Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Người Đàn Bà

NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ là câu chuyện đầy đau đớn, dữ dội về số phận của những người phụ nữ yếm thế trong xã hội Palestine. Họ không có tiếng nói ngay trong gia đình mình, lấy chồng theo sự sắp đặt của cha mẹ và chỉ quẩn quanh bên căn bếp, chăm lo con cái. Xuyên suốt câu chuyện là sự câm lặng của ba thế hệ phụ nữ. Thế hệ đầu thoát khỏi sự chiếm đóng của Israel trong xung đột Palestine và Israel, chạy trốn đến nước Mỹ với mong muốn tránh khỏi cuộc sống ở trại tị nạn. Thế hệ thứ 2 đồng ý một cuộc hôn nhân sắp đặt với người Mỹ gốc Palestine với hi vọng đất Mỹ tự do thì tiếng nói của nữ giới sẽ được tôn trọng hơn trên đất Palestine. Thế hệ thứ 3, suýt nữa thì rơi vào bánh xe đổ của các thế hệ trước, nếu cô ấy không phát hiện ra bí mật kinh khủng của gia đình mình và số phận của người mẹ đáng thương... Mỗi thế hệ đều có giấc mơ và khát vọng về sự tự do và nữ quyền, nhưng không phải ai cũng có thể đấu tranh đến tận cùng. Lấy bối cảnh ở một nước Mỹ đầy khát khao cùng những lời hứa hẹn rộng mở, để kể một nền văn hóa với hủ tục cực đoan, khép kín và kiểm soát đối người phụ nữ, NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ là một cái nhìn sâu sắc về sự tuyệt vọng, thống khổ của phụ nữ gốc Palestine. Dù vậy, ẩn chứa bên trong họ là sức mạnh phi thường, lòng dũng cảm để tìm lại tiếng nói và phẩm giá của mình. Với những trang sách đầy mê hoặc, lôi cuốn và hấp dẫn đến phút cuối cùng, NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ đã được Amazon bình chọn là cuốn sách viết về phụ nữ hay nhất năm. *** Review sách Những Người Đàn Bà Tác giả: Etaf Rum Đôi nét về tác giả: Etaf Rum sinh năm 1989 là Một tiểu thuyết gia trẻ tuổi người Mỹ gốc Palestine. Cô sinh ra và lớn lên trong một gia đình người Ả Rập truyền thống ở Brooklyn New York Review sách: Các vấn đề về con người vẫn luôn là đề tài để các tác giả khai thác, bởi có lẽ chẳng có gì phong phú, đẹp đẽ và xấu xa như con người. Chúng ta ngay cả sự sống, ngay cả bi kịch, cũng là thứ thôi thúc sự viết, sự tìm tòi. Trong đó đề tài “thân phận người phụ nữ” được đào sâu nhiều khía cạnh trong nhiều thời đại bối cảnh. Mình thường nói vui với bạn, cái gọi là “thân phận phụ nữ” sao mà phải viết nhiều thế. Nhưng có lẽ sự phân biệt giới tính đã làm cho phụ nữ trở nên khốn khổ, mà đặc biệt là những người phụ nữ sinh ra giữa chế độ hủ tục của tôn giáo, định kiến xã hội. Những người đàn bà là một cuốn sách như thế, khai thác đề tài thân phận người phụ nữ. Cuốn sách “Những người đàn bà” Lấy bối cảnh ở một nước Mỹ đầy khát khao cùng những lời hứa hẹn rộng mở, để kể một nền văn hóa với hủ tục cực đoan, khép kín và kiểm soát đối người phụ nữ. Cuốn sách kể về câu chuyện đầy đau đớn, dữ dội về số phận của ba người phụ nữ, thuộc ba thế hệ khác nhau, mỗi người đều an bài cuộc đời mình cho những nỗi đau câm lặng trong xã hội Palestine. Họ luôn khao khát mưu cầu sự sống, tình yêu và hạnh phúc nhưng số phận đã bóp nghẹt họ, tước đi tất cả bao gồm cả sự sống. Họ không có tiếng nói ngay trong gia đình mình, lấy chồng theo sự sắp đặt của cha mẹ và chỉ quẩn quanh bên căn bếp, chăm lo con cái. ‘Nơi tôi sinh ra, vô thanh là một trạng thái đặc biệt của nữ giới, thường tình như một bộ ngực nở nang và cần thiết như chúng tôi mang trong mình sự sinh sôi cho những thế hệ sau này” Họ là những người phụ nữ Palestin ngoài việc sinh nở và ở nhà chăm con,thì gần như đánh mất hoàn toàn chức năng của bản thân mình. Dưới một đời sống không lối thoát được truyền từ đời này sang đời khác, cuốn sách này mang lại nhiều sự u tối về số phận con người. Không chỉ người phụ nữ, ngay cả những người đàn ông, những người tưởng chừng được làm mọi thứ cùng tràn ngập bế tắc. Bởi họ phải gồng gánh trên vai hàng ngàn gánh nặng về cơm áo gạo tiền. Từ ngay trong những tác phẩm văn học trong quá khứ mà chúng ta đã từng được tiếp xúc, “bị kịch cự tuyệt quyền làm người” đã được nhắc tới, và có lẽ là thứ bi kịch đau khổ và tuyệt vọng vô cùng. Xuyên suốt câu chuyện là sự câm lặng của ba thế hệ phụ nữ.  Thế hệ đầu thoát khỏi sự chiếm đóng của Israel trong xung đột Palestine và Israel, chạy trốn đến nước Mỹ với mong muốn tránh khỏi cuộc sống ở trại tị nạn. Thế hệ thứ 2 đồng ý một cuộc hôn nhân sắp đặt với người Mỹ gốc Palestine với hi vọng đất Mỹ tự do thì tiếng nói của nữ giới sẽ được tôn trọng hơn trên đất Palestine. Thế hệ thứ 3, suýt nữa thì rơi vào bánh xe đổ của các thế hệ trước, nếu cô ấy không phát hiện ra bí mật kinh khủng của gia đình mình và số phận của người mẹ đáng thương Mỗi thế hệ đều có giấc mơ và khát vọng về sự tự do và nữ quyền, nhưng không phải ai cũng có thể đấu tranh đến tận cùng. Những người đàn bà là một cái nhìn sâu sắc về sự tuyệt vọng, thống khổ của phụ nữ gốc Palestine. Dù vậy, ẩn chứa bên trong họ là sức mạnh phi thường, lòng dũng cảm để tìm lại tiếng nói và phẩm giá của mình Với giọng văn mô tả thực và sống động, Etaf Rum đã mang lại cả nền văn hoá Ả rập đến cho người đọc. Một nền văn hoá cổ hủ không chút giấu diếm, truyền thống trọng nam khinh nữ được bộc lộ một cách khéo léo khiến bản thân dễ dàng cảm thấy đồng cảm được với mỗi nhân vật trong truyện. Một chút thương xót, một chút ngưỡng mộ, có đôi khi thấy hơi bất lực và khó chịu với sự nhu nhược của người phụ nữ thế hệ xưa. Cũng không phải tự nhiên Amazon lại cho rằng đây là tác phẩm hay nhất của năm viết về người phụ nữ hay nó thuộc trong những cuốn New York Times best seller. Có thể khi đọc tác phẩm này chúng ta sẽ vẫn thấy được phảng phất đâu đó sự đồng điệu và quen thuộc, vì chính tại Việt Nam này cũng đã và vẫn đang tồn tại cái nền văn hoá, truyền thống cổ hủ đấy. Chắc cũng khó có ai có thể tưởng tượng được cái sự thật trần trụi ấy lại được tái hiện lại qua giọng văn trẻ như vậy. So với một tác phẩm đầu tay thì Etaf Rum đã thực sự làm nên một điều kì diệu, văn phong tưởng chừng như đơn giản nhưng lại có một chút tính toán. Để mà đánh giá thì mình thấy đây là một tiểu thuyết hay với nội dung cuốn hút người đọc, những cú plot twist và sự bất ngờ sẽ đến với các bạn từ phần nọ sang phần kia. Nhằm muốn bộc lộ rõ được bản chất của những câu chuyện đáng khinh bỉ ấy, nhà văn đã vẫn giữ nguyên một số từ ngữ đặc trưng của nơi đây. Một cuốn tiểu thuyết thực sự mang lại thật nhiều suy nghĩ cho người đọc. *** Tôi sinh ra đã thiếu đi giọng nói, trong một ngày lạnh lẽo, u ám ở phố Brooklyn, New York. Không ai nhắc đến tình trạng của tôi. Tôi không biết mình bị câm cho đến nhiều năm về sau, khi tôi mở miệng xin điều mình muốn, để rồi nhận ra không ai có thể nghe thấy mình. Nơi tôi sinh ra, vô thanh là một trạng thái mặc định của nữ giới, thường tình như một bộ ngực nở nang và cần thiết như việc chúng tôi mang trong mình sự sinh sôi của những thế hệ sau này. Nhưng tất nhiên, chúng tôi sẽ không bao giờ tiết lộ cho bạn điều đó. Ở nơi tôi sinh ra, phụ nữ chúng tôi đã học cách che giấu đi những trạng thái của mình. Chúng tôi được dạy phải im lặng và chỉ có sự im lặng mới cứu được chúng tôi. Phải đến tận bây giờ, sau rất nhiều năm, tôi mới nhận ra điều này là sai lầm. Phải đến tận bây giờ, khi viết ra câu chuyện này, tôi mới cảm nhận được giọng nói của chính mình. Bạn chưa bao giờ nghe về câu chuyện này. Dù bạn có đọc bao nhiêu sách, hay biết bao nhiêu chuyện trên đời thì tôi vẫn tin chưa có ai kể cho bạn nghe một câu chuyện như thế. Ở nơi tôi sinh ra, chúng tôi giữ những câu chuyện cho riêng mình. Kể những câu chuyện ấy cho thế giới bên ngoài là một điều mà chưa ai dám làm bởi nó vừa nguy hiểm vừa đáng hổ thẹn. Nhưng, bạn đã thấy chúng tôi. Hãy dạo bước trong thành phố New York vào một chiều nắng đẹp. Đi xuống Manhattan*cho đến khi những con phố bắt đầu cong lại và rối rắm như những con phố ở Cựu Lục Địa*. Rẽ sang phía Đông, đi qua cầu Brooklyn*, khi ngoái lại, bạn sẽ thấy đường chân trời mỏng tang của Manhattan đang ở ngay phía sau mình. Phía bên kia, giao thông vẫn đang ùn tắc. Vẫy một chiếc taxi vàng và đi xuống đại lộ Flatbush, tuyến đường huyết mạch chính của Nam Brooklyn, bạn tiếp tục hướng Nam cho tới đại lộ số Ba. Nhà ở đây nhỏ hơn, chỉ xây ba hoặc bốn tầng, với những kiến trúc xưa cũ. Cây cầu Verrazano hẹp lửng lơ giữa tâm nhìn như một chú hải âu khổng lồ, hai cánh dang rộng, ở phía xa xa chân trời Manhattan hiện lên lờ mờ như một ảo ảnh. Hướng về phía Nam một lúc, qua những kho hàng cũ tân trang lại thành những quán cà phê và những quầy bán hàu thời thượng, những cửa hàng kim khí tư nhân nhỏ đã có ở đó hằng bao nhiêu thế hệ. Khi những quán cà phê kiểu Mỹ bắt đầu thưa thớt dần, bạn biết là mình đã gần tới nơi. Đi chéo qua phía Đông hai dãy nhà đến đại lộ số Năm, ở đây, bạn sẽ thấy khu Bay Ridge. Cái khu phố rộng ba dặm của chúng tôi là điểm hội tụ văn hóa của Brooklyn. Trên những dãy phố của chúng tôi, bạn sẽ gặp những người Mỹ Latin, Trung Đông, Ý, Nga, Hy Lạp và gốc Á, tất cả đều nói tiếng mẹ đẻ và gìn giữ truyền thống văn hóa của riêng mình. Tranh tường và graffiti*phủ đầy trên tường. Những lá cờ sặc sỡ màu sắc treo trên các ô cửa sổ và ban công. Mùi thơm ngọt ngào của bánh rán churros*, trộn lẫn với mùi thịt xiên nướng shish kebab* và mùi hoa khô trộn - tất cả tạo nên một món hầm hợp chủng. Bước ra khỏi góc phố cắt giữa đường Bảy Mươi Hai và đại lộ số Năm, bạn sẽ thấy xung quanh mình nào là tiệm bánh, những quầy bar hookah*và những chợ thịt của người Hồi giáo. Tiếp tục đi xuống hàng cây đường Bảy Mươi Hai cho đến khi bạn tới một căn nhà cũ trông không có gì khác với những căn còn lại với gạch đỏ phai màu, cửa nâu bụi bặm, số 545. Đây là nơi mà gia đình tôi sống. Nhưng thực ra mà nói, câu chuyện của chúng tôi không bắt đầu từ phố Bay Ridge. Để tới đó, chúng ta cần lật về trước khi tôi tìm thấy giọng nói của mình, trước cả khi tôi được sinh ra. Chúng tôi chưa ở căn nhà trên đường Bảy Mươi Hai, chưa ở Brooklyn, chưa ở Mỹ. Chúng tôi còn chưa lên máy bay từ Trung Đông tới vùng trời mới này, chưa bay qua Đại Tây Dương, chưa biết một ngày chúng tôi sẽ có chuyến đi này. Ấy là năm 1990 và chúng tôi đang ở Palestine. Đó là khi câu chuyện bắt đầu. ***   Isra (BIRZEIT*, PALESTINE) Mùa xuân năm 1990 Ngày nào cũng vậy, suốt phần lớn mười bảy năm của cuộc đời mình, Isra đều nấu ăn với mẹ. Cô thường cuộn từng lá nho trong những buổi chiều ấm áp, hay nhồi mì bí ngòi hoặc ninh những nồi súp đậu láng khi trời mát mẻ và vườn nho ngoài hiên trở nên trống không. Trong kia sẽ là mẹ cô tất tả với căn bếp, như thể cả hai đang thủ thỉ một bí mật gì đó. Hơi nước quẩn quanh hai mẹ con, cho tới khi hoàng hôn buông những vệt nắng màu cam qua cửa sổ. Nhìn ra ngoài, từ đỉnh núi, gia đình Hadid có thể ngắm nhìn quang cảnh của cả miền quê - những triền đồi bao phủ bởi những mái nhà gạch hoa đỏ, tươi sáng, dày dặn và có nét gì đó hoang dại. Isra hay mở toang cửa sổ vì cô yêu mùi của quả vả và hạt hạnh nhân ùa vào mỗi sáng, cả tiếng sột soạt từ nghĩa địa râm ran mỗi tối. Tối đã muộn và tiếng gọi lời cầu nguyện maghrib* đã đến gần, nghĩa là chuyện bếp núc cũng sắp phải xong. Isra và mẹ sẽ đi vào nhà vệ sinh, xắn tay áo lên và rửa đi chút nước sốt đỏ còn dính lại trên ngón tay của mình. Isra đã bắt đầu quỳ xuống cầu nguyện bên cạnh mẹ từ nầm cô lên bảy, năm lần mỗi ngày. Gần đây, cô bỗng mong chờ tới những lần cầu nguyện này hơn, để được đứng bên cạnh mẹ, vai chạm vai, chân sượt qua chân mẹ. Đây là thời gian duy nhất trong ngày mà Isra được cảm nhận sự tiếp xúc của con người. Cô nghe thấy tiếng adhan* đặc sệt gọi họ đến để cầu nguyện. “Lời cầu maghrib hôm nay phải chờ sau mất rồi!” - Mẹ của Isra nói bằng tiếng Ả Rập, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ bếp: “Khách của chúng ta đã tới.” Vừa nghe thấy tiếng gõ cửa, bà chạy vội đến bồn rửa, rửa tay thật nhanh và lau khô tay bằng một cái giẻ sạch. Đi ra khỏi bếp, bà cuốn chiếc áo choàng màu đen quanh vóc dáng bé nhỏ của mình và đội một cái khăn hijab* cùng màu để che đi mái tóc đen dài. Dù mẹ chỉ mới ba mươi lăm tuổi nhưng Isra nghĩ bà trông già hơn thế nhiều, bởi những nếp nhăn của một đời lao động vất vả hằn trên gương mặt. Mẹ nhìn thẳng vào mắt Isra: “Đừng có quên rửa tay cho sạch mùi tỏi trước khi ra chào khách.” Isra rửa tay cố không làm dính bẩn vào bộ váy choàng kaftan* màu hồng mà mẹ đã chọn cho cô. “Trông con có được không mẹ?” “Trông được.” - Mẹ nói, quay mặt chuẩn bị đi: “Nhớ cài hijabcẩn thận không tóc lại hở ra đấy. Nhà ta không muốn khách có ấn tượng không tốt đâu.” Isra làm theo những gì cô được bảo. Từ sảnh, cô đã nghe thấy tiếng cha mình, ông Yacob, lặp lại tiếng chào salaam*thường lệ khi ông dẫn khách vào phòng khách. Ngay sau đó, ông vội xuống bếp để hỏi xin nước và cô sẽ với lấy ba cái tách thủy tinh từ chạn bát để chuẩn bị cho ông. Những vị khách sẽ thường ca thán về sườn đồi dốc dẫn đến nhà của họ, nhất là trong những hôm như thế này, khi bầu không khí ngày càng nóng, cảm giác như nơi này chỉ cách mặt trời có vài phân. Isra sống tại một trong những ngọn đồi dốc nhất ở Palestine, trên một mảnh đất mà Yacob thường khoe là ông mua vì nó có tầm nhìn đẹp và điều đó khiến cho ông thấy mình thật là oai, cứ như là một ông vua vậy. Isra cứ lặng lẽ nghe ông phán đủ điều. Cô không bao giờ dám nói với Yacob rằng, nhà họ thực ra chẳng có gì oai cả. Sự thật là, gia đình Yacob đã bị sơ tán khỏi căn nhà ven biển ở Lydd khi ông mới mười tuổi, trong thời gian Israel chiếm đóng Palestine. Đây là lý do tại sao họ sống ở ngoại ô Birzeit, trên một ngọn đồi dốc nhìn ra hai bãi tha ma - bên trái là nghĩa địa của người Kitô giáo còn bên phải là nghĩa địa của người theo đạo Hồi. Nó là một miếng đất mà không ai muốn ở và cũng là miếng đất duy nhất mà họ có thể chi trả được. Dù sao chăng nữa, Isra vẫn thích nhìn quang