Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bọn Chiếm Đóng - Kobo Abe

Trong khi Murakami và Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe ( 1935 - 2007), Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998 có viết: “Lớp nhà văn này đã tích luỹ trong mình  cảm nghĩ về thực trạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”. Kobo Abe sinh ngày 7.3.1924 tại Tokyo. Tên thực của ông là Kimifusa (“Kobo” là cách phát âm theo Hán tự của từ “Kimifusa”). Cha ông là bác sỹ tại một bệnh viện nằm trong trường Cao đẳng Y khoa Hoàng gia ở Manchuria. Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro... ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ do nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hoá đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941 Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đấy Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhất các kỹ thuật của Chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist. Ngay từ năm 1943 Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami tác giả Rừng Na-uy viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn  phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách . Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ văn học của ông: Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng Kafka càng rõ rệt trong tác phẩm Kabe - Esu Karuma shino hanzai (Bức tường - tội lỗi của S.Karma, 1951). Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hoá thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh bị toà án lôi ra phán xử. Năm 1947 Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chỉ thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết Owarishi michi no shirube ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của đảng này. Những tác phẩm mang tính cách trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, “Akai mayu” (1950, Cái kén đỏ), “Kabe” (1951) và “S.Karuma - Shi no hanzai” (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập tới, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiểu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant - garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không giống thực tế và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Daiyon kampyoki  (1959), Moetsukita chizu (1967, Tấm bản đồ rách), Mikkai (1977) và Hako otoko (1974, Người đàn ông trong chiếc hộp). Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Woman in the Dunes, (1962, Người đàn bà trong cồn cát) và The Face of Another (1964, Khuôn mặt người khác). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hoá, vong ngã, trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã được ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muôn loài, tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài. không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hoá thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thể chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thể thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe  được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX. Những tác phẩm chính: Người đàn bà trong cồn cát (1963), Khuôn mặt người khác (1964), Người hộp (1973) Cái Kén Đỏ Chiếc thuyền Nô-Ê Bọn Chiếm Đóng Và một số và kịch. *** Abe Kôbô là một trong những nhà văn hậu chiến Nhật Bản thế hệ Shôwa 30 (từ năm 1955 trở đi) có khuynh hướng đi tìm một thủ pháp mới với mục đích bắt gặp con người toàn thể như một sinh vật có tính xã hội và chính trị. Nhà văn thế hệ nầy đều muốn tìm hiểu đâu là lối sống thích hợp của con người trong điều kiện của xã hội hiện tại. Abe Kôbô trên giấy tờ được gọi là Kimifusa theo cách đọc âm Nhật của hai chữ Hán Kôbô. Song thân gốc miền bắc (đảo Hokkaidô) nhưng ông sinh ra ở Tôkyô ngày 7 tháng 3 năm 1924. Cha ông, một bác sĩ y khoa tùng sự tại Mãn Châu. Do đó, ông lớn lên ở Phụng Thiên (nay là Thẩm Dương thuộc Trung Quốc) nhưng đã trở về nước để học thuốc và tốt nghiệp y khoa Đại học Đế Quốc Đông Kinh năm 1948. Sau khi Nhật bại trận và cha chết, ông sống cuộc đời nghèo túng nhưng vẫn cố gắng bỏ tiền túi in thơ (1947) và tiểu thuyết (1948). Không hành nghề y như cha, ông theo nghiệp văn như mẹ, một nhà giáo có đầu óc khuynh tả. Đầu tiên, ông sử dụng một bút pháp trừu tượng, xa rời hiện thực, nhưng sau chuyển qua văn phong tiền vệ với khuynh