Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Gánh Xiếc Qua

Đó là một câu chuyện có thể khiến độc giả đọc xong không nhớ được tên nhân vật. Cũng như, các tiểu thuyết của Patrick Modiano không bao giờ đòi hỏi người đọc quá nhiều, ngược lại, chúng mang lại cả một thế giới huyền hoặc và tinh tế của tuổi trẻ, với nỗi hoang mang, kèm theo đó là lòng can đảm, những nỗi đau, và cả niềm hân hoan tràn ngập. Đến cả nỗi buồn, trong văn chương của Modiano, lúc nào cũng như thể sắp nhẹ nhõm bay đi. Một gánh xiếc qua giống như một chương đặc biệt của bản nhạc dài bao gồm cả Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối và Từ thăm thẳm lãng quên. Một bản nhạc đặc biệt da diết, như để nói lên một điều: Dẫu ở độ tuổi nào, bao giờ người ta cũng quá trẻ khi sống ở Paris. *** Trước khi bắt đầu đọc Một gánh xiếc qua thì mình đã từng xem trước một số bài đánh giá và cảm nhận về tác phẩm này, vì “đọc sách Modiano để trở thành chúa tể” chứng tỏ những cuốn sách này sẽ rất khó nhai. Thật may trí nhớ hạn hẹp của mình đã không phá hỏng trải nghiệm với Một gánh xiếc qua, ngược lại những thông tin mà mình nhớ được từ các bài review đã giúp mình hiểu được một số chi tiết trong truyện, cũng như tự nghiệm thêm một số thứ mà có lẽ phải nhiều ngày sau mình mới nhận ra được. Bài viết này là những cảm nhận đầu tiên của mình nên sẽ còn thiếu sót. Một ngày nào đó mình sẽ viết một bài cảm nhận đầy đủ hơn, chắc vậy. Một gánh xiếc đã qua có một câu chuyện đơn giản đến mức làm người đọc cảm thấy khó hiểu vì sao nó có thể tối giản như thế. Cuốn sách là một bản thuật lại diễn biến một chuyện tình xảy ra trong năm ngày liên tục từ một ngày thứ 5 của tháng 11 năm 1963 ở thành phố Paris. Cực kỳ đơn giản, nhưng cũng cực kỳ khó hiểu. Ta hiểu đơn giản đây là một chuyện tình, nhưng khó hiểu vì sao chuyện tình xảy đến quá nhanh và kết thúc cũng rất nhanh. Ta biết đơn giản đây là mối tình chân thành Obligado và Gisele, nhưng rồi sẽ cảm thấy khó hiểu vì trong những lời nói dối liệu họ có thật sự yêu nhau không. Ta đọc cái kết đơn giản nhưng cũng đầy chóng vánh sau 162 trang giấy, và khi suy ngẫm hồi lâu, một loạt câu hỏi sẽ đổ ra vì cái kết quá đỗi đơn giản như thế. Chúng ta được nghe Obligado kể về mối tình năm ngày của anh với Gisele, một cô gái xinh đẹp với quá khứ bí ẩn và sự chuẩn bị cho cuộc đời mới ở Rome. Nàng sẽ dẫn Obligado và người đọc tới một loạt các câu hỏi về thân phận thực sự của nàng, rồi nàng đưa chúng ta gặp gỡ những con người bí ẩn và một loạt câu hỏi khác. Thoạt tiên, ta sẽ tưởng tác giả đang sử dụng cốt truyện đơn giản kia để che lấp hành trình truy tìm danh tính thật sự của Gisele, nhưng khi tất cả sự thật sắp hiện ra trước mắt, bạn nhận ra dòng chữ kết thúc cho mối tình và cả cuốn sách đã hiện lên trước mắt bạn rồi. Vậy mục đích của tác giả là gì? Patrick Modiano chỉ muốn hé lộ chút thông tin về quá khứ của Gisele, hay tìm cách làm độc giả bàng hoàng và bất ngờ khó tả, hay chỉ đang mượn tay Obligado để kể cho chúng ta nghe một câu chuyện vỏn vẹn 160 trang sách? Chẳng ai biết được ý đồ của tác giả, và có khi chính ông cũng không xác định được ý đồ thật sự của mình là gì. Tác giả bày ra một mê cung với điểm đầu là văn phòng cảnh sát nơi Obligado và Gisele lần đầu gặp nhau, đường đi là năm ngày diễn ra chuyện tình, và điểm cuối ở khách sạn khi cuốn sách kết thúc. Nhiệm vụ của người đọc là băng qua mê cung do Patrick Modiano bày ra kia bằng mọi con đường có trong mê cung. Con đường người đọc đã chọn chính là cách hiểu của họ về cuốn sách, hay chính là cách hiểu về năm ngày diễn ra chuyện tình kia. Năm ngày của Obligado và Gisele về cơ bản là năm ngày của tình yêu, nhưng người đọc chúng ta có thể nhìn ra đó là năm ngày thay đổi trong tâm hồn của hai nhân vật, hoặc năm ngày để Obligado tiếp tục sống ở thành phố anh từng có ý định rời đi, hoặc năm ngày một cô gái điếm như Gisele thực sự được biết hai chữ hạnh phúc. Một gánh xiếc qua hay ở chỗ đó. Sự đơn giản trong cốt truyện là yếu tố để độc giả “phức tạp hoá” mọi thứ theo cách hiểu của họ. Sẽ không có một motif chung để review cuốn sách này, vì mỗi người chúng ta có một con đường riêng để truy tìm ý nghĩa ẩn sâu trong cái mê cung mà Patrick Modiano đã bày ra. Nhưng mê cung của Patrick Modiano thật quá ngắn. Vào cái lúc cao trào và mọi dự định về một cuộc sống mới sắp được thực hiện thì bùm, câu chuyện kết thúc. Câu chuyện diễn ra quá nhanh và kết thúc cũng thật quá nhanh. Những dòng chữ cuối cùng khiến cho độc giả bị ứ nghẹn bởi thứ cảm xúc khó tả và sự ngạc nhiên vô cùng. Mình sẽ không viết dòng chữ đó ở đây vì đây là chi tiết làm bùng nổ cảm xúc nhất, ít nhất với mình là vậy. Mình chỉ dám tiết lộ đây là một kết thúc không có hậu, một bad ending. Gisele đã rời khỏi cuộc tình năm ngày, để lại trong Obligado tới cả chục năm sau những ký ức tươi đẹp và rõ ràng đến nỗi anh có thể kể lại toàn bộ diễn biến và nội tâm của anh như chuyện mới xảy ra ngày hôm qua. Còn với người đọc, ngay cả những người đa cảm nhất cũng không thể rơi được một giọt nước mắt ngay khi họ đọc đến cuối truyện, vì câu chuyện đã kết thúc trước khi họ được chứng kiến một chuyện tình viên mãn. Thật sự quá đột ngột, và ta sẽ liên tục hỏi Patrick Modiano “Ông có nhất thiết phải làm như vậy không?”. Patrick Modiano xây dựng một chuyện tình đẹp đẽ giữa hai con người xa lạ ở Paris, ông để kế hoạch trong sang Rome tiến triển thật thuận lợi, và chỉ một chút nữa thôi, Obligado và Gisele có thể cùng nhau lên đường tiến về cuộc sống mới ở thành Rome lộng lẫy. Và rồi Patrick Modiano bóp vụn nó, chỉ trước lúc khởi hành độ 10 phút. Nhưng đó chính là cái tài kể chuyện của Patrick Modiano. Rất nhiều lần trong cuốn sách này Obligado đã tự hỏi và lo lắng Gisele “sẽ biến mất và để lại tôi với cái xe vô tích sự này”. Tác giả dùng những ý nghĩ và cảm xúc của Obligado để người đọc chúng ta cũng cảm thấy tò mò về thân phận bí ẩn của Gisele, e ngại về những người bạn và khoản tiền kỳ lạ trong một căn nhà cũ, lo lắng mỗi khi nàng biến mất trong một góc phố hay một tòa nhà. Đặc biệt nhất là ông sử dụng Obligado của hàng chục năm sau để kể về mối tình năm ngày. Điều đó có ý nghĩa gì? Vì những lời bộc bạch của Obligado trưởng thành trong lúc xen kẽ với lúc Obligado 18 tuổi cho ta biết rằng Gisele bằng một cách nào đó sẽ rời khỏi cuộc tình và từ bỏ kế hoạch trốn thoát tới Rome, để lại một Obligado có thể “òa khóc nức nở một cách ngu xuẩn” khi có người vô tình hỏi “Thế anh vẫn còn gặp cô gái đấy chứ?”