cảnh từ đỉnh đồi ở Birzeit. Nhìn qua hai khu nghĩa địa, cô có thể thấy ngôi trường nữ sinh của mình, một tòa nhà bốn tầng chằng chịt những dây nho và chéo sang một chút, cách một cánh đồng cây hạnh nhân, là ngôi đền mosque* mái vòm màu xanh mà ông Yacob và ba người anh em của ông hay cầu nguyện, trong khi cô và mẹ cầu nguyện ở nhà. Nhìn ra ngoài cửa sổ, Isra cảm thấy vừa khát khao, lại vừa sợ. Vượt ra ngoài rìa làng cô liệu có những gì? Cô vừa muốn đi ra ngoài kia và khám phá thế giới, vừa muốn sống trong sự yên ổn và an toàn, bao bọc bởi những thứ mà cô đã biết. Và câu nói của mẹ lại vang lên trong tâm trí cô: Chỗ của người phụ nữ là ở nhà! Ngay cả khi Isra muốn bỏ đi, cô cũng không biết đi đâu. “Đi pha một ấm chai* đi!” - Yacob nói khi ông bước vào bếp và Isra đưa cho ông cốc nước. Ông nói: “Nhớ bỏ vài lá bạc hà vào nữa.” Isra không cần ông phải nhắc, cô đã thuộc lòng những tục lệ này. Cô đã xem mẹ cô phục vụ và tiếp đãi khách từ khi cô bắt đầu có thể nhớ. Mẹ luôn để một hộp sô-cô-la Mackintosh ở trên bàn cà phê trong phòng khách khi nhà có khách và bà luôn mời họ hạt dưa rang trước khi dọn ra bánh baklava*. Ngay cả đồ uống cũng phải mang ra theo thứ tự: Đầu tiên là trà chai bạc hà và cuối cùng là cà phê kiểu Thổ Nhĩ Kỳ. Mẹ bảo, đảo lộn trật tự là một sự xúc phạm. Isra đã từng được nghe một người phụ nữ kể chuyện về lần bà ấy được nhà hàng xóm tiếp bằng một tách cà phê Thổ Nhĩ Kỳ: “Tôi bước ra ngoài cửa ngay lập tức...” - Người phụ nữ kể lại: “Như thế có khác nào họ đuổi tôi đâu.” Isra vừa với lấy bộ tách sứ màu đỏ vàng, vừa để ý tiếng mẹ ngoài phòng khách. Cô có thể nghe thấy tiếng Yacob đang bật cười và sau đó là tiếng cười của những người đàn ông khác. Isra tự hỏi điều gì khiến họ cười. Vài tháng sau đó, vào tuần ngay trước khi Isra sang tuổi mười bảy, lúc Isra đi học về, cô thấy Yacob ngồi trong phòng khách với chàng trai trẻ và cha mẹ của anh ta. Mỗi lần nhớ lại ngày hôm đấy, ngày mà cô được cầu hôn lần đầu tiên, điều mà cô nhớ nhất là lúc Yacob mắng chửi mẹ cô thậm tệ sau khi khách về. Ông tức giận vì bà không mời khách chai bằng bộ tách chén cổ mà họ dành riêng cho những dịp đặc biệt. “Bây giờ thì người ta biết là nhà mình nghèo!” - Yacob hét lên, lòng bàn tay ông quặp chặt lại. Mẹ không nói gì cả, lẳng lặng lủi vào bếp. Cái nghèo chính là lý do tại sao Yacob lại sốt sắng trong việc gả cưới Isra. Mấy đứa con trai giúp ông cày cấy ruộng đồng, kiếm đồng ra đồng vào. Một ngày nào đó, chúng nó sẽ nối dõi dòng họ của gia đình. Con gái chỉ như một người khách vãng lai, lặng lẽ chờ đợi một người đàn ông đến và rước đi, cùng với tất cả những gánh nặng tài chính mà cô đặt lên vai cả gia đình. Từ dạo đấy đã có hai người đàn ông cầu hôn Isra - một anh thợ bánh mì ở Ramalah và một anh lái taxi ở Nablus - nhưng Yacob từ chối cả hai. Ông không thể ngừng nói về một gia đình từ Mỹ đến thăm để tìm con dâu và bây giờ thì Isra hiểu tại sao ông lại từ chối hai người kia: Ông đang mong đợi một lời cầu hôn khác. Isra không chắc mình cảm thấy thế nào về việc di cư sang Mỹ, một nơi mà cô chỉ biết qua những bản tin, hay đọc qua trong thư viện ở trường. Từ những gì cô tìm hiểu, văn hóa phương Tây có vẻ không hà khắc như văn hóa của cô. Điều này khiến cô vừa phấn khích vừa sợ hãi. Cuộc đời cô sẽ thế nào nếu cô chuyển đến Mỹ? Một cô gái cổ hủ như cô sẽ thích nghi như thế nào ở một nơi cấp tiến như Mỹ? Cô thường thức cả đêm suy nghĩ về tương lai của mình, nóng lòng không biết cuộc đời mình sẽ ra sao khi cô bước ra khỏi nhà Yacob. Liệu sẽ có một người đàn ông yêu cô? Cô sẽ có bao nhiêu đứa con? Cô sẽ đặt tên cho chúng là gì? Có những đêm, Isra mơ rằng cô sẽ cưới được người đàn ông mà mình yêu và họ sẽ sống trong một căn nhà nhỏ trên đỉnh đồi, với cửa sổ rộng mở và mái nghiêng màu đỏ. Những đêm khác, cô lại mơ thấy khuôn mặt của những đứa con mình, hai trai hai gái. Chúng ngước lên nhìn cô và chồng cô, nom như một gia đình hạnh phúc mà cô vẫn thường đọc trong sách. Nhưng rồi những hy vọng ấy chẳng đến với cô nữa. Cô chưa bao giờ tưởng tượng ra cuộc sống ở Mỹ. Cô không biết từ đâu để bắt đầu nữa. Và nhận ra điều này khiến cô sợ hãi. Cô ước mình có thể mở miệng để nói với cha mẹ mình rằng: Không! Đây không phải là cuộc sống mà con mong muốn. Nhưng Isra đã học được từ nhỏ rằng, biết vâng lời là cách duy nhất để thể hiện sự yêu thương. Vì thế mà cô chỉ dám thách thức một cách vụng trộm, phần lớn là với những cuốn sách. Mỗi buổi tối khi đi học về, sau khi đã ngâm gạo và đi phơi quần áo cho những người anh trai của mình, dọn bữa tối ra sufra* và đi rửa bát, Isra sẽ lặng lẽ rút về phòng và đọc cạnh khung cửa sổ mở tung, dưới ánh trăng mờ mờ soi sáng từng trang sách. Đọc sách là một trong rất nhiều điều mà mẹ cấm cô làm nhưng cô không bao giờ nghe lời. Cô nhớ có lần đã nói với mẹ rằng, cô không thể tìm được quả dâu tằm nào trên cây nhưng thực ra cô dành cả buổi chiều đọc sách trong khu mộ. Tối đấy, Yacob đã đánh cô hai lần, như một hình phạt cho sự coi thường luật lệ. Ông gọi cô là sharmouta*, đồ con đĩ. Ông nói ông sẽ cho cô thấy chuyện gì xảy ra nếu bọn con gái không biết vâng lời, rồi ông xô cô vào tường và cầm thắt lưng đánh cô. Căn phòng bỗng trở nên trắng bệch. Mọi thứ trông nhợt nhạt. Cô nhắm mắt lại cho đến khi cơ thể tê lại, cho đến khi cô không thể di chuyển nổi nữa. Nhưng nghĩ lại giây phút đó, khi nỗi sợ dâng lên, cô còn cảm thấy một điều gì nữa từ sâu bên trong. Một sự can đảm lạ lùng. Isra sắp xếp những cái chén bốc hơi lên khay và bước vào phòng khách. Mẹ nói có một mẹo để giữ thăng bằng, đó là đừng bao giờ nhìn vào hơi nước bốc lên nên thay vào đó, cô nhìn xuống đất. Trong phút chốc, Isra ngừng lại. Từ khóe mắt, cô có thể nhìn thấy những người đàn ông và đàn bà ngồi đối diện nhau ở trong phòng. Cô hé lên nhìn trộm mẹ, bà ngồi thu mình như thường lệ: Đầu bà cúi xuống và mắt bà dán vào tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ màu đỏ trước mặt. Isra liếc nhìn họa tiết trên thảm. Nào là xoắn ốc, nào là xoáy, cả hai thứ cuộn tròn chung một kiểu, cái này nối đuôi cái kia. Cô quay mặt đi. Cô nóng lòng muốn lén nhìn chàng trai trẻ nhưng cô cảm giác Yacob đang theo dõi mình và cô có thể nghe thấy tiếng ông vang lên bên tai: Một người con gái đúng mực không bao giờ nhìn chằm chằm vào một người đàn ông nào cả! Mắt Isra dán xuống đất nhưng cô vẫn cho phép mình liếc sang phía bên kia sàn. Cô để ý đôi tất của anh chàng, xám sọc hồng với những đường khâu trắng ở phía trên. Nó khác với những gì cô thường thấy trên đường phố Birzeit. Cô cảm thấy như có gì đang châm chích da mình. Làn hơi nước bốc lên từ khay chén bao phủ khuôn mặt Isra. Cô nhanh chóng đảo quanh phòng cho đến khi cô đã mời nước tất cả những người đàn ông. Tiếp đến, cô mời nước người mẹ của chàng trai. Isra để ý hình như cái khăn hijab màu xanh dương đậm của bà ấy bị rơi ra, để lộ mái tóc nhuộm henna* của