Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chôn Sống

"Chôn sống" (Body double) là cuốn tiểu thuyết tiêu biểu của nữ văn sĩ Tess Gerritsen. Bà đã bỏ kỳ thực tập với tư cách một bác sĩ nội khoa để nuôi nấng con cái tập trung vào công việc viết lách. Bà đã giành được sự khen ngợi trên khắp nước Mỹ cho cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình về sự ly kỳ mang tính chất y khoa, đó cũng là một trong những sách bán chạy nhất của Thời báo New York - tiểu thuyết "Mùa gặt". Bà cũng là tác giả của các cuốn sách bán chạy như: Biến mất, Khu vườn xương, Tội ác, Chôn sống, Titanic trong vũ trụ... *** Tess Gerritsen là một bác sĩ điều trị và một tác giả nổi tiếng thế giới. Tác phẩm tiểu thuyết đầu tay của bà về sự trì hoãn trong y học đã dành được rất nhiều lời khen ngợi. Harvest là cuốn sách bán chạy nhất theo tờ Thời báo New York. Bà cũng là tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy khác như The Mephisto Club, Vanish, Body Double, The Sinner, The Apprentice, The Surgeon, Life Support, Bloodstream và Gravity. Tess Gerritsen sống tại Maine. Có thể ghé thăm website của bà tại địa chỉ www.tessgerrritsen. Là nhà tâm lý giải nghệ nên khi chuyển sang viết lách, nữ nhà văn người Mỹ Tess Gerritsen tỏ ra rất thấu hiểu nội tâm của các nhân vật của mình. Văn phong của bà bị ảnh hưởng bởi xu hướng diễm tình trong những tiểu thuyết mà bà đọc khi còn trẻ, nhưng sau đó đã được chuyển hóa một cách vô cùng mượt mà, hiệu quả sang thể loại trinh thám đen tối hơn. Dù vậy, Tess Gerritsen vẫn giữ được nhiều tình tiết rất ngọt ngào đậm chất phái nữ, giúp cho các tác phẩm như Call After Midnight (1987), Peggy Sue Got Murdered (1994), The Bone Garden (2007)... tạo được ấn tượng lâu dài trong lòng người đọc. Đặc biệt, những kiến thức về hình sự, tội phạm cũng được nữ nhà văn nghiên cứu rất kỹ và chuyển tải đầy đủ, trọn vẹn, hợp lý trong những cuốn sách của mình. Tác phẩm: Nạn Nhân Thứ Tư (Rizzoli & Isles #1) Quái Vật (Rizzoli & Isles #2) Tội Ác (Rizzoli & Isles #3) Chôn Sống (Rizzoli & Isles #4) Biến Mất (Rizzoli & Isles #5) Dấu Của Quỷ (Rizzoli & Isles #6) Mùa Gặt Mạng Sống Mong Manh Khu Vườn Xương Titanic Trong Vũ Trụ ... *** MỞ ĐẦU Cậu ta lại nhìn cô gái. Cô gái Alice Rose mười bốn tuổi cố gắng tập trung vào mười câu hỏi trên bàn nhưng tâm trí cô bé không để vào bài kiểm tra mà dồn vào Elijah. Cô cảm thấy cái nhìn của cậu ấy như ánh nắng lướt qua mặt, cô thấy má mình nóng lên, rõ là cô đang bối rối. Tập trung nào, Alice! Câu hỏi kế tiếp là về kịch và cô phải nhanh chóng tìm ra đáp án. Charles Dicken thường có những cái tên phù hợp với tính tình của nhân vật. Hãy cho một vài ví dụ và miêu tả tại sao những cái tên đó lại phù hợp với các nhân vật? Alice nhai nhai đầu bút chì, cố gắng tìm ra câu trả lời. Nhưng cô chẳng thể nghĩ ra cái gì khi cậu ấy đang ngồi ở bàn bên cạnh, gần đến mức cô có thể ngửi thấy mùi xà bông và khói gỗ từ cậu ấy. Mùi con trai. Dickens, Dickens, ai thèm quan tâm tới Charles Dicken và Nicholas Nickleby cơ chứ và cả ông thầy người Anh trẻ tuổi nữa khi mà Elijah hào hoa đang nhìn cô? Ôi lạy Chúa, cậu ấy đẹp trai quá với mái tóc đen và đôi mắt xanh. Đôi mắt của Tony Curtis. Lần đầu tiên nhìn thấy Elijah, cô đã nghĩ rằng cậu ấy giống Tony Curtis y chang, người có gương mặt đẹp tuyệt vời trong các trang tạp chí Modem Screen và Photoplay, tạp chí yêu thích của cô. Cô cúi đầu, khi tóc mai xõa xuống mặt cô nhìn thấy cậu ta đang lén nhìn mình qua tấm rèm cửa. Trái tim cô đập thình thịch khi cô chắc chắn rằng, cậu ta đang nhìn cô chứ không phải nhìn đám con trai chạy nhảy bên ngoài, những đứa chậm chạp và rắc rối. Những thằng con trai với những lời thì thầm không thể bỏ ngoài tai. Cô biết những lời thì thầm đó là về cô bởi chúng vừa nhìn cô vừa nói. Chúng cũng là những đứa đã dán ảnh bò cái lên tủ để đồ của cô và kêu ò ò khi cô vô tình đụng phải chúng ở đại sảnh. Nhưng Elijah thì nhìn cô theo cách khác. Với đôi mắt sáng, trong vắt. Đôi mắt của một ngôi sao phim trường. Cô bé chậm rãi ngẩng đầu lên và nhìn lại, không phải qua mớ tóc lòa xòa mà với cái nhìn hàm ý - tớ biết cậu nhìn gì rồi. Tờ giấy làm bài của cậu ấy đã được hoàn thành và úp xuống, cái bút chì được để ra xa. Giờ thì cậu ta tập trung toàn bộ sự chú ý vào cô và cô cảm thấy không thể thở được trước cái nhìn ấy. Cậu ấy thích mình. Mình biết mà. Cậu ấy thích mình. Cô đưa tay vuốt dọc từ cổ xuống, đến cúc áo đầu tiên. Những ngón tay cô chạm vào da và để lại một hơi nóng nhẹ. Cô nhớ tới cái nhìn nóng bỏng của Tony dành cho Lana Turner, cái nhìn có thể khiến cho một cô gái líu lưỡi chùn chân. Cái nhìn ấy chỉ có trước một nụ hôn nồng cháy. Đó là khi bộ phim vào lúc cao trào. Tại sao điều này phải xảy ra nhỉ? Tại sao nó cứ rối tung lên khi mình muốn biết rõ nhất...? - Hết giờ rồi, các em. Úp bài xuống. Alice vội vàng quay lại với cái bàn và bài kiểm tra, một nửa câu hỏi vẫn còn nguyên. Ôi không, thời gian trôi đi đâu rồi? Cô biết câu trả lời mà, chỉ cần thêm một chút thời gian thôi... - Alice. Alice! Cô ngước lên và thấy bàn tay của cô Meriweather đưa ra. - Em không nghe tôi nói gì à? Hết giờ rồi, nộp bài thôi. - Nhưng em... - Không lý do lý trấu gì hết. Em phải học cách nghe đi, Alice! Cô Meriweather giật lấy bài kiểm tra của Alice và đi xuống phía dưới. Mặc dù Alice hầu như không nghe thấy rõ nhưng cô biết là các cô gái bên dưới đang bàn tán về mình. Cô quay lại và nhìn thấy họ đang chụm đầu vào nhau, những bàn tay đưa lên che miệng ra chiều bí mật lắm. Alice có thể biết môi chúng ta cử động thế nào đấy, đừng để nó thấy chúng ta đang nói về nó. Giờ thì cả bọn con trai trong lớp cũng cười và chỉ trỏ về phía cô bé. Có cái gì đáng cười nào? Alice nhìn xuống và cô kinh hãi nhìn thấy cúc áo trên cùng bị tuột, giờ thì ngực áo đang phanh ra. Chuông reo, chúng được giải thoát. Alice nhanh chóng gom sách vở vào cặp và ôm nó trước ngực khi rời khỏi phòng học. Cô hầu như không dám nhìn ai, chỉ bước đi, mặt cúi gằm, nước mắt nghẹn ứ. Cô chạy thật nhanh vào phòng vệ sinh và khóa cửa lại. Những đứa con gái khác cũng vào và đứng đó, vừa cười vừa ngắm vuốt trước gương, Alice đứng nấp sau cánh cửa. Cô có thể ngửi thấy mùi nhiều loại nước hoa khác nhau, có thể cảm thấy từng luồng không khí ra vào mỗi khi cửa đóng mở. Những cô gái kiều diễm, với những chiếc áo len hàng hiệu mốt nhất. Họ chẳng bao giờ sợ tuột cúc, họ chẳng bao giờ đến trường với những chiếc váy ngắn cũn và những đôi giầy cứng ngắc. Biến đi, mọi người làm ơn biến đi. Cánh cửa cuối cùng cũng không chuyển động nữa. Đưa tay nhấn vào núm chốt cửa, Alice nín thở nghe ngóng xem còn ai trong nhà vệ sinh nữa không. Thò đầu qua khe hở, cô không thấy còn ai đứng trước gương nữa. Sau đó, cô mới dám ra khỏi nhà vệ sinh. Đại sảnh cũng vắng tanh, mọi người đều đã về lâu rồi. Không còn ai ở đây để trêu chọc hay bắt nạt Alice nữa. Cô bé bước đi, vai gồng lên để tự bảo vệ mình, bước dọc hành lang dài với những dãy tủ để đồ cửa mở ra đập vào và dãy những tấm bảng thông báo buổi khiêu vũ Halloween hai tuần nữa. Có lẽ cô sẽ không đến dự buổi khiêu vũ đó đâu. Sự xúc phạm mà cô gặp phải ở buổi khiêu vũ tuần trước vẫn còn đau nhói và có lẽ sẽ mãi mãi là vết đau trong lòng cô. Hai tiếng đồng hồ đứng dựa lưng vào tường, chờ đợi, hy vọng một cậu bạn nào đó sẽ mời cô ra