Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Thành Công Có 1% Cách Nghĩ Khác Bạn

Cuốn sách NGƯỜI THÀNH CÔNG CÓ 1% CÁCH NGHĨ KHÁC BẠN, giới thiệu với bạn về quy tắc trí tuệ nhân sinh của Baltasar Gracián, một vị giáo sĩ Tây Ban Nha, sống ở thế kỷ XVII. Ông là người có tri thức uyên bác, đồng thời có trí tuệ và kinh nghiệm nhân sinh vô cùng phong phú. Triết gia nổi tiếng Netzsche từng ca ngợi: “Trí tuệ và kinh nghiệm nhân sinh của Gracián vẫn tuyệt vời cho đến tận ngày hôm nay, và không gì có thể sánh bằng”. Với những quy tắc trí tuệ của Gracián, cuốn sách cho bạn biết về những phép xử thế vô cùng thực tế, giúp bạn hiểu được rằng, bạn sẽ phải cần đến những phương pháp khôn khéo nào để bảo toàn, mở rộng và thực hiện giá trị của chính mình trong cuộc sống. Cuốn sách được biên soạn với hi vọng, độc giả có thể cùng chia sẻ và tập hợp những tinh hoa trí tuệ của Gracián, từ đó có thể nhìn thấy lời khuyên hữu ích của một bậc triết nhân. Đồng thời, để giúp độc giả có thể lĩnh hội dễ dàng hơn những bí mật và tinh túy ẩn chứa trong nó, tác giả cuốn sách còn đặc biệt lựa chọn các ví dụ từ cổ chí kim, phối hợp để làm rõ nội hàm tinh thần trí tuệ của Gracián. Chỉ cần bạn tĩnh tâm lại, bớt một chút thời gian để ghi nhớ và học tập những lời khuyên, bạn sẽ có thể dẫn dắt cuộc sống của bạn, chèo lái con thuyền cuộc đời đi đến bến bờ thành công trong đại dương mênh mông. *** BẬC THẦY TRÍ TUỆ NHÂN SINH - Gracián Biển người mênh mông, mỗi chúng ta chính là một con thuyền nhỏ bé trong đó. Khi bơi thuyền trên biển, bạn không thể biết mình sẽ gặp phải sóng to gió lớn nơi chân trời góc biển nào, liệu có bị nó đánh tan xương nát thịt hay không. Vậy mà biển đời còn khó nắm bắt, khó thấu hiểu hơn nhiều so với biển trong tự nhiên. Nếu muốn con thuyền được thuận buồm xuôi gió trong đại dương mênh mông này, bạn cần phải trở thành một tay chèo cừ khôi, để chèo lái con thuyền cuộc đời của chính mình, phải học cách vượt qua sóng gió, kịp thời điều chỉnh hướng thuyền, tìm vị trí thích hợp cho mình trong đại dương - nơi hàng ngàn con thuyền khác đang tranh đua. Bạn không thể để người khác vượt mặt mình, thậm chí “thôn tính” mình được. Muốn trở thành người lái thuyền tỉnh táo, trước hết cần biết xem xét tình hình, phán đoán những nơi đang tiềm ẩn sự nguy hiểm, tận dụng tất cả các điều kiện và hoàn cảnh ở xung quanh. Gió bão trên biển lớn thường đến một cách đột ngột, đôi khi ở nơi mà ta chưa bao giờ nghĩ tới, lại có những tảng đá ngầm đang lặng lẽ chờ đợi mình. Vì vậy, mỗi người phải có đủ sự hiểu biết để quan sát những mối nguy hiểm có thể xảy ra trên đường đời, đồng thời cần tích lũy tương đối phong phú những kinh nghiệm xử thế và trí tuệ, khéo léo tận dụng tất cả những gì có thể tận dụng được, để giúp cho con thuyền nhân sinh được chèo lái nhanh hơn, an toàn hơn. Vậy thì, bạn còn do dự gì nữa? Hãy hiểu rằng, cũng như các tri thức khác, trí tuệ và kinh nghiệm nhân sinh ngoài dựa vào việc đích thân trải nghiệm và cảm nhận, thì cũng có thể xuất phát từ việc học hỏi kinh nghiệm và tri thức của người khác. Trên thực tế, bạn