bà. Isra chưa bao giờ thấy một người phụ nữ Hồi giáo nào đội hijab kiểu này ngoài đời cả. May ra chỉ có ở trên tivi, trong những bộ phim Ai Cập đen trắng mà Isra và mẹ hay xem cùng nhau, hay những video ca nhạc từ Lebanon*, với những người phụ nữ ăn mặc khêu gợi nhảy múa, hay phần minh họa trong cuốn sách yêu thích của Isra, Nghìn lẻ một đêm, tuyển tập truyện cổ tích Trung Đông ở thời Trung Cổ. Nhưng chưa bao giờ cô thấy thế này ở Birzeit. Khi Isra cúi người, cô có thể thấy mẹ chàng trai đang quan sát mình. Bà có dáng người đầy đặn, lưng khom, cười hơi méo. Đôi mắt hình hạt hạnh nhân của bà nheo lại ở phía đuôi. Từ vẻ mặt bà, Isra đoán chắc bà không hài lòng với ngoại hình của cô lắm. Dù gì thì mẹ cũng hay nói rằng cô là một cô gái mờ nhạt - khuôn mặt đù đờ như bột mì và mắt thì đen như than chì. Điểm nổi bật nhất của Isra có lẽ là mái tóc, đen và dài như dòng sông Nile. Tiếc là không ai có thể thấy điều đó dưới lớp khăn hijab cô đội trên đầu. Mà kể cả có đi chăng nữa cũng chẳng làm nên điều gì khác biệt, Isra nghĩ. Cô là một cô gái tầm thường. Suy nghĩ ấy khiến cô nhói đau. Đứng trước mặt mẹ chàng trai, cô thấy môi mình đang run lên. Cô bước về gần phía bà, tay cô giữ chặt cái khay. Cô có thể cảm thấy Yacob đang lườm cô, cô có thể nghe thấy cả tiếng ông hắng giọng. Hình như, cô thấy cả mẹ ấn ngón tay vào đùi cô. Nhưng Isra vẫn ngả về phía người phụ nữ, cái chén sứ trong tay cô rung lên và cô hỏi: “Bác có muốn dùng cà phê Thổ Nhĩ Kỳ không ạ?” Nhưng câu hỏi của cô chẳng có hiệu quả gì. Những vị khách từ Mỹ chả buồn để ý rằng cô mời họ cà phê trước. Sau đó, gia đình nhà trai đã đưa ra lời cầu hôn và Yacob đồng ý ngay lập tức, khuôn miệng ông nở rộng, đó là nụ cười tươi nhất của Yacob mà Isra chưa từng thấy từ trước tới nay.   Mời các bạn đón đọc Những Người Đàn Bà của tác giả Etaf Rum & Nguyễn Minh Anh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

1493 - Diện Mạo Tân Thế Giới Của Columbus
1493 – Diện mạo Tân thế giới của Columbus là cuốn sách xuất sắc nhất năm theo tạp chí TIME bình chọn; đồng thời là tác phẩm nổi bật của năm theo New York Times và Washington Post bình chọn. 1493 – Diện mạo Tân thế giới của Columbus là phần tiếp theo của cuốn sách 1491 - Những Khám Phá Mới Về Châu Mỹ Thời Kỳ Tiền Columbus đã được xuất bản bởi Huy Hoàng Book. Tác giả Charles C. Mann không hề làm người đọc thất vọng khi dùng sự hiểu biết sâu rộng của mình để lý giải những gì xảy ra đối với châu Mỹ, đối với thế giới sau sự kiện Columbus tìm ra châu Mỹ. Cuốn sách này đi ngược với những ý nghĩa mà chúng ta thường biết về cuộc phát kiến châu Mỹ. Thay vì tập trung vào việc người châu Âu thay đổi châu Mỹ ra sao, Charles C. Mann lại tập trung vào việc châu Mỹ thay đổi thế giới như thế nào. Sự thay đổi ấy diễn ra trên nhiều phương diện: kinh tế, văn hóa, con người, sinh thái học… mà tác giả gọi bằng thuật ngữ: Cuộc trao đổi Columbus. Cuộc trao đổi Columbus mang thực vật từ châu Mỹ tỏa đi khắp thế giới; khoai tây đến với châu Âu; khoai lang cứu đói ở Trung Quốc; và cả những cánh rừng cao su bất tận mà thế giới đang thấy ngày nay cũng xuất phát từ châu Mỹ. Thế giới đang dần tiến tới điều mà các nhà nghiên cứu gọi là “Kỷ nguyên đồng hóa sinh học” – đa dạng sinh học trên trái đất mất đi, các hệ sinh thái dần trở nên giống nhau. Thông qua chuyến hải hành của Columbus, ký sinh trùng gây bệnh sốt rét, sốt vàng da tới châu Mỹ trong khi nơi đây đang bị khai thác thuộc địa. Chế độ nô lệ cũng từ đây mà hình thành. Thông qua chuyến hải hành đến châu Mỹ của Columbus, các nền kinh tế gặp gỡ, giao lưu với nhau tạo nên mạng lưới kinh tế toàn cầu. Bạn có bao giờ tự hỏi, tại sao người châu Phi sống ở châu Phi, phần lớn người châu Á ở châu Á và phần lớn người châu Mỹ bản địa sống ở châu Mỹ. Ngược lại, người mang dòng giống châu Âu lại có mặt đông đúc ở châu Úc, châu Mỹ và miền Nam châu Phi không? Do người châu Âu ưu việt hơn hẳn các dân tộc khác chăng? Câu trả lời trong cuốn sách này sẽ làm bạn phải ngạc nhiên đấy. *** Review Cuốn sách 1493 - Diện mạo tân thế giới của Columbus là một dẫn chứng cho thấy thế nào là loại sách lịch sử hay nhất. Vòng xoáy sinh tồn khốc liệt Một cuốn sách vừa làm thay đổi cách nhìn của bạn về thế giới, vừa giàu thông tin thú vị. Ấn tượng hơn cả là việc tác giả đã xoay sở, trải nghiệm thực địa đa dạng xuyên qua nhiều quốc gia và xử lý nguồn tư liệu hợp lý trải dài theo nhiều giai đoạn khắc nghiệt của lịch sử. Rực rỡ và thảm hoạ trong hành trình viễn chinh của Columbus. 1493: khởi nguồn từ những cuộc viễn chinh "vĩ đại" của Columbus cùng cộng sự. Hành trình ấy, đầy rẫy hoài nghi - thiên tai - dịch bệnh. Như cánh chim thiên di xuyên Đại Tây Dương, những chuyến hải trình đổi lụa lấy bạc vượt Thái Bình Dương luôn ẩn họa nhiều nguồn lây nhiễm - dịch bệnh. Giấc mơ cuồng vọng vẫn không vì thế mà khép lại, mà chúng được viết tiếp bởi kẻ cuồng danh nhằm xây dựng đế chế cho riêng mình. Biến công nhân thành nô lệ theo đế chế cao su Julio Cesar Arana - con trai một người thợ làm mũ Peru. Đem đến thức ăn lẫn bệnh tật, nạn đói và nụ cười, nguồn dịch và nông sản đa dạng, thuốc trừ sâu và ô nhiễm hay những con ốc bươu vàng ăn tạp giết chết ruộng bậc thang tại nhiều quốc gia vùng Đông Á.. 1493 kèm theo nhiều câu chuyện gai góc, lì lợm của kẻ chinh phục vô tình mang theo mầm dịch bệnh. Giải đáp hàng loạt câu hỏi, hiện tượng: Những nốt sần chứa hoạt chất ung thư trên khoai tây làm thế nào để ức chế. Sự dịch chuyển của nhiều giống loài ra ngoài môi trường phát tích, vì sao lại là khởi nguồn cho việc bùng phát dân số, những mầm bệnh dịch và cả câu chuyện nô lệ đi cùng. Đắt giá hơn, là hàng loạt dẫn chứng, kiến giải thuật ngữ "vàng đen" đánh dấu một cuộc cách mạng công nghiệp rực rỡ. Để rồi, nước mắt "vàng đen" đọng lại nhiều trăn trở với người đọc, vì đâu? 1493 trả lời gần như chỉn chu - khoa học nhất cho toàn bộ quá trình này. Đặc biệt là những nhận định xung quanh cuộc chiến khoai tây. Chúng không chỉ đem giống khoai siêu năng suất tới Châu Âu và Bắc Mỹ, còn mang đến những kỹ thuật trồng khoai tây siêu năng suất, dựa trên việc kế thừa nguồn phân chim khổng lồ từ Peru. Nơi người vùng Andes đã khai thác qua hàng thế kỷ từ những mỏ phân mà các loài chim biển đã để lại, thậm chí có nơi cao gần 45m. Đủ để cuốn hàng trăm chuyến tàu chở phân vượt Đại Tây Dương. Khi cuộc cách mạnh công nghiệp nổ ra, với 3 nhân tố chính: thép, các nguồn nhiên liệu hoá thạch và đặc biệt là cao su. Trong đó, quá trình lưu hoá cao su góp tiếng nói quan trọng trong cuộc cách mạng công nghiệp, mang đến nhiều phát minh vượt trội. Khi cao su nhóm lên ngọn lửa danh vọng cuồng nhiệt, cũng là lúc hàng loạt cánh rừng nhiệt đới biến mất, vì phải dùng củi đốt để làm sôi mủ cao su và làm nhiên liệu cho các chiến thuyền chuyên chở vượt biển. Môi trường bị tàn phá, từng đoàn người nô lệ được triệu hồi để xây dựng đế chế cao su cho riêng mình - Arana. Với nguồn tri thức khổng lồ được cập nhật, logic theo từng giai đoạn qua 4 phần chi tiết trong 1493, cho thấy góc nhìn đa chiều được - mất thông qua cuộc trao đổi Columbus. Khởi nguồn từ cuộc viễn chính, giờ đây Columbus trực tiếp góp phần thay đổi diện mạo Tân Thế Giới. Bắp cùng khoai lang, cây cung cấp lương thực cứu rỗi nạn đói ở Châu Á- Trung Quốc sản phẩm có được từ cuộc viễn chính của Columbus - giờ đây được trồng ở rìa sa mạc Gobi, khu Nội Mông  Di thực giống loài và những câu chuyện bi thương khác Cuộc trao đổi Columbus còn mang thực vật từ châu Mỹ tỏa đi khắp thế giới. Thông qua chuyến hải hành của Columbus, ký sinh trùng gây bệnh sốt rét, sốt vàng da tới châu Mỹ trong khi nơi đây đang bị khai thác thuộc địa. Chế độ nô lệ cũng từ đây mà hình thành. 