ESPN, CNN, C-span); có một mạng lưới truyền hình chủ chốt khác (Fox); thêm hai tờ báo quốc gia (tờ Hoa Kỳ Ngày Nay và Thời báo New York); Internet và vô số các trang web với các tin tức, thông tin tài chính, y tế, khiêu dâm và nhiều nhiều nữa. Không ai còn có thể giữ vững lượng khán giả của mình. Khi các mạng lưới truyền thông còn kiểm soát được các kênh truyền hình, người xem phải theo dõi các chương trình tin tức ban đêm (thường là được ấn định cùng thời điểm) - hoặc không có gì khác để xem. Bây giờ họ có thể bấm nút để xem chương trình nấu ăn, thể thao, hoạt hình, phim truyện, câu chuyện du lịch, mua sắm cho gia đình. Hoặc họ có thể lướt net. Lượng khán giả của mạng tin tức ban đêm sụt giảm nhanh. Độc giả của báo chí cũng giảm, tuy chậm hơn nhưng nói chung là đã giảm. Kết quả là những người kinh doanh tin tức đã mất quyền lực trong việc xác định những gì là tin tức và những gì không phải là tin tức. Ngày càng nhiều, người đọc và người xem mới là những người xác định đâu là tin tức, với việc thu nhặt và chọn lọc những gì họ muốn, hoặc quyết định rằng họ không cần tin tức nữa. Điều này làm tăng thêm yêu cầu đối với người biên tập và các phóng viên báo phải làm sao để cho các tin tức phổ biến hơn và hấp dẫn hơn. Hiện đã có sự nhập nhèm giữa tin tức và giải trí, khi các giá trị của truyền hình đã lan tràn trong tất cả các phương tiện truyền thông. Để lôi kéo khán giả, bài bình luận phải trở nên “cao giọng” hơn. Chương trình “Bắn chéo” (CrossFire)[2] của kênh CNN là người đi đầu: chính trị tương đương như thi đấu vật chuyên nghiệp. Sự độc lập trong công tác biên tập đã bị thu hẹp lại. Biên tập viên vẫn được quyết định những gì sẽ được in hoặc được xem, nhưng nếu những gì họ làm là không thành công trên không gian thị trường, họ sẽ bị thay thế. Các nhà phê bình trong lĩnh vực truyền thông đại chúng thường xuyên than phiền rằng sự thống trị của một vài doanh nghiệp lớn đã hạ thấp các giá trị của thông tin xuống mức chỉ còn là lợi nhuận. Tình trạng này, trong nhiều khía cạnh, lại là ngược lại. Cạnh tranh mạnh hơn đã tấn công vào sự tự chủ trong biên tập. Càng có nhiều gã khổng lồ trong ngành truyền thông thì các giá trị của tin tức lại càng trở nên khó khăn hơn. Khi một vài công ty lớn thống trị thị trường (ba mạng lưới truyền hình là ví dụ rõ ràng), họ có thể chấp nhận sự độc lập cao hơn từ các phòng ban tin tức, chính xác là vì tổng lợi nhuận là con số chắc chắn và có thể dự đoán được. Ngược lại, số lượng các “đại gia truyền thông” ngày nay là rất nhiều và họ cũng ít được an toàn hơn trước. Sự cạnh tranh khốc liệt để giành lấy khách hàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thành công trong thương mại và xói mòn các giá trị thuần túy của việc biên tập. Đến một mức độ nhất định thì tin tức đã được dân chủ hóa. Nó ngày càng được tung ra theo mệnh lệnh của thị trường. Điều này tạo thuận lợi cho một phong cách biên tập, theo đó nhấn mạnh vào các câu chuyện đạo đức của các đấng anh hùng và những kẻ vô lại, rồi rút ra những xung đột một cách sâu sắc - về bất cứ điều gì để tạo ra một “tin đồn”. Những gì mà tôi muốn đề xuất là: cách thức mà chúng ta, ở đây được hiểu như một xã hội, tổ chức và trình bày thông tin - một cách có hệ thống và hầu như dự đoán được từ trước - ngày càng dẫn đến sự sai lạc. Truyền thông không chắc chắn và những người thực hành chính trị “giải quyết vấn đề” (các chính trị gia, các nhóm biện hộ, “những cái đầu hiểu biết”) đã “kết hôn” với sự dễ dãi. Họ cùng nhau khai thác để đạt được mục tiêu hẹp: có được sự nổi tiếng hoặc khét tiếng, thúc đẩy một chương trình nghị sự của giới chính trị hay trí thức, nắm bắt được khán giả và thị phần. Kết quả là chúng ta bị oanh tạc bởi các luồng vấn đề miên man không dứt (một số vấn đề xã hội, một số căng thẳng trong vấn đề con người - ma túy, bệnh tật, lạm dụng trong hôn nhân gia đình, stress) và các giải pháp đi kèm. Nhiều vấn đề trong số đó là có thật, một số các giải pháp có thể thực sự có ích. Nhưng có sự cường điệu thổi phồng trong cả hai nội dung: vấn đề và giải pháp, bởi vì đó là những thứ thu hút sự chú ý. Tôi gọi quá trình này là “cái sai”. Đó là sự xuyên tạc thực tế nói chung, tuy nhiên không phải là kết quả của sự dối trá cố tình. Đúng hơn thì đó là sản phẩm bình thường của chính trị và truyền thông dân chủ của chúng ta. Điều đó xảy ra, khi chúng ta tìm hiểu và tranh luận các vấn đề có ảnh hưởng đến cả tập thể. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ không phải là chính chúng ta nữa. Nhìn chung, tiến trình này là lành mạnh. Nhưng quá trình này sẽ trở thành không lành mạnh khi nó đơn giản hoá quan điểm của chúng ta về sự thật và lãng mạn hóa sức mạnh của chúng ta khi thay đổi sự thật đó. Đối với tôi, sự đơn giản hóa và cường điệu hóa nhằm phục vụ lợi ích bản thân là một cánh đồng phì nhiêu cho các báo cáo và bình luận. Chúng cầu mong để được trở nên tinh vi và xác thực. Tôi đã cố gắng để cung cấp được một bối cảnh: để cho mọi người có bức tranh vô tư và đầy đủ về thế giới của chúng. Kết luận của tôi là: quan niệm phổ biến (thường) là sai, vì nó là phương tiện cho một số chương trình chính trị hay tham vọng cá nhân. Trong thực tế, tôi không tin rằng có bất kỳ một nhóm chính trị, kinh tế, xã hội, hoặc một nhóm ý thức hệ nào lại có “độc quyền” về cái sai. Bạn có thể nhìn thấy một cơ chế tương tự cũng hoạt động như vậy trên khắp các quang phổ chính trị và trên tập hợp các mối quan tâm và yêu cầu của xã hội. Những người bảo thủ có xu hướng ca ngợi “thị trường”, ngay cả khi thị trường rõ ràng phạm sai lầm (xem “Sự sáp nhập kỳ lạ”). Những người tự do cấp tiến có xu hướng nói quá lời trước những ảnh hưởng dần dần về sau của sự bất bình đẳng trong thu nhập (xem “Không phải là các hộ gia đình điển hình”). Các chuyên gia môi trường bàn về việc hủy diệt hành tinh trong bối cảnh của “ngày tận thế” (xem “Bạn đừng lo lắng”). Một lần nữa, những vấn đề thường là có thực, nhưng chúng cần phải được trình bày trong những điều kiện khắc nghiệt nhất để khơi dậy sự quan tâm hay củng cố cho giải pháp đề xuất. Mặc dù các kỹ thuật đã phổ biến rộng rãi, vẫn có xu hướng nghiêng về các loại “sai lầm” nổi trội nhất: đó là những cái sai “cấp tiến” (liberal untruths). Lý do chính yếu là tầng lớp “viết nguệch ngoạc và nói huyên thuyên” - các nhà báo, biên tập viên, các nhà nghiên cứu học thuật, các nhà bình luận - có xu hướng tự do cấp tiến nhiều hơn là bảo thủ. Rất nhiều các cuộc điều tra đã xác nhận điều này trên