nhảy. Cuối cùng thì cũng có một đứa tiến đến, nhưng không phải là mời cô nhảy. Thay vì mời cô thì nó đột nhiên nấc lên và nôn vào giày của cô. Sẽ không có buổi khiêu vũ nào hết. Cô chuyển đến thị trấn này hai tháng rồi và cô đã hy vọng mẹ sẽ gói gém đồ đạc và chuyển đi, đến một nơi nào đó họ có thể bắt đầu lại. Nơi mà mọi thứ sẽ khác. Chỉ cần bọn họ không ở đó. Cô bé đi tới lối ra phía trước và hòa vào cái nắng mùa thu. Cô cúi xuống định mở khóa xe đạp mà không hề nghe có tiếng bước chân. Chỉ đến khi bóng của cậu ấy trùm xuống đầu cô thì Alice mới nhận ra Elijah đang đứng bên cạnh. - Chào Alice! Cô đứng sững, cái xe đạp đổ sang một bên. Ôi Chúa ơi, mình mới ngốc làm sao. Sao mình có thể bối rối đến thế nhỉ? - Bài thi thật khó, đúng không? Cậu ấy nói chậm rãi, rành rọt. Lại thêm một điều nữa cô bé thích ở Elijah; không giống những đứa trẻ khác, giọng của cậu ấy rất rõ ràng, không hề bị nuốt từ, khi cậu ấy nói trông môi cậu ấy thật đẹp. Cậu ấy biết bí mật của mình, nhưng vẫn muốn là bạn với mình- cô nghĩ. - Cậu có trả lời được hết các câu hỏi không? Cô gật đầu và dựng cái xe đạp lên: - Tớ biết các câu trả lời, tớ chỉ cần thêm thời gian thôi. Khi cô đứng thẳng lên cô nhận thấy ánh mắt cậu ta dừng lại ở chỗ cái cúc áo bị đứt. Ngại quá, cô lấy hai tay ôm lấy ngực. - Tớ có cái ghim này - cậu ta nói. - Cái gì? Cậu ta đưa tay vào túi áo và móc ra một cái kẹp ghim. - Tớ cũng hay làm mất cúc áo, ngại lắm. Nào, để tớ kẹp lại cho cậu. Cô gái cố gắng thở bình thường khi cậu ấy tiến đến và chạm vào áo của cô, cô hầu như không thể kiểm soát được mình khi ngón tay của cậu ấy luồn vào bên dưới vạt áo để kẹp cái ghim. Cậu ấy có thấy tim mình đang đập loạn lên không nhỉ? Cậu ấy có biết mình phát điên lên khi cậu ấy chạm vào người mình không nhỉ? Khi cậu ta lùi lại, cô mới dám thở mạnh. Cô nhìn xuống và thấy chỗ cúc áo bị mất đã được ghim kín lại. - Tốt hơn chứ hả? - Cậu ta hỏi. - À... ừ. Cô ngừng lại để chuẩn bị tinh thần, để nói với giọng cao quý của một nữ hoàng. - Cảm ơn Elijah, bạn thật chu đáo! Một lát trôi qua. Một làn gió thổi tới, những chiếc lá mùa thu như những ngọn lửa lấp lánh trên cành. - Này, cậu có thể giúp mình một việc không Alice? - Giúp cái gì? Ôi, đồ ngớ ngẩn. Lẽ ra mày phải nói là được! Được! Mình sẽ làm bất cứ điều gì cho cậu, Elijah Lank! - Mình đang có một kế hoạch cho môn sinh học và mình cần có người trợ giúp, mình không biết phải nhờ ai cả. - Kể hoạch gì thế? - Mình sẽ chỉ cho cậu thấy, cậu đến nhà mình chứ? Nhà cậu ấy ư? Cô chưa bao giờ đến nhà đứa con trai nào. Cô gật đầu: - Để mình về nhà cất sách vở đã nhé. Cậu ta kéo cái xe ra khỏi hàng, nó gần giống cái xe của cô. Chắn bùn rách te tua, han rỉ đến tận chỗ ngồi. Cái xe cũ làm cô thích cậu ta hơn bao giờ hết.Chúng ta là một cặp thực sự, cô nghĩ. Tony Curlis và mình. Cả hai đi về nhà cô trước. Cô đã không mời cậu ấy vào nhà, cô ngượng lắm, vì không thể để cậu ấy thấy những đồ đạc lộn xộn và vết sơn loang lổ trên tường được. Cô chạy vào bên trong, vứt cái cặp lên bàn bếp và chạy ra ngay. Thật không may, con chó của thằng em cũng chạy ra. Khi cô ra đến cửa trước, con chó lông đen trắng mới lộ ra. - Buddy — cô hét lên - quay vào ngay! - Nó không biết nghe lời lắm thì phải - Elijah bảo. - Vì nó là một con chó ngớ ngẩn, Buddy! Con vật ngoảnh lại, vẫy đuổi rồi chạy tuốt ra đường. - Ôi không sao đâu, khi nào chán nó sẽ về nhà ngay thôi — cô nói rồi leo lên xe - cậu sống ở đâu? - Trên phố Skyline. Cậu tới đó bao giờ chưa? - Chưa. - Nó ở trên đồi, cậu có đi được không? Cô gật đầu. Tớ có thể làm bất cứ điều gì vì cậu. Chúng đi xa khói nhà cô bé, cô hy vọng cậu ta sẽ đi qua phố chính, qua siêu thị chỗ bọn trẻ con luôn luôn tụ tập sau giờ học để chơi Jukebox và uống Soda. Chúng sẽ thấy mình đi cùng nhau và bọn con gái sẽ không dám lè lưỡi? — Alice đang đi cùng Elijah mắt xanh kìa. Nhưng cậu ta không dẫn cô qua phố chính mà lại đi ngược lên Locust, chỗ chả có mấy nhà cửa, chỉ là con đường phía sau một vài công ty và chỗ đỗ xe của nhân viên xưởng Neptune. Nhưng chẳng phải cô đang đạp xe cùng cậu ta sao? Đủ gần để thấy bắp chân cậu ấy phập phồng và mông cậu ấy trên yên xe. Cậu ta quay lại nhìn cô, mái tóc đen tung bay trong gió. - Cậu ổn chứ Alice? - Mình ổn. Sự thật là cô đang sắp hết hơi vì chúng đã bỏ xa ngôi làng và giờ đang leo lên núi. Elijah hẳn là đã đi xe đạp lên Skyline hàng ngày và quen rồi, cậu ta hầu như chỉ hơi bị ngược gió, chân vẫn đạp đều như những tay đua xe đầy sức lực. Nhưng cô thì đã phải nhổm dậy để dồn sức xuống bàn đạp. Một sợi lông bay vào mắt. Cô nhìn sang bên và thấy Buddy đang theo sau họ. Nó có vẻ mệt, lưỡi thè ra thở lấy thở để. - Về nhà mau. - Cậu bảo sao? - Elijah ngạc nhiên. - Là con chó ngớ ngẩn ấy mà. Nó vẫn theo chúng ta... nó sắp... sắp hụt hơi rồi. Alice lừ mắt nhìn Buddy nhưng con chó vẫn tiếp tục hớn hở chạy bên cạnh. Được rồi, mày cứ chạy đi, mày mệt lăn ra đấy tao cũng kệ - cô bé nghĩ. Cả hai tiếp tục đạp lên núi, gió thổi nhè nhẹ. Qua những rặng cây cô có thể nhìn thấy khung cảnh quen thuộc của cảng Fox xa xa phía dưới, nước lóng lánh như đồng dưới ánh sáng mặt trời buổi chiều. Sau đó những hàng cây trở lên dầy hơn và cuối cùng cô chỉ thấy cánh rừng trong màu đỏ và cam sáng, con đường đầy lá vòng vèo trước mặt. Cuối cùng thì Elijah cũng ngừng đạp, chân của Alice mệt đến nỗi cô không thể đứng thẳng mà không run run. Buddy biến đâu mất, cô mong là con chó có thể tìm thấy đường về nhà vì cô không chắc là mình có thể đi tìm con chó chết tiệt đó không. Giờ thì Elijah đang đứng đây, mỉm cười với cô, đôi mắt trìu mến làm sao. Cậu ấy dựa cái xe vào một cái cây và quàng cái cặp lên vai. - Nhà cậu đâu? - Đó là đường vào đấy - cậu ta chỉ xuống con đường, tới một cái hộp thư đứng chơ vơ. - Không phải chúng ta tới nhà cậu à? - Không. Em họ mình ốm và nó nôn mửa suốt cả đêm qua, thôi đừng vào nhà nhé. À mà kế hoạch của mình ở ngoài kia, chỗ mấy cây gỗ ấy. Bỏ cái xe của cậu ở đây đi, chúng ta đi bộ. Cô dựng cái xe của mình vào xe của cậu ta và đi theo cậu ta. Chân cô vẫn còn mỏi nhừ vì vừa đạp xe lên núi. Cả hai đi sâu vào rừng. Cây ở đây rất to, lá rụng thành tấm thảm dày bao phủ mặt đất. Cô đi theo cậu ta, vừa đi vừa xua xua mấy con muỗi. - Em họ cậu ở với cậu à? - Ừ, nó đến ở với nhà mình năm ngoái. Chắc là ở nhà mình luôn, chẳng có chỗ nào để đi mà. - Bố mẹ cậu không phiền lòng sao? - Chỉ bố thôi, mẹ tớ chết rồi. - Ôi! Cô chẳng biết phải nói sao cả, cuối cùng cô cũng thì thào được một câu đơn giản. - Tớ rất tiếc. Nhưng có vẻ cậu ta không nghe thấy. Lá dưới chân dày hơn và những cạnh khô sắc cứa vào đôi chân trần của cô bé. Theo kịp cậu ta quả là mệt. Cậu ta vẫn tiếp tục đi trước, bỏ mặc cô với cái váy mắc vào cây mâm xôi. - Elijah! Cậu ta không trả lời, vẫn tiếp tục đi như một nhà thám hiểm kiên cường, cặp sách khoác trên vai. - Đợi tớ với. - Cậu có muốn xem không? - Có nhưng mà... - Thế thì nhanh lên. Giọng nói của cậu ta tỏ ra mất kiên nhẫn và cô bắt đầu thấy sợ. Cậu ấy chỉ đứng cách cô vài thước và nhìn cô, cô thấy bàn tay cậu ta đang nắm chặt. - Được được - Cô vội vàng — Tớ tới đây. Xa xa chỉ chục mét, những cây gỗ đột nhiên thưa ra thành một khoảng trống. Cô nhìn thấy một cái nền đá cũ kỹ, như kiểu một trang trại đã bị phá lâu rồi. Elijah quay lại nhìn có, mặt cậu ta đỏ lên dưới