không thể nào tự mình đi trải nghiệm tất cả mọi việc, bạn cũng không nên chờ đến lúc thực sự “kinh nhất sự” (trải qua một việc), rồi mới “trưởng nhất tri” (thêm một phần hiểu biết). “Kinh nhất sự trưởng nhất tri” thực ra là một kết quả bất đắc dĩ. Cách làm thông minh nhất chính là học hỏi kinh nghiệm thành công của người khác, rút ra bài học từ sự thất bại của họ, sau đó đem những kinh nghiệm và bài học này vận dụng vào thái độ ứng xử và việc chèo lái con thuyền nhân sinh của chính mình. Chỉ có như vậy, bạn mới có thể bỏ ra một cái giá thấp nhất mà đạt được thành công lớn nhất. Khổng Tử nói: “Tam nhân hành tất hữu ngã sư yên” (Ba người đi cùng nhau, tất sẽ có người là thầy ta). Thực ra, không nhất thiết phải là ba người mới có một người đủ khả năng để làm thầy, cũng không nhất định phải trong khi “đi” mới có thể tìm được người thầy. Mỗi một người ở xung quanh mình đều có thể là thầy, những sự việc xảy ra trong lịch sử, những nhân vật từng xuất hiện trong lịch sử cũng đều có thể là thầy của chúng ta. Những nụ cười sau khi thành công, nỗi buồn sau khi thất bại của họ, chúng ta có thể đồng cảm mà không nhất thiết phải đích thân trải nghiệm. Vì vậy, chúng ta hãy dừng lại một lát giữa bộn bề trăm công nghìn việc, tĩnh tâm lại, xem người khác đã làm như thế nào. Đó là một cách nghỉ ngơi, cũng là một cách học tập khác với bình thường. Thật là việc tốt cả đôi đường, cớ gì lại không làm. Trong cuốn sách này, chúng tôi sẽ giới thiệu với bạn về quy tắc trí tuệ nhân sinh của Baltasar Gracián. Gracián là một vị giáo sĩ Hội thánh Chúa Giê-su Tây Ban Nha, sống ở thế kỷ XVII. Ông là người có tri thức uyên bác, đồng thời có trí tuệ và kinh nghiệm nhân sinh vô cùng phong phú. Là một tín đồ và sứ giả của thượng đế, ông vô cùng phẫn nộ trước những tội ác đối với nhân loại, tuy nhiên, Gracián lại là một người có ý thức thực tế vô cùng mãnh liệt, chứ không đơn thuần là một hình tượng giáo sĩ mô phạm cứng nhắc. Ông không có những giáo lí sáo rỗng về nhân nghĩa đạo đức. Ở đây, ông không chỉ nói với bạn về những điều cao thượng mà còn cho bạn biết về những phép xử thế vô cùng thực tế, giúp bạn hiểu được rằng, bạn sẽ phải cần đến những phương pháp khôn khéo nào để bảo toàn, mở rộng và thực hiện giá trị của chính mình trong cuộc sống hiện thực tàn khốc này. Có thể nói, quy tắc trí tuệ mà ông đưa ra có ý nghĩa hiện thực vô cùng sâu sắc và độ tin cậy cần thiết, cũng như khả năng vận dụng lớn. Nhiều nhân vật ưu tú vĩ đại của lịch sử đều bái phục quy tắc trí tuệ của Gracián. Triết học gia người Đức Schopenhauer dịch cuốn The Art of Worldly Wisdom ( Nghệ thuật của trí tuệ) của Gracián sang tiếng Đức, đệ tử của Schopenhauer - triết học gia kiệt xuất Netzsche cũng ca ngợi rằng: “Trí tuệ và kinh nghiệm nhân sinh của Gracián vẫn tuyệt vời cho đến tận ngày hôm nay, và không gì có thể sánh bằng.” Chúng tôi biên soạn cuốn sách đặc biệt này với hi vọng độc giả có thể cùng chúng tôi chia sẻ trí tuệ của Gracián. Đây là nơi tập trung những tinh hoa trí tuệ của Gracián, là nơi chúng ta nhìn thấy lời khuyên của một bậc triết nhân. Đồng