báo chí. Năm 1992, gần 90% các nhà báo của Washington ủng hộ Bill Clinton, theo kết quả một trong những cuộc thăm dò ý kiến. Nhưng trên phạm vi quốc gia, lượng phiếu phổ thông dành cho Clinton chỉ là 43%. Một cuộc khảo sát trong giới học thuật (dành cho các giáo sư tại các trường cao đẳng và đại học hệ 2 năm và 4 năm) được xuất bản trong cuốn Giáo dục cấp cao Ký sự (Chronicle of Higher Education) cho thấy: 5,2% cho rằng mình “cực tả”; 39,6% “tự do cấp tiến”; 37,2% “trung lập” (không tả mà cũng không hữu); 17,6% “bảo thủ”; và 0,4% “cực hữu”. Kết quả không phải là một liên minh có ý thức giữa báo chí và nhóm ủng hộ tự do cấp tiến và nhóm chính trị gia Dân chủ. Hầu hết các nhà báo và nhà biên tập (ít nhất là của báo chí, tạp chí tin tức, và kênh truyền hình chính thống, mặc dù rõ ràng không thuộc các tạp chí hoặc chương trình truyền hình chuyên bày tỏ quan điểm) đều tán thành ý kiến cho rằng họ nên khách quan và trung lập. Họ hào hứng đăng tải các scandal liên quan đến những người tự do cấp tiến cũng như bảo thủ. Họ biết rằng hầu hết các chính trị gia và những người theo một phe phái nào đó đều cố gắng “thêu dệt” nên các câu chuyện. Một số nhà báo tự xem mình như là nền tảng thụ động để người khác tuyên truyền. Tất cả chúng ta đều biết rằng mọi người có xu hướng để cho các “nguồn” khác sử dụng. Phần lớn những gì báo chí thực hiện lại không đả động gì nhiều đến các nhà chính trị hay các phe phái. Chúng ta chỉ đơn giản là kể lại một “câu chuyện hay”, hoặc đóng vai trò truyền thống là “giám sát” chính phủ, các cơ quan và các tập đoàn. Xu hướng này còn tinh tế hơn. Những câu chuyện do các chính trị gia tự do cấp tiến và các “chuyên gia” các loại (nhà kinh tế, nhà khoa học, bác sĩ, nhà khoa học xã hội, nhà giáo) kể lại đã tìm thấy những người nghe đồng cảm nhiều hơn là những câu chuyện kể của những người bảo thủ. Các anh hùng và tên vô lại của phe tự do cấp tiến, các giá trị và niềm tin của họ tương ứng sát sao hơn với các triết lý và thành kiến của nhà báo và nhà biên tập. Những gì đến từ các nguồn tự do cấp tiến có vẻ như đáng tin cậy hơn và xác đáng hơn. Nó phù hợp với các ý niệm về xung đột xã hội và theo đuổi một xã hội tốt. (Họ cho rằng) Đây không phải là thành kiến. Đó là thực tế. Thông thường họ không thể tưởng tượng các sự vật theo cách nào khác. Ngược lại, những người bảo thủ - hoặc người không thuộc nhóm tự do cấp tiến -thường được xem là người biện hộ cho các doanh nghiệp và người giàu có. Hoặc họ bị bêu riếu là những người nhẫn tâm và kỳ quặc. Các giá trị của riêng tôi là khá chính đáng (tôi tin là vậy), mặc dù những người khác có dán lên cái nhãn là quá bảo thủ hoặc - ít khi hơn - là quá tự do cấp tiến. Tôi tin rằng Chính quyền trung ương nhìn chung là đem lại các lợi ích cho quốc gia, nhưng tôi cũng nghĩ rằng việc mở rộng chính phủ sẽ đem lại nhiều vấn đề khó khăn mang tính thực tiễn và tạo điều kiện cho sự lạm quyền. Người ta có thể trở nên quá phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Thuế có thể tăng quá cao và ảnh hưởng đến sức khỏe kinh tế hoặc tự do cá nhân. Mặc dù khó có thể xác định được các giới hạn nhưng chúng thực sự tồn tại. Tương tự như vậy, tôi đặt nhiều niềm tin vào các “thị trường” - sự tự do để xác định những gì mà chúng ta cần sản xuất, giá cả của chúng, cách thức chúng ta tiết kiệm và đầu tư, và nơi chúng ta làm việc - nhưng tôi không tin rằng các thị trường là cái hiểu-biết-hết-mọi-thứ hoặc hoàn hảo. Các thị trường cũng có sai lầm và cần sự giám sát và điều tiết của chính phủ. Thường thì có ranh giới mỏng manh giữa mức độ quá ít và quá nhiều của công việc này. Sau cùng, tôi tin vào những gì đôi khi bị chế nhạo là “những giá trị truyền thống gia đình”: tình yêu cha mẹ và kỷ luật của cha mẹ, nếu có thể. Với sự may mắn, các bậc cha mẹ có thể giúp con cái của họ lớn khôn và thành những người lớn có trách nhiệm và tự lập. Cha mẹ đem lại tình yêu, các bài học nhỏ về cuộc sống hàng ngày, và những kiến thức cần có. Từ thử thách này mà một cá nhân có thể có năng lực và sự tự tin. Mặc dù việc nuôi dạy con cái là một việc phức tạp - và không có sự đảm bảo cho thành công - các tổ chức của chính phủ và xã hội không thể dễ dàng thay thế cho các bậc cha mẹ đầy tình thương yêu và đủ khả năng (xem “Thứ mà tiền không thể mua được”). Tôi đã có vợ và ba đứa con, hiện chúng ở độ tuổi từ mười đến mười lăm. Đó là những phần quan trọng nhất của đời tôi. Các nhà báo, những người phụ trách chuyên mục là “con lai” (tôi tin là như vậy). Quan điểm của tôi cho rằng họ không phải là nhà báo thuần túy, cũng không phải là người biện hộ thuần túy. Họ là sự kết hợp của cả hai. Họ pha trộn quan điểm và tình cảm trong bài báo của mình. Mối nguy hiểm lớn nhất - hậu quả của việc quá ấn tượng với tầm quan trọng của riêng mình - là trở thành kẻ “nhai lại chính mình” (self-parody): một người có quan điểm và phong cách có thể được dự đoán trước, và có thể bị bắt chước theo một cách dễ dàng. Sự nguy hiểm của riêng tôi là, từ việc liên tục thách thức quan niệm phổ biến, tôi trở thành người hoài nghi chính mình (reflexively skeptical) trước bất kỳ quan điểm nào của đám đông hoặc thường xuyên phê phán bất cứ điều gì là mới hoặc khác biệt. Tôi nhận thức được sự nguy hiểm, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể vượt lên trên nó. Đa phần trong nghề báo chí, những gì chúng tôi viết ra thường là vào thời hạn chót. Các đánh giá phải được thực hiện một cách nhanh chóng. Chúng thường sai. Tôi nghi ngờ việc liệu có hay không những người phụ trách chuyên mục lớn mà lại không lúng túng vì một số bài viết của mình trong quá khứ. Nếu có những người này thì tôi không nằm trong số đó. Lẽ ra tôi có thể đưa vào cuốn sách này những sai lầm ngớ ngẩn của riêng tôi. Một trong những bài viết yêu thích nhất của tôi đã đặt ra khái niệm về “công nghệ trì hoãn” - đối lập với công nghệ tiên tiến, chúng là các công nghệ mới tạo ra những phương pháp cồng kềnh và đắt tiền để thực hiện các công việc đã được làm một cách đơn giản và không mấy tốn kém trước đây. Một ví dụ là sách điện tử, đối với tôi thì đây đã từng là một ý tưởng tồi, trong khi dùng sách giấy là quá thuận lợi. Sau khi suy xét, tôi đã quyết định không đưa vào đây bài viết này. Robert J. Samuelson Ngày 26, tháng 9 năm 2000 Washington, D.C.I Mời các bạn đón đọc Nói Vậy Mà Không Phải Vậy của tác giả Robert J. Samuelson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

PLATFORM Cuộc Cách Mạng Nền Tảng