hướng đi tìm những ý tưởng và phương pháp biểu hiện mới mà trung tâm là những câu chuyện ngụ ngôn có tính khoa học giả tưởng. Đặc điểm của văn chương ông trước tiên là bản chất con người khoa học của ông. Thứ đến là tình cảm thiếu quê hương vì nơi ông gắn bó sâu đậm nhất là Mãn Châu, một nơi về sau đã trở thành một tỉnh của Trung Quốc. Ở Tôkyô, ông có cảm tưởng như mình sống trong một miền đất lạ. Quê hương ông là Mãn Châu có sa mạc ngút ngàn và những cơn bão cát chứ không phải là thành phố Tôkyô xô bồ, lạ mặt. Đặc điểm thứ ba là kinh nghiệm đau thương của cuộc sống khốn cùng sau những ngày Nhật Bản bại trận, lúc người di dân lập nghiệp ở thuộc địa trong số đó có gia đình ông đã phải vượt qua bao khó khăn để có thể về đến mẫu quốc. Người có ảnh hưởng đến lối suy nghĩ của ông là Abe Rokurô, ông giáo dạy tiếng Đức và là nhà nghiên cứu về triết học của Nietsche [1] và Shestov [2]. Qua Abe Rokurô, ông làm quen được Haniya Yutaka [3]. Trước khi ra trường (1947), ông kết hôn với Yamada Machiko, một nữ sinh viên ngành hội họa. Họ sống đạm bạc trong một căn nhà lợp tạm và đeo đuổi hoạt động nghệ thuật. Bà Machiko đã giúp đỡ ông rất nhiều trong việc trang trí hình bìa những tác phẩm và trong việc dựng phông cảnh khi Abe chuyển qua kịch nghệ. Tài năng của Abe đa dạng. Ông không những làm thơ, viết văn, dựng kịch, vẽ tranh mà còn chen vào các lãnh vực truyền thanh, truyền hình. Ở đâu, ông cũng chứng tỏ một tài năng phi thường và thí nghiệm không mệt mỏi những thủ pháp diễn đạt mới. Vì lúc nào cũng đi trước thời đại nên không phải ai cũng yêu chuộng ông. Mumyô shishuu "Tập thơ không tên" (1947) là tác phẩm đầu tay. Akai Mayu "Cái kén đỏ" (1950) giúp ông đoạt giải thưởng văn học hậu chiến, Kabe - S. Karuma nohanzai "Bức tường. tội của S. Karma" (1951) đem giải Akutagawa về tay ông lúc mới có 27 tuổi. Sau đó là một loạt tác phẩm như Daishikan Hyôki "Thời kỳ băng hà thứ tư" (1959), Suna no Onna "Người đàn bà trong động cát" (1962), Ta.nin no kao "Gương mặt kẻ khác" (1964), tất cả đều gây nên tranh cãi. Ngoài các vở kịch như Doreigari "Săn nô lệ" (1955), Yuurei wa koko ni iru "Đây có ma" (1958), sau nầy ông còn viết Hako-otoko "Người hộp"(1973) Hakobune sakuramaru "Chiếc thuyền lợp mái tránh lụt tên gọi anh đào" (1984). Với lối viết tiền vệ, nhà văn Abe Kôbô được sắp vào số tác giả khoa học giả tưởng qua "Bức Tường - Tội của ông Karuma","Thời băng hà thứ tư"nói trên, cũng như Moetsukitachizu "Bức địa đồ cháy rụi" (1967) mà ông viết theo phong cách nhà văn Pháp Alain Robbe-Grillet. Ông đặc biệt chú trọng tới chủ đề tha hóa (alienation). Abe Kôbô còn nhảy vào sân khấu như lạc bước vào một mê cung lúc nào không hay. Năm 1955, trong một cuốn tiểu thuyết nhan đề Seifuku "Đồng Phục" ngẫu nhiên có một số đoạn, ông trình bày như đối thoại của kịch. Thế rồi, Yuurei wa koko ni iru "Đây có ma" (1958) của ông đã ra đời 3 năm sau như ta đã biết. Ông đưa lên sân khấu những ảo tưởng (phantasm) của thời mới như ảo tưởng tinh thần, tâm lý hay thương mãi và muốn bắt nọn khán giả. Ông xem sân khấu phải là một loại chất dẻo để khán giả có thể nắn theo ý mình và để lại những dấu tích sự tham dự của họ vào quá trình xây dựng chung giữa nhà viết kịch bản, diễn viên và khán giả đó. Khán giả không thể là vô can. Họ được xem như có khả năng phạm tội. Ông muốn nói như thế về vai trò của người xem kịch khi viết vở Omae ni mo tsumi ga aru "Mầy cũng có tội nữa đấy" (1965). Một ví dụ khác với vở Enomoto Takeaki (1967), trong đó ông mô tả cuộc nổi loạn để thành lập một chế độ Cộng Hòa ở Hokkaidô năm 1870 của Enomoto Takeaki nhưng không phải là không muốn chất vấn khán giả về thái độ họ phải chọn lựa trước sự kiện ấy. Từ năm 1969, Kôbô chuyển qua dàn cảnh và thành lập trung tâm nghiên cứu và thí nghiệm kịch nghệ Abe Kôbô Studio (từ 1973), thử sửa đổi và dựng lại nhiều vở cũ, chuyển một số tiểu thuyết, kịch phóng thanh, kịch bản phim đã viết thành kịch nói. Danh tiếng ông vang dội trong lẫn ngoài nước. Hầu như cứ một lần viết một tác phẩm mới, ông lại như nới rộng thêm chân trời văn học. Ông được quốc tế đánh giá cao, tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng như Anh, Ý, Đức. Tháng 9 năm 1992, ông được Hàn Lâm Viện Khoa Học Nghệ Thuật Hoa Kỳ trao tặng danh hiệu hội viên danh dự. Chẳng bao lâu, một ngày cuối năm, đang ngồi viết trong thư phòng, ông bị tai biến mạch máu não, mê man và được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Đầu năm sau, lại nhập viện vì vấn đề tim mạch và mất vào ngày 22 tháng giêng năm 1993, khép lại cánh cửa một cuộc đời hoạt động văn học nghệ thuật không ngừng nghĩ.   Mời các bạn đón đọc Bọn Chiếm Đóng của tác giả Kobo Abe.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bờ Biển Syrtes