70.000 hạt giống cây cao su đến nước Anh vào năm 1876 đã mang lại vinh quang cho Herry Wickham. Ông được phong tước hiệp sĩ năm 74 tuổi, nhờ vào việc chuyển lậu hạt giống. Trở thành vụ "ăn cướp sinh học" nổi bật không giấu diếm. Và quan trọng hơn, chính việc vận chuyển các giống loài có ích ra khỏi môi trường phát tích của chúng, là một phương tiện tối thượng - có lợi cho sự bành trướng của loài người. Thế nên, 1493 lôi cuốn người đọc - các nhà khoa học khi có cơ hội nhìn ngắm lại lịch sử một cách trọn vẹn, đa dạng đậm tính thừa hưởng lẫn khám phá đắt giá, tạo điểm nhấn rực rỡ trong hành trình viễn chinh của Columbus. Điểm nhấn chính từ 1493 còn là bài toán lương thực và nô lệ. Kéo theo nhiều cuộc chiến về di cư - môi trường - bệnh dịch. Biến mầm bệnh, những nông trại phân chim, các loài thực vật, côn trùng bước vào cuộc chiến sinh tồn tàn khốc để phô bày sự mạnh mẽ, tối - sáng của nhân vật trung tâm con người trong vòng xoay định hình diện mạo Tân thế giới của Columbus. Thông qua chuyến hải hành đến châu Mỹ của Columbus, các nền kinh tế gặp gỡ, giao lưu với nhau tạo nên mạng lưới kinh tế toàn cầu. Thúc đẩy thế giới tiến tới "Kỷ nguyên đồng hóa sinh học" – khiến đa dạng sinh học trên trái đất mất đi, các hệ sinh thái dần trở nên giống nhau. Để nhận ra, kiểu chinh phục bản năng sẽ không còn phù hợp dù bạn có là Colo "vĩ đại" trong thế giới Châu Âu. Ngày nay, cuộc trao đổi Columbus đã được tiếp cận và cải biến sao cho phù hợp, để chúng ta - những người thừa hưởng di sản giàu giá trị sống cân đối, đồng hành lựa chọn cuộc sống hướng đến sự tối giản xanh sạch. Tác giả Charles C. Mann, là phóng viên của các tạp chí The Atlantic Monthly, Science và Wired, chịu trách nhiệm mảng khoa học, công nghệ và thương mại. Ông còn là phóng viên tự do của National Geographic, The New York Times, The Wasington Post và là tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng. Hiện ông đang sinh sống cùng vợ và các con ở bang Masachusetts. Thành công với loạt tác phẩm cùng chủ đề: 1491, Pháp sư và nhà tiên tri và mới nhất là 1493 của Mann còn đến từ biệt đội săn lỗi ngữ pháp uyên bác, giúp cho Mann vượt qua nhiều  trở ngại trong việc đối mặt ngôn từ, các bản beta giàu trải nghiệm lẫn thử nghiệp, để hoàn thành xuất sắc một ấn bản khoa học, cuốn hút và chuẩn xác.  1493 – Diện mạo tân thế giới của Columbus là cuốn sách xuất sắc nhất năm theo tạp chí TIME bình chọn; đồng thời là tác phẩm nổi bật của năm theo New York Times và Washington Post bình chọn. Sách được mua bản quyền chuyển ngữ và xuất bản từ Huy Hoàng Book.   Đinh Quý Anh Mời các bạn mượn đọc sách 1493 - Diện Mạo Tân Thế Giới Của Columbus của tác giả Charles C. Mann & Liêu Nguyên (dịch).
Màu Của Nước
Màu Của Nước là cuốn tự truyện của nhà văn Mỹ James McBride viết để tưởng nhớ người mẹ của mình, một phụ nữ gốc Do Thái da trắng kết hôn với những người đàn ông da đen. Vượt lên bi kịch cá nhân, sự thiếu thốn về vật chất, sự ngược đãi về tinh thần và mọi sự phân biệt đối xử, bà đã nuôi dạy mười hai đứa con trở thành các bác sĩ, giáo sư, giáo viên, nhà khoa học. Đó cũng là câu chuyện về hành trình đi tìm cội nguồn, cái tôi, sự tự tin và ý nghĩa cuộc sống của một đứa con lai da đen, đại diện cho hàng triệu người da đen ở Mỹ. Màu Của Nước ra mắt bạn đọc lần đầu vào năm 1995, trở thành một hiện tượng xuất bản với kỷ lục nằm trong danh sách Sách bán chạy nhất của New York Times trong 100 tuần (hơn 2 năm) , được coi là tác phẩm văn học kinh điển của Mỹ, từng được trao các giải thưởng Anisfield-Wolf Book Award năm 1997 cho tác phẩm văn học xuất sắc, và là cuốn sách về người mẹ mà Amazon khuyên mọi độc giả nên đọc. - Trích từ bài giới thiệu của dịch giả Nguyễn Bích Lan. *** 'Màu của nước' - sách về nạn phân biệt chủng tộc Tự truyện của nhà văn Mỹ James McBride do dịch giả Bích Lan chuyển ngữ vừa ra mắt bạn đọc trong nước.  Nhà văn Mỹ James McBride mất 14 năm để "khai quật chuyện đời lạ lùng của mẹ" - con gái một giáo sĩ Do Thái chính thống kết hôn với một người đàn ông da đen vào năm 1942 ở Mỹ. Vượt lên thiếu thốn về vật chất, sự ngược đãi về tinh thần và mọi phân biệt đối xử, bà đã nuôi dạy 12 người con trở thành các bác sĩ, giáo sư, giáo viên, nhà khoa học. Cuốn sách là câu chuyện về hành trình đi tìm cội nguồn, sự tự tin và ý nghĩa cuộc sống của một đứa con lai - đại diện cho hàng triệu người da đen ở Mỹ.  Màu của nước được kể với giọng tự sự chân thực, hóm hỉnh, giản dị và không kém phần sâu sắc. Qua đó, tác giả gửi gắm ước mơ xóa nhòa ranh giới phân biệt chủng tộc. Theo James McBride, mỗi con người dù có màu da và xuất thân khác nhau đều cần được đối xử công bằng. Mọi phân biệt, kỳ thị không thể ngăn cản nhân loại chia sẻ tình yêu thương, lòng trắc ẩn. Theo tờ Wall Street Journal, "cuốn sách nói cho chúng ta về sự yếu kém liên quan đến vấn đề chủng tộc của quốc gia và về những khả năng vượt lên sự yếu kém đó". Trang Publisher Weekly đánh giá tác phẩm là tiểu thuyết có cốt truyện hấp dẫn, "bất cứ ai mang màu da nào, theo tôn giáo nào cũng nên đọc cuốn tự truyện cảm động và khó quên này".                          Màu của nước ra mắt bạn đọc năm 1995. Tác phẩm nằm trong danh sách "Sách bán chạy nhất" của tờ New York Times suốt 100 tuần, từng được trao giải thưởng Anisfield-Wolf Book Award năm 1997 cho tác phẩm văn học xuất sắc. Đến nay, tác phẩm bán được 2,5 triệu bản trên toàn thế giới, cuốn sách được dịch ra 16 thứ tiếng và xuất bản ở 20 nước. James McBride sinh năm 1957 tại New York, Mỹ. Ông là nhà báo, nhạc sĩ, nhà văn nổi tiếng. James từng đoạt giải National Book Award (Giải thưởng sách Quốc gia Mỹ năm 2013 với tác phẩm The Good Lord Bird (Con chim đầu đàn).  