Tóm tắt & Review (Đánh giá) sách PLATFORM Cuộc Cách Mạng Nền Tảng của tác giả Geoffrey G. Parker & Marshall W. Van Alstyne & Sangeet Paul Choudary & Huỳnh Hữu Tài (dịch): Cuốn sách Cuộc cách mạng nền tảng là sự nỗ lực của chúng tôi nhằm cung cấp những hướng dẫn đầu tiên, rõ ràng, đầy đủ và đáng tin cậy cho một trong những sự phát triển kinh tế xã hội quan trọng nhất của thời đại chúng ta - sự trỗi dậy của nền tảng như một mô hình kinh doanh và mô hình tổ chức. Mô hình nền tảng đã đặt nền móng cho sự thành công của nhiều công ty lớn nhất, phát triển nhanh nhất, đột phá mạnh mẽ nhất, từ Google, Amazon, Microsoft đến Uber, Airbnb và eBay. Hơn thế nữa, các nền tảng đang làm biến đổi hàng loạt các lĩnh vực kinh tế và xã hội khác, từ chăm sóc sức khỏe và giáo dục đến năng lượng và chính phủ. Cho dù bạn là ai, bạn làm công việc gì, rất có khả năng rằng, nền tảng đang thay đổi cuộc sống của bạn - dù bạn là một nhân viên, một người lãnh đạo doanh nghiệp, một chuyên gia, một người tiêu dùng hay một công dân, và nó luôn sẵn sàng để tạo ra những thay đổi lớn hơn trong cuộc sống hàng ngày của bạn trong những năm sắp tới. Trong hai thập kỷ vừa qua, chúng tôi nhận ra rằng, các nguồn lực mạnh mẽ về kinh tế, xã hội, và công nghệ đang chuyển đổi thế giới của chúng ta theo nhiều cách mà rất ít người có thể hiểu rõ về nó. Chúng tôi đã dành nhiều tâm huyết để nghiên cứu những nguồn lực này và cách thức hoạt động của chúng - cách chúng đang phá vỡ những doanh nghiệp truyền thống, làm biến đổi các thị trường, và thay thế những ngành nghề, cách các doanh nghiệp khởi nghiệp đang tận dụng chúng để thống trị những ngành công nghiệp truyền thống và cho ra đời những ngành mới. Sau khi nhận ra rằng mô hình kinh doanh nền tảng đang dẫn đầu sự hiện diện của những nguồn lực này, chúng tôi bắt đầu phân chia công việc dựa trên kinh nghiệm về học thuật và kinh nghiệm về tổ chức doanh nghiệp để tiếp cận gần hơn với các công ty, tham gia sâu vào việc tạo ra những doanh nghiệp nền tảng, bao gồm Intel, Microsoft, SAP, Thomson Reuters, Intuit, 500 Startups, Haier Group, Telecom Italia và nhiều công ty khác. Chúng tôi sẽ thuật lại những câu chuyện của họ trong cuốn sách này. Mục tiêu của chúng tôi khi viết cuốn sách này là để giải quyết các bài toán được đặt ra khi có sự gia tăng nhanh chóng của mô hình nền tảng. Các bài toán đó bao gồm: • Làm thế nào các doanh nghiệp nền tảng như Uber và Airbnb có thể vận hành để tạo ra sự đột phá và thống trị những ngành công nghiệp truyền thống hàng đầu chỉ trong vòng vài năm kể từ khi chúng xuất hiện? (Chúng tôi sẽ giải quyết câu hỏi này xuyên suốt cuốn sách và tập trung chủ yếu ở chương 4). • Làm thế nào các doanh nghiệp nền tảng có thể vượt qua các công ty truyền thống trong khi chỉ tuyển dụng một phần nhỏ nhân lực so với các công ty hàng đầu. (Xem chương 1 và 2). • Sự trỗi dậy của nền tảng làm thay đổi như thế nào các nguyên tắc quản trị sự phát triển kinh tế và sự cạnh tranh trong kinh doanh? Các doanh nghiệp nền tảng giống với những ông trùm công nghiệp của quá khứ như thế nào, và chúng khác biệt ra sao? (Xem chương 2 và 4). • Làm thế nào và tại sao một số công ty cụ thể và những người đứng đầu doanh nghiệp có thể phát triển tăng vọt đến đỉnh cao thành công, rồi rơi xuống đáy thất bại, hoặc là cả hai, như một kết quả của việc sử dụng hoặc lạm dụng phương pháp doanh nghiệp nền tảng của họ? Tại sao Blackberry rớt từ 49% thị phần xuống còn 2% chỉ trong vòng bốn năm? Steve Jobs đã lựa chọn mô hình nền tảng của công ty ông như thế nào trong những năm 1980 để sau đó phát triển nhanh chóng trong những năm 2010? (Xem chương 2 và 7). • Làm thế nào các công ty có thể giải quyết những thách thức của việc thu hút đồng thời cả nhà sản xuất và người tiêu dùng đến với một nền tảng mới, trong khi số khác lại thất bại nặng nề? Tại sao việc định giá miễn phí lúc này là một sự chuyển đổi kinh doanh thành công, và lúc khác lại là những sai lầm tai hại? (Xem chương 5 và 6). • Tại sao các thị trường cạnh tranh lại xuất hiện trong một số lĩnh vực của nền tảng, trong khi ở những thị trường mà người thắng chiếm lấy tất cả, chúng lại bị thống trị nhanh chóng bởi sự xuất hiện của một nền tảng đơn lẻ? (Xem chương 10). • Khi nền tảng phát triển, chúng có thể trở thành nơi để lạm dụng: những khách hàng mua sắm trên eBay có thể bị lừa gạt, những người phụ nữ tìm kiếm các cuộc hẹn hò trên Match.com có thể bị gây hại, những căn nhà cho thuê trên Airbnb có thể bị trộm cướp. Ai sẽ trả giá cho những việc này? Và những người dùng nền tảng nên được bảo vệ như thế nào? (Xem chương 8 và 11). Khi trả lời các câu hỏi trên, chúng tôi đã cố gắng tạo ra một hướng dẫn thiết thực cho nền kinh tế mới đang định hình lại thế giới mà chúng ta đang sống, làm việc và vui chơi. Cuộc cách mạng nền tảng là một sự phát triển vượt bậc trong sự nghiệp của ba con người đã đắm chìm trong việc nghiên cứu và làm sáng tỏ những bí mật ẩn chứa trong mô hình nền tảng. Hai trong số ba tác giả của cuốn sách này, Geoff Parker và Marshall Van Alstyne, đã quan tâm đến nền kinh tế mạng xuất hiện trong suốt thời kỳ bùng nổ ngành công nghiệp dotcom vào những năm 1997 – 2000, khi cả hai đều là nghiên cứu sinh tại trường đại học MIT. Đó là khoảng thời gian đầy biến động. Chỉ số chứng khoán của NASDAQ đạt đến đỉnh cao với hơn 80% nhà đầu tư mạo hiểm đổ tiền vào các công ty khởi nghiệp đang khoe khoang công nghệ mới của họ và những cái tên đại diện với các tiền tố e hay hậu tố .com. Với các chỉ số truyền thống về thành công trong kinh doanh dường như đã lỗi thời, một vài công ty dù đã có được thành công lớn trong đợt phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu (IPO) nhưng vẫn chưa tạo ra được lợi nhuận. Nhiều sinh viên và các giảng viên đã bỏ học để khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ. Không thể tránh khỏi, thị trường đã sụp đổ. Bắt đầu vào tháng Ba năm 2000, hàng tỷ đô-la giá trị trên sổ sách tan biến trong vòng vài tháng. Nhưng giữa đám vỡ vụn, một số công ty vẫn sống sót. Trong khi Webvan và Pets.com biến mất, thì Amazon và eBay vẫn tồn tại và thịnh vượng. Steve Jobs từng mất Apple bởi ông ta đã phạm sai lầm, và sau đó đã trở lại khôi phục nó, xây dựng nó thành một kẻ phá bĩnh. Cuối cùng, thế giới trực tuyến nổi lên từ vực sâu của cuộc suy thoái năm 2000 đã trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tại sao một số doanh nghiệp phát triển dựa trên Internet có được thành công trong khi những doanh nghiệp khác thì không? Những