nắng chiều. - Ở ngay đây thôi. - Cái gì vậy? Cậu ta cúi xuống và nhặt hai cành cây vứt qua một bên, bên dưới là một cái hố sâu. - Xem này, tớ phải đào nó mất ba tuần đấy. Alice tiến tới chỗ cái hố một cách chậm chạp và nhìn xuống. Ánh nắng buổi chiều giờ đang lấp lánh sau lùm cây, ở đáy hố với om. Cô gạt mấy cái lá ra và thấy dưới đó có một sợi dây thừng vắt qua miệng hố. - Đây là bẫy gấu hay cái gì? - Có thể. Nếu tớ mà để vài cành cây vào để che miệng hố thì tớ có thể bẫy được nhiều thứ lắm, kể cả nai nữa - Cậu ta chỉ xuống hố - Cậu nhìn thử xem? Cô cúi xuống gần hơn và thấy cái gì đó trắng nhợt bên dưới, có một đám trắng hếu bên dưới đám lá khô. - Cái gì thế? - Kế hoạch của tớ đấy - Cậu ta nói và kéo sợi dây lên. Ở đầu kia của sợi dây, lá rơi xuống và khi nó được kéo hẳn lên thì Alice vội vàng nhìn chằm chặp xuống trong khi Elijah lôi nó lên. Một cái rổ. Cậu ta kéo nó ra khỏi hố và đặt nó xuống đất. Gạt bỏ hết đám lá mục sang một bên, Elijah đã lần tới đầu trắng của sợi dây. Đó là một cái đầu lâu nhỏ. Khi cậu ta rũ tất cả lá ra thì cô bé nhìn thấy một ít lông đen và một cái xương sống. Mấy cái xương ống chân của con gì đấy. - Thấy hay không? Nó còn không bốc mùi nữa kìa — cậu ta nói - Nó được chôn dưới đó bảy tháng rồi đấy. Lần trước tớ kiểm tra thì vẫn còn một ít thịt dính vào. Giờ thì tất cả hết sạch rồi, nó bắt đầu phân hủy nhanh hơn khi trời ấm lại vào tháng Năm. - Nhưng nó là cái gì? - Cậu không đoán được à? - Không. Nhặt cái đầu lên, cậu ta giơ nó lên cao một chút rồi vung về phía Alice. - Đừng! - Cô hét lên. - Meeo! - Elijah! - Hả, chẳng phải cậu hỏi nó là cái gì à? Cô nhìn vào hốc mắt trống hoác. - Mèo à? Cậu ta lôi ra một cái hộp từ cặp xách và đặt cái đầu vào trong đó, rồi lần lượt bỏ xương vào. - Cậu làm gì với bộ xương đó thế? - Là kế hoạch khoa học của tớ. Từ một con mèo thành bộ xương khô này mất bảy tháng. - Cậu kiếm đâu ra con mèo đó. - Tớ tìm thấy nó. - Cậu tìm thấy một con mèo chết à? Cậu ta ngước lên, đôi mắt xanh mỉm cười. Nhưng không phải là đôi mắt của Tony Curtis nữa, đôi mắt đó làm cô sợ. - Ai nói nó chết? Tim cô đột nhiên đập mạnh, cô lùi lại một bước. - Ờ... mình nghĩ là mình phải về nhà đây. - Tại sao? - Bài tập. Mình phải làm bài tập. Giờ thì cậu ta đứng dậy, nụ cười tắt ngấm, thay vào đó là cái nhìn kỳ vọng lặng lẽ. - Tớ sẽ... gặp lại cậu ở trường nhé... Cô nói và quay lưng lại nhưng nhìn cả hai phía trái phải đều thấy giống nhau. Trời ơi họ đã đi đường nào vậy? Cô sẽ đi đường nào về đây? - Nhưng cậu vừa mới đến mà Alice. Cậu ta nói, hình như đang nắm cái gì đó trong tay. Chỉ khi cậu ta giơ nó lên ngang đầu cô mới biết đó là cái gì. Một hòn đá. Cô khuỵu xuống, cô cào xuống đất, giờ cô thấy với đen, tay chân tê cứng lại. Cô không thấy đau, chỉ có sự thất vọng mà cậu ta mang đến vừa đánh gục cô. Cậu ta tiến đến, lôi cô dậy và đẩy ngửa ra. Mặt cô va xuống đất khi cậu ta lôi chân cô đi. Cô cố hết sức vùng vẫy la hét nhưng miệng cô đầy bùn đất và cành lá khi cậu ta kéo cô tới phía cái hố. Khi đã rơi xuống đáy hố rồi, cô mới thấy chân mình lủng lẳng. - Đi thôi, Alice - cậu ta nói. - Kéo tớ lên! Kéo lên đi! - Tớ nói, đi thôi! Cậu ta vứt hòn đá đi. Cô bé cố gắng trèo lên nhưng lại tuột xuống. Rơi xuống thảm lá mục dầy đặc bên dưới. - Alice, Alice! Bị đau vì rơi xuống, cô ngước lên bầu trời hình vòng tròn bên trên và nhìn thấy cái đầu cậu ta, đang cúi xuống nhìn. - Tại sao cậu làm thế? Tại sao? - Chẳng việc gì là không có lý do cả. Tớ chỉ muốn xem mất khoảng bao lâu thôi. Bảy tháng cho một con mèo, cậu nghĩ cậu mất bao lâu? - Cậu không thể làm thế với tớ được! - Bye bye, Alice! - Elijah! Elijah! Tấm gỗ đã che mặt hố, che lấp ánh sáng. Hình ảnh về bầu trời biến mất. Điều này không phải là sự thật, cô nghĩ. Đây chỉ là trò đùa thôi. Cậu ấy chỉ cố gắng làm mình sợ thôi. Cậu ấy chỉ bỏ đi vài phút và sau đó sẽ quay lại kéo mình lên, tất nhiên là cậu ấy sẽ quay lại rồi. Và rồi cô bé nghe thấy có tiếng gì đó bên trên nắp hố. Đá. Cậu ta đang chèn đá lên trên miệng hố. Cô bé đứng dậy và cố gắng trèo lên khỏi hố, cô cào vào lớp đất cát, nhưng không thấy một bàn tay nào, không thể nhích lên một phân nào. Tiếng la hét chìm vào bóng tối. - Elijah! Chỉ có tiếng đá chuyển động đáp lại.   Mời các bạn đón đọc Chôn Sống của tác giả Tess Gerritsen & Vũ Thị Tâm (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vụ Án Viên Nhộng Xanh
Vụ án viên nhộng xanh là một trong các tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng nhất của John Dickson Carr. Trong tác phẩm, Marcus Chesney – chủ sở hữu những nhà kính trồng đào tại Sodbury Cross – đã bị đầu độc chết trong một màn trình diễn do chính mình sắp đặt. Khi ấy, Marcus đang dùng một loạt bẫy tâm lí để chứng minh lập luận: nhân chứng không thể kể lại chính xác những điều đã xảy ra ngay trước mắt mình. Và tệ thay, ông đã đúng. Tất cả các nhân chứng đều mục kích vụ sát nhân nhưng dường như họ đều đang đeo một cặp kính đen, mọi thứ đều bị che phủ và lừa mị. Thấy vậy nhưng không hẳn là vậy, nghe thế nhưng chưa chắc là thế. Nhân chứng bị bưng tai bịt mắt bằng các bẫy gài liên hoàn dù cho họ vẫn mở mắt lắng tai. Qua Vụ án viên nhộng xanh, John Dickson Carr không chỉ dẫn dắt người đọc vào ma trận của những lời khai không trùng khớp mà còn nêu bật được một lập luận mới mẻ về giá trị của các nhân chứng trong làng văn trinh thám. *** Câu chuyện bắt đầu, theo trí nhớ của người đàn ông, trong một căn nhà ở thành phố cổ Pompeii. Anh ta không bao giờ quên được buổi chiều yên tĩnh, nóng bức đó, khi những giọng nói tiếng Anh phá vỡ sự tĩnh mịch của “Con Đường Hầm Mộ”. Vạt trúc đào nở hoa đỏ rực trong khu vườn đổ nát, và cô gái mặc váy trắng đứng im lìm giữa nhóm người đeo kính râm, trông như thể bị bao quanh bởi những chiếc mặt nạ. Người đàn ông nhìn thấy quang cảnh trên đã đến Napoli công tác được một tuần. Công việc anh ta cần làm ở Napoli không hề liên quan đến chuyện này. Nhưng công việc đó chiếm hầu hết thời gian của anh, và mãi đến buổi chiều thứ hai, ngày 19 tháng Chín, anh mới thư thả được đôi chút. Tối ấy người đàn ông này dự định sẽ đến Rome, và rồi bay qua Paris và về đến London. Chiều hôm đó anh đang ngắm cảnh trong tâm trạng thảnh thơi, và đối với anh quá khứ luôn có sức hút mãnh liệt không hề thua kém hiện tại. Đó là nguyên nhân tại sao, vào lúc yên tĩnh nhất trong ngày, dưới sự êm ả của ánh mặt trời rực rỡ, anh lại nhận ra mình đang đi trên Con Đường Hầm Mộ. Con Đường Hầm Mộ nằm bên ngoài những bức tường của thành Pompeii. Nó bắt đầu từ cổng Herculaneum và thoải xuống một ngọn đồi thấp, trông giống một cái máng xối lát gạch rộng với vỉa hè ở hai bên. Những cây bách mọc khắp chỗ và khiến con đường chết chóc này dường như có thêm phần sinh khí. Đây là nơi xây cất những hầm mộ của quý tộc La Mã, những bệ thờ thấp hai bên đường chưa đến mức hóa thành phế tích. Nghe tiếng chân mình vang vọng, người đàn ông mơ hồ có cảm giác mình như lạc vào một vùng đất bị quên lãng. Ánh nắng chói chang, nóng nực chiếu xuống những viên đá lát đường đã mòn võng vì bị không biết bao nhiêu bánh xe ngựa nghiến xuống, từ đám cỏ trồi lên từ các kẽ nứt, những con thằn lằn nâu nhỏ xíu phóng qua trước mắt anh ta nhanh như vệt ảnh tối màu. Phía trước anh ta, đằng sau những lăng mộ là ngọn núi Vesuvius mang màu xanh xỉn trong màn sương