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Bờ Biển Syrtes của tác giả Julien Gracq & Hoàng Phong (dịch). Kể về 1 chàng trai quý tộc, chán cảnh sống nhàn rỗi vô bổ ở đô thành, tình nguyện lĩnh chức vụ tại một vùng biển xa xôi heo hút để lánh mình. Một mối tình trên một thành phố hoang tàn đầy những ồn ào về số phận một công quốc cổ hủ cằn cỗi, sức tàn lực tận vẫn còn ngoan cố hiếu chiến, bám giữ hận thù... *** JULIEN GRACQ (bút danh của Louis Poirier) sinh năm 1910, mất năm 2007, là nhà giáo, nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình tiểu luận và nhà viết kịch Pháp. Song song với việc dạy học, ông theo đuổi sự nghiệp văn chương, và tên tuổi bỗng vang rộng bởi việc ông khước từ Giải Goncourt năm 1951 tặng thưởng tập tiểu thuyết được nhiều nhà phê bình coi là lộng lẫy và phong phú mà các bạn đang có trong tay : Le Rivage des Syrtes (Bờ biển Syrtes). Ông không nhận giải thưởng vì sự khí khái của người trí giả và ý muốn không chấp nhận mọi ràng buộc đối với nhà văn, nhất là không để biến văn chương thành thương phẩm. Người ta thường so sánh việc này với việc Jean Paul Sartre khước từ Giải Nobel năm 1964, coi đó là hai sự kiện mẫu mực của các nhà văn Pháp. Dịch giả Hoàng Phong​ *** Tóm tắt Bờ Biển Syrtes là một tiểu thuyết kể về câu chuyện của một chàng trai quý tộc trẻ tên là Azel, người chán ngán cuộc sống nhàn rỗi vô bổ ở đô thành, tình nguyện lĩnh chức vụ tại một vùng biển xa xôi heo hút để lánh mình. Tại đây, Azel gặp gỡ và yêu một cô gái tên là Isolde, một cư dân của thành phố hoang tàn Syrtes. Isolde là một người phụ nữ thông minh, sắc sảo và có tính cách mạnh mẽ. Cô là một trong số ít người dân Syrtes vẫn còn hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn cho công quốc. Tình yêu của Azel và Isolde là một mối tình đầy trắc trở. Họ phải đối mặt với sự phản đối của gia đình Azel, sự thù địch của người dân Syrtes và những hiểm nguy của vùng biển xa xôi. Cuối cùng, Azel và Isolde quyết định rời bỏ Syrtes để tìm một nơi mới để bắt đầu lại. Họ rời đi trong sự tiếc nuối của những người dân Syrtes, những người đã nhìn thấy ở họ một hy vọng cho tương lai của công quốc. Review Bờ Biển Syrtes là một tiểu thuyết mang đậm chất biểu hiện. Tác phẩm sử dụng ngôn ngữ tượng trưng và hình ảnh giàu tính thẩm mỹ để kể câu chuyện về một mối tình đầy trắc trở và một công quốc đang dần lụi tàn. Tình yêu của Azel và Isolde là một mối tình tượng trưng cho sự gặp gỡ giữa hai thế giới khác biệt. Azel đại diện cho thế giới của sự giàu sang và quyền lực, trong khi Isolde đại diện cho thế giới của sự nghèo khó và bất công. Công quốc Syrtes là một biểu tượng cho sự suy tàn của một thế giới cũ. Công quốc này đã từng là một cường quốc hùng mạnh, nhưng nay đang dần lụi tàn dưới sự cai trị của một chính quyền độc tài. Bờ Biển Syrtes là một tác phẩm giàu tính triết lý. Tác phẩm đặt ra những câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống, về sự tồn tại của tình yêu và về tương lai của thế giới. Đánh giá Bờ Biển Syrtes là một tiểu thuyết xuất sắc của Julien Gracq. Tác phẩm là một sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật và triết học. Bờ Biển Syrtes là một tác phẩm đáng đọc cho bất kỳ ai quan tâm đến văn học hiện đại. Một số điểm nổi bật của cuốn sách: Ngôn ngữ tượng trưng và hình ảnh giàu tính thẩm mỹ Câu chuyện về một mối tình đầy trắc trở Biểu tượng cho sự suy tàn của một thế giới cũ Giàu tính triết lý Đối tượng phù hợp: Những người yêu thích văn học hiện đại Những người quan tâm đến triết học Những người thích những câu chuyện tình yêu đầy trắc trở Mời các bạn mượn đọc sách Bờ Biển Syrtes của tác giả Julien Gracq & Hoàng Phong (dịch).