thời, để giúp độc giả có thể lĩnh hội dễ dàng hơn những bí mật và tinh túy ẩn chứa trong nó, chúng tôi còn đặc biệt lựa chọn các ví dụ từ cổ chí kim, phối hợp để làm rõ nội hàm tinh thần trí tuệ của Gracián. Có thể nói, châm ngôn và các ví dụ sẽ làm sáng rõ lẫn cho nhau, chiếu rọi cho nhau, giúp cho bạn có thể hiểu chính xác rõ ràng hơn về đạo lí được ẩn tàng trong đó, góp phần dẫn dắt cuộc sống của bạn, giúp bạn chèo lái con thuyền cuộc đời đi đến bến bờ thành công trong đại dương mênh mông. Chúng tôi tin rằng, chỉ cần bạn tĩnh tâm lại, bớt một chút thời gian để ghi nhớ và học tập những lời khuyên, chắc chắn bạn sẽ đạt được những thành quả chưa từng có. *** Phần 1: NHỮNG NGƯỜI THÀNH CÔNG ĐỐI XỬ VỚI BẢN THÂN NHƯ THẾ NÀO? 16 cách nghĩ có 1% khác với bạn Người đồng hành tốt nhất trong cuộc đời không phải ai khác, mà chính là bạn. Nhận thức rõ những điểm mạnh yếu của bản thân, sẽ khiến tôi và bạn trở thành một ngôi sao đặc biệt nhất trong biển người bao la. 1. Để bản thân đồng thời có tính cách của cả loài rắn độc lẫn bồ câu trắng Bạn cần có đồng thời hai loại tính cách này: một nửa là rắn độc, một nửa là bồ câu trắng. Những người quá hiền lành sẽ luôn bị lường gạt, còn những người chưa bao giờ nói dối thì luôn bị bịp bởi những lời lừa dối. Nói như vậy không có nghĩa là bạn đã bị gắn một cái mác là dễ bị lừa, đôi khi bị người khác lừa lại là một việc tốt. Nhưng lòng dạ đừng quá tốt để đến nỗi tạo cơ hội cho người xấu thực hiện dã tâm của họ, đó là nguyên tắc cơ bản! Một nửa là rắn độc, một nửa là bồ câu trắng, bạn không phải là ma quỷ, mà là thiên tài. ------Baltasar Gracián Lịch sử nước Mỹ có “Chủ nghĩa Monroe” nổi tiếng, người tạo ra nó kì thực không chỉ có tổng thống Monroe mà còn có một nhân vật khác ít được biết đến: Ngoại trưởng Mỹ đương thời - John Quincy Amsterdam. Nếu như tiếp tục tìm hiểu kĩ hơn thì có thể thấy rằng, điều này đã ảnh hưởng đến cả chính sách trong lịch sử Mỹ dưới thời các tổng thống của các nhiệm kì trước đây, dẫn đến sự phát triển tính cách của cả dân tộc Mỹ. Tính cách này có thể dùng câu “một nửa là rắn độc, một nửa là bồ câu trắng” để miêu tả và khái quát. Nước Mỹ sau khi thoát khỏi sự thống trị của người Anh, liền bắt đầu mở rộng lãnh thổ và thế lực của mình. Những người đứng đầu nước Mỹ ngay từ đầu đã tràn đầy tham vọng. Họ hiểu rằng, để đưa Mỹ trở thành một quốc gia hùng mạnh, trước hết cần có đủ sức mạnh. Vì vậy, sau khi lập quốc không lâu, Mỹ từ một nước thực dân trước đây đã biến thành “mãnh thú”, luôn ráng sức so bì cao thấp với các nước khác, nhằm mục tiêu trước mắt là: nỗ lực trở thành bá chủ châu Mỹ. Một mặt, chính phủ Mỹ lập tức thiết lập “giá đỡ”, trở thành cứu tinh cho châu Mỹ. Họ lên tiếng nói rằng, các cường quốc khi đó như Tây Ban Nha, Pháp, Anh không nên can thiệp vào việc riêng của nước Mỹ và cả châu Mỹ; đồng thời, họ lại vung cây gậy lớn nhằm vào các nước nhỏ lân cận như Mexico để thị uy, khiến họ phải nằm dưới sự bảo hộ của mình. Đây là chính sách “Cây gậy và củ cà rốt” đã được tổng thống Roosevelt kế thừa sau này, và cũng chính là “một nửa là