từ đất bốc lên vì thời tiết oi nồng, nhưng không quá gây ấn tượng với anh ta vì nó còn cách đây chừng năm, sáu dặm. Người đàn ông thấy ấm áp và hơi ngầy ngật buồn ngủ. Những con đường dài với những cửa tiệm chỉ còn trơ lại bốn bức tường này, những khoảnh sân hoa lệ điểm xuyết những hàng cột chống đây đó kia, tất cả đều tác động đáng ngại đến trí tưởng tượng của anh ta. Anh ta đã lang thang hơn một tiếng đồng hồ; và từ khi đặt chân vào thành phố cổ này, anh ta chưa hề thấy bóng dáng của bất cứ sinh vật sống nào, ngoại trừ một nhóm người bí ẩn đi cùng hướng dẫn viên thình lình xuất hiện ở cuối đường Vận Mệnh rồi biến mất một cách đầy ma quái giữa những tiếng rào rạo của đám đá nhỏ. Con Đường Hầm Mộ dần đưa anh đi tới cuối thành phố. Đang cân nhắc xem nên ngừng cuộc thăm thú và trở về, hay quay gót tiếp tục khám phá thêm, đột nhiên anh ta trông thấy một căn nhà nằm giữa những ngôi mộ. Ngôi nhà đó khá lớn, đúng kiểu trang viên ngoại ô biệt lập những quý tộc La Mã hay xây dựng hồi thành phố còn phồn thịnh. Anh ta bước lên bậc thềm và vào nhà. Khoảnh sân nhỏ trong nhà tối tăm và bốc mùi ẩm ướt, lại không được giữ gìn tốt như những ngôi nhà tôn tạo anh đã nhìn thấy. Nhưng phía bên kia khoảnh sân là khu vườn cảnh có những hàng cột đá trang trí bao quanh, tắm trong ánh mặt trời rực rỡ. Khu vườn khá um tùm, mọc đầy trúc đào nở hoa đỏ rực và xung quanh phế tích đài phun nước là những cây tùng châu Á. Đột nhiên anh nghe có tiếng sột soạt trên đám cỏ mọc cao, và những giọng nói tiếng Anh. Cạnh đài phun nước, một cô gái mặc đồ trắng đang đứng quay mặt về phía anh ta. Và anh ta thấy cô ấy không chỉ đẹp mà còn có nét thông minh lanh lợi. Mái tóc nâu sẫm được rẽ đôi và vén ra sau tai, tạo thành những lọn xoăn nhỏ buông lơi qua gáy. Cô có khuôn mặt trái xoan, đôi môi nhỏ, căng mọng, và đôi mắt to thể hiện nét giễu cợt bất chấp gương mặt đang nghiêm nghị. Đôi mắt cô mang sắc xám, với mí mắt hơi dày và mang nét suy tư. Tư thế tạo dáng của cô rất đơn giản, chỉ vu vơ xòe vạt váy. Nhưng rõ ràng cô gái đang rất căng thẳng, chỉ cần nhìn vòng cung lông mày của cô là biết. Đối diện với cô gái là một chàng trai trẻ tóc đen mặc bộ vét vải nỉ xám, đang cầm chiếc máy quay và dán mắt vào ống ngắm. Chiếc máy quay bắt đầu kêu xè xè và phát ra tiếng lách cách nho nhỏ. Với má tì vào một bên máy, chàng trai trẻ nói với cô gái qua khóe miệng. “Này, em làm gì đi chứ!” Anh chàng thúc giục. “Mỉm cười, cúi đầu hay châm thuốc hoặc gì cũng được, nhưng hãy làm gì đó! Nếu em chỉ đứng yên đấy thì có khác gì chụp ảnh đâu.” “Nhưng, George, em biết làm gì bây giờ?” “Anh vừa nói với em còn gì. Mỉm cười hay cúi đầu hoặc… ” Rõ ràng cô gái đang bị ảnh hưởng bởi Hội chứng Tự ý thức, điều mà mọi người thường mắc phải khi họ biết rõ máy quay sẽ ghi lại bất cứ chuyển động nào trên cơ thể mình. Lúc đầu khuôn mặt cô có vẻ cực kì lo lắng, sau đó cô xoay xở để mỉm cười với vẻ hối lỗi. Cô nhấc chiếc túi xách màu trắng của mình lên và ve vẩy nó trong không khí. Sau đó cô ngó quanh tìm cơ hội lảng đi, và cuối cùng quyết định nhìn thẳng về hướng chiếc máy quay rồi cười lớn. “Chúng ta đang sử dụng hết phim rồi,” chàng trai rên lên, cứ như một nhà sản xuất phim. Người quan sát đứng ở cửa ra vào, cách nhóm người trong khu vườn khoảng hơn chục bước chân, bỗng nhiên tin chắc rằng cô gái này đang ở trong tình trạng căng thẳng đầu óc nguy hiểm, rằng cô ấy chỉ giả vờ khỏe mạnh; và rằng chiếc máy quay phim nhỏ đứng yên một chỗ không ngừng kêu lách cách đang bắt đầu ảnh hưởng đến cô, tựa như cơn ác mộng kinh hoàng có một con mắt cứ nhìn mình chằm chằm. “Sao, em có thể làm gì được?” “Đi dạo xung quanh, hoặc làm gì đó chẳng hạn. Di chuyển qua đó, đến bên phải. Anh muốn quay được những cây cột trụ đằng sau em.” Một thành viên khác trong nhóm, người đã đứng chống nạnh quan sát mọi chuyện nãy giờ, bật ra một tiếng khịt mũi. Đó là một người đàn ông nhỏ bé có vẻ lanh lợi và chiếc kính đen đang đeo giúp che đậy sự thật rằng ông già hơn rất nhiều so với bộ quần áo nghỉ mát đang mặc trên người. Bạn có thể thấy được điều đó qua làn da nhăn nheo chảy xệ dọc quai hàm, và qua đuôi tóc lốm đốm bạc dưới vành mũ cói sụp xuống trên đầu ông. “Hời hợt!” ông ta nói với vẻ khinh miệt. “Đó là thứ cậu đang cố làm: một kẻ hời hợt. Cậu muốn quay những cây cột sau lưng con bé, hả? Cậu không muốn có hình ảnh của Marjorie. Cậu thậm chí cũng không muốn có hình ảnh ngôi nhà cổ ở Pompeii. Thứ cậu muốn chỉ là hình ảnh Marjorie trước một căn nhà Pompeii, để chứng tỏ mình từng ở đó. Tôi cho rằng điều đó thật kinh tởm.” “Như vậy thì có gì sai?” Một giọng nói vang như sấm phát ra. Giọng nói đó là của một người đàn ông cao lớn và vạm vỡ có bộ râu hoe đỏ, người đứng đối diện cặp đôi đang bị mắng. “Thì hời hợt chứ sao,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Em hoàn toàn không đồng ý với anh,” người đàn ông vạm vỡ đáp lời. “Và em cũng chẳng hiểu nổi thái độ của anh, Marcus. Cứ mỗi lần chúng ta đến được nơi nào đó có vài cảnh đẹp, anh lại muốn tránh xa chúng ra (nếu em hiểu đúng) chỉ bởi vì đó là địa điểm tham quan. Vậy chúng ta chỉ được tìm hiểu về địa ngục thôi chắc,” ông ta gầm lên giữa khu vườn, “hay là anh thích đến nơi không có mấy địa điểm ngắm cảnh hơn? Anh phản đối việc hàng ngàn người tìm đến chỉ để nhìn thấy những quang cảnh đó. Nhưng có bao giờ anh nghĩ rằng, nếu hàng ngàn người đến đây chỉ để nhìn tận mắt một địa điểm hàng nghìn năm lịch sử, thì có thể là do nó có thứ gì đó đáng xem không?” “Ăn nói cho cẩn thận,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Và dừng ngay trò la hét đi. Cậu không hiểu, và sẽ không bao giờ hiểu được. Chẳng hạn như, cậu đã thấy được gì? Hoặc là, cậu có biết bây giờ chúng ta đang ở đâu không?” “Dễ ợt,” người kia nói. “Anh bạn trẻ, chỗ này là chỗ nào?” Người đàn ông vạm vỡ quay sang hỏi chàng thanh niên trẻ đang cầm máy quay phim. Người này đã miễn cưỡng dừng việc chụp hình cô gái lại, bây giờ cô ấy đang cười to một cách thoải mái. Anh ta cất máy quay vào chiếc túi đeo vai, sau đó rút từ trong túi áo ra một cuốn sách hướng dẫn du lịch và cần mẫn lật qua lật lại các trang. Sau đó anh ta hắng giọng. “Số ba mươi bốn, hai sao. Trang viên của Arrius Diomedes,” anh ta đọc với vẻ xúc động sâu sắc. “Ngôi nhà có tên gọi đó bởi vì…” “Vớ vẩn,” người đàn ông vạm vỡ lên tiếng. “Chúng ta vừa tham quan cái nhà đó mười phút trước. Chỗ họ tìm thấy mấy bộ xương ấy.” “Những bộ xương nào?” Cô gái phản đối. “Chúng ta có thấy bộ xương nào đâu, bác sĩ Joe.” Sau cặp kính râm tối màu, khuôn mặt của người đàn ông vạm vỡ dường như đang bốc hỏa. “Tôi không nói chúng ta đã nhìn thấy những bộ xương,” ông ta đáp, điều chỉnh lại chiếc mũ bằng vải tuýt trên đầu. “Tôi chỉ nói đó là nơi người ta tìm thấy mấy bộ xương. Chỗ ngay dưới đường ấy, cô không nhớ à? Tro nóng từ núi lửa nhốt những người nô lệ ở trong, sau đó các nhà khảo cổ tìm thấy họ, la liệt khắp sàn nhà như những bộ ki trên sân bowling. Ngôi nhà có những cây cột sơn màu xanh lá cây đó.” Người đàn ông già nhỏ con, lanh lợi đội mũ cói khoanh tay lại. Trong một thoáng, khuôn mặt ông ta thoáng lên vẻ ác ý rõ ràng. “Có thể thú vị với cậu, Joe, nhưng họ thì không.” “Không cái gì?” bác sĩ Joe gặng hỏi. “Không hứng thú với căn nhà xanh lá bạc màu. Hết lần này đến lần khác tôi đã chứng minh cho luận