Dị Chủng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Khoa huyễn Dị Chủng của tác giả Guillermo Del Toro & Chuck Hogan. Bác sĩ Ephraim Goodweather chẳng muốn gì hơn một kỳ nghỉ cuối tuần với con trai mình. Thế nhưng khi được gọi đến điều tra về một chiếc máy bay đột nhiên ngưng hoạt động vài phút sau khi hạ cánh, cả thế giới của anh bỗng chốc đảo lộn. Giờ đây, anh phải đối mặt với một chủng loài cổ xưa nhăm nhe trỗi dậy thôn tính trái đất. Một trận đại dịch có thể tiêu diệt toàn bộ loài người. Được xuất bản lần đầu năm 2009 và chuyển thể thành series phim truyền hình ăn khách năm 2014, Dị Chủng không những đã trả lại cho những sinh vật bóng đêm chất kinh dị, vốn bị biến tấu và lãng mạn hóa quá mức những năm gần đây, mà còn giúp khôi phục lại một tượng đài của loài ác quỷ khát máu nhất trong những cơn ác mộng của con người. *** Không lãng mạn hóa hình tượng ma cà rồng mà thể hiện đúng bản chất của chúng, ‘Dị chủng’ đã khẳng định tên tuổi trong dòng truyện kinh dị nước ngoài. Kể từ khi ‘cơn sốt’ Twilight bùng nổ, hình tượng ma cà rồng dường như đã bị lãng mạn hóa trở thành những anh hùng đầy bi trang vì tình yêu mà nguyện hi sinh. Cũng chính bởi vậy, hình ảnh ma cà rồng dần bị hạ thấp trong những tác phẩm truyện kinh dị nước ngoài nói riêng và dòng truyện kinh dị nói chung. Thế rồi ‘Dị chủng’ (tựa gốc: The Strain) của bộ đôi Guillermo del Toro và Chuck Hogan xuất hiện và đưa mọi thứ trở về đúng quỹ đạo của nó. Không còn hình ảnh đầy ‘soái ca’ của những chàng ma cà rồng, ‘Dị chủng’ đã khôi phục tượng đài ác quỷ bóng đêm khát máu – cơn ác mộng kinh hoàng đối với loài người. ‘Dị chủng’ được bộ đôi tác giả del Toro và Chuck sử dụng kết hợp nhiều yếu tố truyện: một chút truyền thuyết, một chút khoa học viễn tưởng, một chút kinh dị giật gân và một chút hình sự trinh thám. Bốn trong một – đó là điều đã tạo nên thành công trong việc tái hiện hoàn hảo hình ảnh ma cà rồng chân thực đến gai người là những con quái vật bước ra từ địa ngục. Mọi chuyện bắt đầu từ chiếc máy bay Boeing 777, khi nó đột ngột tắt lịm ngay lúc vừa hạ cánh và hàng trăm hành khách xấu số bên trong đều chết một cách bí ẩn không lưu lại chút dấu vết. Ngay từ giây phút chiếc máy bay bung những bánh xe xuống cũng là lúc con quái vật kia chạm những móng vuốt xuống mặt đất. Mạch truyện gay cấn, hồi hộp ngay từ những câu từ đầu tiên. Đó vừa là câu chuyện về âm mưu thôn tính thế giới, thống trị loài người của loài sinh vật hiểm ác; vừa là cuộc chiến của những nhân vật chính trên con đường bảo vệ nhân loại. Với yếu tố khoa học viễn tưởng, loài ma cà rồng hiện lên như một dịch bệnh: chúng ủ bệnh, rồi thay đổi cơ thể người bệnh, cách chúng lây lan và bùng phát, hủy diệt ghê gớm đến bao nhiêu… Cho dù được gọi là một tác phẩm truyện kinh dị, ‘Dị chủng’ không khiến người đọc sợ hãi theo cái cách mà những bộ truyện kinh dị hơi hướng máu me, ma quỷ khác. Đổi lại, ‘Dị chủng’ lại đem đến một cảm giác rờn rợn, từ từ len lỏi. Cái cách tác giả miêu tả ‘bệnh dịch’ dần phát tác rồi xâm chiếm vật chủ, sau đó là cái cách mà chúng lây lan, tuy rằng tuần tự và hầu như chẳng có chút ‘dọa dẫm’ nào những vẫn làm người theo dõi thấy giật mình lo sợ. Về tuyến nhân vật, nổi bật hơn cả chính là cái tên Ephraim Goodweather – người trực tiếp chứng kiến mọi sự thay đổi của loài người trong ‘dịch bệnh’ và Giáo sư Abraham Satrakian – nhân chứng sống trong một trận càn quét của loài quái vật kia thời quá khứ. Nếu như Goodweather làm cho người ta dễ dàng hình dung ra xã hội hiện đại, thì Satrakian lại làm người đọc mê mẩn với những câu chuyện từ ngày xa xưa. Trên tất cả, việc tạo dựng Satrakian đầy chiều sâu với những dấu tích hiện hữu rõ ràng về cuộc tranh giành sự sống với cái kẻ được gọi là ‘Chúa tể hút máu’ chính là điểm nhấn khiến cho ‘Dị chủng’ càng thêm phần hấp dẫn và lôi cuốn. Cùng sự đầu tư cho nhân vật Satrakian, tuyến nhân vật phụ cũng được sử dụng linh hoạt để tô điểm cho ‘đại nạn dịch bệnh’. Cái hay của bộ đôi tác giả chính là đi sâu phân tích tâm lí của từng nạn nhân – những người nhiễm phải virut – đó là nỗi mơ hồ khi chưa biết mình bị sao, là lo âu khi dần khám phá ra sự thật, là sợ hãi và giằng xé khi họ biết rằng chính mình sắp trở thành một thứ gì đó khác – thứ sẽ đe dọa đến cả gia đình và những người thân yêu. Tuy nhiên, có lẽ chính bởi việc khai thác quá nhiều câu chuyện và tạo dựng nhân vật Goodweather và Satrakian quá sâu nên dường như tuyến nhân vật nữ bị lu mờ, chẳng có cơ hội phát triển. Kẻ phản diện cũng chưa thực sự có ‘đất diễn’ trong Dị chủng, nhưng có lẽ đây cũng là một phần chủ đích của bộ đôi tác giả này, khi đây mới chỉ là cuốn đầu tiên mở đầu cho triology về ma cà rồng. Điều này chắc chắn sẽ khiến khán giả đặt