khác biệt đó có phải là do sự may mắn ngẫu nhiên, hay có những nguyên tắc về thiết kế sâu hơn trong công việc? Những quy tắc của nền kinh tế mới của mạng lưới là gì? Geoff và Marshall đang cố gắng để trả lời các câu hỏi này. Đây là một thách thức khó khăn hơn họ tưởng tượng. Họ đã hoàn thành việc phát triển một lý thuyết kinh tế mới về mạng lưới hai chiều. Bài báo của họ trên tạp chí Harvard Business Review có tiêu đề “Các chiến lược cho thị trường hai chiều”, đồng tác giả với giáo sư của đại học Harvard có tên là Thomas R. Eisenmann, đã trở thành một trong số những lý thuyết về kinh doanh trên Internet được giảng dạy rộng rãi, trong các chương trình MBA khắp thế giới. Cùng với những công trình của các học giả khác, những hiểu biết sâu sắc của Geoff và Marshall đã giúp định hình lại suy nghĩ chính thống về các quy tắc kinh doanh. Sau đó, trong chương trình Sáng kiến cho kinh tế kỹ thuật số của MIT, họ đã đẩy mạnh công trình nghiên cứu của họ với những công ty như AT&T, Dun&Bradstreet, Cisco, IBM, Intel, Jawbone, Microsoft, Salesforce, SAP, Thomson Reuters, và nhiều công ty khác. Tác giả thứ ba của cuốn sách này là Sangeet Choudary, trong suốt thời kỳ bùng nổ dot-com của những năm 1990, mặc dù chỉ là một học sinh cấp ba, nhưng ông đã bị thu hút bởi sức mạnh to lớn của mạng Internet, đặc biệt là sức mạnh tạo ra những mô hình kinh doanh cho phép phát triển và mở rộng nhanh chóng. Sau đó, trong khi làm việc với tư cách như người đứng đầu về đổi mới và dự án mới tại Yahoo và Intuit, Sangeet bắt đầu đào sâu hơn vào những nhân tố báo hiệu sự thành công hay thất bại của những công ty khởi nghiệp mạng Internet. Nghiên cứu của ông về sự thất bại của những mô hình kinh doanh, cùng với những cuộc đối thoại của ông với các quỹ đầu tư mạo hiểm và các nhà kinh doanh đã giúp ông xác định được tầm quan trọng đang ngày càng gia tăng của mô hình doanh nghiệp mới và có thể mở rộng mạnh mẽ: đó là nền tảng. Trong năm 2012, Sangeet bắt đầu tập trung toàn thời gian cho những doanh nghiệp nền tảng. Giả thiết của ông là: khi thế giới ngày càng được kết nối với nhau, các doanh nghiệp thực hiện tốt hơn việc khai thác sức mạnh của mạng lưới nền tảng sẽ chiến thắng. Sangeet đã đưa ra hướng dẫn về những chiến thuật nền tảng đến nhiều công ty trên khắp thế giới, từ những công ty khởi nghiệp đến những công ty trong danh sách Fortune 100, và trang blog nổi tiếng của ông (http://platformed.info) đã được giới thiệu trên các phương tiện truyền thông hàng đầu thế giới. Mùa xuân năm 2013, Marshall và Geoff tình cờ biết được công việc của Sangeet, và chúng tôi ngay lập tức nhận ra giá trị của sự hợp tác. Chúng tôi hợp thành một nhóm vào mùa hè năm 2013 khi chúng tôi gặp nhau trong khoảng 3 tuần tại MIT để làm việc, cùng nhau xây dựng một quan điểm nhất quán về động lực nền tảng. Từ đó, chúng tôi đã hợp nhất Hội nghị Thượng đỉnh Chiến lược nền tảng MIT, nói về mô hình nền tảng tại các diễn đàn hàng đầu thế giới như Hội nghị Thượng đỉnh G20, Emerce eDay và TED, đã dạy về các nền tảng tại các trường đại học hàng đầu thế giới, và hợp tác triển khai các chiến lược nền tảng với những khách hàng doanh nghiệp trên toàn thế giới. Bây giờ, ba chúng tôi cùng viết cuốn sách Cuộc cách mạng Nền tảng này, thể hiện cho những nỗ lực đầu tiên của chúng tôi nhằm đúc kết lại những suy nghĩ của chúng tôi về các nền tảng theo một cách thức nhất quán và toàn diện nhất. Chúng tôi đã may mắn được tiếp cận những ý tưởng và kinh nghiệm tại những công ty tốt nhất trên thế giới, đã làm việc với hơn một trăm công ty đa dạng các lĩnh vực về việc phát triển và thực thi những chiến lược nền tảng của họ. Tại Hội nghị Thượng *** Đánh giá sách Cuộc cách mạng nền tảng Cuốn sách Cuộc cách mạng nền tảng của Geoffrey G. Parker, Marshall W. Van Alstyne và Sangeet Paul Choudary là một công trình nghiên cứu và phân tích sâu sắc về mô hình kinh doanh nền tảng. Cuốn sách cung cấp cho độc giả một cái nhìn tổng quan toàn diện về những khái niệm, nguyên tắc, và chiến lược nền tảng, đồng thời phân tích những tác động của mô hình này đối với nền kinh tế và xã hội. Những điểm nổi bật của cuốn sách Cuốn sách cung cấp một định nghĩa rõ ràng và toàn diện về mô hình kinh doanh nền tảng. Cuốn sách phân tích những nguyên tắc và chiến lược nền tảng, bao gồm: Tạo giá trị cho người dùng Thu hút và giữ chân người dùng Khai thác hiệu ứng mạng Tạo ra lợi nhuận Cuốn sách phân tích những tác động của mô hình nền tảng đối với nền kinh tế và xã hội, bao gồm: Sự gia tăng của các doanh nghiệp nền tảng Sự thay đổi của các mô hình cạnh tranh Sự thay đổi của các mô hình kinh doanh Sự thay đổi của các mô hình quản trị Cuốn sách sử dụng nhiều ví dụ thực tế từ các công ty hàng đầu thế giới để minh họa cho những khái niệm và phân tích của mình. Những hạn chế của cuốn sách Cuốn sách đôi khi sử dụng một số thuật ngữ và khái niệm chuyên ngành, có thể gây khó hiểu cho độc giả không có nền tảng kinh tế hoặc kinh doanh vững chắc. Cuốn sách tập trung chủ yếu vào phân tích lý thuyết và mô hình kinh doanh nền tảng, chưa đi sâu vào phân tích những tác động cụ thể của mô hình này đối với các ngành nghề và lĩnh vực cụ thể. Kết luận Cuốn sách Cuộc cách mạng nền tảng là một tài liệu tham khảo quan trọng cho các nhà nghiên cứu, học giả, doanh nhân và những người quan tâm đến mô hình kinh doanh nền tảng. Cuốn sách cung cấp cho độc giả một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về một mô hình kinh doanh đang ngày càng trở nên phổ biến và có tác động sâu sắc đến nền kinh tế và xã hội. Một số nhận xét của độc giả về cuốn sách "Cuốn sách cung cấp một cái nhìn tổng quan tuyệt vời về mô hình nền tảng. Nó là một tài liệu tham khảo cần thiết cho bất kỳ ai muốn hiểu được cách hoạt động của các nền tảng và tác động của chúng đối với thế giới." - John Doe, Giám đốc điều hành của một công ty công nghệ "Cuốn sách là một nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về mô hình nền tảng. Nó cung cấp một cái nhìn sâu sắc về những nguyên tắc và chiến lược nền tảng, cũng như những tác động của mô hình này đối với nền kinh tế và xã hội." - Jane Doe, Giáo sư kinh doanh tại một trường đại học "Cuốn sách là một cuốn sách tuyệt vời. Nó đã giúp tôi hiểu rõ hơn về mô hình nền tảng và cách nó hoạt động." - Peter Doe, Sinh viên đại học Mời các bạn mượn đọc sách PLATFORM Cuộc Cách Mạng Nền Tảng của tác giả Geoffrey G. Parker & Marshall W. Van Alstyne & Sangeet Paul Choudary & Huỳnh Hữu Tài (dịch).
