Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Miền Đất Hứa Của Tôi - Khải Hoàn Và Bi Kịch Của Israel

Miền đất hứa của tôi là cuộc phiêu lưu cá nhân của một người Israel, băn khoăn trước ngập tràn biến cố lịch sử trên quê hương mình. Đây là một hành trình vượt không gian và thời gian của một người sinh ra tại Israel, nhằm khám phá câu chuyện đại sự của dân tộc mình. Thông qua lịch sử gia đình, lịch sử cá nhân và các bài phỏng vấn sâu, Shavit đã cố gắng tiếp cận câu chuyện sâu xa hơn và những câu hỏi sâu sắc hơn về Israel, về sự định hình tương lai của người Do Thái. Đây là một trong những cuốn sách quan trọng và có tác động mạnh mà Ari Shavit viết nhằm phục hồi cảm giác về thực tính của Israel và say sưa với nó, để khôi phục lại sự hùng vĩ của một thực tế đơn giản trong cái nhìn đầy đủ về các sự kiện phức tạp. Miền đất hứa của tôi gây ngạc nhiên về nhiều mặt, nhất là việc nó tương đối ít chú trọng tới việc cung cấp cho người đọc các thông tin về chính trị. Shavit, nhà bình luận trong ban biên tập của Haaretz, có một tư duy độc lập, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ học thuyết nào. Ông viết không để ca ngợi hay đổ lỗi, dù trong quá trình ấy ông đã làm cả hai điều này, thay vào đó, với sự uyên bác và tài hùng biện; ông viết để quan sát và phản ánh. Đây là cuốn sách ít thiên vị nhất về Israel. Một cuốn sách Phục quốc Do Thái nhưng không bị kích động bởi chủ nghĩa phục quốc. Nó nói về toàn thể trải nghiệm Israel. Shavit đắm mình trong toàn bộ lịch sử của đất nước mình. Dù một số  sự kiện trong đó làm ông tổn thương, song không gì là xa lạ đối với ông. Ông đã viết một chương xuất sắc về chính trị gia tham nhũng nhưng đầy sức hút, Aryeh Deri, và sự trỗi dậy trên chính trường của tôn giáo dòng Sephardi tại Israel, qua đó minh họa rõ nét tầm hiểu biết của mình. Tuy nhiên thật may đây không phải là một cuốn hồi ký; nó là một cuộc điều tra được viết với văn phong gần gũi. Shavit khám phá xã hội của ông với sự tỉ mỉ của một người đàn ông cảm thấy bản thân mình gắn với số phận của nó, và ông không ngần ngại nói về sự tan rã của nước cộng hòa Israel trong những năm gần đây. Theo quan sát của ông “Trong vòng chưa đầy 30 năm, Israel đã trải qua bảy cuộc nổi loạn trong nước khác nhau: cuộc nổi dậy của người định cư, các cuộc nổi dậy hòa bình, cuộc nổi dậy vì tự do tư pháp, cuộc nổi dậy phương Đông, cuộc nổi dậy của dòng Chính thống cực đoan, cuộc nổi dậy của chủ nghĩa khoái lạc cá nhân và cuộc nổi dậy của người Israel gốc Palestine.” Ông lo lắng, có lẽ có phần hơi quá, rằng đất nước ông đang tan rã: “Quốc gia khởi nghiệp này phải tự khởi động lại”. Chắc chắn là không có tình tiết giảm nhẹ nào cho sự bất bình đẳng kinh tế và xã hội mà ông mô tả, hoặc những xáo trộn hoàn toàn các chính sách định cư trong vùng lãnh thổ mà Israel có một mối quan tâm khẩn cấp và lâu dài trong việc di tản. Nhưng những lời khuyên và khích lệ của Shavit rằng “luận điểm cũ về nghĩa vụ và sự cam kết đã được thay thế bằng một luận điểm mới về sự phản kháng và chủ nghĩa khoái lạc”, và “thách thức trước mắt là thách thức giành lại quyền lực quốc gia”, là u ám và khắc nghiệt hơn so với giọng văn đầy nhiệt huyết và phóng khoáng trong cuốn sách. Và khái niệm “quyền lực quốc gia” thì đi kèm với những mối liên hệ không mấy hấp dẫn. Vùng đất hỗn loạn và ồn ào trong Miền đất hứa của tôi sẽ không thể được chữa lành chỉ với những cố gắng đơn thuần để đưa nó trở lại bình thường như trước đây. *** NHỮNG DẤU CHẤM HỎI Những gì tôi còn nhớ được là nỗi sợ hãi. Nỗi sợ hãi mang tính sinh tồn. Nơi tôi lớn lên - Israel giữa thập niên 1960 - đầy nghị lực, nhiệt huyết, và hy vọng. Nhưng tôi luôn cảm thấy đằng sau những ngôi nhà đẹp đẽ với bãi cỏ phía trước nhà của tầng lớp thượng lưu thành phố quê hương tôi là một đại dương tăm tối. Tôi lo sợ có ngày đại dương tăm tối đó sẽ trào dâng và nhấn chìm tất cả chúng tôi. Một trận sóng thần như trong thần thoại sẽ đập vào bờ và cuốn Israel của tôi đi. Nó sẽ thành một Atlantis(1) nữa, chìm sâu dưới đáy biển. Một sáng tháng 6 năm 1967, khi tôi chín tuổi, tôi đến bên cha dang cạo râu trong nhà tắm. Tôi hỏi ông, liệu người Ả-rập có thắng không. Liệu người Ả-rập có chinh phục Israel của chúng ta hay không? Liệu họ có ném tất cả chúng ta xuống biển không? Vài ngày sau, Chiến tranh Sáu ngày(2) bắt đầu. Tháng 10 năm 1973, tiếng còi báo động của thảm họa bắt đẩu rền rĩ. Tôi đang bị cúm, phải nằm trên giường sau buổi trưa ngày lễ Yom Kippur(3) yên tĩnh, khi những chiếc phản lực F-4 đang xé nát bầu trời. Chúng bay ở độ cao 500 feet(4) trên mái nhà chúng tôi hướng đến kênh đào Suez, chống lại lực lượng xâm lược Ả-rập bất ngờ đánh chiếm Israel. Nhiều chiếc, trong đó đã không bao giờ trở lại. Lúc đó tôi 16 tuổi, sững sờ khi nghe tin quân đội Israel thua trận tại sa mạc Sinai và Cao nguyên Golan. Trong 10 ngày kinh hoàng này, dường như nỗi sợ hãi ban sơ của tôi đã được chứng minh. Israel đang nguy nan. Những bức tường của Ngôi đền Thứ ba(5) của người Do Thái đang rung lắc. Tháng 1 năm 1991, Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất bùng nổ. Tel Aviv bị tên lửa SCUD của Iraq bắn phá. Có người còn lo lắng về khả năng Israel bị tấn công bằng vũ khí hóa học. Trong nhiều tuần, người dân Israel mang theo mặt nạ phòng độc khi đi lại. Thi thoảng, khi có cảnh báo là đầu đạn tên lửa đã được bắn ra, chúng tôi liền đeo mặt nạ chui vào những căn phòng bịt kín. Mặc dù sau đó hóa ra không phải, nhưng có điều gì đó khủng khiếp về thứ nghi lễ kỳ quái này vẫn đọng lại. Tôi lắng nghe âm thanh còi báo động, và hoang mang nhìn vào đôi mắt kinh hãi của người thân nhốt trong những chiếc mặt nạ chống độc do Đức sản xuất. Tháng 3 năm 2002, một làn sóng khủng bố làm Israel lo lắng. Hàng trăm người chết khi những đối tượng đánh bom cảm tử Palestine tấn công các xe buýt, câu lạc bộ đêm, và trung tâm mua sắm. Một đêm, khi tôi đang viết bài nghiên cứu về Jerusalem thì nghe một tiếng nổ lớn. Tôi nhận ra chắc là ở quán bar trong khu nhà tôi. Tôi chộp lấy tập giấy viết và lao ra phố. Ba chàng trai – ngồi trong quán trước những vại bia vơi một nửa - đã chết. Một phụ nữ nhỏ nhắn chết gục trong góc. Những người bị thương thì đang gào thét và khóc lóc. Khi nhìn vào địa ngục xung quanh trong ánh đèn sáng rực của quán bar đã nổ tung, tôi - một nhà báo - tự hỏi: Cái gì sẽ đến? Chúng tôi có thể chịu đựng được sự điên rồ này bao lâu nữa? Liệu có lúc nào sinh lực sống đầy tự hào của người Israel chúng tôi sẽ phải đầu hàng các thế lực gây chết chóc đang cố gắng hủy diệt mình? Chiến thắng quyết định trong cuộc chiến năm 1967 đã xua tan những nỗi sợ trước chiến tranh. Sự phục hồi vào các thập niên 1970 và 1980 đã chữa lành vết thương sâu của năm 1973. Tiến trình hòa bình thập niên 1990 đã hàn gắn thương tích năm 1991. Sự thịnh vượng cuối thập niên 2000 đã che đậy nỗi kinh hoàng của năm 2002. Chính xác là do ít hiểu biết, nên người Israel chúng tôi cứ khăng khăng tin vào bản thân, tin vào quốc gia-dân tộc và tương lai của mình. Nhưng qua nhiều năm, nỗi sợ hãi câm lặng của tôi vẫn không bao giờ qua di. Dù bàn bạc hay biểu đạt nỗi sợ hãi này là điều kiêng ky, nhưng nó vẫn luôn đeo bám tôi mọi nơi. Các thành phố của chúng tôi dường như được xây trên cát trượt. Nhà ở của chúng tôi dường như không bao giờ vững chắc hoàn toàn. Ngay cả khi dân tộc tôi trở nên mạnh mẽ và giàu có hơn, tôi vẫn cảm thây nó dễ bị tổn thương. Tôi nhận ra chúng tôi thường xuyên bị nguy hiểm đe dọa. Vâng, cuộc sống của chúng tôi tiếp tục sôi động, giàu có, và hạnh phúc về nhiều mặt. Israel tạo nên một cảm giác an toàn xuất phát từ thành công về vật chất, kinh tế, và quân sự. Sinh lực sống hằng ngày của chúng tôi thật thần kỳ. Nhưng vẫn luôn tồn tại nỗi sợ, rằng một ngày nào đó cuộc sống thường nhật sẽ tê liệt như ở Pompeii(6). Quê hương yêu dấu của tôi sẽ vụn nát khi đội quân Ả-rập khổng lồ hoặc lực lượng Hồi giáo hùng mạnh vượt qua hàng phòng thủ và xóa sổ sự tồn tại của nó. Những gì tôi còn nhớ được là sự chiếm đóng. Chỉ một tuần sau khi tôi hỏi cha, liệu các nước Ả-rập có chinh phục Israel không, thì Israel đã chinh phục những vùng đất người Ả-rập cư trú ở Bờ Tây và Gaza. Một tháng sau, cha mẹ, em trai và tôi bắt đầu một chuyến đi gia đình đến các thành phố bị chiếm đóng là Ramallah, Bethlehem, và Hebron. Đi qua nơi nào chúng tôi cũng thấy dấu tích của những chiếc xe jeep, xe tải và xe quân sự Jordan bị cháy. Những lá cờ trắng đầu hàng treo trên hầu hết các ngôi nhà. Một số con phố bị chặn lại bằng những xác xe hơi Mercedes đen vốn sang trọng nhưng đã biến dạng do xe tăng Israel nghiến lên. Nỗi sợ hãi hiện ra trong đôi mắt những dứa trẻ Palestine bằng và ít tuổi hơn tôi. Cha mẹ chúng xem ra đã bị đánh bại và bẽ mặt. Trong vài tuần, người Ả-rập hùng mạnh đã biến thành nạn nhân, còn người Israel bị nguy cấp lại trở thành kẻ chinh phục. Quốc gia Do Thái giờ đây hân hoan chiến thắng, tự hào và say sưa với cảm giác cuồng nhiệt về sức mạnh. Khi tôi ở tuổi vị thành niên, mọi thứ còn tốt đẹp. Chúng tôi hiểu chung chung rằng việc chiếm đóng quân sự là nhân đạo. Israel hiện đại đã mang đến sự tiến bộ và phồn vinh cho các vùng đất Palestine. Giờ đây, những người láng giềng lạc hậu của chúng tôi đã có điện, nước máy, và sự chăm sóc y tế mà họ chưa bao giờ có trước đây. Họ cần phái nhận thức được rằng cuộc sống của họ chưa bao giờ tốt đến vậy. Chắc chắn họ biết ơn vì những gì chúng tôi dành cho họ. Và khi hòa bình được thiết lập, chúng tôi sẽ trả lại phần lớn các lãnh thổ đã chiếm đóng. Nhưng lúc này, mọi thứ trên Đất Israel đều ổn cả. Trên khắp đất nước, người Ả-rập và Do Thái chung sống, bình yên, và sung túc. Chỉ khi đi lính tôi mới hiểu được có điều gì đó không ổn. Sáu tháng sau khi gia nhập lữ đoàn dù ưu tú của Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF),(7) tôi được điều động đến chính những thành phố bị chiếm đóng mà mình đã đi qua lúc còn bé 10 năm trước. Giờ thì tôi bị phân công làm những nhiệm vụ bẩn thỉu: kiểm tra, quản thúc tại gia, giải tán biểu tình bằng bạo lực. Điều làm tôi tổn thương nhất là đột nhập vào những ngôi nhà, lôi các chàng trai ra khỏi giường ấm nệm êm đi thẩm vấn lúc nửa đêm. Thứ quái quỷ gì đang xảy ra thế này, tôi tự hỏi. Tại sao tôi lại bảo vệ tổ quốc mình bằng cách hành hạ những thường dân đã bị tước đoạt quyền và tự do? Tại sao Israel của tôi lại chiếm đóng và đàn áp dân tộc khác? Vì vậy, tôi trở thành người phản chiến. Trước tiên, với tư cách một người hoạt động xã hội trẻ tuổi và sau là nhà báo, tôi đã hăng hái đấu tranh chống lại sự chiếm đóng. Trong thập niên 1980, tôi phản đối việc thiết lập các khu định cư trên lãnh thổ Palestine. Thập niên 1990, tôi ủng hộ sự thành lập nhà nước Palestine do Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO)(8) lãnh đạo. Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, tôi tán thành việc Israel đơn phương rút khỏi Dải Gaza. Nhưng hầu hết các chiến dịch chống lại sự chiếm đóng mà tôi tham gia cuối cùng đều thất bại. Gần nửa thế kỷ sau chuyến đi đầu tiên của gia đình tôi ở Bờ Tây bị chiếm đóng, Bờ Tây vẫn bị chiếm đóng. Như khối u ác tính, chiếm đóng trở thành một phần không tách rời trong sự tồn tại của nhà nước Do Thái. Nó cũng đổng thời trở thành một phần không tách rời trong cuộc đời tôi với tư cách một người Israel. Mặc dù tôi phản dối sự chiếm đóng, nhưng tôi cũng chịu trách nhiệm về sự chiếm đóng này. Tôi không thể phủ nhận sự thật hoặc chạy trốn sự thật là dân tộc mình đã trở thành một dân tộc đi chiếm đóng. Mãi đến vài năm trước, tôi đột nhiên nhận ra rằng nỗi sợ hãi mang tính sinh tồn liên quan đến tương lai dân tộc mình không tách rời tổn thương về đạo đức liên quan đến chính sách chiếm đóng của đất nước mình. Một mặt, Israel là dân tộc duy nhất ở phương Tây đi chiếm đóng dân tộc khác. Mặt khác, Israel là dân tộc duy nhất ở phương Tây bị đe dọa sự tồn tại. Cả sự chiếm đóng lẫn sự đe dọa đều khiến tình trạng của Israel trở nên đặc biệt. Đe dọa và chiếm đóng trở thành hai trụ cột trong tình trạng của chúng tôi. Phần lớn các nhà quan sát và phân tích phủ nhận tính hai mặt này. Những người cánh tả đề cập sự chiếm đóng và không chú ý đến sự đe dọa, trong khi những người cánh hữu chú tâm vào sự đe dọa và bỏ qua sự chiếm đóng. Nhưng sự thật là nếu không kết hợp cả hai yếu tố trong một thế giới quan, thì không thể hiểu hết Israel hay cuộc xung đột Israel-Palestine. Bất kể cách tư duy nào không gắn với hai điểm cốt lõi này, chắc chắn đều không đầy đủ và vô dụng. Chỉ có cách tiếp cận thứ ba mới thực tế, xem xét cả việc đe dọa và chiếm đóng, biết phải trái và nhìn nhận đúng lịch sử Israel. Tôi sinh năm 1957 tại thành phố đại học Rehovot. Cha tôi là nhà khoa học, mẹ là nghệ sĩ, và trong số những người sáng lập ra tổ chức Zion(9) có các cụ của tôi. Giống như phần lớn thanh niên Israel, tôi đi nghĩa vụ quân sự ở tuổi 18, tham gia lực lượng nhảy dù, và khi hoàn thành nghĩa vụ, tôi học triết tại Đại học Hebrew ở Jerusalem, nơi tôi tham gia phong trào hòa bình và sau đó là phong trào nhân quyến. Từ năm 1995, tôi viết cho tờ báo tự do hàng đầu của Israel, Haaretz. Mặc dù tôi luôn ủng hộ hòa bình và ủng hộ giải pháp hai quốc gia,(10) nhưng tôi dần nhận thấy những khiếm khuyết và thành kiến của phong trào hòa bình. Hiểu biết của tôi về sự chiếm đóng và đe dọa khiến tiếng nói của tôi có phần khác với mọi người trên truyền thông. Là người phụ trách chuyên mục, tôi thách thức các giáo điều của cả cánh hữu lẫn cánh tả. Tôi biết rằng không có câu trả lời đơn giản cho Trung Đông, và cũng không có giải pháp tình thế cho mâu thuẫn Israel-Palestine. Tôi nhận ra tình huống của Israel là vô cùng phức tạp, có lẽ thậm chí còn bi thương nữa. Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, Israel đã hành động hiệu quả. Khủng bố lắng xuống, công nghệ cao bùng nổ, cuộc sống hằng ngày sôi động. Về mặt kinh tế, Israel đã trở thành mãnh hổ. Để tồn tại, đất nước này đã trở nên mạnh mẽ, đầy sinh lực, sáng tạo và thích hưởng thụ. Nhưng đằng sau ánh sáng rực rỡ của câu chuyện thành công phi thường, lo lắng đang dâng trào. Mọi người bắt đầu lên tiếng hỏi những câu mà suốt đời tôi đã luôn tự hỏi. Giờ không chỉ là chính trị phe tả hay phe hữu nữa. Cũng không chỉ là thế tục đối lập với tôn giáo. Có điều gì đó sâu xa hơn đã xảy ra. Nhiều người Israel không an lòng với Israel mới nổi. Họ tự hỏi liệu mình còn thuộc về quốc gia Do Thái nữa hay không. Họ đã mất niềm tin vào khả năng chịu đựng của Israel. Một số đã lấy hộ chiếu nước ngoài; một số gửi con đi du học. Tầng lớp thượng lưu nhìn thấy một lựa chọn khác bên cạnh lựa chọn Israel. Dù phần lớn người Israel vẫn yêu quê hương và mừng vui với phúc lành của dân tộc, nhưng nhiều người đã mất niềm tin vững chắc vào tương lai đất nước. Khi thập niên thứ hai của thế kỷ 21 bắt đầu, có năm vấn đề khác nhau gây hoài nghi về khát vọng sống tham lam của Israel: quan niệm rằng xung đột Israel-Palestine có thể không giải quyết được trong tương lai gần; lo ngại rằng quyền bá chủ chiến lược khu vực của Israel bị thách thức; e sợ rằng tính hợp pháp của nhà nước Do Thái bị xói mòn; quan ngại rằng xã hội Israel vốn đã biến đổi sâu sắc giờ lại bị phân chia và phân cực, nền tảng dân chủ-tự do của đất nước đang sụp đổ; và nhận thức rằng chính phủ yếu kém của Israel không thể giải quyết triệt để những thách thức nghiêm trọng như chiếm đóng và rạn nứt xã hội. Mỗi vấn đề ở đây đều ẩn chứa một mối đe dọa đáng kể, nhưng ảnh hưởng chung của chúng còn gây ra nỗi sợ hãi khủng khiếp hơn. Nếu hòa bình không khả thi, liệu chúng tôi có chống lại được một xung đột kéo dài một thế hệ khi ưu thế về chiến lược bị đe đọa, tính hợp pháp đang mất dần, bản sắc dần chủ đang rạn nứt, và những mâu thuẫn nội bộ đang chia rẽ chúng tôi? Trong khi vẫn đổi mới, quyến rũ và mạnh mẽ, Israel đã trở thành một quốc gia bị nghi ngờ. Cảm giác lo lắng cứ lơ lửng trên mảnh đất này, như cái bóng lớn của một ngọn núi lửa sắp phun trào. Đây chính là lý do tôi dấn thân vào chuyến đi này. Sáu mươi lăm năm sau khi thành lập, Israel quay lại những câu hỏi chủ chốt. Một trăm lẻ sáu năm sau khi ra đời, chủ nghĩa Zion giờ dang đối mặt với những mâu thuẫn cơ bản của mình. Thách thức giờ đây vượt xa vấn đề chiếm đóng, và củng sâu sắc hơn hẳn vấn đề hòa bình. Điều mà tất cả chúng tôi phải đối mặt là câu hỏi về ba khía cạnh của Israel: Tại sao? Là gì? Sẽ thế nào? Câu hỏi này về Israel không thể trả lời bằng các bài bút chiến. Vì rất phức tạp, nên nó cũng không tự trở thành vấn đề để tranh cãi và phản đề được. Cách giải quyết duy nhất là kể câu chuyện về Israel. Đây chính là điều tôi cố gắng làm trong cuốn sách này. Theo cách riêng và qua lăng kính chủ quan, tôi đã cố gắng nhìn nhận sự tồn tại của chúng tôi trong một tổng thể, theo cách tôi hiểu. Cuốn sách này là cuộc phiêu lưu cá nhân của một người Israel, bối rối trước biến cố lịch sử ngập tràn trên quê hương mình. Đây là một chuyến đi trong không gian và thời gian của một người sinh ra tại Israel, nhằm khám phá câu chuyện rộng lớn của dân tộc mình. Thông qua lịch sử gia đình, lịch sử cá nhân, và các bài phỏng vấn sâu, tôi sẽ cố gắng nói đến câu chuyện rộng hơn và câu hỏi sâu hơn về Israel. Điều gì đã xảy ra trên quê hương tôi trong hơn một thế kỷ, đưa chúng tôi đến nơi mình đang sống? Chúng tôi đã đạt được điều gì ở đây và vấp phải sai lầm nào ở đây, và chúng tôi đang hướng tới đâu? Cảm giác lo âu sâu sắc của tôi có cơ sở không? Nhà nước Do Thái có thật sự lâm nguy không? Có phải người Do Thái chúng tôi đang mắc kẹt trong một bi kịch tuyệt vọng, hay chúng tôi vẫn có thể hồi sinh, tự cứu mình, và lấy lại được đất đai mà chúng tôi vô cùng yêu quý? (1) Atlantis là hòn đảo hư cấu được nói đến trong tác phẩm của triết gia Hy Lạp cổ đại Plato viết khoảng năm 360 trước công nguyên (TCN). Mặc dù sống trong một xã hội văn minh, nhưng con người ở đây trở nên tham lam, nhỏ nhen, suy đồi về đạo đức, nên các vị thần đã nổi giận, dùng lửa và động đất nhấn chìm Atlantis xuống biến sâu. Lưu ý: Toàn bộ chú thích trong sách là của người dịch, trừ các chú thích ghi rõ (BT) là của người biên tập. (2) Chiến tranh diễn ra từ 5-10/6/1967 giữa Israel và các quốc gia Ả-rập lân cận là Ai Cập, Jordan, và Syria. Israel chiến thắng áp đảo (nhờ yếu tố bất ngờ, kế hoạch chiến đấu sáng tạo) giành quyến kiểm soát Dải Gaza, bán đảo Sinai của Ai Cập, Bờ Lây và Đông Jerusalem của Jordan và Cao nguyên Golan của Syria. (3) Còn gọi là Ngày chuộc tội/Ngày lễ sám hối. Là ngày lễ thiêng liêng nhất trong năm của Do Thái giáo. Đế chuộc tội và ăn năn, người Do Thái dành 25 giờ ăn chay, chuyên tâm cầu nguyện và thường xuyên tham gia các nghi lễ ở giáo đường Do Thái. (4) 500 feet tương đương 152,4 m. (5) Trong lịch sử người Do Thái, Ngôi đền Thứ nhất do vua Solomon xây dựng vào khoảng thế kỷ 10 TCN, sau đó bị phá hỏng vào khoảng năm 587 TCN. Ngôi đền thứ hai được xây dựng vào năm 516 TCN và lai bị phá hỏng vào khoảng năm 70 sau CN. Ngôi đền Thứ ba chưa dược xây dựng. Nó vẫn nằm trong mong ước của người Do Thái. (BT) (6) Pompeii, thành phố La Mã cổ đại bị phá hủy và chôn vùi hoàn toan khi núi lửa Vesuvius phun trào năm 79, tình cờ được khám phá năm 1748 (sau 1.700 năm) nham thạch đã xóa sạch mọi sự sống, hơn 2.000 người chết, hơi nóng khủng khiếp khiến cơ thế họ ngừng hoạt động gần như ngay lập tức. (7) Viết tắt của “Israel Defense Forces”. (8) Palestine Liberation Organization, thành lập năm 1964 Hội nghị Thượng đỉnh Ả-rập năm 1974 công nhận PLO là “đại diện hợp pháp và duy nhất của nhân dân Palestine.” Năm 1993, PLO đã công nhận nhà nước Israel và Israel đã công nhận PLO là đại diện hợp pháp của nhân dân Palestine. (9) Zion là một phong trào chính trị ủng hộ sự phát triển nhà nước Israel; đây cũng là tên ngọn đồi phía đông thành phố Jerusalem, từng là trung tâm văn hóa-chính trị cúa người Do Thái dưới thời Vua David. Sau khi Vương quốc Judea thất thủ năm 70, Zion trở thành biểu tượng cho hy vọng phục quốc của người Do Thái. (10) Giải pháp cho cuộc xung đột Israel-Palestine, thành lập hai nhà nước của hai dân tộc: nhà nước Palestine độc lập tồn tại cùng nhả nước Israel ở bờ Tây sông Jordan.   Mời các bạn đón đọc Miền Đất Hứa Của Tôi- Khải Hoàn Và Bi Kịch Của Israel của tác giả Ari Shavit.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Số Đen
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Số Đen của tác giả Camilo José Cela & Trương Võ Anh Giang (dịch). Số đen là câu chuyện về cuộc đời của anh nông dân người Tây Ban Nha là Pascual Duarte sinh ra trong một thế giới khắc nghiệt đầy trụy lạc, thù hận và đói nghèo. Câu chuyện được Pascual kể lại từ trong nhà tù nơi anh bị giam giữ chờ ngày hành quyết vì những tội giết người mà anh đã thực hiện trong suốt cuộc đời mình. Mặc dù đã có những động lực độc ác và dã man, Pascual vẫn giữ lại được cái nhìn đầy thơ trẻ về thế giới và niềm khao khát cháy bỏng để hiểu được số phận nào đã đưa anh vào con đường đầy máu. *** Thỉnh thoảng, không đều đặn và như thể bất ngờ, đã xuất hiện những cuốn tiểu thuyết mà tầm quan trọng không chỉ ở phẩm chất văn chương của tác phẩm, nhưng còn do tính độc đáo của đề tài và tính mới mẻ trong hình thức những tác phẩm đó. Như vậy, những tác phẩm này đã tạo một ảnh hưởng đáng kể đến một số đông các nhà văn, sau đó ảnh hưởng đến thị hiếu của quần chúng, và về lâu về dài cuối cùng tác phẩm đã có tác động làm thay đổi đường hướng của những trào lưu văn chương của cả một thời kỳ. Sẽ có những độc giả sành sỏi cho rằng nói như vậy, tôi muốn ám chỉ tới những tác phẩm rất khác biệt nhau về