điểm của mình,” người đàn ông nhỏ con tiếp tục nói, “rằng những con người bình thường, như cậu – hay cậu ta, hoặc con bé – hoàn toàn không thể thuật lại chính xác những điều đã nhìn hay nghe được. Cậu không quan sát. Chính xác hơn là cậu không thể quan sát. Nhỉ, giáo sư?” Ông ta quay đầu lại và liếc nhìn về phía sau. Nhóm này còn hai người đàn ông khác nữa, và họ đang đứng ngay trong bóng râm của những mái hiên, đằng sau hàng cột bao quanh khu vườn. Người quan sát hầu như không ý thức được sự tồn tại của họ; anh không nhìn được họ rõ như những người đang đứng dưới ánh sáng mặt trời kia. Anh chỉ nhận thấy một người trạc trung niên, còn người kia trẻ. Họ đang dùng kính lúp nghiên cứu một khối đá hay mảnh dung nham nào đó, có vẻ như họ đã nhặt được nó từ hàng lan can nối những cây cột. Cả hai đều đang đeo kính râm đen. “Đừng quan tâm đến trang viên của Arrius Diomedes nữa,” một giọng nói vang lên từ bên trong lan can. “Căn nhà này là của ai thế?” “Giờ cháu đang tìm đây,” người thanh niên trẻ với máy quay phim và cuốn sách hướng dẫn du lịch tìm kiếm một cách nhiệt tình. “Hồi nãy cháu lật sai trang. Đây là số ba chín, đúng không? Đúng vậy. Đây rồi. Số ba mươi chín, ba sao. Nhà của kẻ đầu độc Aulus Lepidus.” Xung quanh bỗng nhiên trở nên cực kì yên lặng. Cho đến lúc này, đám người trông có vẻ giống một gia đình – hoặc – một nhóm bạn, với những thành viên lớn tuổi nóng tính có chút bực bội bởi ảnh hưởng của thời tiết hoặc sự mệt mỏi của chuyến đi. Nếu đây là một gia đình, theo thái độ mà họ nói chuyện với nhau, có thể suy ra rằng bác sĩ Joe và người đàn ông nhỏ con đội mũ cói (tên là Marcus) là hai anh em. Cô gái được gọi là Marjorie cũng có thể có quan hệ họ hàng với hai người đó. Không ngạc nhiên lắm. Tuy nhiên, khi những từ ngữ trong cuốn sổ hướng dẫn du lịch được đọc lớn lên, rõ ràng không khí giữa họ bỗng trở nên lạnh lẽo và u ám hơn cái sân này rất nhiều. Chỉ có chàng trai trẻ cầm cuốn sách là không ý thức được điều đó. Mọi người còn lại thì đều quay đầu nhìn quanh; và sau đó hướng về cùng một chỗ. Bốn cặp mắt kính đen nhìn thẳng về hướng cô gái, mặc dù cô đứng ngay chính giữa mọi người. Ánh sáng mặt trời lia trên bề mặt những cặp kính, khiến chúng có vẻ tối tăm và hung hãn như những chiếc mặt nạ. Bác sĩ Joe khó khăn lên tiếng: “Nhà của ai cơ?” “Kẻ đầu độc,” chàng trai trẻ nói. “Bằng hình thanh kiếm và cây liễu lột vỏ (‘lepidus’ nghĩa là ‘tước vỏ’ ‘làm bóng’, nghĩa củ là ‘dí dỏm’ hoặc là ‘dễ chịu’) nằm trên vỉa hè lát đá ghép mảnh, Mommsen đã xác định trang viên này thuộc quyền sở hữu của…” “Biết rồi, nhưng mà ông ta đã làm gì?” “… người, theo Varro, đã giết năm thành viên của gia đình mình bằng cách cố ý bỏ thuốc độc vào món súp nấm,” chàng trai trẻ tiếp tục. Anh ta ngẩng đầu nhìn xung quanh với vẻ hứng thú, như thể mong được thấy các thi thể vẫn đang nằm ở đâu đó. “Ngay tại đây, điều này hay ho đây!” Cậu ta nói thêm. “Cháu nghĩ thời đó việc đầu độc hàng loạt diễn ra khá dễ dàng.” Và sau đó, người thanh niên đột nhiên biết rằng có điều gì đó không đúng đang xảy ra; lông tơ sau gáy anh ta dường như dựng đứng hết cả lên. Anh ta gập cuốn sách lại và nhẹ giọng hỏi. “Có vẻ như,” anh ta buột miệng nói. “Có vẻ như, cháu đã nói điều gì đó không phải sao?” “Dĩ nhiên là không,” Marjorie trả lời với vẻ điềm tĩnh tuyệt vời. “Ngoài ra, sở thích của bác Marcus là nghiên cứu về các tội ác. Đúng không ạ?” “Đúng vậy,” bác Marcus gật đầu. Ông quay sang nói với chàng trai trẻ. “Nói cho tôi biết, cậu… gì nhỉ, tôi cứ quên tên cậu hoài?” “Bác biết rõ tên anh ấy mà,” Marjorie la lên. Nhìn vào sự kính trọng thái quá mà chàng thanh niên dành cho Marcus, người quan sát có thể nhận ra Marcus không chỉ là bác của Marjorie, ông ấy hành động như cha mẹ của cô vậy. “Harding, thưa bác. George Harding,” chàng trai trả lời. “A, đúng rồi. Giờ thì, cậu Harding, nói cho tôi biết, cậu từng nghe đến một nơi gọi là Sodbury Cross, gần Bath bao giờ chưa?” “Không, thưa bác. Sao bác lại hỏi thế?” “Chúng tôi đến từ nơi đó,” Marcus nói. Ông ta thoăn thoắt bước đi và ngồi xuống mép đài phun nước với tư thế như thể đang chuẩn bị đọc một bài diễn văn dài. Ông bỏ cả mũ và kính mát xuống rồi đặt chúng nằm thăng bằng trên đầu gối mình. Việc tháo bỏ phụ kiện che mặt giúp người quan sát nhận ra Marcus có một mái tóc xám thẳng trông như bướu lạc đà, có lẽ sáu mươi năm chải đầu cũng không thể khuất phục được mái tóc đó. Đôi mắt xanh của ông rất sáng sủa, thông minh và ác ý. Thỉnh thoảng, ông ta lại dùng tay chà xát làn da nhăn nheo ở quai hàm mình. “Giờ, cậu Harding,” ông tiếp tục, “chúng ta hãy đối mặt với sự thật này. Tôi giả sử như mối quan hệ giữa cậu và Marjorie không chỉ là loại tán tỉnh bất chợt trên tàu. Tôi giả sử là cả hai đứa đều nghiêm túc, hoặc hai đứa đều nghĩ là mình nghiêm túc.” Có một sự thay đổi khác nữa lại diễn ra trong nhóm người. Sự thay đổi đó cũng ảnh hưởng đến hai người đàn ông đứng cạnh những cây cột bao quanh khu vườn. Một trong số họ (người quan sát nhận thấy) là một người đàn ông trung niên có vẻ ngoài vui vẻ với chiếc đầu hói và có đội mũ phớt. Mắt ông cũng bị kính râm che mất, nhưng khuôn mặt ông thì tròn đầy và hồng hào ưa nhìn. Ông hắng giọng. “Tôi nghĩ,” ông ấy nói, “nếu mọi người thứ lỗi, tôi sẽ đi xuống phía sau và… ” Người đứng cạnh ông ta, một chàng trai trẻ tuổi có khuôn mặt không mấy ưa nhìn, quay đi và bắt đầu tế nhị lờ đi nghiên cứu nội thất ngôi nhà. Marcus nhìn hai người bọn họ. “Vớ vẩn,” ông quả quyết nói. “Có thể các anh không phải là thành viên của gia đình này, cả hai người. Nhưng hai người đều biết những gì chúng tôi biết, vậy nên cứ ở yên đó. Và dừng ngay kiểu tế nhị quái quỷ đó đi.” Cô gái khẽ hỏi. “Bác Marcus, bác có nghĩ đây là chỗ để nói chuyện đó ra?” “Có, cháu yêu.” “Hoàn toàn chính xác,” bác sĩ Joe mạnh mẽ đồng ý. Ông đưa ra một cái nhìn lạnh lùng, nghiêm túc và tỏ vẻ quan trọng. “Lần đầu tiên trong đời, Marcus – đã hoàn toàn đúng.” George Harding tỏ vẻ dũng cảm một cách lạnh lùng, nghiêm túc. “Thưa bác, cháu chỉ có thể đảm bảo rằng…” chàng trai nói với vẻ mạnh mẽ. “Ừ, biết rồi, tôi biết hết mà.” Marcus nói. “Và làm ơn đừng có làm khuôn mặt đáng xấu hổ như vậy. Chẳng có gì bất thường hết. Mọi người đều cưới nhau đấy thôi, và họ đều biết phải làm gì khi kết hôn, và tôi tin tưởng cả hai đứa. Giờ thì, cuộc hôn nhân này có diễn ra hay không hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của tôi.” “Và của tôi nữa,” bác sĩ Joe cứng rắn nói. “Đương nhiên rồi,” Marcus lên tiếng với vẻ hơi bực mình. “Và em trai tôi, dĩ nhiên. Chúng tôi mới biết cậu được một tháng hoặc cỡ đó, chỉ trong chuyến du lịch này. Ngay khi cậu bắt đầu hẹn hò với cháu gái tôi, tôi đã lập tức gửi điện tín cho luật sư để hỏi về tất cả các thông tin của cậu. Chà, cậu có vẻ cũng được. Thành tích học tập tốt, và tôi cũng không phàn nàn gì về việc cậu là trẻ mồ côi và không có gia sản…” George Harding bắt đầu giải thích gì đó, nhưng Marcus ngắt lời anh chàng. “Rồi, rồi. Tôi biết toàn bộ cái quy trình sản xuất hóa chất của cậu, thứ có thể tạo ra cả một gia tài hay đại loại thế. Nếu cả hai đứa quyết định sống dựa vào nó thì hai đứa nên biết rằng tôi sẽ không đời nào đầu tư vào đó lấy một cắc đâu. Tôi cũng không mấy quan tâm đến cái gọi là ‘quy trình mới’, tôi ghét cay ghét đắng các quy trình