Vĩ Thanh *** Khi còn nhỏ tôi không biết gì về xuất thân của mẹ mình - Tôi không biết mẹ sinh ra ở đâu, ông bà ngoại của tôi là ai. Khi tôi hỏi về gốc gác của mẹ, mẹ nói: Chúa sinh ra mẹ. Khi tôi hỏi mẹ có phải là người da trắng không, mẹ nói: “Da mẹ sáng màu, rồi lập tức chuyển chủ đề. Mẹ nuôi mười hai đứa con da đen của mẹ, cho tất cả học đại học và hầu như tất cả đều tốt nghiệp đàng hoàng. Các con của mẹ trở thành bác sĩ, giáo sư, nhà hóa học, giáo viên - Tuy nhiên cả mười hai anh chị em chúng tôi không ai biết họ tên thời con gái của mẹ cho đến khi chúng tôi trở thành người lớn. Tôi phải mất tới mười bốn năm khai quật chuyện đời lạ lùng của mẹ - chuyện về con gái của một giáo sĩ Do Thái chính thống kết hôn với một người đàn ông da đen vào năm 1912 - và mẹ tiết lộ chuyện đời mình như một đặc ân dành cho tôi hơn là muốn ngược dòng thời gian trở về quá khứ. Đây là câu chuyện cuộc đời mà mẹ kể cho tôi nghe, và xen kẽ giữa những trang viết về cuộc đời của mẹ, các bạn cũng sẽ tìm thấy những trang kể về cuộc đời tôi. *** Chết Con muốn mẹ kể về gia đình của mẹ, mà đối với cái gia đình ấy mẹ đã chết từ năm mươi năm trước rồi. Hãy để mẹ yên. Đừng làm phiền mẹ. Gia đình mẹ không muốn có mẹ chút nào và mẹ cũng chẳng hề muốn có họ. Có hỏi thì hỏi nhanh lên rồi kết thúc mau đi. Mẹ muốn ngắm Dallas. Mà này, nếu con là một phần của gia đình ấy, con sẽ không có thời gian dành cho điều vớ vẩn này đâu, không có thì giờ để nghĩ về gốc gác của con đâu. Thà con đi xem phim “Ba Chàng Ngốc” còn hơn là hỏi họ, hỏi cha đẻ của mẹ chẳng hạn, quên chuyện đó đi. Nếu ông ngoại của con gặp con, ông sẽ lên cơn đau tim. Dẫu sao ông cũng chết rồi, nếu không thì bây giờ ông đã một trăm năm mươi tuổi rồi. Mẹ sinh ra là một người Do Thái chính thống vào ngày 1 tháng 4 năm 1921, đúng vào ngày Cá tháng Tư ở Ba Lan đấy con ạ. Mẹ không nhớ tên của cái thị trấn nơi mẹ chào đời, nhưng mẹ còn nhớ tên Do Thái của mình: Ruchel Dwajra Zylska. Ông bà ngoại của con đã xóa cái tên đó khi họ đến Mỹ và đổi tên mẹ thành Rachel Deborah Shilsky, và chính mẹ đã tống khứ cái tên ấy ra khỏi cuộc đời mình khi mẹ mười chín tuổi, không bao giờ sử dụng nó nữa sau khi mẹ đi khỏi Virgina năm 1941 mà không bao giờ quay trở lại. Đối với mẹ, Rachel Shilsky đã chết. Cô ta chết để mẹ, phần còn lại của mẹ, được sống. Khi mẹ lấy cha của con, gia đình mẹ than khóc vật vã. Họ đọc Kinh kaddish và ngồi shiva[1]. Đó là cách người Do Thái chính thống khóc người thân qua đời. Họ cầu nguyện, úp các tấm gương xuống, ngồi trên những cái hộp trong bảy ngày và dùng khăn trùm đầu. Nó có tác dụng thật đấy và có lẽ đó là lý do tại sao giờ đây mẹ không còn là một người Do Thái nữa. Có quá nhiều luật lệ phải tuân theo, quá nhiều điều cấm kỵ và quá nhiều những điều “Mày không thể làm” và “Mày không được phép làm”, nhưng có ai nói họ yêu thương mẹ không nhỉ? Không, trong gia đình của mẹ không ai nói thế với ai. Gia đình mẹ không nói thế. Mọi người nói với nhau những lời đại loại như “Liệu hồn đấy,” hoặc ông ngoại con sẽ nói, “Hãy im miệng trong lúc tao ngủ.” Tên ông ngoại của con là Fishel Shilsky và ông là một giáo sĩ Do Thái chính thống. Ông đã trốn khỏi trại của quân Nga, lẩn sang biên giới Ba Lan và cưới bà ngoại của con trong một cuộc hôn nhân sắp đặt. Ông thường nói rằng khi ông chạy trốn ông phải chạy dưới những làn đạn và khả năng lẩn trốn những gì không tốt cho bản thân tồn tại cùng ông từ khi mẹ biết ông. Bọn mẹ gọi ông là Tateh. Trong tiếng Do Thái “Tateh” có nghĩa là cha. Ông là một con cáo, nhất là trong chuyện tiền bạc. Ông có dáng người thấp, nước da sẫm màu, râu tóc rậm và là người cộc cằn, lỗ mãng. Ông mặc sơ mi trắng, quần đen, quấn một chiếc tallis[2], và những thứ đó giống như đồng phục của ông. Ông mặc cái quần đen đó hoài cho tới khi nó nhẵn bóng và cứng queo đủ để tự đứng được bằng chính hai ống của nó mà không cần xỏ chân, nhưng chỉ Chúa Trời mới có thể cứu con nếu như con đụng phải cái quần đó trong lúc vội, bởi ông ngoại của con không phải là người để đùa giỡn. Ông khó tính lắm. Bà ngoại của con tên là Hudis và bà trái ngược hoàn toàn với ông, rất dịu dàng và nhu mì. Bà sinh năm 1896 ở thị trấn Dobryzn, Ba Lan, nhưng nếu bây giờ con hỏi thông tin thì không ai còn nhớ gia đình bà nữa bởi vì bất cứ người Do Thái nào không rời khỏi đó trước khi quân Hitler tràn vào Ba Lan cũng đều bị giết hại trong cuộc tàn sát người Do Thái rồi. Bà có khuôn mặt xinh xắn, mái tóc đen, gò má cao nhưng bà bị bại liệt. Chứng bệnh đó làm bà bị liệt nửa người bên trái và khiến sức khỏe của bà không được tốt. Tay trái của bà không sử dụng được. Nó bị khòng khèo ở cổ tay và nó cong lên gần đến ngực. Mắt trái của bà gần như bị mù và bà đi cà nhắc, kéo lê cái chân trái bị liệt. Bà là một người phụ nữ ít nói, Mameh yêu quý của mẹ. Đó là lý do tại sao bọn mẹ gọi bà là Mameh. Bà là người mà trong cõi đời này mẹ đã đối xử không tốt khi… Mời các bạn mượn đọc sách Màu Của Nước của tác giả James McBride & Nguyễn Bích Lan (dịch).
Tình Yêu Vị Kem Ý
"Ai đó đã nói người ta đến Ý để nếm mật ngọt tình yêu và vị kem gelato, nhưng đôi khi họ còn tìm thấy nhiều điều hơn thế." Năm mười sáu tuổi, sau khi mẹ qua đời, Lina một mình đến Ý để sống cùng một người được giới thiệu là bố của mình. Nhưng người bố nào lại vắng mặt trong suốt mười sáu năm cuộc đời của con gái mình cơ chứ? Và hơn thế, khi đến nơi Lina mới biết ông ấy đang sống trong một nghĩa trang. Những nỗi buồn mất mát vẫn đeo bám Lina, cùng lúc cô bé phải học cách hòa nhập với cuộc sống mới, tại một nơi hoàn toàn xa lạ, giữa nghĩa trang vắng lặng nơi nước Ý xa xôi. Tình cờ nhận được cuốn nhật kí của mẹ kể về quãng thời gian sống ở Ý trước đây, Lina bị cuốn vào một hành trình đặc biệt. Cô đã đi theo những nẻo đường mẹ cô từng đi, khám phá những vẻ đẹp ẩn giấu lãng mạn và cổ tích của nước Ý, đồng thời cũng hé mở một bí mật đã bị chôn vùi bấy lâu. Bí mật đó sẽ thay đổi tất cả những gì Lina từng biết về cuộc đời mình. Một cuốn sách ra mắt vào mùa hè này, sẽ đưa bạn đến với nước Ý - của tình yêu, tuổi trẻ và những sự lựa chọn trong đời... *** Review Nhi Nguyễn:   “Cháu biết đấy, người ta đến Ý vì nhiều nguyên do, nhưng khi họ ở lại thì chỉ vì hai điều.” “Là gì ạ?” “Tình yêu và kem gelato.” “Tình yêu vị kem Ý” là cuốn tiểu thuyết Young Adult cực kỳ hợp để đọc trong mùa hè, không chỉ bởi vì khoảng thời gian diễn ra câu chuyện là vào mùa hè ngập nắng tại Florence - một trong những thành phố đẹp tuyệt của nước Ý, với kem gelato cùng những công trình kiến trúc cổ kính, đặc trưng cho cả một thời kỳ của lịch sử nghệ thuật Phục hưng. Cuốn sách này hoàn hảo cho mùa hè của bạn, còn bởi vì nó ẩn chứa một câu chuyện tình yêu bí mật, được kể qua những trang nhật ký của một người đã khuất, dẫn dụ nhân vật chính cùng người bạn của mình đến với một chuyến phiêu lưu tìm ra sự thật cuối cùng, mà mùa hè là mùa của những chuyến phiêu lưu, du lịch, khám phá mà ^^ Khi mẹ của Lina - một cô bé 16 tuổi không biết cha mình là ai - qua đời vì căn bệnh ung thư tuyến tụy, bà đã gửi gắm Lina đến sống với chú Howard - một người bạn cũ của bà thời bà còn học đại học tại Florence. Bà ngoại của Lina ngỡ rằng điều này có nghĩa Howard chính là cha ruột của Lina, và hết sức khuyên nhủ cháu gái mình hãy lên đường