kỹ thuật cấu thành tác phẩm, về quan niệm cũng như về số độc giả đặc trưng của những tác phẩm đó vào thời điểm chúng xuất hiện…   Tuy nhiên, đôi khi vì những tình huống lịch sử, chính trị hoặc kinh tế, một số xứ sở tạm thời buộc phải đứng bên lề dòng tiến hóa không thể cưỡng lại được của toàn nhân loại. Bấy giờ, đời sống văn hóa của những xứ sở ấy phải cam chịu một thứ thoái hóa làm tê liệt trong một mức độ nào đó những biểu hiện tinh thần của đời sống văn hóa của nhân loại. Nhưng dẫu vậy, cuộc sống vẫn tiếp diễn, và một người quan sát chuyên chú và kiên trì sẽ chẳng hề chậm trễ để nhận ra những trăn trở dù yếu ớt, những vận động đầu tiên nhằm báo hiệu sự phục hưng của một nền văn hóa, một nền nghệ thuật và một nền văn học mà tiến trình đã bị ngăn chặn trong một thời gian bởi những tình huống bên ngoài…   Trong lĩnh vực tinh thần, những chấn động của cuộc nội chiến đã để lại những hậu quả bị đát, không thể cứu vãn được. Khi cuộc nội chiến kết thúc, một số khuôn mặt đáng kể nhất của nền văn hóa Tây Ban Nha biến mất…, hầu như trong toàn đất nước Tây Ban Nha không còn lấy một nhà trí thức có tầm cỡ. Đa số những nhà trí thức đã chọn lựa cuộc sống lưu vong, và thế hệ những nhà văn mới ở Tây Ban Nha - những người lẽ ra là bậc thầy của họ hoặc đã chết hoặc vắng mặt - bị bỏ mặc cho số phận… - Cela là một khuôn mặt lớn đầu tiên nổi lên sau cuộc nội chiến, và trong không khí nghèo nàn của văn học Tây Ban Nha, những tác phẩm của ông đã gây được tiếng vang lớn, không chỉ vì ông làm chủ được ngôn ngữ - điều này được chứng tỏ qua các tác phẩm đó - mà còn vì những tác phẩm của Cela đã thể hiện qua nội dung cũng như hình thức một nét độc đáo tương đối, nét độc đáo làm kinh ngạc đa số độc giả của ông, bởi họ tuyệt đối không biết những đổi mới trong nền tiểu thuyết thế giới, điều này tự nhiên thôi, vì sự cô lập của Tây Ban Nha đối với cộng đồng quốc tế trong hơn mười năm sau cuộc nội chiến, và còn vì những khó khăn mà thể chế chính trị ở Tây Ban Nha đã gây ra cho sự phát triển tinh thần ở đất nước này - một cơ chế chính trị mang màu sắc văn hóa khá đặc biệt và thù địch với sự tiến bộ, đã hoành hành bên trong xứ sở Tây Ban Nha.   - Thực vậy, với Số đen, công lao của Cela là gấp đôi: trước hết vì ý muốn lồng những tác phẩm của ông vào bối cảnh của tinh thần Âu châu mà không khước từ bất kỳ một nét đặc trưng nào của Tây Ban Nha… Qua nhân vật Pascual Duarte, Cela trình bày một quan điểm duy sinh hầu như thuần túy sinh học, nối kết hơn nữa với cái “hành xử” Tây Ban Nha nguyên sơ nhất. Trong mọi trường hợp, trong toàn cảnh văn hóa - và cả chính trị - của Tây Ban nha, tác phẩm Số đen đã giữ vai trò của sự truyền máu, đã vạch một con đường cho những kinh nghiệm của tương lai…   J.M. CASTELLET  *** Nhà văn Tây Ban Nha Camilo José Cela sinh trong một gia đình thượng lưu bản sứ, học nghành y nhưng thường xuyên nghe các bài giảng văn tại khoa Triết Đại học Madrid. Những năm 30, Camilo José Cela tham gia nội chiến Tây Ban Nha nhưng bị lao phổi nặng. Khỏi bệnh ông chuyển sang học Luật ở Madrid, và bắt đầu viết văn.  Năm 1934, ông viết bài thơ đầu tiên Đám tang tôi và từ đó cái chết là đề tài ám ảnh trong các tác phẩm của ông; Năm 1942, ông xuất bản cuốn tiểu thuyếtGia đình Pascual Duarte và nhanh chóng trở lên nổi tiếng; đuợc đánh giá là cuốn tiểu thuyết hay nhất Tây Ban Nha kể từ thời Don  Kihote. Camilo José Cela sáng tác rất nhiều thể loại: Tiểu thuyết, truyện dài, truyện ngắn, kí, kịch, thơ, truyện dịch, Ông còn soạn Từ điển bí mật, 11 tập, gồm những từ vựng kiêng húy, bị cấm đoán, tiếng lóng đường phố…, và Bách khoa tình dục, song tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tiểu thuyết Tổ ongkể về cuộc sống của dân chúng ở thủ đô Madrid sau khi kết thúc nội chiến. Năm 1983 ông cho ra đời tiểu thuyết được coi là “Trào phúng đen” – Bản Mazurca cho hai người chết. Năm 1989, Camilo José Cela là nhà văn đầu tiên của Tây Ban Nha được tặng giải Nobel văn học cho những tác phẩm được viết theo lối văn súc tích, cô đọng thể hiện lòng trắc ẩn vô hạn đối với những phận người cay đắng và hoang mang trong cuộc chiến phi lí. Ông được coi là nhà văn nổi bật nhất của Tây Ban Nha sau chiến tranh.  *** Tóm tắt Tiểu thuyết Số đen kể về câu chuyện của anh nông dân người Tây Ban Nha là Pascual Duarte sinh ra trong một thế giới khắc nghiệt đầy trụy lạc, thù hận và đói nghèo. Câu chuyện được Pascual kể lại từ trong nhà tù nơi anh bị giam giữ chờ ngày hành quyết vì những tội giết người mà anh đã thực hiện trong suốt cuộc đời mình. Mặc dù đã có những động lực độc ác và dã man, Pascual vẫn giữ lại được cái nhìn đầy thơ trẻ về thế giới và niềm khao khát cháy bỏng để hiểu được số phận nào đã đưa anh vào con đường đầy máu. Pascual Duarte sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở Tây Ban Nha. Anh sớm mồ côi cha và phải sống với người mẹ tàn nhẫn, người luôn đánh đập và hành hạ anh. Pascual lớn lên trong sự căm thù và bất mãn, và anh sớm trở thành một kẻ hung bạo, sẵn sàng dùng vũ lực để giải quyết mọi vấn đề. Pascual có một mối tình với Lola, một cô gái xinh đẹp nhưng lại bị bệnh tâm thần. Pascual yêu Lola tha thiết, nhưng anh cũng biết rằng mối quan hệ của họ là không thể. Lola đã giết chết mẹ mình, và Pascual bị buộc phải giết chết Lola để bảo vệ chính mình. Pascual tiếp tục giết người, lần lượt là người yêu cũ, cha dượng và một người bạn. Mỗi lần giết người, Pascual lại càng trở nên xa cách với thế giới xung quanh. Anh không còn biết phân biệt đúng sai, thiện ác. Cuối cùng, Pascual bị bắt và bị kết án tử hình. Anh bị hành quyết trong nhà tù, trong sự hả hê của đám đông. Review Số đen là một tiểu thuyết mang tính hiện thực tàn khốc, phản ánh một phần thực trạng xã hội Tây Ban Nha thời bấy giờ. Tiểu thuyết cũng là một tác phẩm tâm lý sâu sắc, khám phá bản chất của con người và những động lực dẫn đến tội ác. Nhân vật Pascual Duarte là một nhân vật phức tạp và đầy mâu thuẫn. Anh là một người tốt bụng, lương thiện, nhưng cũng là một kẻ hung bạo, tàn ác. Pascual là nạn nhân của hoàn cảnh, nhưng cũng là người tự đẩy mình vào con đường tội lỗi. Pascual là một nhân vật điển hình cho kiểu nhân vật anh hùng bi kịch của văn học thế kỷ 20. Anh là một kẻ thất bại, nhưng cũng là một kẻ đáng thương. Pascual là một hiện thân của những bi kịch của con người trong cuộc sống. Tác phẩm đã đạt được nhiều thành công và được đánh giá là một trong những tác phẩm kinh điển của văn học Tây Ban Nha. Điểm cộng Nội dung hấp dẫn, lôi cuốn Nhân vật phức tạp, đầy mâu thuẫn Ngôn ngữ mộc mạc, chân thực Đánh giá chung 5/5 sao Một số ý kiến đánh giá khác về tiểu thuyết Số đen "Số đen là một tiểu thuyết xuất sắc. Tiểu thuyết mang đến cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc về bản chất của con người và những động lực dẫn đến tội ác." "Số đen là một tiểu thuyết bi kịch. Tiểu thuyết kể về câu chuyện của một con người bị đẩy vào con đường tội lỗi bởi hoàn cảnh và chính bản thân mình." "Số đen là một tiểu thuyết đáng đọc. Tiểu thuyết mang đến cho người đọc những cảm xúc mạnh mẽ và những suy ngẫm sâu sắc." Mời các bạn mượn đọc sách Số Đen của tác giả Camilo José Cela & Trương Võ Anh Giang (dịch).