. Patrick Modiano nhá trước cho chúng ta một cái kết không mấy tốt đẹp, ông lại lồng thêm cảm giác nơm nớp và sợ sệt một lúc nào đó Gisele sẽ rời đi mất, và rồi tự hỏi nàng có thật sự yêu Obligado hay không. Để rồi khi chúng ta đọc đến những con chữ cuối cùng của cuốn sách, ta mới biết lý do cặp đôi chia lìa và câu trả lời cho nỗi băn khoăn khi nãy. Thế đấy, chúng ta đã sập vào cái bẫy của Patrick Modiano. Cái bẫy của ông tài tình tới mức người đọc cứ đi thẳng vào nó, và họ sẽ chẳng biết mình đang kẹt trong một cái bẫy nếu cuốn sách của họ nằm phủ bụi sau lần đầu đọc đầu tiên. Tuy thế, đây mới chỉ là bề nổi của Một gánh xiếc qua. Một gánh xiếc qua là một mê cung được tạo bởi kiến trúc xư tài ba Patrick Modiano. Ông tạo dựng một cốt truyện đơn giản đến khó tin bằng những con chữ đen cỡ 14, để khỏa lấp hàng tầng ý nghĩa ẩn sau cuộc tình ngắn ngủi kia. Đó là mối quan hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai; là lý do để Obligado ở lại Paris thay vì trốn tránh quá khứ như cha mẹ; là cái tên thực sự của Obligado và Gisele. Nếu mình còn viết tiếp thì đây sẽ là một bài phân tích chứ không phải là một bài review nữa. Bề sâu của tác phẩm, tốt hơn hết các bạn hãy nên tự khám phá để tìm ra ý nghĩa thực sự mà tác phẩm dành cho bạn. Vả lại, tự tay cầm lên cuốn truyện và thưởng thức nó đến trang cuối cùng mà không biết trước điều gì đang chờ đợi vẫn là cách cảm thụ hay hơn cả. Bài review này chỉ đóng vai trò giúp các bạn xác định được phương hướng khi bước vào mê cung của Patrick Modiano, để các bạn không bị mắc vào cái bẫy vô hình ông đặt ra trước mắt. Và mình tin rằng, sau khi đọc hết 160 trang giấy kia, các bạn sẽ tự mình tìm được ý nghĩa riêng của tác phẩm với bản thân mình mà không phải theo một khuôn mẫu nào. Vì đó là cái tài của Patrick Modiano: tạo ra một cuốn sách giản đơn để độc giả tự bồi đắp cho chính cuốn sách bằng những suy nghĩ của họ. Đánh giá: 10/10. Tuyệt phẩm của nền văn học hiện đại. *** Cái tên ấy vô cùng lạ lẫm với đại đa số độc giả ngoài biên giới nước Pháp. Năm ấy, người ta hướng về Svetlana Alexievich, đợi cái tên Murakami Haruki được xướng lên, nhiều hơn là một nhà văn “ít tên tuổi”. Cứ như thể từ thinh không, Modiano xuất hiện, và ngay giây phút “ra đời” ấy, ông đã sừng sững bước lên bậc đá chỉ dành cho những người vĩ đại nhất. Tờ Telegraph trong một bài viết về ông thậm chí đã giật tít thế này: “Patrick Modiano - Chủ nhân giải Nobel Văn học, mà chúng ta chưa ai từng đọc tới”. Dĩ nhiên, đó chỉ là cách nói phóng đại mà nhà báo vui tính người Anh nào đã tạo nên. Nhưng quả thực, trước cái ngày định mệnh ấy, nhà văn của kinh đô ánh sáng Paris hầu như không để lại chút tiếng tăm nào vượt qua mảnh đất mình sinh ra. Ngay cả trong nước Pháp, ông cũng sống như một ẩn sĩ của làng văn, chẳng màng danh lợi, trốn tránh truyền thông. Dẫu vậy, không ai phải tranh cãi nhau về giải thưởng này, khác với những giải Nobel được trao cho Elfriede Jelinek hay Mạc Ngôn - những nhà văn nổi tiếng hơn ông rất nhiều. Văn chương của ông ngay lập tức được chú ý sau đó, và dĩ nhiên, dễ dàng hạ gục mọi người đọc còn đương nghi ngờ. Dù hiểu thế giới của ông hay không, dù yêu thích không khí Paris trong văn ông hay không thì tất cả đều đồng ý một điều, rằng: Ông xứng đáng là một cây bút ăn giải Nobel. Không cần phải được rọi sáng dưới ánh đa sắc lộng lẫy, bản thân những trang văn giản dị và ngắn ngọn của Modiano đã tiềm tàng sức hút ghê gớm đầy lạ kì. Những tác phẩm của ông là bài ca của nỗi buồn da diết, của những ẩn ức quá khứ bất tử, của những băn khoăn mông lung về bản thể thực sự của một con người. Khi lạc vào văn chương Modiano, ta sẽ bị cái khoảng không nhẹ bẫng, mơ hồ, tinh tế với những nhân dạng nhờ nhợ mắc kẹt trong những tình huống kì lạ - mà người ta gọi là Modianesque, cuốn lấy. Và khi ta gập trang sách cuối cùng và ngơ ngẩn ngước về thinh không, sẽ chỉ còn nỗi buồn ngân vang dừng lại trong tâm trí. Di sản của ông để lại phần lớn là những tác phẩm chỉ dài hai trăm trang sách trở lại. Thoạt đầu, ta ngỡ rằng rất nhiều cuốn giống nhau, là sự lặp lại nhau. Những suy nghĩ ấy thực ngây thơ, bởi văn của ông nói nhiều hơn độ dài của nó, những câu chuyện của ông đan xen lấy nhau, nhưng không hòa tan vào nhau mà mỗi câu chuyện là một mảnh ghép tạo nên vương quốc của kí ức. Giống như trò chơi Trí Uẩn, với bảy mảnh ghép mà thôi, ta có thể dệt nên cả thế giới. Trong ấy, có một bộ ba “na ná” nhau hơn cả, ba trường đoạn của một bản trường ca. Đó là cuốn “Một gánh xiếc qua”, “Từ thăm thẳm lãng quên” và “Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối”. Đó là những khúc ca Patrick Modiano dành cho Paris hoa lệ mà ông đã mắc kẹt trong nó như một tù nhân, dành cho những cuộc tình say đắm, và đặc biệt, dành cho những người trẻ đang sống mà chẳng thực sống. Nhưng hãy khoan đi đến hai tác phẩm phía sau, hôm nay, hãy chỉ khám phá và chia sẻ về chương đầu tiên của trường ca ấy: “Một gánh xiếc qua”. Đằng sau cuốn sách, dịch giả Trần Bạch Lan đã tóm lược một điều mà tác phẩm này muốn cất lên: “Dẫu ở độ tuổi nào, bao giờ người ta cũng quá trẻ khi sống ở Paris”. Đọc một cuốn sách không đơn thuần là tiếp nhận ngôn từ ở bề mặt, mà đó là một hoạt động tinh tế hơn thế rất nhiều. Ta phải bóc tách lớp chữ đen trên mặt giấy để giải mã những chi tiết tế vi, mà đôi khi chỉ thấy được khi ta trôi vào những khoảng không phía sau từ ngữ. Thiên chức của một nhà viết tiểu thuyết, chính Patrick Modiano đã nói trong Diễn từ nhận giải của mình: “...trước cái trang giấy trắng mênh mông của lãng quên để làm bật dậy vài lời đã nửa phần