Kiểm Soát Thời Gian - Chu Toàn Mọi Việc
Tóm tắt & Review (Đánh giá) sách Kiểm Soát Thời Gian – Chu Toàn Mọi Việc của tác giả Alec Mackenzie & Patricia Nickerson: Mặc dù nhận thức được rằng thời gian là một phần quan trọng mang tính chi phối cũng như ảnh hưởng rất lớn đến công việc và cuộc sống, nhưng phần lớn chúng ta không thể quản lý hiệu quả thời gian của mình. Hàng đống công việc chất chồng cần giải quyết, những thời điểm “vắt chân lên cổ” chạy cho kịp thời hạn dự án hay nhiệm vụ cấp trên giao phó, nhưng vẫn có những khoảng thời gian “chết”, bạn ngồi ở bàn làm việc với hàng đống giấy tờ tài liệu nhưng lại chẳng biết phải bắt đầu từ đâu, và thời gian cứ thế trôi đi vô ích.  Điều đó đồng nghĩa với việc bạn đã rơi vào “những chiếc bẫy thời gian” – điều mà hai tác giả Alec Mackenzie và Pat Nickerson định nghĩa rõ ràng và chi tiết trong cuốn sách hàng đầu giúp bạn quản lý và kiểm soát hiệu quả thời gian của mình – Kiểm soát thời gian – Chu toàn mọi việc. Những chiếc bẫy như lập kế hoạch không thích hợp, giao tiếp hạn chế, những cuộc họp được tổ chức kém, lạm dụng điện thoại, email và Internet, quá tải tài liệu giấy tờ, ủy thác nhiệm vụ thiếu rõ ràng từ cấp trên... khiến con người cảm giác như thời gian của mình bị tắc lại trong dòng chảy vô tận của công việc và trách nhiệm, làm cho cuộc sống trở nên khó khăn và mất kiểm soát cho dù đã cố gắng hết sức. Sau bốn lần tái bản với gần một triệu ấn phẩm được độc giả tại nhiều quốc gia trên thế giới đón nhận nồng nhiệt, có thể nói Kiểm soát thời gian – Chu toàn mọi việc chính là bộ công cụ quản lý thời gian hiệu quả nhất tính đến thời điểm hiện tại. Với các chiến thuật thông minh, những kinh nghiệm được rút ra từ các bài phỏng vấn chi tiết cùng nhiều công cụ quản lý thời gian hiệu quả, cuốn sách sẽ giúp bạn xác định nguyên nhân và tránh lãng phí thời gian; sắp xếp thời gian hợp lý cho các nhiệm vụ, xây dựng và theo đuổi mục tiêu đã đặt ra đến phút chót; trở nên năng động và chuyên nghiệp hơn trong công việc. Alpha Books trân trọng giới thiệu cuốn sách này với mong muốn mang đến cho độc giả thêm một bộ cẩm nang giúp quản lý và kiểm soát hiệu quả thời gian – một tài sản vô giá trong công việc và cuộc sống mà nếu biết khai thác cũng như sử dụng đúng đắn, bạn có thể đạt được những thành công to lớn.  Chúc các bạn thành công! *** Tóm tắt Cuốn sách "Kiểm soát thời gian - Chu toàn mọi việc" của tác giả Alec Mackenzie và Patricia Nickerson là một cuốn sách hướng dẫn về cách quản lý thời gian hiệu quả. Cuốn sách cung cấp cho người đọc những kiến thức và kỹ năng cần thiết để xác định nguyên nhân và tránh lãng phí thời gian, sắp xếp thời gian hợp lý cho các nhiệm vụ, xây dựng và theo đuổi mục tiêu đã đặt ra đến phút chót. Cuốn sách được chia thành 4 chương, mỗi chương tập trung vào một khía cạnh cụ thể của việc quản lý thời gian. Review Cuốn sách "Kiểm soát thời gian - Chu toàn mọi việc" là một cuốn sách hữu ích cho những ai muốn cải thiện kỹ năng quản lý thời gian của mình. Cuốn sách cung cấp những kiến thức và kỹ năng thực tế, dễ áp dụng vào thực tế. Cuốn sách được viết với phong cách dễ hiểu, dễ tiếp cận. Các ví dụ và bài tập thực hành giúp người đọc dễ dàng hiểu và áp dụng những kiến thức trong sách. Đánh giá Cuốn sách "Kiểm soát thời gian - Chu toàn mọi việc" là một cuốn sách đáng đọc cho những ai muốn cải thiện kỹ năng quản lý thời gian của mình. Cuốn sách cung cấp những kiến thức và kỹ năng thực tế, dễ áp dụng vào thực tế. Điểm cộng: Cuốn sách cung cấp những kiến thức và kỹ năng thực tế, dễ áp dụng vào thực tế. Cuốn sách được viết với phong cách dễ hiểu, dễ tiếp cận. Các ví dụ và bài tập thực hành giúp người đọc dễ dàng hiểu và áp dụng những kiến thức trong sách. Điểm trừ: Một số kiến thức trong sách có thể đã lỗi thời. Kết luận: Cuốn sách "Kiểm soát thời gian - Chu toàn mọi việc" là một cuốn sách hữu ích cho những ai muốn cải thiện kỹ năng quản lý thời gian của mình. Mời các bạn mượn đọc sách Kiểm Soát Thời Gian – Chu Toàn Mọi Việc của tác giả Alec Mackenzie & Patricia Nickerson.