nhiều kỳ vọng và mong đợi vào những phần truyện sau. Với chủ đề tận thế với sự trỗi dậy của virus chết người, tưởng chừng chỉ thuần kinh dị khô khan nhưng ‘Dị chủng’ vẫn đem đến một cái nhìn mới mẻ và đầy chiều sâu về cả tâm lý con người. Không hề quá khi nói rằng đây là một trong những truyện kinh dị nước ngoài lôi cuốn và đặc sắc nhất mà chắc chắn ngay cả khi gấp cuốn sách lại, bạn vẫn ‘thèm’ được mở chúng ra một lần nữa. *** Tóm tắt Câu chuyện bắt đầu với bác sĩ Ephraim Goodweather, một chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) ở Atlanta, Georgia. Anh được gọi đến điều tra một chiếc máy bay đột nhiên ngưng hoạt động vài phút sau khi hạ cánh. Khi đến nơi, anh phát hiện ra rằng tất cả hành khách trên máy bay đều đã chết, và họ có những vết cắn kỳ lạ trên cổ. Ephraim nhanh chóng nhận ra rằng mình đang đối mặt với một mối đe dọa chưa từng có. Những hành khách trên máy bay đã bị nhiễm một loại virus mới, biến họ thành những sinh vật hung ác, khát máu. Loại virus này có khả năng lây lan nhanh chóng, và nó có thể khiến cả thế giới rơi vào nguy hiểm. Ephraim cùng với một nhóm các nhà khoa học và quân nhân phải tìm cách ngăn chặn sự lây lan của virus. Họ phải đối mặt với những sinh vật hung ác, những kẻ đã sẵn sàng hy sinh tất cả để lan truyền virus và tiêu diệt loài người. Review Dị Chủng là một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng kinh dị xuất sắc. Cuốn sách có cốt truyện hấp dẫn, đầy kịch tính và hồi hộp. Các nhân vật được xây dựng tốt, và những sinh vật ma cà rồng được miêu tả rất đáng sợ. Cuốn sách đã trả lại cho những sinh vật bóng đêm chất kinh dị, vốn bị biến tấu và lãng mạn hóa quá mức những năm gần đây. Những sinh vật ma cà rồng trong Dị Chủng không phải là những sinh vật lãng mạn, mà là những sinh vật khát máu, tàn bạo và đáng sợ. Chúng là mối đe dọa thực sự đối với loài người. Cuốn sách cũng giúp khôi phục lại một tượng đài của loài ác quỷ khát máu nhất trong những cơn ác mộng của con người. Ma cà rồng đã trở thành một trong những sinh vật kinh dị phổ biến nhất trong văn hóa đại chúng, và Dị Chủng đã góp phần khẳng định vị trí của chúng trong lòng những người yêu thích thể loại kinh dị. Dị Chủng là một cuốn tiểu thuyết đáng đọc cho những ai yêu thích thể loại kinh dị và khoa học viễn tưởng. Cuốn sách sẽ mang đến cho bạn những giây phút hồi hộp, căng thẳng và rùng mình. Một số điểm nổi bật của cuốn sách: Cốt truyện hấp dẫn, đầy kịch tính và hồi hộp Các nhân vật được xây dựng tốt Những sinh vật ma cà rồng được miêu tả rất đáng sợ Trả lại cho những sinh vật bóng đêm chất kinh dị Giúp khôi phục lại một tượng đài của loài ác quỷ khát máu Một số điểm hạn chế của cuốn sách: Có một số đoạn văn miêu tả hơi dài dòng, gây khó hiểu Một số nhân vật phụ chưa được khai thác hết tiềm năng Tổng kết Dị Chủng là một cuốn tiểu thuyết kinh dị khoa học viễn tưởng xuất sắc. Cuốn sách có nhiều điểm nổi bật, bao gồm cốt truyện hấp dẫn, các nhân vật được xây dựng tốt và những sinh vật ma cà rồng được miêu tả rất đáng sợ. Mời các bạn mượn đọc sách Dị Chủng của tác giả Guillermo Del Toro & Chuck Hogan.
Chìa Khóa Ngày Tận Thế
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Chìa Khóa Ngày Tận Thế của tác giả James Rollins. Tại trường Đại học Princeton, một nhà di truyền học nổi tiếng đã chết trong phòng thí nghiệm. Ở Rome, người ta tìm thấy một nhà khảo cổ thuộc tòa thánh Vatican nằm chết tại thánh đường Peter. Tận châu Phi xa xôi, con trai của một Thượng nghị sĩ Mỹ bị sát hại một cách tàn bạo bên ngoài trại Chữ thập đỏ. Ba kẻ sát nhân ở ba lục địa khác nhau tạo nên một mối liên kết đáng sợ: tất cả nạn nhân đều bị thiêu chết và bọn chúng để lại chữ thập đặc trưng của những kẻ ngoại giáo. Bọn giết người kỳ quái đẩy sĩ quan Gray Pierce và Lực luợng Sigma vào một cuộc chạy đua với thời gian nhằm tìm ra lời giải cho một bí ẩn từ nhiều thế kỷ trước, một tội ác khủng khiếp đuợc che giấu bên trong quyển kinh thánh bí ẩn có từ thời Trung cổ. Manh mối đầu tiên được khám phá bên trong một xác ướp chôn trong đầm lầy than bùn ở Anh - một bí mật khủng khiếp đe dọa Mỹ và toàn thế giới. Được hai ngừời phụ nữ giúp sức, một là tình nhân cũ, còn nguời kia là cộng sự mới, Gray phảí xâu chuỗi sự thật kinh hoàng lại với nhau. Nhưng việc khám phá ra bí mật này khiến anh trả giá đắt, và để cứu lấy tương lai, Gray sẽ phải hy sinh một trong hai nguời phụ nữ hết lòng giúp đỡ anh. Như thế duờng như vẫn chua đủ, khi sự thật dàn hé mở để lộ một lời tiên tri về ngày tận thế hết sức đen tối, kinh hoàng. Lưc luợng Sigma đối đầu với mối đe dọa khủng khiếp nhất của loài người trong một cuộc phiêu lưu chạy đua từ Đấu trường La Mã ở Rome đến chóp núi phủ băng của Thụy Điển, từ sụ đổ nát của những tu viện thời Trung cổ đến những ngôi mộ mất tích của các vị vua Xentơ. Cơn ác mộng cuối cùng bị khóa chặt bên trong một tấm bùa đuợc chôn bởi một vị thánh đã chết - một cổ vật được biết đến với tên gọi Chìa khóa ngày tận thế. *** Tại trường đại học Princeton, một nhà di truyền học nổi tiếng đã chết trong phòng thí nghiệm. Ở Rome, người ta tìm thấy một nhà khảo cổ thuộc toà thánh Vatican nằm chết tại thánh đường Peter. Tận Châu Phi xa xôi, con trai của một Thượng nghĩ sĩ Mỹ bị sát hại một cách tàn bạo bên ngoài trại Chữ thập đỏ. Ba kẻ sát nhân ở ba lục địa khác nhau tạo nên một mối liên kết đáng sợ: tất cả nạn nhân đều bị thiêu chết và trên trán đều để lại một dấu chữ thập đặc trưng, một kí hiệu cổ xưa của những kẻ ngoại giáo!   Quyển sách bắt đầu bằng ba cái chết kinh khủng như thế. Nhân vật chính ở đây là thanh tra Gray Pierce và lực lượng Sigma. Bọn giết người đã đẩy ông vào một cuộc chạy đua với thời gian nhằm tìm ra lời giải cho một bí ẩn từ nhiều thế kỉ trước. Một tội ác khủng khiếp được khám phá bên trong một xác ướp chôn trong đầm lầy than bùn ở Anh- vén màn một bí mật khủng khiếp đe dọa nước Mỹ và toàn thế giới. Quyển sách thật sự là một hành trình đầy mạo hiểm và nghẹt thở. Một cuộc chạy đua từ đấu trường La Mã ở Rome đến chóp núi phủ băng của Thụy Điển. Từ sự đổ nát của những tu viện thời Trung cổ đến những ngôi mộ mất tích chôn vùi hàng ngàn năm dưới lòng đất. Sĩ quan Gray Pierce được sự giúp sức của hai người phụ nữ xinh đẹp. Một là tình nhân cũ và một là cộng sự mới. Cuộc hành trình bắt buộc ông phải hi sinh một trong hai người phụ nữ ấy và có lẽ sự mất mát còn to lớn hơn thế nữa khi ông cố tìm ra lời giải về một lời tiên tri, một cổ vật được biết đến với tên gọi CHÌA KHOÁ NGÀY TẬN THẾ! ———— Đây là quyển sách đầu tiên của tác giả James Rollins mà mình tìm đọc. Và nó đã mang lại cho mình sự hài lòng tuyệt đối. Để lấy một thứ gì đó tương tự và so sánh, sẽ không ngoa khi đặt tác phẩm này ngang hàng với Mật Mã Davinci- khi nói về cuộc hành trình của nhân vật chính trong truyện. Và hơn thế nữa là lượng kiến thức kinh khủng về Tôn giáo, các công trình kiến trúc, những kí tự cổ xưa, những kiến thức về lai tạo sinh học…mà tác phẩm này mang lại. Mình đang tự hỏi không biết tác phẩm này đã được dựng thành phim hay chưa?! Nếu chưa quả thật là các đạo diễn đã bỏ lỡ một tác phẩm vô cùng xuất sắc. Nếu được chuyển thể thành phim chắc hẳn nó cũng sẽ hồi hộp và kịch tính i như Indiana Jone hay Tomb Raider vậy! Quyển sách không hề có đoạn mào đầu giống như những tác phẩm trinh thám khác. Mà vừa bước vào tác giả đã show ra ngay ba án mạng và sau đó là hành trình chạy đua với tử thần của nhân vật chính cùng đồng đội từ đầu cho đến hết quyển sách. Nói một cách hoa mĩ là bạn chỉ cảm thấy thở phào nhẹ nhõm và tim hết đập loạn nhịp, đầu óc hết căng thẳng khi khép lại những trang cuối cùng. James Rollin còn hay ở chỗ, một mặt ông không để độc giả có thể rời mắt khỏi những trang sách của mình. Mặt khác ông lại tạo ra được một kết thúc bất ngờ- điều mà bất kì ai cũng mong muốn có ở một tác phẩm trinh thám. Xen vào cuộc hành trình kịch tính ấy là những câu thoại hài hước của các nhân vật phụ trong truyện. Để đang trong cảm giác căng thẳng mà bạn cũng phải bật cười thành tiếng. Một điểm cộng đầu tiên cho tác giả và cả dịch giả!! Điểm cộng thứ hai là tác giả đã tạo ra một kết thúc mở. Khi mọi việc đã thành công đâu vào đấy. Nhưng thật sự những mối hiểm nguy vẫn còn nhen nhóm. Một tổ chức mới, một kí tự cổ xưa mới lại xuất hiện để mở đến một điều gì đó tàn khốc và xấu xa hơn. Gây ra sự tò mò cho độc giả. Và nói thật nếu tác giả ra phần2 của quyển này thì chắc chắn nó sẽ “bán đắt như tôm tươi”! Điểm cộng thứ 3, cũng là điều mà mọi người hay thắc mắc khi đọc những tác phẩm có chứa nhiều kiến thức về tôn giáo, khảo cổ,v.v…vì không biết rằng nó có THẬT hay là KHÔNG. Và ở đây đến cuối cùng James Rollins đã viết một vài dòng như thế này: “Ghi chú dành cho độc giả Sự thật hay Hư cấu. Mọi thứ trong cuốn sách này là thật, ngoại trừ những