bị bôi xóa, như những tảng băng sơn lạc loài trôi dạt trên bề mặt của biển cả”. Ở tảng băng đó, phần nổi có khi chỉ mang vai trò của một chiếc mặt nạ, còn bề sâu, ấy mới là thứ người đọc phải xâm lấn. Nói dài đến vậy, để ta thấy rằng, tác phẩm của Modiano đích thực là một mê cung mà nếu chẳng tỉnh táo, ta sẽ bị cốt truyện đơn giản đến tối giản lừa lọc, bị lạc lối trong khu phố mà chẳng hề nhận ra, ở góc đường, khuất sau cột đèn vàng vọt thờ ơ, chính là lối thoát mong đợi. Và “Một gánh xiếc qua” là minh chứng rõ rệt hơn cả cho quan niệm ấy. Hãy mở trang đầu tiên để đi vào thế giới huyền hoặc bí ẩn của Modiano, trong “Một gánh xiếc qua” - một thiên truyện tình mê hoặc, một nỗ lực lần lại sợi dây kí ức để giải đáp về hiện tại, một khao khát hướng người trẻ đến sự sống cao hơn, một lời khuyên về cách ta đọc một cuốn sách. “Một gánh xiếc qua” ở bề mặt của nó, ắt hẳn là một câu chuyện về tình yêu. Tình yêu của hai người trẻ. Cậu trai mới mười tám, đã bỏ học, nói dối mình đã hăm mốt, bị cha mẹ bỏ rơi và phải sống cùng “cấp dưới” của cha trong một căn hộ sắp biến mất - Obligado. Nàng là một người đẹp bí ẩn như đứng giữa sương khói - Gisèle. Họ tìm thấy nhau tình cờ, trong một buổi chiều Paris, lần lượt bị tra khảo. Obligado là người đầu tiên, bị hỏi về những cái tên khác lạ lẫm, chỉ vì “tên cậu xuất hiện trong sổ agenda của một người”. Kế đến là Gisèle, với một cuộc thẩm vấn dài hơn rất nhiều. Và Obligado quyết định chờ nàng, chẳng vì lý do xác đáng nào. Có lẽ, anh đã mơ màng nhìn thấy tình yêu, qua cái chạm mắt trong khoảnh khắc đó, khi anh rời đi. Chờ nàng, để rồi nàng nhờ anh cầm chiếc va li nặng mà trong ấy anh nghĩ là có vàng. Và để rồi họ ngủ với nhau, trong căn phòng tạm bợ của Obligado. Đời họ cắt nhau lãng xẹt như thế. Chỉ trong năm ngày bên nhau, năm ngày yêu nhau, mà ngỡ là cả một đời người. Họ lên kế hoạch trốn thoát khỏi Paris, để sang Rome kiếm một cuộc đời khác. Và tình thì si. Chàng trai trẻ sẵn sàng bỏ lại tất cả, dù hầu như anh chẳng còn lại gì, để trốn chạy cùng người mình yêu. Trong những ngày ấy, Gisèle đưa anh gặp những người lạ kì, những kiểu người chỉ lướt qua đời ta như cơn gió tạt vào ta rồi vĩnh viễn chìm vào hư không. Nhưng những người ấy đều được bọc trong bầu không khí của sự bí ẩn. Họ gặp Jaques de Baviere, một người đàn ông có lẽ mang một tình cảm đặc biệt với Gisèle, sẵn sàng cho họ mượn chiếc xe ôtô của mình. Họ gặp Ansart, một gã trung niên luôn có chút nuối tiếc hoặc buồn bã mỗi khi nói về tuổi trẻ, nhưng đồng thời cũng là kẻ có hành tung đáng nghi. Rồi Ansart muốn họ chuyển lời tới một người đàn ông vô danh - người sẽ biến mất, cùng với cả Ansart lẫn Jacques, ngay sau đó. Rồi thì Guelin, cái gã đã nói cho Obligado về tên thật của nàng, Suzanne Kraay, về việc nàng từng đi tù, từng cưới chồng và có lẽ, làm điếm ở ngôi nhà số 34 phố Desaix. Nhưng những cái tên ấy thì có nghĩa gì? Họ thi thoảng sẽ quấy rầy Obligado của tuổi bốn mươi. Nhưng chẳng ai làm anh đau đớn như Gisèle (hay là Suzanne nhỉ?). Nhưng chẳng cái tên nào ngoài tên người anh yêu có thể khiến trái tim anh run rẩy, đầu óc anh quay cuồng, và làm bất chợt có cái gì ươn ướt lướt dài dưới hàng mi anh... Ngay sau phi vụ Ansart, ngay trước khi họ rời bỏ Paris sang Rome tươi đẹp, cô mất. “Bạn gái cậu. Tai nạn. Ngay sau cầu Suresnes” - những dòng kết lại cuốn sách, đầy gấp gáp, đầy đau đớn. Như có gì nghẹn lại trong họng ta, ta chỉ có thể thốt lên vài ba từ, về cái chết của người yêu. Obligado như thể đã đoán ra được cái kết tất yếu ấy, ngay sau phi vụ mà anh tưởng chính mình là tòng phạm, mà ngẩn ngơ: “... tôi đã hiểu hết trước cả khi kịp nghe”. Obligado đã cô đơn hầu như cả phần đời tươi trẻ của mình. Cha anh ắt hẳn là một tội phạm từng làm nhọc lòng nhiều thẩm phán, đã sang Thụy Sĩ. Mẹ anh là một nghệ sĩ, đâu đó ở Nam Tây Ban Nha, chẳng rõ sống chết. Họ rời bỏ anh, để anh lại với Grabley, người đàn ông chung thuyền với người cha đầy những bí mật. Có lẽ chỉ đến khi Gisèle giành một chỗ trong đời anh, Obligado mới không sống như một bóng ma. Bóng ma trong một căn phòng rỗng tuếch, của một khu nhà sắp dỡ. Bóng ma trong trường đại học mà anh chẳng hề là sinh viên, dẫu có bằng chứng giả cho việc anh học tại ấy. Bóng ma ở đời khi Obligado luôn thiếu động lực, mơ màng về tương lai và u uất khi nhìn về quá vãng, luôn nghĩ người khác đúng còn mình sai, thiếu bản sắc riêng của một con người. Chỉ đến khi gặp nàng, anh mới có dũng khí và sức sống, để sẵn sàng rủa vào mặt tên Guelin: “...thằng già đê tiện!”, và dám đưa tiền cho gã gác đêm của khách sạn mà trước đó anh còn ngại ngần đối đầu, để có phòng cho cả hai người họ. Thế mà rồi nàng ra đi. Lời hẹn lát gặp của họ mãi mãi ra đi. Chẳng có Rome, chẳng có đời sống nào khác. Chỉ còn ở lại nỗi tiếc nuối. Những người yêu nhau có lẽ sẽ hiểu cảm giác ấy hơn cả. Dẫu cho người yêu không mất đi, nhưng chỉ cần tưởng tượng nên viễn cảnh ta thả tay nàng một lát, ta khuất bóng nhau vài giây là tuột khỏi nhau cả đời, ta đã có thể nức nở. Còn gì đau hơn việc người ta yêu, sẽ biến mất khỏi đời ta, và chỉ còn lại những kí ức có thể chìm vào lãng quên bất cứ lúc nào. Cái nức nở của Obligado ở độ tuổi bốn mươi, khi được một người hỏi về việc có còn gặp lại nàng không, như một vết chích côn trùng, ta cứ ngỡ là chẳng sao, để rồi khi dấu chấm kết chương đến thì nó hóa thân thành viên đạn bạc, xoáy vào vết thương kia một cách thô bạo: “Tôi kinh ngạc trước câu hỏi đến nỗi phải ấp úng một câu trả lời mơ hồ. Khi chỉ còn lại một mình, ngoài đại lộ, tôi đã òa khóc một cách ngu xuẩn”. Nhưng nước mắt của người đàn ông đã đi qua câu chuyên kia hai mươi năm thì có thể làm gì để vực dậy hiện tại? Câu chuyện tình ấy chẳng thỏa mãn bất kì ai. Nó buồn và để ngỏ nhiều điều mãi không được hồi đáp: Nàng thực sự là ai? Có phải nàng làm điếm ở căn nhà số 34 phố Desaix? Có thực là nàng quen Jacques, Ansart, Martine mới ba tuần? Phi vụ đem cho họ một phong bì tiền để tới Rome, thực chất có phải một vụ bắt cóc? Cái chết của nàng có phải một sự sắp đặt, để bịt miệng một nhân chứng cho cuộc bắt cóc kia? Nếu thế thì sao Obligado lại sống sót? Hay nàng tự kết liễu cuộc đời khốn khổ của mình? Ôi, câu chuyện tình của những điều ta chẳng biết. Modiano đâu có nói cho ta hay? Ta chỉ biết họ đã yêu, đã say, đã cuồng nhiệt. Ta chỉ rõ họ đã mơ, rồi giấc mơ đã tan vỡ. Ta chỉ hay tình yêu tuổi trẻ thì luôn đầy hoang mang - như cái cách Obligado luôn sợ nàng sẽ bỏ anh đi, nhưng cũng đầy bản lĩnh. Ta, sau rốt, thấy nỗi đau của tình yêu có thể ám ảnh mình, dẫu có chạy khỏi nó xa đến cả hai mươi năm. Mời các bạn đón đọc Một Gánh Xiếc Qua của tác giả Patrick Modiano & Cao Việt Dũng (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cô Gái Trong Cabin Số 10