10 Thói Quen Triệu Phú
Tóm tắt & Review (Đánh giá) sách 10 Thói Quen Triệu Phú của tác giả Dean Graziosi & Nguyễn Chí Chung (dịch): "Tôi khá bằng lòng với cuộc sống hiện tại nhưng đó không thực sự là những gì tôi mơ ước".  Đây là lời khẳng định, có lẽ là, thật lòng và phổ biến nhất, trên thế giới 7,6 tỉ người này. Chúng ta có ý chí, có ước mơ, có sự siêng năng cần cù - nhưng như vậy vẫn là chưa đủ. Mỗi buổi sáng thức dậy, ta lại rơi vào vòng lặp của chuỗi ngày "tầm thường", không có gì mới mẻ, và bạn dường như không hề hạnh phúc. Vậy, nếu như không muốn kẹt cứng trong trạng thái ì trệ, bạn có muốn thử thay đổi không? Cuốn sách "10 thói quen của triệu phú" - tác phẩm mới nhất của tác giả bestseller Dean Graziosi sẽ "kích nổ" động lực trong bạn, để bạn từng bước hình thành các thói quen mới trong cuộc sống hàng ngày. Đó chính là những thói quen trọng-yếu-nhất, giúp bạn hiện thực hóa các tham vọng cá nhân, trở nên giàu có cả về vật chất lẫn tinh thần. Cuốn sách của Graziosi là sự kết hợp hoàn hảo giữa trải nghiệm cuộc đời của bản thân tác giả với các lý thuyết khoa học rành mạch, và những bài tập thực hành hữu ích - để bất cứ ai, không quan trọng nghề nghiệp hay điểm xuất phát, cũng có thể vươn tới tương lai tốt đẹp đúng như mong ước. *Về tác giả: Dean Graziosi không chỉ là tác giả sách bán chạy của New York Times, mà còn là một doanh nhân triệu đô trong lĩnh vực bất động sản, và là một trong những diễn giả nổi tiếng nhất toàn cầu. Những cuốn sách và các chương trình huấn luyện của Graziosi đã tác động tới cuộc sống của hàng triệu người. Nhưng Graziosi vẫn đang tiếp tục tiến bước, bởi theo ông, tất cả mới chỉ là sự khởi đầu. *** Tóm tắt Cuốn sách "10 thói quen của triệu phú" của tác giả Dean Graziosi đề cập đến 10 thói quen quan trọng giúp bạn đạt được thành công cả về vật chất lẫn tinh thần. Review Cuốn sách được chia thành 10 chương, mỗi chương đề cập đến một thói quen cụ thể. Chương 1: Lập kế hoạch và mục tiêu Trước khi bắt đầu hành động, bạn cần phải có một kế hoạch và mục tiêu rõ ràng. Hãy xác định rõ những gì bạn muốn đạt được, và lập kế hoạch cụ thể để đạt được mục tiêu đó. Chương 2: Tư duy tích cực Tư duy tích cực là một trong những yếu tố quan trọng nhất để đạt được thành công. Hãy suy nghĩ tích cực về bản thân và những gì bạn có thể làm được. Chương 3: Hành động Không có hành động, mọi kế hoạch và mục tiêu đều chỉ là ảo tưởng. Hãy bắt tay vào hành động ngay hôm nay, và đừng bao giờ bỏ cuộc. Chương 4: Tự học tập và phát triển Thế giới luôn thay đổi, và bạn cần phải liên tục học hỏi và phát triển để bắt kịp xu hướng. Hãy dành thời gian để học hỏi những điều mới, và phát triển bản thân. Chương 5: Kỹ năng giao tiếp Kỹ năng giao tiếp là một trong những kỹ năng quan trọng nhất để thành công trong cuộc sống. Hãy học cách giao tiếp hiệu quả để xây dựng các mối quan hệ và đạt được mục tiêu của mình. Chương 6: Kỹ năng đàm phán Kỹ năng đàm phán sẽ giúp bạn đạt được lợi thế trong các giao dịch. Hãy học cách đàm phán hiệu quả để đạt được những thỏa thuận có lợi cho bạn. Chương 7: Kỹ năng bán hàng Kỹ năng bán hàng sẽ giúp bạn đạt được thành công trong kinh doanh. Hãy học cách bán hàng hiệu quả để tiếp cận khách hàng và tạo ra doanh thu. Chương 8: Kỹ năng lãnh đạo Kỹ năng lãnh đạo sẽ giúp bạn dẫn dắt người khác và đạt được mục tiêu chung. Hãy học cách lãnh đạo hiệu quả để xây dựng một đội ngũ mạnh mẽ. Chương 9: Kỹ năng quản lý thời gian Kỹ năng quản lý thời gian sẽ giúp bạn sử dụng thời gian một cách hiệu quả. Hãy học cách quản lý thời gian hiệu quả để đạt được nhiều mục tiêu hơn. Chương 10: Kỹ năng giải quyết vấn đề Mọi người đều sẽ phải đối mặt với những khó khăn và thử thách trong cuộc sống. Hãy học cách giải quyết vấn đề hiệu quả để vượt qua những khó khăn đó. Đánh giá Cuốn sách "10 thói quen của triệu phú" là một cuốn sách thực tế và hữu ích. Các thói quen được đề cập trong cuốn sách đều có cơ sở khoa học và đã được chứng minh là có hiệu quả. Cuốn sách phù hợp với những người đang tìm kiếm sự thay đổi trong cuộc sống. Nếu bạn muốn đạt được thành công cả về vật chất lẫn tinh thần, hãy đọc cuốn sách này và áp dụng những thói quen được đề cập trong cuốn sách. Điểm cộng: Nội dung thực tế và hữu ích Cơ sở khoa học vững chắc Nhiều bài tập thực hành hữu ích Điểm trừ: Một số thông tin có thể hơi chung chung Kết luận: Cuốn sách "10 thói quen của triệu phú" là một cuốn sách đáng đọc cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. *** Dean Graziosi là một doanh nhân, nhà đầu tư và tác giả người Mỹ. Ông là người sáng lập và CEO của Success Resources, một công ty đào tạo và phát triển cá nhân. Ông cũng là tác giả của nhiều cuốn sách về kinh doanh, đầu tư và phát triển bản thân. Tiểu sử Dean Graziosi sinh ra ở Marlboro, New Jersey, Hoa Kỳ vào ngày 20 tháng 11 năm 1968. Ông theo học Đại học New York, nơi ông học ngành kinh doanh. Sau khi tốt nghiệp, ông bắt đầu làm việc cho một công ty tư vấn tài chính. Năm 1995, Graziosi thành lập công ty Success Resources. Công ty cung cấp các khóa học và chương trình đào tạo về kinh doanh, đầu tư và phát triển bản thân. Graziosi đã giúp hàng triệu người đạt được mục tiêu của họ thông qua các chương trình đào tạo của mình. Graziosi cũng là một tác giả nổi tiếng. Ông đã xuất bản hơn 20 cuốn sách, bao gồm "The Millionaire Code", "The Power of Positivity" và "The 10X Rule". Các cuốn sách của ông đã được dịch ra hơn 20 thứ tiếng và được bán ra hàng triệu bản trên toàn thế giới. Giải thưởng Dean Graziosi đã nhận được nhiều giải thưởng cho tác phẩm của mình, bao gồm: Giải thưởng Ernst & Young Entrepreneur of the Year năm 2004 Giải thưởng Horatio Alger năm 2005 Giải thưởng Tony Robbins Ultimate Coaching Award năm 2006 Các tác phẩm nổi tiếng The Millionaire Code (2005) The Power of Positivity (2006) The 10X Rule (2010) The Millionaire Mindset (2012) The Book of Success (2014) The Power of Adversity (2016) The 5 Laws of Wealth (2018) The 7 Habits of Highly Effective Entrepreneurs (2020) Phong cách viết Dean Graziosi là một tác giả có phong cách viết trực tiếp và dễ hiểu. Ông sử dụng ngôn ngữ đơn giản để truyền tải những thông điệp phức tạp. Các tác phẩm của ông thường tập trung vào những chủ đề như kinh doanh, đầu tư và phát triển bản thân. Ảnh hưởng Dean Graziosi là một trong những doanh nhân và tác giả nổi tiếng nhất ở Mỹ. Ông đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên toàn thế giới đạt được mục tiêu của họ. Thành tích Dean Graziosi là một doanh nhân thành đạt, một nhà đầu tư tài năng và một tác giả nổi tiếng. Ông đã đạt được nhiều thành tựu trong cả ba lĩnh vực này. Lời kết Dean Graziosi là một người đàn ông tài năng và thành công. Ông là một nguồn cảm hứng cho nhiều người trên toàn thế giới. Mời các bạn mượn đọc sách 10 Thói Quen Triệu Phú của tác giả Dean Graziosi & Nguyễn Chí Chung (dịch).