đến với miền Trung Ý để đón nhận cha của mình. Lina miễn cưỡng ra đi, đến sống với người đàn ông đã từng có thời thân thiết với mẹ của cô, nhưng đối với cô là hoàn toàn xa lạ, ngay tại nghĩa trang dành cho lính Mỹ đã hy sinh tại Ý trong Chiến tranh thế giới thứ hai - nơi chú Howard là người quản lý. Trước đó, mẹ của Lina đã gửi đến Florence cuốn nhật ký chứa trọn những bí mật về mối tình thuở sinh viên của bà - câu chuyện mà bà chưa bao giờ tiết lộ cho Lina. Lật giở từng trang cuốn nhật ký của người mẹ thân yêu đã mất, Lina khám phá ra một người phụ nữ mạnh mẽ, sống vì đam mê của bản thân, sẵn sàng cãi lời cha mẹ, bỏ học ngành y tá ở quê nhà để thân chinh đến Florence - thành phố của nghệ thuật - theo tiếng gọi của trái tim để học ngành nhiếp ảnh tại Đại học Nghệ thuật Florence. Trên những trang nhật ký ấy, Lina cũng khám phá ra mối tình đắm say giữa mẹ cô và một người đàn ông bà gọi là X, thể hiện qua từng câu từ lãng mạn, ngập tràn yêu đương của một sinh viên 22 tuổi khi đứng trước sự choáng ngợp và những cảm xúc say mê của tình yêu. Liệu X và Howard có phải là cùng một người? Hay còn điều gì ẩn khuất đằng sau những trang nhật ký đó, đằng sau sự nghiễm nhiên cho rằng Howard chính là bố ruột của Lina. Cùng với cậu bạn Ren (tên thật là Lorenzo) mới quen nhưng mau chóng trở thành tình yêu đầu đời của Lina, cô bé đã dấn bước trên một hành trình phiêu lưu vô tiền khoáng hậu để đi đến tận cùng sự thật về danh tính cha ruột của mình, cùng sự thật về mối tình giữa mẹ cô và X. Tất cả đã diễn ra từ Florence đến Rome, giữa những từ ngữ, địa danh, công trình kiến trúc đậm chất Ý, mang đến một bầu không khí vừa nghệ thuật vừa cổ kính cho một chuyến phiêu lưu tìm hiểu về một câu chuyện tình.  Nếu ai biết mình đủ lâu thì sẽ rõ, mình yêu mến, tôn thờ và mê mệt nước Ý, văn hóa Ý, kiến trúc Ý, nghệ thuật Ý đến như thế nào. Và đọc cuốn tiểu thuyết này, đối với mình, giống như thể mình đang thực sự được chu du đến Florence vậy. Từ Ponte Vecchio (nghĩa là “cây cầu cổ”) - nơi ngắm hoàng hôn đẹp muốn rụng tim, vườn Boboli, kem gelato hương vị stracciatella (cái này là kem có vụn chocolate trong đó hay sao đấy các bạn ạ, google thử xem ^^) hay hương bacio (hương chocolate hạt phỉ - hazelnut), palazzo (quảng trường vây quanh bốn cạnh là các tòa kiến trúc) và Piazzale Michelangelo (piazzale cũng là quảng trường, nhưng phải có ít nhất một cạnh có cửa thông ra ngoài. Google bảo thế :D), cho đến bức tượng “The Abduction of the Sabine Women”, tất cả chỉ khiến mình muốn xách ba lô lên và đi ngay đến thành phố Florence nói riêng và vùng Tuscany miền Trung Ý nói chung để được tận mắt ngắm nhìn những công trình, cảnh vật tuyệt đẹp ở đó thôi!!! Đoạn kết của “Tình yêu vị kem Ý” - đúng như tên gọi của câu chuyện - ngọt ngào và rất có hậu, nhưng không phải là không có những trường đoạn gây đau lòng nức nở trước đó để mang đến những cung bậc cảm xúc khác nhau cho độc giả. Các bạn sẽ hồi hộp theo dõi mối tình đầu của Lina và cậu bạn Ren liệu có thành sự thật hay không, khi mà như bao mối tình tuổi mới lớn khác, tình yêu của họ cũng đã trải qua những ngượng ngùng, hiểu lầm và cãi vã. Nhưng trên tất cả, các bạn chắc hẳn sẽ rơi nước mắt vì sự thật về mối tình giữa mẹ Lina và X, cùng quyết định của một người phụ nữ, vì con mình mà phải đành đoạn cắt đứt với người đàn ông mình thực sự yêu. Đó cũng là người phụ nữ, vì tôn trọng mong muốn của người đàn ông mình thực sự yêu ấy mà phải rời xa ông, ôm ấp một mình cái bí mật về bào thai đang lớn dần trong bụng… Thật sự rất tội nghiệp mẹ của Lina, và nếu như bà không mang thai Lina, sự thể có lẽ đã khác đi rất nhiều, bà đã có cơ hội được đến với người đàn ông bà yêu… (view spoiler) Nhưng nếu được lựa chọn lại, mình chắc chắn bà vẫn sẽ lựa chọn có Lina trong đời, và mọi thứ sẽ diễn ra như nó đã diễn ra một lần nữa, để giờ đây một cô bé 16 tuổi như Lina có cơ hội tìm được cho mình một gia đình mới, và cả một tình yêu đầu đời tại một trong những thành phố đẹp nhất và lãng mạn nhất thế giới. Bên cạnh một số lỗi dịch thuật về từ ngữ xưng hô, ngôi thứ, cùng một số lỗi chính tả mà nếu độc giả nào dễ tính thì hoàn hoàn có thể bỏ qua được, “Tình yêu vị kem Ý” vẫn là một cuốn sách tuyệt vời, gây xúc động và cực kỳ lôi cuốn. Mình chỉ tốn có trọn một ngày, từ đêm hôm trước cho đến đêm hôm sau, để đọc xong cuốn sách thôi đó, thể là đủ hiểu nó hấp dẫn đến thế nào rồi ha? Chuyến du hành cùng Lina và Ren qua gần một tuần để giải mã sự thật đằng sau câu chuyện tình của mẹ Lina tại Florence, cùng lý do thực sự bà gửi cuốn nhật ký của mình đến chỗ chú Howard, đồng thời đắm mình trong bầu không khí thấm đẫm chất nghệ thuật và lịch sử nước Ý, thực sự là một trải nghiệm khó quên. Bạn nào yêu thích thể loại tình cảm lãng mạn phiêu lưu tìm hiểu khám phá dành cho Young Adult thì tậu ngay cuốn này đi thôi, đảm bảo sẽ ưng lắm đó :)))) P.S.: Một lần nữa xin được trân trọng cảm ơn Wings Books đã gửi tặng mình cuốn sách này để đọc, review và giới thiệu cho nhiều người khác cùng thưởng thức. *** [#BOOK_REVIEW] ----
Bà Nội Găngxtơ
Bà nội của Ben là một bà nội chuẩn không cần chỉnh - bà có tóc bạc, răng giả, và giấy ăn giắt đầy tay áo. Bà chỉ thích ăn mỗi món bắp cải và chơi trò xếp chữ. Theo Ben thì bà chán kinh khủng. Cho đến khi cậu phát hiện ra bí mật vĩ đại của bà: Bà là một tên trộm nữ trang quốc tế! Hết sảy nhất là bà còn đang lên kế hoạch cho vụ trộm nữ trang đỉnh nhất từ trước đến giờ - trộm bộ Báu vật Hoàng gia từ Tháp London! Đã thế Ben còn có thể tham gia! Thế là tối thứ Sáu ở nhà bà nội bỗng trở thành ngày hào hứng nhất tuần! Và vụ trộm đã kết thúc theo một cách không ai ngờ tới nhất... "Trong tuyệt phẩm này, Walliams đã cân bằng giữa hài kịch đỉnh cao với một thông điệp đầy xúc động." *** Review sách “Bà nội Găngxtơ” – David Walliams Bài review này dành cho những bạn đã và đang tò mò về cuốn sách mà phân vân không biết có nên rước em nó về không? Thì câu trả lời là có nha. Rước lẹ ạ Cuốn truyện vẫn lôi cuốn mình như lần đầu mình đọc nó. Bạn nghĩ nó là một câu chuyện hài hước ư, chỉ một phần thôi. Bởi sâu trong nó là rất nhiều ý nghĩa về gia đình, đời sống xã hội và cả những ẩn khuất của cuộc sống hiện đại, nơi mà những người như bà nội của Ben không tìm được ý nghĩa cho những ngày còn lại ngắn ngủi của bà. Bà nội của Ben là hình mẫu điển hình y hệt như những bà nội khác. Tóc bạc xoăn tít, kính đít chai, răng giả, máy trợ thính đeo trên tai. Bà luôn có khăn giấy dùng rồi trong túi áo khoác và người bà lúc nào cũng sặc mùi bắp cải. Đối với Ben bà nội chán thôi rồi. Thế nhưng rồi trong một ngày chán phải biết khi ở với bà nội, Ben phát hiện ra một chuyện kinh thiên động địa. Bà nội của cậu là một Găng x tơ chính hiệu, một tên trộm nữ trang quốc tế. Khỏi phải nói Ben bàng hoàng cỡ nào, cậu không thể ngờ rằng bà nội của mình lại ngầu bá cháy con bọ chét như thế. Thế rồi