“Agatha Christie gặp Cô gái trên tà Đáng sợ và bất an, đây là một cuốn sách khiến bạn phải hồi hộp” - Fabulous Magazine   Laura “Lo” Blacklock, từng là một nhà báo trẻ tuổi đầy tham vọng, nhưng giờ đã ngoài ba mươi, đầu óc phần nào rệu rã bởi thói nát rượu, mắc kẹt trong một công việc tầm thường tại một tạp chí du lịch. Cô may mắn được đi trên Aurora, một chiếc du thuyền hạng siêu sang, và cô những tưởng đấy sẽ là một cơ hội có một không hai giúp cô đổi đời và thăng tiến sự nghiệp nhờ việc được gặp gỡ những người có địa vị chót vót trong xã hội. Nhưng rốt cục thứ cô nhìn thấy lại là một phụ nữ bị ném xuống biển trong đêm tối. Và tất cả mọi người trên thuyền đều khẳng định rằng cô hoang tưởng, bởi người phụ nữ đó không hề tồn tại. Độc giả trinh thám sẽ nhận ra lối viết trinh thám của Ruth Ware chịu ảnh hưởng rất lớn từ Agatha Christie: những không gian kín chật chội và cô lập, nhân vật nữ bị cuốn vào một vụ án mạng bí ẩn, những tình tiết mô tả tâm lý hoảng loạn và sợ hãi một cách xuất sắc. Cô gái trong cabin số 10 chính là một tác phẩm nhuần nhuyễn đủ sức khơi dậy và khéo léo duy trì nỗi hồi hộp của người đọc qua hàng trăm trang sách. TÁC GIẢ: Ruth Ware (1977) bắt đầu sự nghiệp văn chương khá muộn. Trước khi trở thành nhà văn toàn thời gian, cô đã từng làm các công việc bồi bàn, bán sách và quảng cáo. Bắt đầu bằng các tác phẩm dành cho thiếu niên, nhưng cô chỉ thực sự thành công khi chuyển sang thể loại trinh thám ly kỳ, giật gân. Những tác phẩm trinh thám của Ruth Ware như Rừng sâu tăm tối và Cô gái trong cabin số 10 nhanh chóng trở thành Bestseller và nhận được sự yêu mến của độc giả. *** Ruth Ware/ Anh Thư dịch Sau 3 ngày nghiền ngẫm thì mình cũng lên được bờ cùng với Laura “Lo” Blacklock, nhân vật chính của chúng ta. Mình sẽ tập trung vào điểm mạnh và điểm yếu của cuốn sách và sẽ không spoil để tránh là các bạn mất hứng +Điểm mạnh: Trong cuốn sách này, Ruth Ware đưa người đọc ra ngoài biển khơi trên một chiếc du thuyền hạng sang, có thể nói đây là trinh thám trong phòng kín khi xuyên suốt từ đầu câu chuyện nhân vật chính luôn luôn ở trong tình trạng 1 mình trong 1 căn phòng nhỏ hẹp với tâm lý bất ổn đến đáng sợ,và 1 vụ án mạng đầy uẩn khúc và khó khăn hơn khi không một ai tin lời cô nói. Tình tiết xây dựng chặt chẽ, tâm lý nội tâm được miêu tả khá rõ nên đôi chỗ mình phải đặt bản thân mình vào đó mới cảm nhận được dù đôi chỗ hơi dài dòng. Các nhân vật xuất hiện hợp lý, và mỗi lần xuất hiện đều liên quan chặt chẽ đến mạch truyện Nhân vật chính được xây dựng tốt, trong hoàn cảnh nguy hiểm nhưng luôn luôn đặt niềm tin vào bản thân, quyết đoán và mạnh mẽ đến giây phút cuối cùng +Điểm trừ: Như đã nói ở trên thì càng về cuối thì lời kể bị dài dòng, tác giả lạm dụng miêu tả cảm xúc quá đến mức cảm thấy hơi oải khi đọc tiếp Có 1 2 chỗ sai chính tả :< (có lẽ là lỗi đánh máy) Mình mong chờ 1 sự bùng nổ về cuối nhưng có chút gì đó hơi hụt hẫng, plot twist tạm ổn chứ ko đến nỗi xuất sắc P/s: Sau hôm nay, chắc chắn 1 điều mình sẽ bước sang Rừng Sâu Tăm Tối khi đã đọc các reviews từ goodread của tác phẩm. Còn về Cô Gái Trong Cabin Số 10, rất thích hợp cho fan trinh thám, đặc biệt là các bạn theo ngành tâm lý học, và với thời tiết nóng nực và tình hình dịch căng thẳng như hiện nay thì cuốn sách này sẽ là sự lựa chọn hoàn hảo nha các bạn Sr vì mình ko giỏi chụp choẹt lắm Hoang *** Trong giấc mơ, cô gái ấy đang bồng bềnh sâu, sâu mãi bên dưới những con sóng ầm ầm và tiếng rít của đám mòng biển, trong làn nước lạnh giá không ánh mặt trời của Bắc Hải. Tôi mơ thấy đôi mắt biết cười trắng dã và húp lên vì nước muối, thấy làn da trắng nhợt nhăn nheo, quần áo bị đá lởm chởm làm cho rách nát và đang tan dần thành từng mảnh vụn. Chỉ có mái tóc đen dài là còn lại, bồng bềnh trong nước như lá tảo biển đen, mắc vào vỏ trai vỏ sò và lưới đánh cá, bị sóng cuốn lên bờ biển thành nùi tựa dây thừng xác xơ; nằm rũ rượi ở nơi đó, tiếng ầm ầm của sóng xô bờ dội vào bãi sỏi lấp kín tai tôi. Tôi tỉnh dậy khiếp đảm ghê gớm. Mất một lúc tôi mới nhớ ra mình đang ở đâu, và phải một lúc lâu hơn mới nhận ra tiếng ầm ầm trong tai không phải là từ giấc mơ, mà là của hiện thực. Căn phòng tối om, với cùng một thứ sương mù ẩm ướt tôi cảm thấy trong mơ, và khi ngồi dậy, tôi nhận ra một luồng gió mát thổi lên má. Nghe như tiếng động phát ra từ phòng tắm. Tôi trèo xuống giường, hơi run rẩy. Cánh cửa đóng, nhưng khi bước tới chỗ nó, tôi nghe thấy tiếng rền vang lớn hơn, cùng tiếng tim tôi dập mạnh dần. Dồn hết can đảm vào hai bàn tay, tôi đẩy mở cánh cửa. Tiếng vòi sen lấp đầy căn phòng nhỏ khi tôi lần sờ tìm công tắc. Ánh sáng tràn khắp nhà tắm - và đó là lúc tôi nhìn thấy nó. Được viết ngang tấm gương phủ kín hơi nước, với những con chữ cao đến mười hai phân, là dòng chữ “ĐỪNG XÍA VÀO”. *** Lần đầu tiên tôi mơ hồ nhận ra có gì đó không ổn là khi tỉnh dậy trong bóng tối và nhận ra con mèo đang vỗ nhẹ vào mặt mình. Chắc là tôi đã quên đóng cửa nhà bếp tối qua. Thôi thì cũng đáng cái tội say xỉn về nhà. “Ra chỗ khác đi,” tôi rên rẩm. Delilah kêu meo meo và dụi đầu phản đối. Tôi cố vùi mặt vào gối nhưng nó cứ cạ vào tai tôi, thế là cuối cùng tôi trở mình và nhẫn tâm đẩy nó ra khỏi giường. Nó rơi thịch xuống sàn với một tiếng “méo” đầy bực bội, còn tôi thì kéo chăn lông vịt quá đầu. Nhưng ngay cả khi