mới, đặc biệt là trong ngành hóa học. Chúng tôn vinh bộ não của những kẻ ngốc và khiến tôi phát ngấy vì sự non nớt. Nhưng có lẽ cậu sẽ vẫn thu được gì đó. Nếu làm việc nghiêm túc và chăm chỉ, cậu sẽ kiếm đủ sống, và có lẽ sẽ kiếm được thêm một chút từ Marjorie. Cậu đã hiểu chưa?” George lại bắt đầu giải thích gì đó nữa. Lần này thì chính Marjorie là người ngắt lời anh ta. Khuôn mặt cô hơi hồng lên, nhưng đôi mắt của Marjorie rất thẳng thắn và cho thấy sự điềm tĩnh tuyệt vời. “Anh chỉ nên trả lời ‘vâng’ thôi,” cô khuyên. “Đó là tất cả những gì anh được phép nói.” Người đàn ông hói đầu đội mũ phớt đang đứng dựa khuỷu tay vào lan can và hơi cau mày khi lắng nghe cuộc trò chuyện, giờ đây bỗng vẫy tay như thể cố thu hút sự chú ý của giáo viên trong lớp học. “Chỉ một chút thôi, Marcus,” ông ta ngắt lời. “Anh đã yêu cầu Wilbur và tôi có mặt trong cuộc trò chuyện này, mặc dù chúng tôi không phải thành viên gia đình. Vậy nên hãy để tôi nói điều này. Có cần thiết phải thẩm vấn chàng trai kia như thể cậu ta là…” Marcus nhìn ông ấy. “Tôi ước,” Marcus nói, “một số người sẽ loại bỏ được quan niệm ngớ ngẩn rằng bất cứ dạng câu hỏi nào cũng đều là ‘thẩm vấn’ cả. Hình như mọi tiểu thuyết gia đều có quan điểm như vậy. Kể cả anh nữa, giáo sư, dường như chính anh cũng thế. Điều đó khiến tôi bực mình đấy. Tôi chỉ đang kiểm tra cậu Harding mà thôi. Chuyện đó không rõ ràng à?” “Đúng ạ,” George nói. “Ồ, thế thì tốt,” vị giáo sư hòa nhã. Marcus dịch người ngồi cách xa chiếc đài phun nước nhất có thể để không bị ngã nhào vào đó. Biểu cảm trên khuôn mặt ông trông hòa dịu hơn nhiều. “Bởi vì cậu đã hiểu hết điều đó,” ông tiếp tục nói với giọng hơi khác hồi nãy, “bước tiếp theo là cậu cần biết về gia đình chúng tôi. Marjorie đã kể gì cho cậu nghe chưa? Tôi nghĩ là chưa. Nếu cậu nghĩ chúng tôi là những thành viên giàu có nhàn rỗi thích dạo bộ, những người quen với việc nghỉ mát suốt ba tháng tại thời điểm này trong năm, thì ném chúng ra khỏi đầu ngay cho tôi. Đúng là tôi giàu có thật, nhưng tôi không rảnh rỗi và cũng hiếm khi nào đi tản bộ. Những người khác cũng vậy, tôi biết rõ điều đó. Tôi làm việc, và mặc dù tôi xem bản thân mình là một học giả chứ không phải doanh nhân, tôi cũng không phải một người kinh doanh tồi. Em trai tôi là một bác sĩ đa khoa làm việc ở Sodbury Cross. Nó cũng làm việc, bất chấp tính cách lười biếng của mình. Tôi cũng biết rõ điều đó. Nó không phải một bác sĩ giỏi, nhưng mọi người đều thích nó.” Khuôn mặt dưới cặp kính đen của bác sĩ Joe dường như đang bốc hỏa.   Mời các bạn đón đọc Vụ Án Viên Nhộng Xanh của tác giả John Dickson Carr.
Bóng Ma Trong Chùa
Năm 670, Địch Công đã 40 tuổi, ông đang giữ chức Huyện lệnh một chốn khỉ ho cò gáy là huyện Lan Phường. Việc ông bị điều tới đây là do sự sắp đặt của các kẻ thù của ông tại triều đình nhưng một lần nữa ông đã đánh bại bọn đầu gấu địa phương và mang lại bình yên cho Lan Phường. Đó là chuyện đã xảy ra trong Mê Cung Án, còn Bóng Ma Trong Chùa là những sự kiện xảy ra tiếp theo. Nhân ngày sinh nhật Đại phu nhân, Địch Công mua một chiếc hộp cổ làm quà tặng nhưng rồi ông lại phát hiện bên trong nó ghi một lời kêu cứu kỳ lạ như thể của một người đang bị giam giữ. Và thế là, như các tập khác, ba vụ án được mở ra: Một thiếu nữ bị mất tích từ mùa thu năm ngoái; cô ta có phải là người ghi lời kêu cứu trong hộp không? Một gã lưu manh bị giết trong chùa hoang, nhưng dường như thi thể của gã đã bị đánh tráo? Những nghi vấn đó có liên quan gì đến năm mươi thỏi vàng mà Chưởng cố Tư khố Bộ Hộ bị mất trộm? Như các tập khác, Bóng Ma Trong Chùa lại lồng ghép nhiều yếu tố lịch sử và văn hóa Trung Quốc; đặc biệt là ngôi chùa hoang đã từng là thánh địa Phật giáo Mật tông, nhưng dường như không nhận được nhiều thiện cảm của các nhà nho. Ngoài ra, trong tập này, các phu nhân của Địch Công cũng được lên sân khấu, đặc biệt là Tam phu nhân, sau khi bị tác giả cho ăn hành ở Hoàng Kim Án thì đến Bóng Ma Trong Chùa đã có cơ hội được tỏa sáng. Vài nhân vật nữ xinh đẹp và cá tính khác cũng có nhiều đất diễn, lại càng khẳng định khả năng của tác giả trong việc nghĩ ra đủ loại biến thái để gán cho các nhân vật. Nhưng xét cho cùng, đây là sân khấu của Địch Công, ông vẫn bình tĩnh, tháo vát và giỏi quan sát như thường, vẫn phá án một cách thật gọn gàng, sạch sẽ. Tuy nhiên tác giả hơi bị lú, có lẽ là do thời gian sáng tác các tập hơi xa nhau: – Ngày 15 tháng 1 năm 670, tết Nguyên tiêu, Địch Công vẫn ở Phổ Dương phá giải vụ án Hai gã hành khất trong tập Địch gia bát án. – Địch Công rời Phổ Dương đến Lan Phường trong năm 670, khi vừa đến nơi thì bắt đầu phá giải vụ Mê Cung Án. – Mê Cung Án diễn ra vào cuối hè hoặc đầu thu: các nhân vật mặc áo mỏng và hoa cúc bắt đầu nở, có cả hoa lan và ong vo ve. – Trong vụ Bóng Ma Trong Chùa lại nhắc đến vụ trộm vàng xảy ra vào ngày 2 tháng 8 năm Tân Tỵ 669 (năm ngoái) khi Địch Công vẫn đang ở Phổ Dương (sắp phá vụ án Thi nhân và sát nhân vào ngày tết Trung thu). Vụ án mở đầu Bóng Ma Trong Chùa có sự xuất hiện của hoa hạnh nở rộ, nên vụ án này phải xảy ra vào cuối xuân đầu hè 670. – Lão Hồng than thở mùa đông ở Lan Phường thật khắc nghiệt, tức là team Địch Công hẳn đã phải trải qua mùa đông cuối năm 669 – đầu năm 670 ở Lan Phường. – Mê Cung Án diễn ra trước Bóng Ma Trong Chùa khoảng nửa năm. Vụ án thiếu nữ mất tích và vụ án mất trộm vàng lại cũng xảy ra trước Bóng Ma Trong Chùa khoảng nửa năm? – Thời gian diễn ra Mê Cung Án và Bóng Ma Trong Chùa có mâu thuẫn như vậy, Địch Công đến Lan Phường vào thời điểm nào? Mâu thuẫn nhỏ thôi, cũng chẳng ảnh hưởng gì đến cốt truyện nhưng cảm giác ghi chép các cột mốc thời gian ra giấy và bắt lỗi tác giả thì rất khoái. Sadie Mẫn Nhi *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. *** Chốn hoang phế nảy ra quái sự Đêm ma mị đồng lõa mưu gian Ả đứng bất động, nhìn chăm chăm vào vật nằm bên miệng giếng cổ. Không một ngọn gió nào xuất hiện giữa bầu không khí nóng ẩm đang bủa vây khu vườn của ngôi chùa tối tăm. Vài bông hoa hạnh rung rinh trên tán cây trải rộng trên đầu người, trắng sáng lên trong đốm lửa từ chiếc đèn lồng. Và càng trắng hơn khi nằm lẫn giữa những vết máu trên nền đá nhuốm màu thời gian. Kéo tà áo rộng sát vào ngực, ả nói với nam nhân cao lớn đứng bên mình, “Ném cả nó xuống giếng đi! Rất an toàn; giếng cổ này đã nhiều năm không ai lui tới. Ta không nghĩ còn có ai biết về nó.” Nam nhân khắc khoải nhìn khuôn mặt vô hồn, tái xám của ả, đặt ngọn đèn lồng lên đống đá cuội và gạch vỡ cạnh giếng rồi vừa run rẩy với vẻ sốt ruột, vừa tháo chiếc khăn quàng ra. “Ta muốn an toàn gấp đôi, nàng thấy không. Ta sẽ gói nó lại và…” Nhận thấy mình đã lớn tiếng giữa khu vườn của ngôi chùa hoang, hắn lại thì thầm, “…và chôn nó trong rặng cây phía sau chùa. Tên say rượu ngu ngốc kia có vẻ đang ngủ và sẽ không có ai còn thức sau nửa đêm.” Ả bình thản đứng nhìn hắn bọc cái thủ cấp trong khăn quàng. Những ngón tay hắn run lên dữ dội đến nỗi hắn khó khăn lắm mới buộc chặt được nút thắt. “Ta không thể làm nổi!” Hắn thì thào chống chế. “Thật là… thật quá sức của ta. Sao… sao nàng lại dám ra tay vậy? Hai lần, và thật giảo hoạt…” Ả nhún vai. “Chàng cần phải biết về khoảng trống giữa các khớp xương”, ả đáp lãnh đạm. Rồi ả cúi mình bên miệng giếng cổ. Từng cụm dây thường xuân dày đặc đã phủ kín phần