Anh Chồng Của Vợ Tôi
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Anh Chồng Của Vợ Tôi của tác giả Luigi Pirandello & Quỳnh Dung (dịch). Luigi Pirandello (1867 - 1936) là một trong những nhà văn đặc sắc nhất của phương Tây nửa đầu thế kỷ này. 15 cuốn sách tập hợp những truyện ngắn và truyện vừa đã nhấc ông lên vị trí cây bút số một của đất nước Italia hiện đại. Tiếp đó những vở kịch độc đáo đã đem vinh quang cho ông trên khắp châu Âu. Đến năm 1934 giải thưởng Nôben về văn học lại đưa tên tuổi ông ra toàn thế giới. Mỗi khi bàn đến văn học Italia hiện đại, người ta không thể bỏ qua Pirandello. Ảnh hưởng của ông vô cùng to lớn. Có thể nói toàn bộ nền văn học Italia thế kỷ 20 đã phát triển dưới bóng của cây đại thụ này. Tuy nhiên văn chương Pirandello không dễ mà hiểu được ngay như ở nhiều cây bút cùng thời với ông. Sự đánh giá của giới phê bình văn học, của công chúng rộng rãi đối với ông cũng lại hết sức khác nhau. Xưa nay người ta thường xếp ông vào dòng hiện thực phê phán. Nhà sáng lập Đảng Cộng sản và lãnh tụ của giai cấp công nhân Italia Antôniô Gramsi (1891 - 1937) đã viết vào năm 1917 những dòng nhận xét như sau: “Những vở kịch của ông (củaPirandello - N.D) chính là những trái lựu đạn tạo nên tiếng nổ trong trí óc người xem, phá hủy những ý nghĩ và tình cảm đê hèn”. Muốn hiểu đúng nhà văn độc đáo này, chúng ta nên biết qua về tình hình văn học và các trào lưu của Tổ quốc ông thời cuối thế kỷ 19 đầu 20. Italia bước vào giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa sớm hơn các nước, nhưng đến thời kỳ này lại bị một loạt nước châu Âu khác vượt lên trên, đẩy Italia xuống hàng những quốc gia lạc hậu và trì trệ, do những giáo lý của Tín ngưỡng cơ đốc còn quá mạnh ở bán đảo này. Nền văn hóa Italia nổi lên rực rỡ vào những thế kỷ 15 - 18 thì nay mờ nhạt. Cuối thế kỷ 19 văn học Italia bắt đầu khởi sắc. Xuất hiện trào lưu “duy thực”. Các nhà văn thuộc dòng văn học này hướng ngòi bút vào việc miêu tả cuộc sống tăm tối, đơn điệu, bất hạnh của dân nghèo nông thôn và thành thị theo kiểu tự nhiên chủ nghĩa. Họ khai thác những sự kiện tủn mủn trong cuộc đời, thậm chí những tin vặt vãnh trên báo chí. Khi mới cầm bút, Pirandello chịu ảnh hưởng của dòng văn học này. Nhưng chỉ ít lâu sau, không thỏa mãn với cương lĩnh của nó, ông tách khỏi và đề ra hướng đi khác mà ông mệnh danh là chủ nghĩa “duy hài” và viết cả một cuốn sách để trình bày quan điểm của mình. Ông cho rằng dòng “duy thực” mới thể hiện vẻ ngoài của cuộc sống, chưa khám phá được bản chất. Nhà văn cần sử dụng thủ pháp phóng đại hài hước và miêu tả cuộc sống dưới hình dạng một tấn hài kịch đáng buồn. Những truyện của Pirandellochế giễu sâu cay cả nhưng sự vô lý, bất công trong xã hội, đặc biệt những định kiến tôn giáo hạn chế quyền được hưởng hạnh phúc của mỗi con người  Dưới ngòi bút hài hước của ông, các nhân vật hiện ra vừa đáng thương vừa đáng giận. Một cô gái hy sinh gần hết cuộc đời, tận tụy chăm lo cho đứa em trai, mãi đến khi em đã thành đạt, mới nhận một mối tình. Nhưng do những định kiến tôn giáo, cô đã tự dằn vặt mình và chịu một cái chết bi thảm. (Chiếc khăn choàng đen). Một ông chồng sắp chết rồi vẫn băn khoăn khi mình chết vợ sẽ lấy ai và đau khổ với ý nghĩ kẻ cướp quyền của mình sẽ là ông giáo dạy nhạc (Anh chồng của vợ tôi). Một giáo viên cần cù tận tụy suốt đời chỉ biết nhẫn nhục chịu đựng mọi tai họa, không dám phản kháng bao giờ. (Thôi cũng được). Một thanh niên thông minh, tài giỏi, đẹp trai, trung thực chỉ vì sợ hãi dư luận độc miệng mà trở thành kẻ vô ơn đối với thầy giáo đồng thời là ân nhân của mình. (Hãy suy nghĩ đi, Giacôminô!” v.v… Pirandello bao giờ cũng đặt nhân vật của ông vào những tình huống oái ăm, hết sức khác thường, nhằm làm nổi bật hiệu quả tương phản và hài hước. Ông ít khi miêu tả một vài sự việc mà thường nêu cả một số phận, một cuộc đời. Chính vì vậy mà ông hay nói đến cái chết, thích miêu tả quãng đời cuối cùng của nhân vật, như để người đọc thấy rõ hơn đâu là ý nghĩa cuộc sống, sự khờ dại của những kẻ đặt thứ gì đó cao hơn hạnh phúc trần tục. Có những cái chết do dại dột, do bị cầm tù bởi những định kiến tôn giáo, nhưng không phải không có những người, sắp rời khỏi cõi đời đã nhận ra được sự thật và đã được hưởng hạnh phúc trong thời gian cuối cùng. Đó là Ađriana, một phụ nữ nhẫn nhục, cam chịu, theo đúng mọi quy tắc đạo đức nghiệt ngã nơi tỉnh nhỏ, đến lúc bị bệnh nặng, biết không thể qua khỏi, mới nhận ra được vẻ đẹp của thế giới, mới dám tự cho phép mình hưởng tình yêu, mà lại là một tình yêu tuyệt đẹp tràn đầy hạnh phúc và niềm cuồng nhiệt (Chuyến viễn du). Hoặc một cô gái xinh đẹp, mơ mộng, giàu có, sau khi chồng chưa cưới bị tai nạn chết, nhất quyết giữ “chung thủy” với người đã khuất, tự nguyện giam mình trong ngôi biệt thự tuyệt đẹp mà người yêu đã tậu dành cho cuộc sống của họ sau này. Cô thích thú “phóng đại” nỗi đau khổ của mình, cảm thấy trong hành động điên rồ ấy một vẻ “cao thượng”! May thay một họa sĩ khôn khéo và thực dụng đã thức tỉnh cô ra khỏi mơ tưởng hão huyền kia, trở về với cuộc đời vốn tươi đẹp (Nữ thần sống khỏa thân). Trong truyện vừa dẫn, tác giả chế giễu cả quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” của anh bạn nhân vật chính, cũng là một họa sĩ điêu khắc. Đây là một thí dụ rõ ràng, chứng tỏ những ai bảoPirandello bi quan là không đúng. Ông tin cuộc đời là đẹp, tin rằng ai tỉnh táo và sáng suốt sẽ được hưởng bao niềm vui của cuộc sống. Cách nhìn đời của Pirandello tràn đầy nhân đạo, và rất gần với cách nhìn đời của Sêkhốp, Lỗ Tấn, Brét. Cả bốn văn hào này cũng như nhiều nhà văn nhân đạo khác luôn dùng ngòi bút kêu gọi con người nâng cao hiểu biết, tự giải phóng bản thân mình ra khỏi xích xiềng của những định kiến tôn giáo tai hại, hoặc nói như Sêkhốp, hãy “nặn hết chất nô lệ còn sót lại trong cơ thể mỗi chúng ta, nặn từng giọt, từng giọt”. Chất nô lệ này tích tụ trong đầu óc mỗi chúng ta, do quá lâu phải sống trong xiềng xích của những giáo điều hủ lậu, những huyền thoại bịp bợm và nguy hiểm về tình yêu mơ mộng, về nghệ thuật cao siêu vân vân và vân vân, những thứ cản trở con người phát huy hết năng lực của bản thân, đồng thời hưởng đầy đủ những niềm vui lành mạnh và hợp lý mà cuộc đời ban cho. Pirandello chế giễu cả thói sùng bái sự thật. Sự thật đáng quý nhưng phải được sử dụng hợp lý. Lời nói thật không đúng chỗ có thể dẫn đến những tai họa khôn lường. Ông già Phiorinanxi cả đời thờ phụng sự công bằng. Mỗi lần nhìn thấy hiện tượng gì không hợp lý, ông rất khổ tâm, nhưng với bản chất nhút nhát ông không dám nói ra. Một lần ông quyết định phải tố cáo một “sự thật” xấu xa. Ông chuẩn bị cực kỳ chu đáo, tỷ mỷ để có đủ sức thuyết phục với người sẽ nghe. Không ngờ, người nghe ông tố giác lại đã biết cái sự thật ấy