trùm kín chăn tôi vẫn có thể nghe thấy nó cào vào chân cửa khiến cửa kêu lạch cạch. Cửa đóng. Tôi ngồi dậy, tim đột nhiên đập thình thịch, còn Delilah nhảy lên giường với một tiếng ư ử hân hoan. Tôi siết nó vào ngực, không cho nó ngọ nguậy nữa, rồi lắng tai nghe. Hẳn là tôi đã quên đóng cửa nhà bếp, mà cũng có thể tôi chỉ đẩy cửa thôi chứ chưa đóng hẳn vào. Nhưng cửa phòng ngủ của tôi lại mở hướng ra ngoài - căn hộ của tôi thiết kế quái gở vậy đấy. Con mèo không thể tự đóng cửa khi ở trong phòng. Chắc chắn một ai đóđã đóng cửa. Tôi ngồi bất động, áp cơ thể ấm áp hổn hển của Delilah vào ngực mình và cố lắng tai nghe. Không có gì hết. Và rồi, với một cảm giác nhẹ nhõm, tôi nhận ra - hẳn là nó đã trốn dưới gầm giường rồi tôi đóng cửa phòng và vô tình nhốt nó lại khi về nhà. Dù không nhớ là mình đã đóng cửa, nhưng hẳn tôi đã vô thức làm vậy sau khi vào phòng. Phải thú thật là những gì xảy ra từ lúc ở ga Tube đều khá mờ nhạt trong ký ức tôi. Cơn đau đầu mon men xuất hiện trên đường về nhà, và giờ khi cơn hoảng loạn lui dần, tôi lại cảm thấy cơn đau ấy dâng lên dần dưới gáy. Tôi thực sự cần bỏ thói nhậu nhẹt giữa tuần thôi. Hồi đôi mươi thì chuyện đó chẳng vấn đề gì, nhưng giờ những cơn váng vất không còn chóng dứt như trước nữa. Delilah bắt đầu uốn éo bứt rứt, nghiến móng lên cẳng tay tôi, và tôi thả nó ra khi với tay lấy váy ngủ mặc lên người. Rồi tôi bế con mèo lên và sẵn sàng lẳng nó ra bếp. Khi tôi mở cửa phòng ngủ, có một người đàn ông đang đứng đó. Hỏi hắn ta trông thế nào cũng chẳng để làm gì, bởi tin tôi đi, tôi đã nói đi nói lại chuyện đó chừng hai mươi lăm lần với cảnh sát rồi. “Thậm chí quanh cổ tay hắn không hở ra tí da nào à?” - họ tra hỏi. Không, không, không và không. Hắn ta mặc áo nỉ có mũ, một cái khăn rằn quấn quanh mũi và miệng, phần còn lại đều chìm trong bóng tối. Ngoại trừ đôi tay. Hắn đeo găng tay cao su. Chính điều này khiến tôi sợ phát khiếp. Đôi găng đó nói, tao biết mình đang làm gì. Chúng nói, tao đã chuẩn bị trước khi đến đây. Chúng nói, có thể tao cần nhiều thứ hơn là tiền của mày. Chúng tôi đứng đó chừng một giây dài lê thê, mặt đối mặt, đôi mắt lóe sáng của hắn dán chặt vào mắt tôi. Hàng nghìn ý nghĩ rần rật trong tâm trí tôi: Điện thoại của tôi ở chỗ quái nào rồi? Tại sao tối qua tôi lại uống nhiều vậy? Nếu tỉnh táo thì hẳn tôi đã nghe tiếng hắn đột nhập. Ôi Chúa ơi, ước gì Judah ở đây. Và trên hết - đôi găng tay đó. Ôi Chúa ơi, đôi găng tay đó. Chúng trông thật chuyên nghiệp. Thật lạnh lùng. Tôi không nói. Tôi không nhúc nhích. Tôi chỉ đứng đó, chiếc váy ngủ rũ xuống và người run bần bật. Delilah vặn mình thoát khỏi đôi tay mềm oặt của tôi và chạy vọt qua hành lang để vào bếp. Làm ơn, tôi nghĩ. Làm ơn đừng hại tôi. Lạy Chúa, điện thoại của tôi đâu rồi? Rồi tôi thấy thứ gì đó trên tay gã đàn ông. Cái túi xách của tôi - cái túi xách Burberry mới của tôi, mặc dù giờ thì quan trọng gì nhãn hiệu nữa. Tôi chỉ còn nghĩ được một thứ duy nhất về cái túi xách đó. Điện thoại của tôi đang ở bên trong. Đôi mắt hắn nhíu lại theo một lối khiến tôi nghĩ có thể nào hắn đang cười bên dưới lớp khản quấn, và tôi cảm thấy máu trong người rút hết khỏi đầu và những ngón tay rồi dồn cả về trung tâm thân thể, sẵn sàng cho những gì sắp xảy đến, dù là chiến đấu hay bỏ chạy. Hắn ta tiến lên một bước. “Đừng...” tôi nói. Tôi muốn lời đó nghe như một mệnh lệnh, nhưng nó vang lên như một lời van xin, giọng tôi nhỏ, lí nhí và run rẩy thảm hại vì sợ hãi, “Đ...” Tôi còn chẳng nói hết được từ ấy. Hắn sập cánh cửa phòng ngủ đánh sầm, khiến nó đập vào má tôi. Suốt một lúc lâu tôi đứng đờ ra đấy, tay ôm mặt, hoảng loạn và đau đớn đến không nói lên lời. Những ngón tay lạnh buốt, nhưng có gì đó ấm và hơi ướt trên mặt tôi, và mất một lúc tôi mới nhận ra đấy là máu: đường gờ trên cửa đã cắt vào má tôi. Tôi muốn quay trở lại giường, vùi đầu dưới gối rồi khóc thật lâu. Nhưng một giọng nhỏ ngớ ngẩn trong đầu tôi cứ nói, Hắn vẫn ở ngoài đó. Nếu hắn quay lại thì sao? Nếu hắn quay lại tìm mày thì sao? Có tiếng động từ hành lang bên ngoài, có gì đó rơi xuống, và tôi cảm thấy một cơn sợ hãi đáng lẽ phải khiến tôi kích động nhưng thay vào đó lại làm tôi tê liệt. Đừng quay lại. Đừng quay lại. Tôi nhận ra mình đang nín thở, thế là tôi bắt mình thở ra một hơi dài và rùng mình, rồi tôi chầm chậm giơ tay về phía nắm cửa. Một tiếng động nữa vang lên ngoài hành lang - tiếng kính vỡ - khiến tôi xông tới chộp lấy nắm cửa rồi gồng mình, những ngón chân trần nhấn mạnh xuống sàn nhà cũ lỗ chỗ khe hở, sẵn sàng giữ chặt cửa càng lâu càng tốt. Tôi cúi xuống, khom mình, đầu gối chạm ngực, cố bịt những tiếng thổn thức bằng váy ngủ, lắng tai nghe tiếng hắn lục soát căn hộ, đồng thời cầu Chúa là Delilah đã chạy ra vườn, xa khỏi tầm với của hiểm nguy. Cuối cùng, sau một lúc lâu thật lâu, tôi nghe thấy tiếng cửa trước mở ra và đóng lại. Tôi ngồi đó, gục vào đầu gối khóc, không thể tin nổi hắn đã thực sự bỏ đi. Rằng hắn sẽ không quay lại để hại tôi. Đôi tay tôi tê dại và cứng đờ đau đớn, nhưng vẫn không dám bỏ tay nắm cửa ra. Tôi lại mường tượng thấy hai cánh tay lực lưỡng đeo găng tay cao su trắng. Tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Hẳn là tôi sẽ ngồi đó hết đêm mà không dám nhúc nhích. Nhưng tôi nghe tiếng Delilah ở bên ngoài, kêu meo meo và cào vào mặt bên kia cánh cửa. “Delilah,” tôi kêu lên, giọng khàn khàn. Giọng nói run rẩy đến mức tôi cũng không nhận ra nữa. “Ôi, Delilah.” Qua cánh cửa, tôi nghe thấy nó rên rừ rừ, cái tiếng khò khè cò cử quen thuộc, và như thể một bùa phép yểm lên tôi đã bị phá bỏ. Tôi để những ngón tay bị chuột rút cứng đờ buông nắm cửa ra, đau đớn nắm duỗi chúng cho hết cơn co rút, rồi đứng dậy, cố gắng giữ vững đôi chân đang run lên bần bật, rồi vặn tay nắm. Nó xoay. Mà thực ra nó xoay quá dễ dàng, nhẹ tênh trong tay tôi, và then cửa không nhúc nhích lấy một phân. Hắn ta đã tháo khóa từ phía bên kia. Mẹ kiếp. Mẹ kiếp, mẹ kiếp, mẹ kiếp. Tôi bị nhốt rồi. Mời các bạn đón đọc Cô Gái Trong Cabin Số 10 của tác giả Ruth Ware & Anh Thư (dịch).