gỗ mục nát của thanh xà cũ kỹ và những dải phướn dài rủ xuống trong bóng đêm thâm sâu, bám vào một sợi dây mòn, lúc trước dây còn treo một chiếc gầu. Có gì đó xao động trong tán lá rậm rạp của đám cây cổ thụ. Hoa hạnh trắng lại đổ xuống như mưa. Vài bông rơi đúng tay ả. Hoa lạnh như tuyết. Ả thu tay lại và phủi hoa đi. Rồi ả chậm rãi nói, “Tiết đông năm trước, khu vườn này bị tuyết phủ trắng xóa. Một màu trắng xóa…” Giọng ả lạc đi. “Đúng thế”, gã nam nhân hăm hở. “Đúng rồi! Trong thành cũng rất đẹp. Tuyết đóng thành nhũ trên mái ngôi chùa bên hồ sen trong những chiếc chuông nhỏ”, hắn lau khuôn mặt nóng bỏng ướt sũng rồi nói thêm, “Không khí lạnh thật sảng khoái. Ta còn nhớ rằng sáng hôm đó…” “Đừng nhớ nữa”, ả lạnh lùng ngắt lời. “Quên hết đi! Chỉ nghĩ đến tương lai thôi. Vì lúc này chúng ta sẽ có thể đạt được tương lai ấy. Tất cả. Mau đi thôi, ra khỏi chốn này.” “Bây giờ?” Hắn kinh ngạc. “Ngay sau khi…” Hắn nhìn ả khinh khỉnh rồi vội nói, “Ta đã nói là ta mệt quá rồi. Thật đó!” “Mệt ư? Chàng vẫn luôn khoe khoang về sức vóc của mình!” “Nhưng đâu còn gì để phải vội vàng nữa, đúng không? Chúng ta có thể đi và đạt được tương lai ấy bất cứ khi nào chúng ta muốn. Và chúng ta…” “Ta bỗng có việc gấp. Nhưng ta có thể hoãn lại. Chỉ một đêm thôi nhé?” Hắn nhìn ả buồn bã. Và khát vọng của hắn đối với nữ nhân này thật cay đắng, khiến hắn chịu giày vò. “Sao nàng không thể là của ta, của riêng ta thôi?” Hắn van nài. “Nàng biết ta sẽ làm bất cứ điều gì nàng muốn. Ta đã chứng minh rồi đấy, ta…” Hắn bật khóc, vì hắn thấy ả không nghe những lời hắn vừa nói. Ả đang chăm chú nhìn lên khoảng không giữa những tán lá, rải rác những bông hoa trắng. Đỉnh của hai tòa bảo tháp ba tầng đâm xuyên vào nền trời đêm. Cả hai ngọn tháp sừng sững hai bên sảnh chính của ngôi chùa, tạo nên sự đối xứng hoàn hảo. ... Mời các bạn đón đọc Địch Công Kỳ Án Tập 11: Bóng Ma Trong Chùa của tác giả Robert van Gulik.
Bậc Thầy
“Cuốn tiểu thuyết được nhắc đến nhiều nhất năm 2016.” — Washington Post Luôn bị đối xử tệ tại một nhà đấu giá tranh nghệ thuật nổi tiếng London, thoạt tiên, Judith chỉ là một trợ lý làm công ăn lương nhiều tham vọng, gắng vượt khỏi gốc gác hạng xoàng của mình để leo lên địa vị cao hơn trong thế giới nghệ thuật, một thế giới khó chạm tới nhưng cô biết mình thuộc về nó. Nhưng một vụ lừa đảo tại nhà đấu giá khiến cuộc đời cô tan tành đảo lộn. Thay vì suy sụp hay mất phương hướng, cô trở thành một con người khác. Vũ khí hộ thân không gì hơn trí thông minh sắc sảo và tài ngụy tạo, cô đưa đường dẫn lối bản thân từ French Riviera tới Genève, tới Rome, biến hình như tắc kè hoa, tính toán những con đường để giành lấy cuộc sống nhung lụa. Được bình chọn là cuốn sách xuất sắc nhất hệ thống Amazon tháng Tư năm 2016, cuốn tiểu thuyết ly kỳ này đã mở đầu cho bộ ba tác phẩm hấp dẫn, dõi theo tiến trình cuộc đời của Judith, một người đàn bà vừa mong manh vừa lạnh lùng. Trong lúc Judith hành động càng lúc càng xảo trá, nhập vai càng ngày càng dễ như thay giày, Hilton cũng khéo léo dệt nên một thế giới hào nhoáng, mang đầy cảm giác sắc bén về cuộc sống phù hoa đương đại.  Rốt cuộc, ta sẽ đi đâu khi ta đã đi quá xa? *** Review ''Bậc Thầy'' - L.S Hilton người review Nguyễn Ngọc Nam 388 trang với một câu truyện kỳ lạ. Một câu truyện phiêu lưu thời hiện đại, giống như một bộ phim hành động tua chậm trước mắt người đọc khiến cho khi gập sách lại ta vẫn không thể tin được kết thúc đã được phơi bày của nó. Judith là một cô gái thông minh và quỷ quyệt. Ban đầu cô ta chỉ là trợ lý quèn cho một nhà đấu giá có tham vọng trở thành một người quyền lực trong giới nghệ thuật nhưng hiện thực khắc nghiệt của cuộc sống đã cản bước cô. Mãi cho đến tận sau này cô mới nhận ra rằng tất cả những cố gắng của mình thực sự là vô ích. Đỉnh điểm là một vụ lừa đảo tại nhà đấu giá khiến cuộc đời cô tan tành đảo lộn. Và từ đây, câu truyện về Bậc thầy chính thức khai màn! Bạn nên đọc cuốn sách trong môi trường yên tĩnh tuyệt đối bởi bản gốc có lẽ tác giả hành văn nghe chừng thấy phức tạp khó hiểu quá, câu văn kiểu hack não người đọc nên về Việt Nam khi dịch lại dịch giả có lẽ cũng gặp nhiều khó khăn, chính vì vậy mà bạn sẽ phải mất kha khá thời gian để làm quen với sách bởi vì nó khá khó đọc. Truyện miêu tả rất đúng xã hội thời hiện đại, con người thời hiện tại và có lẽ là cả trong tương lai nữa. Một xã hội ưa vật chất, lừa đảo, giẫm đạp lên nhau để sống. Những con người lạnh lùng vô cảm và vô cùng xảo quyệt. Trong truyện không có một giai đoạn nào tươi sáng. Dường như thế lực bóng tối đã bao trùm lên toàn bộ cuốn sách này, bạn sẽ phải căng não và tư duy liên tục, như một cuộc chạy marathon với nó. Trinh thám, kinh dị, phiêu lưu, hài hước, sex thậm chí là cả viễn tưởng đều được tác giả thể hiện trong truyện. Đặc biệt là sex. Có lẽ phải đến 1/3 truyện yếu tố sex được đề cập đến với những mô tả cực chi tiết. Nó làm tôi nhớ tác phẩm "Thế giới mới tươi đẹp" nơi mà con người sex với nhau mọi lúc mọi nơi để xả stress liên tục. Xuyên suốt truyện người đọc sẽ thấy được một Judith mạnh mẽ. Và như tôi đã nói, cô mạnh mẽ theo cái cách tàn nhẫn. Đúng, tàn nhẫn bởi cô nhận ra rằng chỉ mạnh mẽ theo cách đó mới có thể tồn tại được trong xã hội này. Tất nhiên không một người tốt đẹp, trong sáng nào ủng hộ điều này nhưng xét theo một khía cạnh nào đó, những việc làm của Judith ít nhiều cũng là cần thiết và đúng đắn. Bởi hiện thực là khốc liệt, sự thật là tàn nhẫn. Dẫm đạt lên nó là điều tất yếu của cuộc sống. Bởi vậy mới nói, sự tha hóa của con người trong xã hội ngày nay đang "phát triển" vượt bậc. Tôi đánh giá cao về quyển sách này. Nó hoàn toàn thực tế, đúng đắn tới từng phân cảnh. Cũng giống "Bắt trẻ đồng xanh" đây hoàn toàn không phải là cuốn sách những đứa trẻ ngoan hay những người tin vào đạo lý nên đọc. Thật sự là khi các bạn đọc review này rồi thì hãy cân nhắc việc đọc nó nếu không muốn bị ức chế hoặc chửi thề sau khi đọc được vài chương. Tôi không muốn ai phải có một trải nghiệm tồi tệ không đáng có với điều đã được cảnh báo trước. *** Gấu váy nặng nề và gót giày nhọn hoắt lướt vun vút và gõ lạch cạch trên mặt sàn lát gỗ. Chúng tôi đi ngang hành lang đến một cửa đôi, tiếng rì rầm khe khẽ sau cửa cho biết cánh đàn ông đã ở trong phòng. Căn phòng được thắp nến, giữa các sofa và ghế ăn thấp có kê bàn nhỏ. Cánh đàn ông đang chờ, họ mặc quần lụa xa tanh đen dày cùng áo khoác có khuyết thùa ngang kiểu nhà binh, sợi ngang của vải óng ánh lộng lẫy bù khuyết cho lần áo trong hồ cứng ngắc. Thi thoảng, một chiếc khuy măng séc nặng nề hay một chiếc đồng hồ thanh mảnh lại nhoáng vàng trong ánh nến, một hình thêu chữ lồng thấp thoáng bên dưới một chiếc khăn tay lụa hoa mỹ. Cảnh tượng này hẳn sẽ có vẻ sến súa và giả tạo nếu mọi chi tiết không hoàn hảo đến vậy, nhưng tôi lại thấy như bị thôi miên, mạch đập của tôi chậm và sâu. Yvette đang được một người đàn ông có cổ tay áo gắn lông công dẫn đi - tôi nhìn lên và thấy một người khác tiến về phía mình, một cây dành dành giống của tôi gắn trên ve áo ông ta. “Vậy cách thức là thế này sao?” “Khi chúng ta ăn, đúng vậy. Sau đó cô được chọn. Bonsoir*.” “Bonsoir.” Dáng ông ta cao và mảnh khảnh, dù cơ thể có vẻ trẻ hơn khuôn mặt đã có phần nhăn nheo và đanh cứng, với mái tóc muối tiêu chải ngược trên vầng trán cao và