điều không thật. Chắc hẳn James là một người có khiếu hài hước bẩm sinh. Và sau đó mà một loạt những giải thích về những điều có trong tác phẩm để bạn tự trả lời cho câu hỏi thắc mắc phía trên của mình!! Mình xin kết thúc bài review bằng câu nói của LIBRARY JOURNAL dành cho tác phẩm Chìa Khoá Ngày Tận Thế- “Một tiểu thuyết khắc họa thành tựu kỹ thuật đáng kinh ngạc và xuất sắc, có lẽ đây là cuốn tiểu thuyết hay nhất của James Rollins tính đến nay”. Và đối với bản thân mình đây cũng là một trong những quyển sách trinh thám hay nhất mà mình từng đọc!! Điểm tuyệt đối 10/10! Hoang Tu Lai *** Tóm tắt Cuốn sách "Chìa Khóa Ngày Tận Thế" của tác giả James Rollins kể về một nhóm các nhà khoa học và quân nhân phải ngăn chặn một thảm họa toàn cầu. Câu chuyện bắt đầu với cái chết của một nhà di truyền học nổi tiếng ở Princeton, New Jersey. Nhà khoa học này đã bị thiêu chết và bên cạnh thi thể là một chữ thập đặc trưng của những kẻ ngoại giáo. Cùng lúc đó, một nhà khảo cổ thuộc tòa thánh Vatican cũng bị giết theo cách tương tự ở Rome, và con trai của một Thượng nghị sĩ Mỹ cũng bị sát hại ở châu Phi. Sĩ quan Gray Pierce của Lực lượng Sigma, một tổ chức bí mật của chính phủ Mỹ, được giao nhiệm vụ điều tra những vụ giết người này. Gray nhanh chóng phát hiện ra rằng những vụ giết người này có liên quan đến một bí ẩn từ nhiều thế kỷ trước, một tội ác khủng khiếp được che giấu bên trong quyển kinh thánh bí ẩn có từ thời Trung cổ. Gray được hai người phụ nữ giúp sức, một là tình nhân cũ, còn người kia là cộng sự mới. Cùng nhau, họ đã xâu chuỗi sự thật kinh hoàng lại với nhau và phát hiện ra một lời tiên tri về ngày tận thế hết sức đen tối, kinh hoàng. Lực lượng Sigma đối đầu với mối đe dọa khủng khiếp nhất của loài người trong một cuộc phiêu lưu chạy đua từ Đấu trường La Mã ở Rome đến chóp núi phủ băng của Thụy Điển, từ sự đổ nát của những tu viện thời Trung cổ đến những ngôi mộ mất tích của các vị vua Xentơ. Cơn ác mộng cuối cùng bị khóa chặt bên trong một tấm bùa được chôn bởi một vị thánh đã chết - một cổ vật được biết đến với tên gọi "Chìa khóa ngày tận thế". Review Cuốn sách "Chìa Khóa Ngày Tận Thế" là một tác phẩm khoa học viễn tưởng hấp dẫn, với những tình tiết hành động gay cấn và những ý tưởng khoa học viễn tưởng thú vị. Điểm mạnh của cuốn sách là cốt truyện chặt chẽ, với những tình tiết được đan xen một cách khéo léo, khiến người đọc không thể rời mắt. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng có những ý tưởng khoa học viễn tưởng hấp dẫn, mang đến cho người đọc những hình ảnh và trải nghiệm mới lạ. Tuy nhiên, cuốn sách cũng có một số điểm hạn chế. Một số tình tiết trong truyện có vẻ hơi phi lý, và một số nhân vật có vẻ hơi sáo rỗng. Nhìn chung, "Chìa Khóa Ngày Tận Thế" là một cuốn sách khoa học viễn tưởng đáng đọc, đặc biệt là đối với những người yêu thích thể loại này. Những điểm nổi bật Cốt truyện chặt chẽ, với những tình tiết được đan xen một cách khéo léo. Những ý tưởng khoa học viễn tưởng hấp dẫn. Hành động gay cấn. Một số ý kiến của độc giả "Cuốn sách rất hay và hấp dẫn. Tôi thích cách tác giả xây dựng cốt truyện và những ý tưởng khoa học viễn tưởng trong truyện." "Cuốn sách rất đáng đọc, đặc biệt là đối với những người yêu thích thể loại khoa học viễn tưởng." "Cuốn sách có một số tình tiết hơi phi lý, nhưng nhìn chung vẫn rất hấp dẫn." Mời các bạn mượn đọc sách Chìa Khóa Ngày Tận Thế của tác giả James Rollins.
Ông Già và Biển Cả
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Ông Già và Biển Cả của tác giả Ernest Hemingway & Mặc Đỗ (dịch). VỀ NHỮNG NHÂN DANH, ĐỊA DANH TRONG SÁCH NÀY Để văn dịch được thật sự phổ cập và những bản dịch được hoàn toàn quốc ngữ hóa như của Trung Hoa, Nhật Bản, dịch giả đề nghị áp dụng trong bản dịch này việc phiên âm những nhân danh, địa danh. Phương pháp đề ra chưa chắc đã hoàn hảo; dù sao ta cứ bước một bước đầu. NGUYÊN TẮC CHUNG Nhân danh, địa danh của nước nào thì phải cố gắng phiên âm theo đúng âm của nước đó. Những danh từ đã quá quen thuộc nên giữ lại. Thí dụ: Anh, Pháp, Nga, Mỹ… Nhưng nếu phiên âm đúng hơn và sẽ tiện dụng hơn thì nên đổi: Pari hơn Balê. PHƯƠNG PHÁP Viết dính các âm. Viết rời nếu danh từ gốc viết rời. Cố giữ để khỏi xa với cách viết (theo mẫu tự latinh) của danh từ gốc. Thí dụ: không thay S bằng X (Sanhtơny chớ không Xanhtơny). Không phân biệt cách đọc S và X, nhưng để phiên âm