Người Da Đen Của Piốt Đại Đế - Alexander Pushkin
A. X. Puskin bắt đầu viết tác phẩm Người Da Đen Của Piốt Đại Đế này ngày 31 tháng Bảy năm 1827, dự định sẽ dựng nên một tác phẩm lớn. Ông thực hiện công việc suốt những năm 1827 –1828, nhưng sau năm 1828 chúng ta không tìm thấy dấu hiệu gì chứng tỏ tác giả còn tiếp tục công việc đó nữa. Cơ sở cốt truyện Puskin lấy từ tiểu sử của một trong các ông tổ đằng mẹ của mình Abram Pêtơrôvích Ganiban (trong truyện là Ibraghim), dòng dõi ởAbixinia (nay là Êtiôpia), từ nhỏ đã ở với Piốt I, được Piốt nhận làm con nuôi và cử đi Pari để học thành kỹ sư quân sự. Người ta không biết rõ lai lịch chính xác của anh Ả Rập và các hoàn cảnh đẩy anh đến với Piốt I. Trong bản tiểu sử viết tay bằng tiếng Đức của Ganiban còn giữ trong lưu trữ gia đình, sự thực lịch sử không phải bao giờ cũng được giữ đúng và nhiều sự việc trong cuộc đời ông mang tính chất rõ ràng là truyền thuyết. Tuy nhiên nhiều điều trong cuộc đời của Ibraghim miêu tả trong truyện thực ra là do Puskin sáng tác ra (chẳng hạn câu chuyện tình duyên với bá tước phu nhân). Tác phẩm này không hoàn thành và mới được Puskin công bố một phần: trích đoạn chương bốn in trong tùng thư "Những bông hoa phượng bắc” năm 1829 và trích đoạn chương ba in trong “Báo văn học” vào năm 1930, số 13. Cả hai trích đoạn chung tên "Hai chương trích tiểu thuyết lịch sử” được đưa vào tập "Các truyện do Alếchxanđrơ Puskin xuất bản" (1834). Tất cả sáu chương tiểu thuyết mà Puskin đã viết xong hoàn toàn (trừ chương bảy, vừa mới bắt đầu), lần đầu tiên xuất hiện sau khi Puskin qua đời trong tạp chí “Người đương thời", (t. VI, 1837) dưới nhan đề “Người da đen của Piốt Đại đế” do ban biên tập đặt ra. Các đề từ Puskin chuẩn bị cho tiểu thuyết này còn chưa phân bố cho các chương (trừ đề từ cho chương VI), sau này các nhà biên tập đã áng chừng mà sắp xếp. 1 Đề từ cho toàn bộ tiểu thuyết, trích từ truyện dài bằng thơ "Ala" của nhà thơ Nga Nhikôlai Iadưkốp (1803-1846). – 8. 2 Đề từ cho chương I trích ở bài thơ bông đùa “Chuyến du lịch của N.N. đến Pari và Luân Đôn” (1803) của nhà thơ Nga Ivan Ivanôvích Đmitơriép (1760-1837). – 8 3 Ibraghim – Abram Pêtơrôvích Ganiban tằng tổ phụ về đằng mẹ của nhà thơ (1697/98 – 1781). Con trai một công tước xứ Abixinia, được đưa từ Cônxtantinôpôn về Pêterburg. Cônxtantinôpôn là nơi Ibraghim bị giữ làm con tin trong cuộc chiến tranh với quân Thổ. Nhận thấy chú bé có những khả năng xuất chúng, Piốt I đã đích thân dạy chú học tiếng Nga và toán học. Năm 1717 Ibraghim đi du học ở nước ngoài 5 năm. Trước khi Piốt I chết (1725) Ibraghim phục vụ trong trung đoàn Prêôbragienxki, phụ trách phòng đồ án và thiết kế của nhà vua, dạy cho thanh thiếu niên quý tộc học toán và kỹ thuật. *** Aleksandre Sergeyevich Pushkin (tiếng Nga: Алекса́ндр Серге́евич Пу́шкин; 1799 - 1837) là đại thi hào, nhà văn, nhà viết kịch nước Nga. Ông đã có những đóng góp to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn học Nga hiện đại. Ông mất khi mới 37 tuổi nhưng đã để lại nhiều kiệt tác như "Evegny Onegin", "Người con gái viên đại úy", "Con đầm bích", "Boris Godunov"... Ông được coi là biểu tượng của dòng văn học lãng mạn va tả thực nước Nga thế kỷ 19. Alêchxandrơ Tvarđôpxki viết về ông như sau: " Qua đời vào giữa lúc sức sống và sức sáng tạo đang độ phát triển dồi dào nhất, Puskin, đối với học trò và những người kế tục sau ông – những bậc kiệt xuất của nền văn học Nga vĩ đại do ông đặt nền móng, kể cả chính Lép Tônxtôi, – đối với tất cả, dù họ có sống lâu hơn ông bao nhiêu năm tháng đi nữa, ông vẫn mãi mãi là người anh cả thông minh nhất...  Di sản của Puskin khó mà khảo cứu hết được – đó không phải là một đỉnh núi đơn độc, dù rất hùng vĩ, mà là cả một dãy núi oai nghiêm, với những đỉnh, những nhánh trùng trùng điệp điệp. " Mời các bạn đón đọc Người Da Đen Của Piốt Đại Đế của tác giả Alexander Pushkin.