cặp mắt lớn hơi sụp mí, như một vị thánh Byzantine. Ông ta dẫn tôi đến sofa, đợi tôi ngồi xuống rồi đưa cho tôi một ly vang trắng, chiếc ly bằng pha lê đơn giản, trong veo và cứng rắn. Nghi thức thì sáo rỗng, nhưng tôi thích từng bước thực hiện của nó. Julien rõ ràng có vẻ thích sự mong đợi. Các cô hầu bàn gần như khỏa thân trở lại với những đĩa nhỏ đựng bánh tôm hùm nhỏ xíu, rồi đến ức vịt xé nhỏ trong một hỗn hợp mật ong và gừng, mâm xôi và dâu tây đựng trong bánh ngói hình khay. Những món ăn mang tính lịch sự, không hề nhằm đến việc đáp ứng nhu cầu của chúng tôi. “Trái cây màu đỏ làm cái ấy của đàn bà thành mỹ vị,” bạn cùng bàn của tôi nhận xét. “Tôi biết.” Đôi chỗ có tiếng nói chuyện khe khẽ, nhưng hầu hết chỉ nhìn ngắm và uống rượu, ánh mắt chuyển từ đối phương sang những động tác nhanh nhẹn của các nữ hầu bàn có vóc dáng như vũ nữ, mảnh dẻ nhưng săn chắc cơ bắp, đùi căng đầy trên ống ủng bó chặt. Làm thêm sau giờ múa ba lê chăng? Tôi loáng thoáng thấy Yvette ở bên kia phòng, đang được bón sung nhồi hạnh nhân bằng một cây dĩa bạc nhọn đầu, cơ thể cô ườn ra như một con rắn, một bên đùi sẫm màu lấp ló giữa lớp lụa đỏ. Một cách trang nghiêm, các hầu bàn cầm cây dập nến đi quanh phòng, chỉnh mờ ánh sáng trong một làn mây hình sáp ong, và cùng lúc đó tôi cảm thấy tay người đàn ông trên đùi mình, vừa xoa vừa ve vuốt, không chút vội vã, và đáp lại là sự căng cứng giữa hai chân tôi. Các cô gái đưa ra những khay sơn mài đựng bao cao su, chai pha lê nhỏ chứa dầu thơm Tahiti, dầu bôi trơn được chắt vào khay đĩa. Vài cặp đang hôn nhau, có vẻ hài lòng với đối tượng được ghép đôi của mình; số khác lịch sự đứng dậy và băng qua phòng để tìm con mồi họ đã chọn từ trước. Váy của Yvette rơi xuống cạnh đôi chân mở rộng của cô, một người đàn ông vục đầu vào cô. Tôi bắt gặp ánh mắt cô, và cô mỉm cười, vẻ kiêu sa, trước khi ngả đầu giữa đống gối theo kiểu ngây ngất của một con nghiện chìm vào cơn phê. Mời các bạn đón đọc Bậc Thầy của tác giả L. S. Hilton.
Kẻ Khủng Bố
Kẻ khủng bố có phải là một quái vật, một tên điên? Người bình thường chúng ta liệu có thể nào hiểu và thông cảm được với một kẻ khủng bố? Cuốn tiểu thuyết đặc sắc của John Updike là cuộc hành trình tìm lời đáp cho câu hỏi ấy. Bằng giọng văn điềm tĩnh, óc quan sát sắc sảo, khả năng phân tích tinh tế, cùng một quyết tâm quả cảm hầu vượt qua mọi định kiến có sẵn về thiện và ác, nhà văn hàng đầu nước Mỹ - tác giả Rabbit ơi, chạy đi - khiến cho ta thấy, đằng sau bức chân dung quen thuộc về kẻ khủng bố đáng sợ, đáng căm ghét kia là một con người, với một trí óc và tâm hồn giống chúng ta hơn là khác chúng ta ra sao. *** Trong số các cuốn mới ra của NN mình thấy cuốn này có vẻ thú vị nhất. Tác giả chính là người viết cuốn ''Rabbit ơi, chạy đi''. ”Kẻ khủng bố có phải là một quái vật, một tên điên? Người bình thường chúng ta liệu có thể nào hiểu và thông cảm được với một kẻ khủng bố? Cuốn tiểu thuyết đặc sắc của John Updike là cuộc hành trình tìm lời đáp cho câu hỏi ấy. Truyện kể về Ahmad Ashmawy Mulloy 18 tuổi và sự tôn sùng của cậu đối với thánh Allah và những lời của kinh Koran được dạy từ một nhà thờ Hồi giáo tại địa phương. Con trai của một bà mẹ người Ireland và một người cha Ai Cập đã biến mất khi cậu lên ba, Ahmad đã chuyển sang Hồi giáo ở tuổi mười một. Cậu cảm thấy đức tin của mình bị đe doạ bởi xã hội chủ nghĩa vật chất, nơi mà cậu bé nhìn thấy mọi nơi ngay trong thị trấn nhà máy ở New Prospect, miền bắc New Jersey. Không có người cố vấn hướng dẫn, chán nản tại rrường Trung học cậu làm quen với 2 người bạn: Jack Levy, và Joryleen Grant, những người bạn học tinh nghịch của Ahmad, đã thành công trong việc chuyển hướng cậu bé từ những gì mà tôn giáo gọi là Con đường đúng đắn. Khi cậu tìm được việc làm trong một cửa hàng đồ nội thất thuộc sở hữu của một gia đình người Lebanon nhập cư mới, các chủ đề của một âm mưu thu thập xung quanh cậu, với những tiếng reo hò cổ vũ làm cho Bộ An ninh Quốc gia đang thôi thúc... Bằng giọng văn điềm tĩnh, óc quan sát sắc sảo, khả năng phân tích tinh tế, cùng một quyết tâm quả cảm hầu vượt qua mọi định kiến có sẵn về thiện và ác, nhà văn khiến cho ta thấy, đằng sau bức chân dung quen thuộc về kẻ khủng bố đáng sợ, đáng căm ghét kia là một con người, với một trí óc và tâm hồn giống chúng ta hơn là khác chúng ta ra sao. Cuốn tiểu thuyết thứ hai mươi hai của John Updike là một cuốn tiểu thuyết xuất sắc rực rỡ, chắc chắn sẽ được đánh giá là một trong những tác phẩm hay nhất của ông. Người review: Bookaholic *** John Hoyer Updike (18 tháng 3 năm 1932 - 27 tháng 1 năm 2009) là một tiểu thuyết gia, nhà thơ, người viết truyện ngắn, nhà phê bình nghệ thuật và phê bình văn học người Mỹ. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Updike là chuỗi tiểu thuyết "Rabbit" (các tiểu thuyết Rabbit, Run; Rabbit Redux; Rabbit Is Rich; Rabbit at Rest; và Rabbit Remembered),  mô tả tổng thể cuộc sống của người đàn ông tầng lớp trung lưu Harry "Rabbit" Angstrom trong suốt nhiều thập kỷ, từ khi trưởng thành trẻ tuổi cho đến khi chết. Cả hai tiểu thuyết Rabbit Is Rich (1982) và Rabbit at Rest (1990) của ông đều đoạt giải Pulitzer.  Updike là một trong ba tác giả đoạt giải Pulitzer dành cho tiểu thuyết nhiều hơn một lần (những người khác là Booth Tarkington và William Faulkner). Ông đã xuất bản hơn hai mươi tiểu thuyết và hơn một chục tập truyện ngắn, cũng như thơ, phê bình nghệ thuật, phê bình văn học và sách trẻ em. Hàng trăm câu chuyện, đánh giá, và những bài thơ của ông xuất hiện trên tờ The New Yorker kể từ năm 1954. Ông cũng viết thường xuyên cho The New York Review of Books. Tác phẩm Tiểu thuyết The Poorhouse Fair (Hội chợ trong nhà tế bần, 1959) The Centaur (Nhân mã, 1963) Of the Farm (Ở nông trại, 1965) Couples (Các cặp vợ chồng, 1968) Marry Me (1977) The Coup (1978) Brazil (1994) In the Beauty of the Lilies (Nhan sắc của hoa huệ, 1996) Toward the End of Time (1997) Gertrude and Claudius (2000) Seek My Face (2002) Villages (2004 Terrorist (Kẻ khủng bố, 2006)   Tập thơ The Carpentered Hen (Con gà gỗ, 1958) Telephone Poles (1963) Midpoint (1969) Dance of the Solids (1969) Cunts: Upon Receiving The Swingers Life Club Membership Solicitation (1974) Tossing and Turning (1977) Facing Nature (1985) Collected Poems 1953–1993 (Tuyển tập thơ 1953 - 19993, 1993) Americana and Other Poems (2001) Endpoint and Other Poems (2009) Tuyển tập truyện ngắn The Same Door (Cũng cánh cửa ấy, 1959) Pigeon Feathers (Những cái lông bồ câu, 1962) Olinger Stories (1964) The Music School (1966) Museums And Women (Bảo tàng và phụ nữ, 1972) Problems and Other Stories (Những vấn đề và những câu chuyện khác, 1979) Too Far to Go(Quá xa để đi, 1979) Your Lover Just Called (1980) Trust Me (1987) The Afterlife (Cuộc sống ở thế giới bên kia, 1994) Licks of Love (Tình yêu bằng từng liều nhỏ, 2001) The Early Stories: 1953–1975 (Những truyện gần đây 1953 - 1975, 2003) Three Trips (2003) My Father's Tears and Other Stories (Nước mắt bố tôi và những truyện khác, 2009) The Maples Stories (2009) The Collected Stories, Volume 1: Collected Early Stories (Tuyển tập truyện ngắn - tập 1, 2013) The Collected Stories, Volume 2: Collected Later Stories (Tuyển tập truyện ngắn - tập 2, 2013)   Mời các bạn đón đọc Kẻ Khủng Bố của tác giả John Updike.