rồi, thậm chí còn biết rõ ràng, và đầy đủ hơn ông nhiều! (Cái khuy áo khoác). Hoặc trong truyện ngắn khác, việc nói ra sự thật không phải do tôn thờ nó, mà là do ngây thơ. Bác Tarara chất phác kia đã phải trả giá cho điều bác nói toạc ra bằng 13 năm tù! (Điều nói trắng ra). Văn hào Sếchxpia đã có lần viết, cuộc đời là một bi kịch với những ai sống bằng trái tim, là một hài kịch với những ai sống bằng khối óc! Pirandello là người có trí tuệ nên ông nhìn đời bằng cặp mắt hài hước. Nhưng ông cũng sống bằng cả trái tim, cho nên ông đau xót cho những con người do dại dột, u mê nên phải chịu đau khổ. Pirandello là nghệ sĩ, không phải nhà lý luận. Do đấy đọc tác phẩm, chúng ta dễ hiểu ông hơn khi ta đọc lý luận của ông. Bởi một lẽ đơn giản là nhà văn, nghệ sĩ rất ít khi đánh giá được chính xác và thật khách quan những sáng tạo của bản thân họ. Trong cuốn Chủ nghĩa duy hài ông có trình bày quan điểm và phương châm của mình. Ông tiếp nhận khái niệm về “mặt nạ” của dòng “duy thực” nhưng phát triển thêm khá nhiều. Sống trong xã hội, mỗi con người đều mang một mặt nạ. Công việc nhà văn là lật cái mặt nạ ấy ra để người đọc thấy được bản chất của nhân vật. Ngay cái gọi là bản chất ấy cũng không nhất quán, mỗi lúc mỗi khác, bởi vì con người là một hiện tượng phức tạp, chịu tác động cùng một lúc của nhiều nhân tố, trước hết là lý trí và tình cảm, mà hai thứ này ở mỗi con người lại khác nhau và liên tiếp xung đột với nhau. Pirandello xứng đáng được xếp vào loại nhà văn triết gia. Tác phẩm của ông bao giờ cũng gợi lên những suy nghĩ về cuộc đời và con người. Tính triết lý đậm đà nhất, sâu sắc và cũng xót xa nhất nằm trong truyện ngắn Hơi thổi, có thể coi là viên ngọc sáng chói trong toàn bộ sáng tác của ông. Truyện được viết bằng giọng điệu đùa cợt, nhưng nâng lên đến mức truyền thuyết. Đến truyện này, chúng ta thấy Pirandello không còn rơi rớt chút vết tích nào của phương pháp “duy thực” mà ông chịu ảnh hưởng trong thời non trẻ. Nhân vật chính trong truyện có được một phép lạ: chỉ cần thổi phù nhẹ một cái cũng đủ khiến một con người phải chết. Anh ta cứ thổi, và người xung quanh cứ chết. Chẳng luật pháp nào kết án anh ta được. Và bản thân anh ta cũng chẳng áy náy gì, bởi vì “mình có làm gì đâu? Chỉ thổi phù một cái thôi mà! Bao nhiêu người vẫn thường thổi phù một cái nhẹ nhàng như thế!”. Phải chăng tác giả muốn nói rằng, trên đời có những người chỉ làm vài động tác rất đơn giản, nói một câu, giơ tay một cái, luật pháp không thể căn cứ vào đó mà trừng trị, bản thân họ cũng chẳng băn khoăn, chẳng thấy lương tâm cắn rứt gì hết, nhưng câu nói ấy, cái giơ tay ấy lại gây ra chết chóc cho bao nhiêu kẻ khác! Truyện này ông viết vào những năm 30 khi nạn phát xít đã xuất hiện và bắt đầu đe dọa nhân loại, như một lời nhắn nhủ trách nhiệm của mỗi chúng ta… Rất đáng tiếc trong tập sách này chúng tôi chưa giới thiệu được một kịch bản nào của Pirandello. Trong sáng tác của ông, những vở kịch chiếm phần quan trọng, và được chú ý nhiều hơn. Những kiệt tác như Hăngri IV, Sáu nhân vật đi tìm tác giả… đã trở thành kinh điển trong kho tàng kịch bản thế giới. Vở Sáu nhân vật… trong những thập kỷ 20 và 30 của thế kỷ này đã được hầu hết những Đoàn sân khấu nổi tiếng nhất của phương Tây dàn dựng và biểu diễn. Những năm đó tên tuổi củaPirandello đặc biệt lừng lẫy. Cũng chính thành công lớn lao này đã quyết định việc ông được tặng giải Nôben về văn học ở giữa thập kỷ 30. Cuối cùng xin được phép nói đôi chút về bản dịch.Pirandello chuyên viết bằng thổ ngữ miền Nam nước Italia. Ngay bản in bằng tiếng Italia cũng chỉ là bản dịch. Bên cạnh đó, văn phong của ông rất dân dã và khó truyền đạt sang một thứ tiếng khác. Chúng tôi đã cố gắng rất nhiều để bản dịch giữ được phong vị độc đáo của ngòi bút tác giả. Nhưng khả năng có hạn, chúng tôi vẫn còn thấy bản dịch này còn xa mới đạt tới mục tiêu chúng tôi tự đề ra. Rất mong bạn đọc lượng thứ.   NGƯỜI DỊCH *** Tập sách này gồm có: Tấm khăn choàng màu đen Điều không nói trắng ra Chuyến viễn du Chiếc khuy áo khoác Nữ thần sống khỏa thân Hãy suy nghĩ đi, giacômô! Đêm tân hôn Thôi cũng được! Anh chồng của vợ tôi Người đang sống và người đã chết Con rùa Hơi thổi   *** Tóm tắt Tiểu thuyết Anh Chồng Của Vợ Tôi kể về câu chuyện của một người đàn ông tên là Mattia Pascal, người đã sống một cuộc sống bình thường và hạnh phúc với vợ và con trai. Tuy nhiên, một ngày nọ, Mattia vô tình phát hiện ra rằng anh ta đã được tuyên bố là đã chết trong một vụ tai nạn tàu hỏa. Mattia quyết định tận dụng cơ hội này để bắt đầu một cuộc sống mới. Anh lấy một cái tên mới, gia nhập một gia đình mới và bắt đầu một công việc mới. Tuy nhiên, Mattia sớm nhận ra rằng việc sống một cuộc sống giả tạo là không thể. Anh bắt đầu cảm thấy cô đơn và lạc lõng, và anh bắt đầu nhớ về gia đình và bạn bè của mình. Cuối cùng, Mattia quyết định quay trở lại cuộc sống cũ của mình. Tuy nhiên, anh nhận ra rằng mọi thứ đã thay đổi. Vợ anh đã tái hôn và con trai anh đã quên mất anh. Mattia đau đớn nhận ra rằng anh đã mất tất cả những gì anh yêu thương. Review Anh Chồng Của Vợ Tôi là một tiểu thuyết có nội dung hấp dẫn, lôi cuốn. Tiểu thuyết khám phá các chủ đề về bản sắc, nhận thức và thực tại. Pirandello sử dụng các kỹ thuật như hiện thực, chủ nghĩa hiện sinh và phi lý để khám phá các chủ đề này. Ông cho thấy cách nhận thức của chúng ta về bản thân và thế giới có thể khác với thực tế. Mattia Pascal là một nhân vật phức tạp và hấp dẫn. Anh là một người đàn ông tốt bụng và lương thiện, nhưng anh cũng là một người dễ bị cám dỗ. Mattia bị thu hút bởi ý tưởng bắt đầu một cuộc sống mới, nhưng anh cũng bị ám ảnh bởi quá khứ của mình. Pirandello đã tạo ra một câu chuyện đầy kịch tính và cảm động. Anh Chồng Của Vợ Tôi là một tác phẩm kinh điển của văn học thế giới. Điểm cộng Nội dung hấp dẫn, lôi cuốn Khám phá các chủ đề về bản sắc, nhận thức và thực tại Nhân vật phức tạp và hấp dẫn Điểm trừ Một số tình tiết có thể hơi phi lý Đánh giá chung 4/5 sao Một số ý kiến đánh giá khác về tiểu thuyết Anh Chồng Của Vợ Tôi "Anh Chồng Của Vợ Tôi là một tiểu thuyết tuyệt vời. Tiểu thuyết khám phá các chủ đề sâu sắc về bản sắc, nhận thức và thực tại. Tôi rất ấn tượng với cách Pirandello đã sử dụng các kỹ thuật hiện thực, chủ nghĩa hiện sinh và phi lý để khám phá các chủ đề này."  "Anh Chồng Của Vợ Tôi là một tiểu thuyết phức tạp và cảm động. Nhân vật Mattia Pascal là một nhân vật đáng nhớ. Tôi rất thích cách Pirandello đã khám phá các mâu thuẫn nội tâm của Mattia." "Anh Chồng Của Vợ Tôi là một tiểu thuyết có thể gây khó hiểu cho một số người đọc. Tuy nhiên, nếu bạn có thể tiếp cận được với các chủ đề của tiểu thuyết, bạn sẽ tìm thấy nó rất đáng đọc." Mời các bạn mượn đọc sách Anh Chồng Của Vợ Tôi của tác giả Luigi Pirandello & Quỳnh Dung (dịch).