Khi Vết Thương Nằm Xuống - Nguyễn Văn Học
Khi vết thương nằm xuống- nỗi cô đơn khủng khiếp Nỗi cô đơn ở thời nào cũng đáng sợ, như một thứ bệnh khủng khiếp nhất. Cuốn tiểu thuyết mới nhất của Nguyễn Văn Học đã đề cập đến nỗi cô đơn vô hạn của những con người phải chống chọi với số phận nghiệt ngã. Toàn bộ cuốn sách 264 trang tràn ngập nỗi cô đơn và cách con người gồng mình để thoát khỏi điều đó. Tiểu thuyết Khi vết thương nằm xuống   (NXB Văn Học) là tác phẩm viết về giới trẻ của nhà văn Nguyễn Văn Học. Khi vết thương nằm xuống với sức hấp dẫn, cuốn hút đặc biệt nhờ phần ngôn ngữ gọn, sắc lạnh. Thông qua cuộc đời nhiều khổ đau và khát vọng của nhân vật Kiêu, tác giả muốn đề cập tới thực trạng của nền giáo dục gia đình và xã hội đối với việc hình thành nhân cách con người. Trong một xã hội mà ý thức con người còn nhiều lạc hậu, thực dụng, nhiều kỳ thị, ít sự cảm thông… thì cái tốt xấu đan xen, dẫn tới nhiều bạo lực, hận thù, cạm bẫy, làm mất niềm tin ở thế hệ trẻ. Cậu bé Kiêu, con của một chiến sĩ công an hy sinh vì nhiệm vụ, đã từng có một gia đình hạnh phúc. Cậu bé từng có một tuổi thơ với những kỷ niệm về mối tình đầu, tình bạn, tình cảm gia đình thân thương lưu luyến. Sau khi người bố mất vì bọn tội phạm, oái oăm thay cậu lại lìa xa ước mơ, khát vọng học hành để sa ngã vào con đường trộm cắp. Kiêu may mắn được bà Hát, một họa sĩ, giảng viên đại học phúc hậu, yêu cái đẹp, khao khát tình yêu và hạnh phúc cứu vớt và thắp sáng ước mơ. Cậu được trở về với tình cảm gia đình đùm bọc, thương yêu, chia sẻ. Trong xã hội nhất thời bị xáo trộn bởi đồng tiền, chỉ cần một chút tình người cũng làm ta hạnh phúc. Khi gặp khó khăn có một bàn tay đưa ra đầy nhân ái cảm thông cũng làm ta rùng mình rơi lệ. Đó là bước ngoặt tốt đẹp sẽ thay đổi hoàn toàn cuộc đời Kiêu. Cuốn tiểu thuyết nhiều ngôn từ giằng xé Nguyễn Văn Học có những trang văn miêu tả dữ dội và trực diện về tâm lý con người và cái ác, bộc lộ những dự cảm chân thực về xã hội, cố gắng chạm sâu vào nỗi đau con người, đó đây lóe lên những phát hiện mới về tâm lý. Tác giả thể hiện nỗi buồn hoang hoải của con người, những vết thương tâm hồn bị khoét sâu cũng được đẩy đến tận cùng tâm can, tới đáy sâu nhất của tâm hồn mỗi người. Nhưng đằng sau những dòng văn thản nhiên ấy, vẫn ẩn chứa một tấm lòng nhân hậu và con mắt đau đáu của người viết dõi theo số phận con người, chia sẻ và đồng hành cùng họ. Dù cuộc sống được mô tả trong tiểu thuyết có khốc liệt đến mấy, thì những trang văn của Nguyễn Văn Học cũng rất chân thật, thấm đẫm tình yêu thương con người. Việc thiết yếu cần làm là chữa lành vết thương cho tâm hồn con người. Phải xoa dịu để những vết thương ấy “nằm xuống”, ngủ yên, cho con người dũng cảm đi lên với cuộc đời mới. Tác phẩm Khi vết thương nằm xuống đã mở ra niềm hy vọng: Dù cuộc đời gập ghềnh, gian khổ, nhưng luôn vẫn còn những con đường tốt lành cho mỗi người... Tiểu thuyết “khi vết thương nằm xuống” thêm nhiều hy vọng vào giữa cuộc đời còn nhiều giông tố. Nguyễn Văn Học: Tên vận vào đời Cuộc đời Nguyễn Văn Học trải qua nhiều khốn khó. Những trở ngại của đời thường là nguồn dinh dưỡng tốt nuôi tâm hồn người, nếu người có đời sống nội tâm và hướng thiện để cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị. Trân trọng giới thiệu! *** Năm năm trôi qua, biết bao nhiêu đám mây đen trắng đã trôi qua bầu trời. Những trận mưa gió đã trút xuống dân gian, không ai cầm bút mà ghi nó lại. Không ai có thời gian, tâm trạng nào làm điều đó, điều vô nghĩa, xoàng xĩnh, chẳng ra tiền. Một người viết là tôi đã cầm bút ghi lại tất cả những trận mưa to nhỏ mình gặp, chỉ để làm một nhật ký trong đời, chỉ để xem từ giai đoạn đó trở đi, cứ đánh dấu từ sau giấc mơ Kiêu chắc chắn mẹ mình chết, tôi chứng kiến bao nhiêu cơn mưa. Kiêu đã là một chiến sĩ, oai phong dũng cảm. Thời gian cho tôi là một gã đàn ông, thời gian cho tôi là chồng Hoằng. Chúng tôi tìm thấy điểm chung ở nhau, làm đám cưới. Tôi vẫn tự hào đó là một người bạn chân tình, một người vợ đảm đang, và nàng còn giống như một người mẹ của tôi nữa. Điều đó chẳng có gì phải xấu hổ, tôi tự hào vì điều đó, vì tình yêu của nàng đối với tôi, vì sự săn sóc của nàng đối với một người viết văn, chuyên vác cái "máy quay" nhãn quan của mình đi quan sát thiên hạ, những lát cắt cuộc sống để vẽ thành truyện ngắn hoặc tiểu thuyết. Tôi hạnh phúc vì tình yêu, vui vì tình yêu và tự hào vì tình yêu. Không có sự khiên cưỡng nào, không có chút rắc rối gì ở giữa tôi, Kiêu và Hoằng. Bởi vì tôi tin, Hoằng và Kiêu đã nghĩ đến những điều lớn lao hơn là ôn lại chuyện chẳng vui gì trong quá khứ. Chúng tôi nhìn đến ngày mai để sống. Ngần ấy thời gian đã trôi qua, ngần ấy thời gian không dập tắt được sự thèm khát của bà Hát, mẹ nuôi Kiêu. Những năm tháng đó, đã trôi đi như những đám mây trên trời và chỉ khắc lại trong lòng bà Hát sự thèm khát, thứ tình yêu nguyên thủy đối với cậu con trai. Đêm dài là kẻ thù của kẻ không được thỏa mãn, đêm dài liên tiếp kéo nhau đi mãi. Bà không muốn làm tổn thương con một lần nữa. Sự chịu đựng mỗi ngày dày thêm, mưng mủ, âm thầm thiêu đốt. Kiêu chưa yêu thêm được một người nào khác, ẩn ức sôi trào trong cậu. Cuộc sôi trào to lớn nhất đã đánh bại tất cả những kìm nén, rào cản, khiến cậu ngã nhào, không còn chống đỡ nổi một đòn. Cậu không cựa quậy, đầu hàng trước cơn sóng trào của bà Hát đổ bộ lên mình, hai con người lúc đó, không hiểu đã tìm đâu ra cảm xúc, để cùng lúc ầm ào giật lên, thét gào. Sau đó là một sự hụt hẫng, ân hận của Kiêu. Cậu thấy mình đã sai, hoàn toàn, luôn miệng rủa “Tôi là kẻ khốn nạn”, rồi đấm thùm thụp vào ngực. ... Mời các bạn đón đọc Khi Vết Thương Nằm Xuống của tác giả Nguyễn Văn Học.