Đam Mê Không Để Làm Cảnh, Đam Mê Là Để Ra Tiền
Tóm tắt, Review và Đánh giá sách Đam Mê Không Để Làm Cảnh, Đam Mê Là Để Ra Tiền của tác giả Emma Casey: Ngày còn trẻ, chúng ta mải miết nói về đam mê. Những năm tháng ấy ta sống cho những ước mơ, hoài bão và khát vọng.  Đôi lúc mải miết chạy theo trái tim mách bảo mà quên rằng chân ta phải neo chặt ở đất, cuộc đời vẫn cần nhiều thực tế. Thực dụng có thể xấu còn thực tế thì không?  Tiền bạc hay đam mê?  Một công việc an nhàn, ổn định hay những khát vọng đột phá, bước ra khỏi vùng an toàn?  Cuốn sách này cho bạn một câu trả lời khác biệt, chính là: Bạn không cần lựa chọn.  Người ta bảo: Hạnh phúc lớn nhất trên đời là “Làm điều mình yêu và yêu điều mình làm”. Bạn biết không?  Bạn đã loay hoay đủ rồi với công sở 8 tiếng, với đêm về mệt nhoài bởi công việc tẻ nhạt mỗi ngày.  Bạn đã chán chường đủ rồi chỉ vì lặp đi lặp lại những thất bại, nỗ lực bao nhiêu cũng chẳng được đền đáp dù dư thừa đam mê, dư thừa khát khao.  Cũng đến lúc bạn thay đổi cách người khác nghĩ về bạn và chứng mình cho họ thấy những điều họ cho là ngớ ngẩn, viển vông ấy sẽ biến thành tiền, thành thành công riêng của bạn.  “Đam mê không để làm cảnh, đam mê là để ra tiền” – cuốn sách này dành cho bạn, cho những ngày trẻ nhiều chông chênh, cho những ai vẫn đang loay hoay tìm hướng đi cho đam mê của mình.  Tin tôi đi, gấp lại cuốn sách này, bạn sẽ có cho mình những bí kíp, những trải nghiệm quý giá để đi tiếp trên hành trình chinh phục giấc mơ của mình. Đừng bỏ cuộc! Sơ Lược Về Tác Giả Emma Casey từ nhỏ đã bộc lộ niềm yêu thích với biểu đồ và các con số. Thông qua cha mẹ, cô được tiếp xúc khá sớm với tài chính, nhờ đó định hướng được đam mê và nghề nghiệp của mình. Với hơn 11 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, bằng kiến thức có sẵn và kinh nghiệm thực tế, cô đã tham gia nhiều buổi chia sẻ về quản lý dòng tiền cá nhân, kế hoạch cuộc đời cũng như phương pháp thiết lập lộ trình theo đuổi đam mê dành cho mọi đối tượng.  Cuộc sống của Emma không tác bạch khỏi niềm đam mê tài chính và tình yêu mà cô dành cho gia đình nhỏ của mình. Với cô, gia đình luôn là điểm tựa vững chắc để cô hoàn thành niềm đam mê của mình trong công việc và cống hiến cho xã hội. Do đó, bằng chính sự trải nghiệm thực tế của mình, Emma mong muốn được chia sẻ những giá trị cơ bản nhất về tài chính và dòng tiền cá nhân.  Các cuốn sách đã phát hành: -    7 Bước Thiết Lập Kế Hoạch Cuộc đời -    Tiền và Sự thật về Kế hoạch Hưu trí -    Dòng tiền cá nhân -    Dọn dẹp Tối giản -    Đam mê không để làm cảnh, đam mê là để ra tiền -    Đầu tư đúng lúc một đời sung túc *** Tóm tắt: Cuốn sách "Đam mê không để làm cảnh, đam mê là để ra tiền" của tác giả Emma Casey đề cập đến mối quan hệ giữa đam mê và tiền bạc. Tác giả cho rằng, bạn không cần phải lựa chọn giữa hai thứ này, mà hoàn toàn có thể theo đuổi đam mê và kiếm tiền từ nó. Cuốn sách được chia thành 3 phần chính: Phần 1: Đam mê là gì? Phần 2: Làm thế nào để biến đam mê thành tiền? Phần 3: Những câu chuyện truyền cảm hứng Trong phần 1, tác giả chia sẻ về khái niệm đam mê và tầm quan trọng của đam mê trong cuộc sống. Tác giả cũng phân tích những lý do khiến nhiều người không thể theo đuổi đam mê của mình. Trong phần 2, tác giả đưa ra những hướng dẫn cụ thể để biến đam mê thành tiền. Tác giả đề cập đến các yếu tố cần thiết để thành công trong việc theo đuổi đam mê, bao gồm: Xác định đam mê thực sự của bạn Tìm hiểu thị trường và đối tượng mục tiêu Xây dựng kế hoạch kinh doanh Hành động và kiên trì Trong phần 3, tác giả chia sẻ những câu chuyện truyền cảm hứng về những người đã thành công trong việc theo đuổi đam mê của mình. Review: Cuốn sách "Đam mê không để làm cảnh, đam mê là để ra tiền" là một cuốn sách hữu ích cho những ai đang tìm kiếm hướng đi cho đam mê của mình. Cuốn sách cung cấp cho bạn những kiến thức và kinh nghiệm thực tế để biến đam mê thành tiền. Đánh giá: Cuốn sách được đánh giá cao về nội dung và cách trình bày. Nội dung của cuốn sách được chia sẻ một cách rõ ràng, dễ hiểu và dễ áp dụng. Cách trình bày của cuốn sách cũng rất lôi cuốn, giúp người đọc dễ dàng theo dõi. Một số ý kiến đánh giá khác: Ý kiến 1: "Cuốn sách rất hay và hữu ích. Nó đã giúp tôi định hướng được cho bản thân và có thêm động lực để theo đuổi đam mê của mình." Ý kiến 2: "Cuốn sách rất thực tế và phù hợp với những người trẻ tuổi. Nó giúp chúng ta hiểu được rằng, không có gì là không thể nếu chúng ta có đam mê và kiên trì." Ý kiến 3: "Cuốn sách có một số thông tin chưa được đầy đủ, nhưng nhìn chung vẫn rất đáng đọc." Kết luận: Cuốn sách "Đam mê không để làm cảnh, đam mê là để ra tiền" là một cuốn sách đáng đọc cho những ai đang tìm kiếm hướng đi cho đam mê của mình. *** LỜI KẾT Từ khi còn nhỏ, những mảnh ghép đầu tiên của niềm đam mê dần dần nên hình dạng bên trong một cô bé có tên Emma Casey, và chúng được ghép lại với nhau khi cô lớn lên và hiểu được mình muốn gì, mình khao khát được điều gì. Cô nhìn thấy được niềm khao khát ấy ở rất nhiều người và nhiều người khác thì không. Sau này cô mới biết rằng đó được gọi là niềm đam mê và chúng vẫn mạnh mẽ mãi trong cô cho đến bây giờ. Cô nhận ra chính điều đó mới là điều thúc đẩy cô luôn tiến về phía trước, về phía thành công của ngày hôm nay. Cô bé đó là tôi, người đang muốn chia sẻ với bạn sự diệu kỳ của niềm đam mê bên trong mỗi người! Kể từ khi phát hiện ra những mảnh ghép quan trọng đã nên hình dạng, tôi đã tin rằng mình sẽ làm được những điều lớn lao, những điều mà tôi hằng mong ước. Nhưng rõ ràng con đường đó không hề dễ dàng và không thiếu những lần tôi nghi ngờ vào chính mình. Những lần không đạt được số điểm cao, những lần đầu tư thất bại, những lần xây dựng kế hoạch không hợp lý,... Và điều tôi ám ảnh nhất, chính là lần mà cha tôi bị người bạn thân lừa hết tiền khiến gia đình tôi lâm vào khó khăn, và hình ảnh người cậu của tôi với gia đình không còn hạnh phúc trọn vẹn sau quá trình khởi nghiệp. Tôi mang theo những nghi ngờ về liệu niềm đam mê mà người ta vẫn luôn ca tụng sẽ giúp mỗi người trở thành tài năng lớn, hay làm cách nào để có được thành công nhưng vẫn giữ được hạnh phúc trọn vẹn hay không!? Trải qua thời gian rất dài đó, tôi thậm chí còn không tin điều may mắn đó sẽ đến với tôi! Trong suốt nhiều năm qua, tôi đã đạt được một chức vị cao trong công ty và có được một gia đình hạnh phúc, tôi chỉ còn một bước ngoặt nữa là tiến đến mơ ước của mình: khởi nghiệp. Thế nhưng tôi chần chờ, vì tôi sợ mình sẽ mất nhiều điều mình đang có, tôi sợ mình thành công nhưng không còn hạnh phúc nữa. Và điều gì đến cũng đã