Minh Nhãn Mai Hoa
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Minh Nhãn Mai Hoa của tác giả Mã Bá Dung & Tố Hinh (dịch). TRIỀU PHỤNG LÀ MỘT DANH TỪ CỔ. Từ này xuất hiện sớm nhất vào thời Hán, vốn là tên một chức quan trong triều. Tới thời Đường, Tống, triều phụng trở thành tên gọi của một loạt các chức quan cố định, như triều phụng sứ, triều phụng lang, triều phụng đại phu v.v... Cách gọi này về sau truyền cả vào dân gian, ví như thư sinh, chủ hiệu buôn# lớn, lái buôn có tiếng tăm, cũng được gọi là triều phụng. Từ sau triều Minh trở đi, triều phụng trở thành cách gọi tôn kính của chủ tiệm cầm đồ, phụ trách mua hàng ra giá, là nhân vật chủ chốt của cửa hàng. Ai đem đồ tới cầm, đều phải chắp tay chào một tiếng “Triều phụng”. Theo dòng thời đại, từ này cũng dần rơi vào quên lãng. Với phần lớn mọi người, đây đã trở thành một từ xa lạ mà bí ẩn. Nhưng đối với tôi, “Lão Triều Phụng” lại là một cái tên không sao quên được, nó thuộc về một con người. Kẻ này đã bán đứng Hứa Nhất Thành ông tôi, khiến ông phải mang tai mang tiếng, ngậm oan mà chết; chưa hết, lão còn giăng bẫy ép bố tôi là Hứa Hòa Bình đâm đầu xuống hồ tự tử; cài người lừa gạt tôi, giết chết bạn tôi. Cái tên này giống như một con quỷ dữ, đeo đẳng ba đời nhà họ Hứa chúng tôi. Lão một tay gây dựng nên mạng lưới làm giả đồ cổ trên toàn quốc, biến nó trở thành khối u ác tính cực lớn của thị trường văn vật Trung Quốc. Về tư, tôi có thù nhà phải tính với lão, về công, không trừ bỏ thế lực của Lão Triều Phụng, thị trường cổ vật sẽ lẫn lộn thật giả, không thể yên ổn. Lão Triều Phụng rốt cuộc là ai? Tôi nhất định phải vạch mặt lão, bằng không cả đời sẽ canh cánh không yên. Trong vụ việc Thanh minh thượng hà đồ, tôi và lão đã tạm thời liên kết lật tẩy âm mưu của Bách Thụy Liên. Đổi lại, Lão Triều Phụng nhận lời sẽ gặp mặt tôi, giải quyết mối ân oán mấy chục năm nay. Giờ đây, sự thật đã ở gần tôi trong gang tấc. *** Tóm tắt Minh Nhãn Mai Hoa là một cuốn tiểu thuyết trinh thám của tác giả Mã Bá Dung, kể về câu chuyện của Hứa Nhất Kiệt, một nhà nghiên cứu cổ vật trẻ tuổi, quyết tâm truy tìm tung tích của Lão Triều Phụng, kẻ đã gây ra nhiều tội ác cho gia đình anh. Hứa Nhất Kiệt là cháu nội của Hứa Nhất Thành, một nhà nghiên cứu cổ vật nổi tiếng, bị vu oan làm giả đồ cổ và phải tự sát. Cha của Hứa Nhất Kiệt, Hứa Hòa Bình, cũng bị Lão Triều Phụng hãm hại đến chết. Bản thân Hứa Nhất Kiệt cũng bị Lão Triều Phụng gài bẫy, khiến bạn anh bị giết chết. Với quyết tâm báo thù cho gia đình và trừng trị kẻ ác, Hứa Nhất Kiệt đã bắt đầu cuộc điều tra của mình. Anh đã lần theo những manh mối nhỏ bé, từng bước tìm ra danh tính và tung tích của Lão Triều Phụng. Lão Triều Phụng là một nhân vật bí ẩn và quyền lực. Ông ta là người đứng đầu một mạng lưới làm giả đồ cổ trên toàn quốc. Lão ta đã lợi dụng thị trường cổ vật để kiếm lời, đồng thời cũng tham gia vào nhiều hoạt động phi pháp khác. Hứa Nhất Kiệt đã phải đối mặt với nhiều khó khăn và nguy hiểm trong cuộc điều tra của mình. Anh phải đối đầu với những kẻ hung ác, những thủ đoạn lừa lọc và những âm mưu thâm độc. Tuy nhiên, với sự giúp đỡ của những người bạn, Hứa Nhất Kiệt đã dần tiến gần đến mục tiêu của mình. Review Minh Nhãn Mai Hoa là một cuốn tiểu thuyết trinh thám hấp dẫn, với cốt truyện lôi cuốn, những tình tiết bất ngờ và những nhân vật được xây dựng thành công. Cốt truyện của cuốn tiểu thuyết xoay quanh những chủ đề như thù hận, báo thù, chính nghĩa và tội ác. Câu chuyện của Hứa Nhất Kiệt là một câu chuyện về lòng căm thù và sự kiên quyết. Anh ta đã không ngừng nỗ lực để tìm ra kẻ thù của mình và trả thù cho gia đình. Những tình tiết của cuốn tiểu thuyết được xây dựng rất hấp dẫn và lôi cuốn. Tác giả đã sử dụng nhiều thủ pháp kể chuyện như hồi tưởng, ẩn dụ,... để tạo ra những tình tiết bất ngờ và gây tò mò cho người đọc. Các nhân vật trong cuốn tiểu thuyết được xây dựng thành công. Hứa Nhất Kiệt là một nhân vật đáng yêu và đáng thương. Anh ta là một người thông minh, kiên cường và có ý chí mạnh mẽ. Lão Triều Phụng là một nhân vật phản diện đáng ghét. Ông ta là một kẻ thủ ác, gian xảo và tàn nhẫn. Nhìn chung, Minh Nhãn Mai Hoa là một cuốn tiểu thuyết trinh thám đáng đọc. Cuốn tiểu thuyết sẽ mang đến cho bạn những giây phút giải trí tuyệt vời và những bài học ý nghĩa về cuộc sống. Đánh giá cá nhân Theo tôi, Minh Nhãn Mai Hoa là một cuốn tiểu thuyết trinh thám rất hay và đáng đọc. Cuốn tiểu thuyết có cốt truyện hấp dẫn, những tình tiết bất ngờ và những nhân vật được xây dựng thành công. Tôi đặc biệt thích nhân vật Hứa Nhất Kiệt. Anh ta là một nhân vật đáng yêu và đáng thương. Anh ta là một người thông minh, kiên cường và có ý chí mạnh mẽ. Tôi cũng thích nhân vật Lão Triều Phụng. Ông ta là một nhân vật phản diện đáng ghét. Ông ta là một kẻ thủ ác, gian xảo và tàn nhẫn. Nếu bạn đang tìm kiếm một cuốn tiểu thuyết trinh thám hấp dẫn, thì tôi khuyên bạn nên đọc Minh Nhãn Mai Hoa. ***   DANH GIA CỔ VẬT (trọn bộ 4 tập): - Kỳ Án Đầu Phật - Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ - Hôi Của Đông Lăng - Minh Nhãn Mai Hoa *** MÃ BÁ DUNG sinh năm 1980, tại Xích Phong (Ulankhad) thuộc khu tự trị Nội Mông. Ông là nhà văn nổi tiếng Trung Quốc với bút lực dồi dào, văn phong đa biến. Phạm vi sáng tác trải từ phê bình, tản văn, tiểu phẩm đến tiểu thuyết vừa và dài, thể loại sáng tác phong phú, bao gồm khoa học viễn tưởng, kỳ ảo, lịch sử, trinh thám v.v… Năm 2005, ông đạt giải thưởng Ngân Hà dành cho tác phẩm khoa học viễn tưởng Trung Quốc. Năm 2010, ông đạt giải thưởng Văn học Nhân dân, một trong những giải thưởng văn học uy tín nhất của văn đàn Trung Quốc. Mời các bạn mượn đọc sách Minh Nhãn Mai Hoa của tác giả Mã Bá Dung & Tố Hinh (dịch).