cái nhìn của Ben về bà nội quanh ngoắt 180 độ. Cậu hâm mộ bà ghê gớm. Rồi câu chuyện tiếp diễn, mang theo những tình tiết dở khóc dở cười dành cho Ben, mang đến cho cậu biết bao nhiêu là rắc rối. Thế nhưng chính những điều ấy khiến Ben nhận ra một sự thật đến đau lòng, bà nội của cậu cô đơn đến mức nào, và bà yêu cậu tới mức nào. Khoảnh khắc khi Ben chuẩn bị rời khỏi phòng bệnh của bà, cậu ngập ngừng quay lại và nói với bà nội: “Cháu yêu bà, bà nội ạ.” đã thực sự chạm đến trái tim mình. Đó không phải là lời nói an ủi, cũng không phải là sự bồng bột. Mà đơn giản nó là điều đã tồn tại trong trái tim bé nhỏ của cậu nhóc từ lâu rồi, chỉ là bây giờ cậu mới nhận ra nó. Câu chuyện còn có một điểm rất thú vị đối với mình nữa đó là việc Ben có một đam mê mãnh liệt với việc trở thành một thợ sửa ống nước. Eo ôi! Có lẽ là điều đầu tiên mà người lớn nghĩ ngay khi biết được ước mơ của cậu, ngay cả cha mẹ của Ben cũng phải vô cùng thất vọng về cái ước mơ của con trai mình. Trong khi những đứa trẻ cùng trang lứa mơ ước những điều lớn lao, nào là trở thành ngôi sao, trở thành bác sĩ này nọ, thì Ben lại chỉ thích làm một thợ sửa ống nước. Thế thì sao chứ, đó là giấc mơ của một cậu bé và người lớn chúng ta hoàn toàn không có quyền để phán xét nó. Ai cũng có một ước mơ, và chúng ta làm tất cả mọi việc để theo đuổi nó, bằng chính sức lực của mình. Đó vốn đã là một điều tuyệt vời rồi đấy thôi. Mà còn tuyệt vời và lạ lùng hơn nữa là chính cái ước mơ tưởng chừng như dở hơi và quái đản ấy đã giúp cho Ben có một kế hoạch để đời cùng với bà nội ngầu bá cháy của mình. Liệu một cậu nhóc mê sửa ống nước và tay trộm nữ trang quốc tế đã rụng gần hết răng có thực hiện được phi vụ lớn nhất quả đất, mà theo lời Ben là sẽ gây chấn động đến toàn cầu này không. Hai bà cháu sẽ trót lọt chứ? Nếu bạn thực sự tò mò, hãy đọc nó nhé. Câu chuyện không quá dài này sẽ đem đến cho bạn trọn vẹn những cung bậc cảm xúc từ thú vị, hài hước đến những phút chạm nhẹ và sự cảm động tới tận trái tim. Review của độc giả Nguyễn Châu – Nhã Nam reading club *** Cảm ơn mọi người:   Tôi muốn gửi lời cảm ơn đến một vài người đã giúp tôi hoàn thành cuốn sách này. Đầu tiên là Tony Ross siêu tài năng với những bức tranh minh họa kỳ diệu. Tiếp theo là Ann-Janine Murtagh, người đứng đầu sáng suốt bộ phận sách thiếu nhi của HarperCollins. Nick Lake, người bạn và biên tập viên mẫn cán của tôi. Hai nhà thiết kế tuyệt vời James Stevens - thiết kế bìa và Elorine Grant - xử lý văn bản. Người dàn trang vô cùng tỉ mỉ của tôi, Lizzie Ryley. Samantha White và những nỗ lực giúp sách của tôi được phát hành. Tanya Brennand-Roper đáng mến, người sản xuất phiên bản audio của cuốn sách này. Và tất nhiên là người đại diện văn học luôn thấu hiểu của tôi, Paul Stevens từ công ty Independent. Trên hết, chú muốn cảm ơn các bạn đọc nhí đã đọc sách của chú. Chú chân thành biết ơn vì các cháu đã đến gặp chú ở buổi ký tặng, viết thư rồi gửi cho chú tranh vẽ của các cháu. Chú thực sự thích kể chuyện cho các cháu nghe. Chú cũng mong mình có thể nghĩ ra nhiều câu chuyện hơn nữa. Cứ tiếp tục đọc sách đi nhé, rất tốt cho các cháu đấy! *** “Nhưng mà bà nội chán lắmmmm,” Ben nói. Đó là một tối thứ Sáu giá lạnh của tháng Mười một, và như mọi khi, cậu nhóc ngồi thõng người ở hàng ghế sau xe bố mẹ. Và một lần nữa, cậu lại đang trên đường đến ngủ ở căn nhà khủng khiếp của bà nội. “Người già ai cũng thế.” “Đừng có nói về bà nội con như thế,” bố nói yếu ớt, cái bụng bia tì lên tay lái chiếc xe màu nâu bé tẹo của gia đình. “Con ghét ở với bà,” Ben phản đối. “Ti vi nhà bà không bật được, lúc nào bà cũng muốn chơi xếp chữ và bà còn bốc mùi bắp cải nữa!” “Công bằng mà nói, bà bốc mùi bắp cải thật,” mẹ đồng tình trong khi cố tô nốt son viền lên môi. “Nói thế chẳng giúp được gì đâu vợ,” bố lẩm bẩm. “Cùng lắm mẹ anh chỉ hơi có mùi rau luộc thôi.” “Con đi với bố mẹ được không ạ?” Ben nài nỉ. “Con thích trò khiêu khích,” cậu nói phét. “Người ta gọi đó là khiêu vũ,” bố chữa lại. “Và con không hề thích môn đó. Con đã nói, để bố nhắc lại nhé, ‘Con thà ăn gỉ mũi còn hơn xem thứ nhảm nhí đó’.” Bố mẹ Ben đều rất thích khiêu vũ. Đôi khi Ben nghĩ bố mẹ còn yêu môn đó hơn cả yêu cậu. Có một chương trình truyền hình vào tối thứ Bảy mà bố mẹ không bao giờ bỏ lỡ tên là Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo, nơi các ngôi sao sẽ nhảy cặp cùng vũ công chuyên nghiệp. Thực ra, nếu có một đám cháy ở nhà Ben và mẹ chỉ có thể cứu được hoặc là chiếc giày bịt mũi màu vàng lấp lánh từng được Flavio Flavioli sử dụng (gã vũ công đào hoa người Ý với làn da rám nắng lấp lánh bóng loáng xuất hiện trong mọi kỳ của chương trình truyền hình tiếng tăm kia) hoặc đứa con trai duy nhất của mình, Ben nghĩ mẹ có lẽ sẽ cứu chiếc giày. Tối nay, bố mẹ cậu sẽ đến tận trường quay để xem trực tiếp chương trình Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo. “Mẹ không hiểu sao con không chịu từ bỏ cái giấc mơ viển vông muốn trở thành thợ sửa ống nước để nghĩ về khiêu vũ chuyên nghiệp đi Ben ạ,” mẹ nói và đường son môi ngoác hẳn lên tận má khi chiếc xe nẩy tưng trên một con lươn giảm tốc mấp mô. Mẹ có thói quen trang điểm trên xe, khiến cho lúc đến được nơi cần tới, trông mẹ chẳng khác gì một tên hề. “Biết đâu, chỉ là biết đâu thôi nhé, cuối cùng con lại được lên Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo!” mẹ hào hứng nói thêm. “Vì nhảy chồm chồm như vậy thật là ngốc nghếch,” Ben nói. Mẹ hơi thút thít rồi với tay lấy giấy ăn. “Con làm mẹ buồn đấy. Giờ thì yên lặng và ngoan ngoãn đi Ben,” bố trả lời kiên quyết trong khi bật to loa trên xe. Hiển nhiên, đó là một đĩa Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo. 50 tuyệt phẩm vàng của chương trình truyền hình đình đám được in rõ nét trên bìa đĩa. Ben ghét cái đĩa này, không phải chỉ vì cậu đã nghe nó đến cả tỷ lần. Thực tế thì cậu đã nghe quá nhiều lần đến nỗi việc này giờ chẳng khác gì tra tấn. Mẹ Ben làm việc trong một tiệm làm móng trong vùng, “Tiệm sửa móng Gail”. Vì chả có mấy khách nên mẹ và một cô nữa làm việc tại đây (chẳng có gì bất ngờ khi cô đó tên là Gail) gần như cả ngày chỉ toàn ngồi sửa móng cho nhau. Đánh bóng, làm sạch, tỉa móng, giữ ẩm, sơn phủ, gắn móng, sơn bóng, giũa móng, sơn móng, nối dài và vẽ móng. Hai người cứ làm mấy thứ đó cho nhau suốt cả ngày (trừ lúc Flavio Flavioli xuất hiện trên ti vi). Thế nên mẹ sẽ luôn về nhà với bộ móng giả đủ màu dài hết cỡ. Trong khi đó, bố Ben làm bảo vệ trong siêu thị địa phương. Điểm sáng trong hai mươi năm sự nghiệp của bố chỉ là chặn được một ông già đã giấu hai ống bơ thực vật trong quần. Mặc dù bây giờ đã quá béo để đuổi trộm, bố chắc chắn vẫn có thể chặn đường chúng. Bố gặp mẹ khi tưởng nhầm mẹ định thó một túi bim bim của cửa hàng, và chỉ một năm sau hai người lấy nhau. Mời các bạn mượn đọc sách Bà Nội Găngxtơ của tác giả David Walliams & Snorlax (dịch).