Đêm Hồng Hoang - René Barjavel
Khi đoàn thám hiểm Pháp ở Nam cực thông báo về dấu tích của một nền văn minh 900,000 năm, các nhà khoa học trên khắp thế giới họp nhau lại cùng khám phá và hướng dẫn đoàn. Toàn bộ hành tinh nhìn qua truyền hình vệ tinh toàn cầu, hiện ra thật đẹp đẽ, rồi các nhà thám hiểm phát hiện ra một căn phòng có một người đàn ông và phụ nữ đang trong tình trạng thực vật. Người phụ nữ Éléa tỉnh giấc và thông qua chiếc máy phiên dịch cô kể về thế giới của mình, về mình và về Païkan chồng cô, và rằng chiến tranh đã hủy hoại nền văn minh của họ như thế nào. Cô cũng cho hay mình và đồng sự đang trong tình trạng thực vật có nguồn kiến thức vô cùng tiên tiến (không phải Païkan, mà là khoa học gia Coban cô không ưa chút nào), nguồn kiến thức đem đến năng lượng và thức phẩm cho toàn nhân loại không phải trả tiền mua. Tuy nhiên, các siêu cường quốc chưa sẵn sàng công bố bí mật của Éléa, tác phẩm cho thấy 900,000 năm và ngày tận thế sau đó, nhân loại vẫn chưa trưởng thành và đang sắp sửa phạm phải sai lầm một lần nữa. *** Tới thời điểm này thì "Đêm hồng hoang" vẫn là cuốn sách hay nhất tôi đọc năm 2019. Một tác phẩm mang tính thời đại không chỉ hấp dẫn tuyệt đối mà còn mang đến bao cảm xúc, khiến trái tim tôi rung động sâu sắc. Câu chuyện kể về một đoàn thám hiểm đã khai quật được hai con người đóng băng từ 900.000 năm trước. Bằng mọi biện pháp khoa học họ đã làm sống dậy người phụ nữ cổ đại, để nghe cô kể về một nền văn minh xa xưa đã sụp đổ thế nào. Tác phẩm mang giả tưởng về thời quá khứ song lại dự cảm về tương lai, cảnh báo loài người trước họa diệt vong do chính mình gây nên. Bởi chiến tranh, bởi lòng tham, sự ngu dốt và ích kỷ. Tác giả đã phê phán, đã lên án những điều đó một cách mạnh mẽ, ông mở ra cho chúng ta cái nhìn sống động, dữ dội, tràn đầy đau xót để chúng ta hiểu được và trân trọng cuộc sống mình đang có. Câu chuyện viễn tưởng còn đan xen chút lãng mạn, một tình yêu thật đẹp, đi qua tận cùng thế giới và vượt qua thời gian đằng đẵng. Đi qua những bi kịch của một thời đại, ám ảnh và buồn thương biết mấy. Đặc biệt là cao trào cuối cùng, không thể không khiến người đọc lặng đi. Tôi đánh giá cao tác phẩm có lẽ vì yêu thích chủ đề về nhân loại, tương lai Trái đất, tận thế, hậu tận thế, thích những yếu tố sáng tạo, giàu trí tưởng tượng... song "Đêm hồng hoang" thuyết phục tôi, đi vào lòng tôi và để lại ấn tượng khó phai đến thế còn bởi tính nhân văn và bao cung bậc xúc cảm. *** Chúng ta luôn xem xét lịch sử nhân loại theo cái cách mà chúng ta quan sát sự trưởng thành của một con người, xuất phát điểm từ một đứa bé không biết gì rồi thu thập kiến thức, phát triển, hoàn thiện hơn. Chúng ta luôn nghĩ lịch sử nhân loại cũng như thế, xuất phát từ thuở hỗn mang rồi từ từ phát triển đến sự văn minh hiện tại, thế nhưng có thể nào là ngược lại, có khi nào nhân loại từ thuở xa xưa đã phát triển vượt bậc hơn chúng ta hiện tại và vì một lý do gì đó mà nền văn minh ấy bị chôn vùi? Đó chính là giả thiết mà René Barjavel đặt ra cho cuốn tiểu thuyết “Đêm Hồng Hoang” của ông khi kể về cuộc phiêu lưu đến tận cùng nguồn gốc của con người. Các nhà thám hiểm Pháp phát hiện ra một nền văn minh hơn 900,000 năm bị chôn vùi dưới những lớp băng sâu thẳm của Nam Cực. Và điều này lập tức gây ra một sự chấn động, vì nó đi ngược lại hoàn toàn với sự hiểu biết của con người trước đó (hay là ta tưởng rằng mình đã biết). Trong cái kén thu hút sự chú ý của các nhà khoa học hàng đầu trên toàn thế giới người ta tìm thấy một người phụ nữ – Éléa – nàng là ai, nàng đã nằm ở đó bao lâu và liệu nàng có phải là chìa khóa để khám phá nền văn mình kỳ lạ dường ấy. Với những kỹ thuật tân tiến, người ta đã thành công trong việc đánh thức nàng thế nhưng nàng thuộc về một thế giới hoàn toàn khác với ngôn ngữ hoàn toàn khác, thậm chí người ta còn không tìm được cách đưa chất dinh dưỡng để nuôi sống nàng vì nàng không ăn uống như con người hiện đại. Các nhà ngôn ngữ tìm cách hiểu được ngôn ngữ của Éléa, để từ nàng mở ra cái thế giới kỳ bí mà chưa ai từng khám phá ra. Chi tiết các nhà phiên dịch phân tích tìm đủ mọi phương pháp để nói chuyện được với Éléa  làm gợi nhớ đến bộ phim “Arrival” của đạo diễn Denis Villeneuve  được phát hành vào năm 2016, quả thật ngôn ngữ và chữ viết chính là cầu nối duy nhất gắn kết được mọi người và thậm chí các nền văn minh khác nhau, ngôn ngữ là chìa khóa để dẫn đến sự thấu hiểu (và đi kèm với nó dĩ nhiên là sự hiểu lầm), nếu như trong “Arrival” là một nền văn mình ở ngoài trái đất thì trong “Đêm hồng hoang” là nền văn minh cổ xưa thế nhưng dường như có những bước phát triển vượt bậc bất ngờ. Điều gì khiến con người có sự cuốn hút với những nền văn minh khác một cách mạnh mẽ đến vậy, đó có phải là do sự khao khát kiến thức: “Chúng ta có chung một thứ to tát hơn những gì chúng ta khác biệt nhau: đó là nhu cầu được hiểu biết. Những người làm văn chương gọi đó là tình yêu khoa học, còn tôi, tôi gọi đó là sự hiếu kỳ. Khi tính hiếu kỳ được thôi thúc bởi trí tuệ thì đó là giá trị cao đẹp nhất của con người.” Người ta thở phào nhẹ nhõm khi máy phiên dịch của thể diễn đạt những lời Éléa thành ngôn ngữ hiện đại mà mọi người có thể hiểu được và chăm chú nghe cô kể lại câu chuyện của thời đại mình. Éléa dẫn dắt những con người hiện đại (và cả độc giả) về với thế giới kỳ lạ khi con người dường như đã phát triển về mặt cảm xúc và thể chất đến mức hoàn hảo, ngay từ khi sinh ra người ta đã hiểu rõ vị trí của mình trong xã hội và thậm chí cả bạn đời của mình đến mãi mãi về sau. Mỗi người được phân công một công việc cụ thể và họ hài lòng với những việc mình được giao. Cái thế giới tưởng chừng vững chắc, văn minh đến thế nhưng lại bị đe dọa bị sụp đổ bởi một điều, mà có lẽ cũng chẳng bất ngờ, đó chính là chiến tranh. Có lẽ bản chất nhân loại thực sự là tham lam, đố kị và hiếu chiến nên ở đâu có con người thì ở đó sẽ có chiến tranh, ngay từ thuở ban sơ khi con người mới vừa xuất hiện? Ngay từ những xã hội tưởng chừng được gắn kết mạnh mẽ nhất? Ngay từ những con người cứ ngỡ hiền lành, lương thiện nhất? Song song với câu chuyện của Éléa là cuộc tranh giành của các đế quốc để được sở hữu bí mật của nền văn minh kỳ lạ kia. Họ đã không từ các thủ đoạn để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng chém giết nhau để có được vũ khí tối thượng từ nền văn minh cổ xưa. Trải qua giấc ngủ 900,000 năm, Éléa liệu có giật mình khi bản chất con người vẫn không thay đổi, nhân loại vẫn tìm cách hãm hại nhau để tranh giành quyền lực như thuở hồng hoang? René Barjavel có một câu chuyện hấp dẫn và gợi mở thế nhưng đáng tiếc lại được viết quá dài dòng và rối rắm. Những đoạn tình yêu đơn phương của nhà khoa học Pháp dành cho Éléa khá sến sẩm và rời rạc, có thể hoàn toàn cắt bỏ những đoạn độc thoại ấy ra khỏi cuốn sách mà không ảnh hưởng đến cốt truyện, thậm chí câu chuyện tình của Éléa và Paikan – chồng cô – cũng quá dư thừa, dù mục đích để thể hiện mối liên kết mạnh mẽ về thể xác và tinh thần của hai con người trong nền văn minh cổ xưa nhưng có nhiều đoạn không cần thiết. Cuộc xung đột giữa các sắc tộc trong cuốn sách chưa được đẩy lên đến cao trào với một kết thúc kịch tính và đơn giản so với cốt truyện khá rối rắm mà René Barjavel xây dựng, dường như ở đoạn cuối cùng ông trở nên bối rối vì chính những thứ mình bày biện ra và không biết phải dọn dẹp thế nào cho gọn ghẽ. “Đêm hồng hoang” là một cuốn sách phù hợp dành cho những bạn đọc hâm mộ thể loại khoa học giả tưởng với một cốt truyện gợi mở và đặt ra nhiều vấn đề khiến ta suy ngẫm. Còn với riêng tôi, cuốn sách vẫn chưa khiến tôi thật sự hài lòng bởi cái kết như thể đang xem một bộ phim hành động hạng hai thiếu kinh phí nên đành đắp vào bằng một kết thúc quá nhanh chóng và có phần ủy mị.   Mời các bạn đón đọc Đêm Hồng Hoang của tác giả René Barjavel.