Giọt Máu Ái Tình (2 Tập)
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Giọt Máu Ái Tình (2 Tập) của tác giả Việt Đông. Tên sách: Giọt máu ái tình - Cuốn 1,2 Tác giả: Việt Đông Nơi xuất bản: Sài Gòn Năm xuất bản: 1935 *** Việt Đông là bút danh. Ông tên thật là Lưu Thoại Khải. Hiện vẫn chưa biết năm sinh và mất, thân thế cùng quê quán của ông. Căn cứ vào tư liệu hiện còn thì Việt Đông bắt đầu viết văn từ năm 1930. Từ năm 1931 về sau, ông cùng Ellen Anh Hoa viết chung một loạt tác phẩm với độ dày mỗi cuốn 32 trang và dự định ra mắt bạn đọc mỗi tuần một cuốn. Những tác phẩm này, ông tập hợp trong bộ Việt Đông văn tập ký tên là Văn khoa học sĩ. Chi tiết trên được nhà văn ghi rõ ở trang cuối cuốn tiểu thuyết Tiếng súng lục liên, do nhà in Đức Lưu Phương, Sài Gòn, ấn hành năm 1931. Theo thông tin quảng cáo ở một số bìa sách thì rất có thể ông là chồng của nữ sĩ Ellen Anh Hoa, tức Huỳnh Thị Anh Hoa và hai người có viết chung một số tiểu thuyết như Ai người hẹn ngọc; Duyên chàng nợ thiếp; Thân gái dặm trường; Con ở chúa nhà ...   Kể cả những tác phẩm viết chung với Ellen Anh Hoa thì Việt Đông đã góp mặt cho văn xuôi Quốc ngữ Nam bộ hồi trước 1945 một khối lượng tác phẩm truyện và tiểu thuyết có thể nói là thật đáng kể, đồ sộ với 67 cuốn lớn nhỏ (có thể còn nhiều hơn, vì hiện chưa tìm được hết, bởi trên trang cuối các tiểu thuyết đã xuất bản, nhà văn có quảng cáo những tác phẩm sẽ xuất bản), với dung lượng ngắn nhất là 12 trang và dài nhất đến 116 trang. Những tác phẩm này thuộc nhiều thể loại khác nhau, được viết trong khoảng 08 năm, từ 1930 đến 1938. Do ông có dự định và bước đầu đã thực hiện được dự định ấy là ra bộ Việt Đông văn tập, mỗi tuần một cuốn, ký tên là Văn khoa học sĩ, nhằm đáp ứng yêu cầu và thị hiếu của số đông công chúng độc giả bấy giờ nên có nhà nghiên cứu cho rằng ông là “nhà văn thị trường” Về cách dựng chuyện và kể chuyện trong tác phẩm của Việt Đông có thể nói là ít có gì đặc sắc; cốt truyện thường dung dị, giản đơn, có khi trơn tuột. Đây cũng là nét chung của nhiều ngòi bút văn xuôi Quốc ngữ Nam Bộ hồi đầu thế kỷ cho đến 1945. Bởi đối tượng tiếp nhận, người đọc phần đông là tầng lớp bình dân như phu xe, chị bán hàng… mà nhà văn có viết như thế thì mới phù hợp với thị hiếu công chúng. Việc xây dựng nhân vật và khắc hoạ tâm lý nhân vật trong nhiều tác phẩm cũng chưa được nhà văn chú tâm khai thác đúng mức. Đây là điểm hạn chế lớn nhất của ngòi bút Việt Đông. Ngôn ngữ kể chuyện trong nhiều tác phẩm thì thường kể với giọng văn không ổn định, mang nhiều giọng: lúc thì trơn tuột, mộc mạc, rất giản dị như lời nói thường ngày; lúc thì cầu kỳ gọt giũa, dùng nhiều điển cố, điển tích; câu văn có lúc viết theo lối biền ngẫu ngày xưa nên phần nào ít phù hợp với hiện thực và tính cách nhân vật được nhà văn phản ánh. Riêng về đoản thiên tiểu thuyết và chuyện thần tiên thì tình tiết tưởng tượng ly kỳ, gay cấn, éo le, ít nhiều cũng gợi được sự tò mò và hấp dẫn cho người đọc. Như trên đã giới thiệu, số lượng truyện và tiểu thuyết của Việt Đông thì nhiều, nếu không muốn nói là đồ sộ, nhưng tư duy nghệ thuật, bút pháp kể chuyện của ông thì không mấy nổi bật, chưa tạo được dấu ấn riêng. Đọc truyện và tiểu thuyết của ông, người đọc cảm thấy nhàn nhạt, có khi nhàm chán. Đó cũng là lý do để cắt nghĩa tại sao tác phẩm và tên tuổi của Viết Đông chưa được người đọc nhắc đến nhiều và ít được các nhà văn học sử, các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu nếu so với các cây bút khác cùng thời như Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Chánh Sắt, Phú Đức, Tân Dân Tử chẳng hạn. Nhìn chung, điều đáng quý là những tiểu thuyết của Việt Đông dù viết theo thể loại nào ít nhiều cũng đều có tính giáo dục, khuyến thiện trừng ác, sống đạo đức, khơi gợi lòng yêu nước, lòng tự hào về quê hương với những truyền thống đạo lý tốt đẹp. *** Tóm tắt Cuốn 1 Giọt Máu Ái Tình kể về câu chuyện của hai gia đình giàu có ở Sài Gòn trong những năm đầu thế kỷ 20. Gia đình Trần Văn Khải là một gia đình danh giá, có nhiều đất đai và nhà cửa. Gia đình Nguyễn Văn Hiếu cũng là một gia đình giàu có, có nhiều tiền bạc và quyền lực. Vào một ngày nọ, Trần Văn Khải và Nguyễn Văn Hiếu gặp nhau trong một cuộc đấu thầu. Cả hai đều muốn giành được quyền khai thác một khu đất vàng ở Sài Gòn. Trong cuộc đấu thầu, Trần Văn Khải đã giành chiến thắng. Nguyễn Văn Hiếu rất tức giận và muốn trả thù Trần Văn Khải. Ông ta đã sai người giết chết Trần Văn Khải. Sau khi Trần Văn Khải qua đời, vợ ông ta là bà Trần Thị Mai đã phải gồng gánh gia đình. Bà đã phải bán hết nhà cửa và đất đai để nuôi các con. Hai con trai của Trần Văn Khải là Trần Văn Liêm và Trần Văn Lợi đã trưởng thành. Trần Văn Liêm là một người đàn ông tài giỏi và có chí hướng. Ông ta đã thành lập một công ty xây dựng và trở nên giàu có. Trần Văn Lợi là một người đàn ông yếu đuối và nhu nhược. Ông ta đã bị Nguyễn Văn Hiếu lợi dụng và trở thành con rối của ông ta. Cuốn 2 Trong cuốn 2, Trần Văn Lợi đã kết hôn với con gái của Nguyễn Văn Hiếu là Nguyễn Thị Hoa. Ông ta đã bị Nguyễn Văn Hiếu ép buộc phải kết hôn với Hoa để đổi lấy một số quyền lợi kinh doanh. Trần Văn Liêm đã yêu Hoa từ lâu. Ông ta đã rất đau khổ khi biết tin Hoa sẽ kết hôn với Trần Văn Lợi. Sau khi kết hôn, Trần Văn Lợi và Nguyễn Thị Hoa đã có một đứa con trai. Tuy nhiên, hôn nhân của họ không hạnh phúc. Trần Văn Lợi vẫn yêu Hoa nhưng Hoa lại không yêu ông ta. Trong khi đó, Trần Văn Liêm đã kết hôn với một người phụ nữ khác. Ông ta đã có một cuộc sống hạnh phúc bên vợ và con cái. Cuối cùng, Nguyễn Văn Hiếu đã bị trừng trị vì những tội ác của mình. Ông ta đã bị bắt và bỏ tù. Review Giọt Máu Ái Tình là một tiểu thuyết tình yêu và báo thù. Tác phẩm đã khắc họa một cách chân thực những mâu thuẫn và xung đột trong xã hội Việt Nam thời kỳ đầu thế kỷ 20. Tác phẩm có những điểm mạnh sau: Truyện có cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách và tâm lý phức tạp. Ngôn ngữ trong truyện giàu chất thơ, mang đậm màu sắc của văn học lãng mạn. Tuy nhiên, tác phẩm cũng có một số điểm hạn chế như: Một số tình tiết trong truyện còn thiếu logic. Nhân vật Nguyễn Thị Hoa được xây dựng chưa thực sự thuyết phục. Nhìn chung, Giọt Máu Ái Tình là một tác phẩm đáng đọc đối với những ai yêu thích thể loại tiểu thuyết tình yêu và báo thù. Đánh giá Giọt Máu Ái Tình là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả bởi cốt truyện hấp dẫn, nhân vật sinh động và ngôn ngữ giàu chất thơ. Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực những mâu thuẫn và xung đột trong xã hội Việt Nam thời kỳ đầu thế kỷ 20. Đó là mâu thuẫn giữa giai cấp giàu nghèo, giữa cái thiện và cái ác, giữa tình yêu và thù hận. Tác phẩm cũng thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác giả. Tác giả lên án những thế lực xấu xa, những kẻ gây ra đau khổ cho người khác. Đồng thời, tác giả ca ngợi tình yêu chân chính, tình mẫu tử và tình cảm gia đình. Giọt Máu Ái Tình là một tác phẩm văn học có giá trị. Tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm nền văn học Việt Nam. Mời các bạn mượn đọc sách Giọt Máu Ái Tình (2 Tập) của tác giả Việt Đông.