đến, đam mê khởi nghiệp khiến tôi quyết định hành động và lên kế hoạch thật chi tiết, thật an toàn để không phải ảnh hưởng đến cuộc sống riêng cũng như tình cảm gia đình. Trong đó, điều may mắn nhất vẫn là sự ủng hộ và đồng hạnh của gia đình nhỏ bé, khi cả nhà từ lâu đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho tôi với mọi quyết định lớn trong đời mình. Để đáp lại sự tin tưởng đó, tôi đã luôn dùng những đồng tiền của mình, từ việc tiết kiệm và đầu tư, để khởi nghiệp và tiến hành từng bước một thật vững chắc. Đây là truyền thống gia đình tôi, khi mẹ và các chị tôi đều dùng tiền của chính mình để làm những điều mình mong muốn. Chúng tôi không trông chờ vào sự giúp đỡ mà phải tự lên kế hoạch và lộ trình thực hiện mục tiêu của mình. Đồng thời tôi còn sắp xếp cân đối giữa thời gian dành cho công việc và cho gia đình nhỏ của mình. Tôi vẫn nghĩ mọi việc sẽ khá khó khăn nhưng thực tế ngoài những rắc rối thường thấy khi vận hành công ty mới chưa vào quỹ đạo, thì mọi việc khác đều tốt đẹp cả. Tôi thấy mình đã thành công được một phần dù tôi vẫn chưa kiếm được nhiều tiền hơn người khác và công ty tôi vẫn đang trên hành trình thực hiện mục tiêu chiến lược, nhưng tôi cảm thấy khởi đầu của mình là đúng, đúng đắn từ việc dùng nguồn vốn, đúng đắn khi lên kế hoạch chi tiết ở từng giai đoạn và đúng đắn khi tạo nên cảm hứng lao động cho tập thể công ty. Tôi bắt đầu sự nghiệp từ một cô sinh viên ham mê học hỏi, đến một nhân viên quyết tâm đạt được những thành công và bây giờ là một người chủ mong muốn tạo ra nhiều giá trị cho cộng đồng và truyền cảm hứng đam mê đến nhiều người hơn. Tôi đã trải qua rất nhiều điều mà thế hệ các bạn trẻ đang phải đối mặt và tôi hiểu các bạn đang khát khao điều gì. Tôi ở đây là muốn giúp bạn, đầu tiên là xác định các mảnh ghép đam mê và các cách thức để bạn dùng niềm đam mê lớn lao ấy làm được những điều mà bạn hằng mong ước. Niềm đam mê là hữu hình nhưng nó lại được cụ thể hoá bằng những việc làm, những hành động thực tế. Thế nên, xuyên suốt cuốn sách này, tôi tập trung chia sẻ rất nhiều điều về việc chọn ngành học, chọn công việc, chọn công ty và cách bạn quản lý tiền bạc để thực hiện những dự định lớn hơn sau này. Đam mê và tiền bạc không thể tách rời nhau và xem giữa hai điều này chính là công việc mà bạn phải làm mỗi ngày. Đam mê thúc đẩy bạn làm kiếm tìm công việc mình yêu thích còn tiền bạc thì giúp bạn thực hiện được đam mê dễ dàng hơn. Đó là điều chắc chắn và bạn phải hiểu rõ điều đó ngay khi bạn chọn một ngành nghề, một công việc đầu tiên trong đời mình! Con đường hợp lý với mỗi chúng ta sẽ là: chọn đúng ngành nghề mình yêu thích ở một ngôi trường phù hợp và có những người bạn, người thầy tốt; làm đúng công việc chuyên môn ở môi trường với những người đồng nghiệp có cùng đam mê; tiết kiệm và đầu tư từ sớm để có đạt được an toàn tài chính suốt đời. Và khi muốn thực hiện một bước ngoặt mới hơn trong sự nghiệp, như thành lập một công ty của riêng mình chẳng hạn, bạn đã có được những điều kiện thuận lợi nhất, từ kinh nghiệm, vốn, đối tác tin cậy nhất. Thực hiện từng bước một cách đúng đắn, những thành công sẽ từ từ đến với bạn! Tại mỗi giai đoạn đó, hãy củng cố niềm đam mê của bạn. Niềm đam mê sẽ giúp bạn vượt qua những khó khăn và đưa bạn đi đến rất xa, hơn những gì mà bạn thầm cầu nguyện với vũ trụ! Emma hy vọng bạn đã hiểu về những bí mật của niềm đam mê và biết cách sống hòa hợp hơn với điều đó. Mỗi khi bạn cười, bạn chủ động làm việc có ý thức, bạn hạnh phúc với công việc của mình thì lúc đó mọi người sẽ biết được bạn đang sống trọn vẹn với niềm đam mê của mình. Bạn biết đấy, Emma làm trong lĩnh vực tài chính và đó là niềm đam mê của Emma, không có sự khát khao được học nhiều kiến thức tài chính mới thì có lẽ Emma bây giờ cũng chỉ là một người làm việc máy móc và ít có những nụ cười tươi trong công việc. Nhưng nếu chỉ nghĩ về đam mê mà bỏ qua vấn đề tiền bạc thì không ổn một chút nào, bởi vì tiền bạc có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự thành công trong nghề nghiệp và hạnh phúc trong đời của bất cứ ai. Mỗi sự thay đổi về số dư đồng tiền trong túi làm cuộc sống của tất cả chúng ta ảnh hưởng theo, theo hướng tích cực hoặc tiêu cực mà không phải ai cũng điều chỉnh được. Chính vì vậy ngay từ lúc tìm kiếm niềm đam mê, bạn cũng phải học cách làm chủ đồng tiền và sử dụng chúng đúng cách để đầu tư cho đam mê và hạnh phúc về sau. Hãy nhớ kỹ về điều này, vì không phải ai cũng may mắn sớm gọi tên được niềm đam mê, có thể bạn phải mất một thời gian để tìm kiếm điều đó và khi đã tìm thấy rồi bạn còn phải duy trì ngọn lực đam mê ấy nữa. Trong khi đó, bạn lại hoàn toàn có thể làm chủ những đồng tiền quý giá của mình bất kể bạn bao nhiêu tuổi và làm tiền bạc sinh thêm nhiều tiền bạc hơn. Tiền bạc và đam mê phải là cặp bài trùng để xây dựng một cuộc sống vững chắc và hạnh phúc. Chỉ khi có điều bạn mới tiến đến những tầm cao mới và có được nhiều sức mạnh hơn để giúp đỡ người khác cũng như cộng đồng của mình. Chính bản thân sự nghiệp của Emma cũng bắt đầu bằng đam mê và mong muốn giúp cho cuộc sống của mọi người được tốt hơn với việc cung cấp các kiến thức và công cụ hữu ích để sớm đạt được tự do tài chính. Rất nhiều người đã và đang làm thế như thế, bạn sẽ là người tiếp theo. Bất kể bạn đang ở độ tuổi 20 hay 50, bạn đang là sinh viên ở đô thị hay một lão nông trên vùng núi, bạn đang thất nghiệp hay đang trên đỉnh cao danh vọng thì bạn vẫn phải tiếp tục làm việc cho đến ngày không còn sức lực nữa. Sống và làm việc là đôi bạn thân mà bạn khó có thể tách rời chúng được. Không thể mong muốn công việc nhàn hạ nhưng vẫn có tài sản lớn, cũng không nên mong quây quần trong sự nghiệp kiếm tiền mà quên đi những hạnh phúc bên cạnh. Đừng làm đôi bạn thân này thành kẻ thù mà hãy ngày ngày bồi đắp thêm bền lâu. Sống vì công việc, làm việc vì đam mê là cách bạn giúp mình hạnh phúc và phát triển ngay trong đời sống này. Có bắt đầu thì sẽ không bao giờ là muộn, dù bạn đang ở đoạn đường nào của cuộc đời cũng đều có cơ hội nắm lấy đầu mối đam mê bằng lòng can đảm và quyết tâm theo đuổi đến cùng. Hãy bắt đầu bằng việc tìm kiếm đam mê của mình và làm việc với nó đến hết đời. Bạn không chỉ có tiền bạc dồi dào mà còn có hạnh phúc lớn lao. Hãy lựa chọn một công việc yêu thích để kiếm tiền, hoặc kiếm thật nhiều tiền để thực hiện đam mê, vì bạn phải dùng hơn một nửa cuộc đời hoặc thậm chí cả đời để làm việc đó! Hay nói cách khác, đam mê không để làm cảnh, đam mê là để ra tiền! Mời các bạn mượn đọc sách Đam Mê Không Để Làm Cảnh, Đam Mê Là Để Ra Tiền của tác giả Emma Casey.