vần CH (Pháp) hay SH (Anh) dùng vần SH. Thí dụ: Shinông. Chấp nhận âm S câm. Thí dụ: Côngstăngtanh, Stăngbun. Chấp nhận thêm những vần không dùng trong Việt ngữ nhưng người Việt phát âm được: Bl, Br, Cl, Cr, Đr, (đơrơ), F (phơ), F1 (phơlơ), Fr (phơrơ), J (thay cho vần GI để khi đọc khỏi lẫn, thí dụ: Anjêri dễ đọc hơn Angiêri vì có thể lầm thành Angi-êri), Kl (Cơlơ), Kr (cơrơ), Z. Cố gắng phiên âm đầy đủ các âm của danh từ gốc, nhưng tránh dùng dấu Việt ngữ để nhấn mạnh nếu không cần thiết lắm, tuy gặp danh từ gốc cố ý nhấn mạnh vẫn cần giữ cho đúng với nguyên tắc chung. Thí dụ: Odessa có thể viết Ôđesa, nhưng Madagascar phải viết Mađagátca. *** LỜI NGƯỜI DỊCH Đem kinh nghiệm bản thân gửi vào tác phẩm, chủ đích nghệ thuật đó Ernest Hemingway đã giải bày trong cuốn The Snows of Kilimanjaro: một nhà văn khi hấp hối nhớ lại những mẩu đời của mình đã toan để dành đưa vào trong truyện. Toàn thể những tác phẩm đã xuất bản của Hemingway đều là những vang bóng của những quảng thời gian mà chính tác giả đã từng sống. Thời thơ ấu ở Michigan (In Our Time), kỳ đại chiến thứ nhất trong quân đội Ý (A Farewell to Arms), huấn luyện viên võ thuật (Fifty Grend), dự đấu bò tại Tây Ban Nha (The Undefeated), sáu năm sống cuộc đời ly hương tại Montparnasse, Paris (The Sun Also Rises), tham gia nội chiến Tây Ban Nha trong hàng ngũ dân chủ (For Whom The Bells Toll), Cuốn Ông già và Biển cả (The Old Man and the Sea) chúng tôi trình bày cùng độc giả, rút ở những nhận xét tại chỗ hồi ông ở Key West, tận cùng mỏm Florida, thường đi theo dân chài ra khơi. Bằng chứng vào cuộc đời và những tác phẩm của Hemingway ta có thể nói không ngoa rằng nếu ông ở yên một chỗ ông sẽ không thể viết được. Trong một cuộc du lịch tại Phi-châu, ông và bà vợ cùng đi trên một chiếc máy bay riêng và mất tích giữa rừng rậm, báo chí thế giới đã sửa soạn bài ai điếu thì hai vợ chồng ông lại tìm về được không một chút thương tích. Tuy Hemingway sống rất nhiều, nhân vật trong tiểu thuyết của ông thường biểu lộ tâm trạng trơ trọi của con người bất phùng thời. Trơ trọi vì kiêu hãnh từ chối đầu hàng, không chịu phó mặc cho số phận. Ông lão đánh cá trong thiên truyện này là một thể hiện đặc sắc của sự trơ trọi kiểu Hemingway. Bị người đời rẻ rúng ông lão vẫn cương quyết đi con đường của mình cho trọn, chống trả kịch liệt cho đến thành công, rồi lại đem hết sức tàn ra đương đầu với Định Mệnh, không một lời ta oán, tin ở mình cho đến cùng. *** Tóm tắt Câu chuyện kể về Santiago, một ông già đánh cá già nua và nghèo khó, đã 84 ngày liền không bắt được con cá nào. Những người bạn đánh cá khác đã bỏ đi, chỉ còn lại Santiago tiếp tục ra biển một mình. Một ngày nọ, ông già đã câu được một con cá kiếm khổng lồ. Con cá quá lớn đến nỗi thuyền của ông già bị kéo ra xa bờ hàng trăm dặm. Santiago đã phải chiến đấu với con cá suốt ba ngày ba đêm, và cuối cùng ông đã bắt được nó. Tuy nhiên, khi con cá bị kéo lên thuyền, những con cá mập đã đến và ăn thịt nó. Khi Santiago trở về bờ, ông chỉ còn lại bộ xương của con cá. Review "Ông già và biển cả" là một câu chuyện về lòng can đảm, sự kiên trì và ý chí chiến thắng. Santiago là một người đàn ông kiên cường và bất khuất, không bao giờ bỏ cuộc trước khó khăn. Ông đã chiến đấu với con cá kiếm suốt ba ngày ba đêm, và cuối cùng đã bắt được nó. Câu chuyện cũng là một bài thơ về vẻ đẹp của biển cả và thiên nhiên. Hemingway đã miêu tả biển cả một cách sống động và chân thực, thể hiện sự tôn trọng và ngưỡng mộ của ông đối với thiên nhiên. "Ông già và biển cả" là một tác phẩm kinh điển của văn học Mỹ. Câu chuyện đã được dịch ra hơn 50 ngôn ngữ và được chuyển thể thành phim nhiều lần. Đánh giá chung "Ông già và biển cả" là một tác phẩm văn học xuất sắc, mang đến cho người đọc những cảm xúc sâu sắc và những bài học ý nghĩa. Câu chuyện là một bức tranh tuyệt đẹp về cuộc sống và sự đấu tranh của con người, và là một lời ca ngợi cho tinh thần kiên cường và ý chí chiến thắng. Những điểm nổi bật Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Nhân vật Santiago được xây dựng thành công Miêu tả thiên nhiên sống động và chân thực Mang đến những cảm xúc sâu sắc và những bài học ý nghĩa Kết luận "Ông già và biển cả" là một tác phẩm văn học đáng đọc, mang đến cho người đọc những trải nghiệm tuyệt vời. Mời các bạn mượn đọc sách Ông Già và Biển Cả của tác giả Ernest Hemingway & Mặc Đỗ (dịch).