rắn độc, một nửa là bồ câu trắng” mà Gracián đã nói. Khi đó, các cường quốc như Anh và Tây Ban Nha đang dần xuống dốc, nhưng điều này không có nghĩa là họ chấp nhận bỏ đi lợi ích của mình. Chính phủ Anh liền giở trò phái đại biểu yêu cầu Mỹ - Anh kết đồng minh, cùng nhau đối phó với Tây Ban Nha. Tổng thống Monroe trước khi đưa ra quyết sách, đã hỏi ý kiến của tổng thống nhiệm kì III Jefferson và tổng thống nhiệm kì IV Madison, tất cả đều đồng ý với ý kiến kết đồng minh với Anh. Tuy nhiên, Ngoại trưởng - ngài Amsterdam lại không đồng ý làm như vậy. Ông cho rằng, Mỹ đương nhiên không thể hoàn toàn cự tuyệt hợp tác với Anh, bởi mất đi sự ủng hộ của một nước lớn như nước Anh là một sự thiệt thòi lớn. Hơn nữa, nước Anh dù sao cũng là mẫu quốc của Mỹ, dù cho có bị nước Anh lừa gạt đi nữa, thì về lâu dài mà nói cũng không nên tính toán làm gì. Việc giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp với nước Anh, đối với Mỹ là điều quan trọng, mang tính căn bản. Nhưng đồng thời, Amsterdam cũng phản đối mạnh mẽ việc liên minh. Ông cho rằng, nếu Mỹ và Anh liên minh thì sẽ tạo ra cho nước Anh một cái cớ và cơ hội can thiệp vào việc của nước Mỹ và châu Mỹ. Vì vậy ông kiến nghị: Về đối ngoại, Mỹ cần tuyên bố với Anh giữ gìn bảo vệ mục tiêu chung, chính là vì hòa bình của châu Mỹ; về đối nội, cần đưa cả châu Mỹ vào trong phạm vi thế lực của mình. Hai nguyên tắc kết hợp lại, sẽ hình thành nên một chính sách và khẩu hiệu rõ ràng, đó là: 15 “Sự vụ của châu Mỹ do người châu Mỹ tự giải quyết, nguyên tắc này không thể xâm phạm được”. Văn kiện do Amsterdam khởi thảo, được tổng thống Monroe trình bày với quốc hội Mỹ vào ngày 2 tháng 12 năm 1823, nguyên tắc bao hàm trong đó được gọi là “chủ nghĩa Monroe”. “Chủ nghĩa Monroe” đã đem lại cho châu Mỹ lợi ích trực tiếp, về mặt lí luận, các quốc gia châu Mỹ đều có thể giải phóng mình từ thân phận thuộc địa, có quyền độc lập tự chủ. Xét từ góc độ này, nước Mỹ đã mang lại những ảnh hưởng tích cực cho các nước khác trong châu Mỹ, từ đây họ có thể tự tin như nước Mỹ, tuyên cáo mình là quốc gia độc lập, không phải chịu sự khống chế của những nước như Anh hay Tây Ban Nha nữa. Mỹ vừa không hoàn toàn đắc tội với nước Anh, lại vừa phản đối một cách hiệu quả trước chính sách của người Anh, thêm vào đó lại được cả châu Mỹ tôn sùng, trở thành hình tượng “bồ câu trắng” của châu Mỹ. Đương nhiên Mỹ không chỉ đơn thuần là con bồ câu trắng hiền lành, nó còn là một con rắn độc. Để mở rộng phạm vi lãnh thổ và thế lực của mình, trong hàng trăm năm sau khi lập quốc, Mỹ chưa bao giờ dừng việc khống chế các nước châu Mỹ, thậm chí là uy hiếp bằng quân sự. Vào năm 1821, sau khi Mexico chính thức trở thành một quốc gia độc lập, Texas vốn dĩ thuộc về Mexico, nhưng di dân Mỹ đã đuổi quân đội của Mexico, tuyên bố muốn thành lập “Nước cộng hòa Texas” độc lập. Tuy nhiên, đây chẳng qua chỉ là cái cớ, bởi ngay sau đó, người Mỹ liền đưa ra chính sách sát nhập Texas. Đến năm 1847, Mỹ lấy lí do tranh chấp biên giới, trực tiếp xuất binh, dùng vũ lực, chiếm một phần lãnh thổ của Mexico, ép buộc Mexico phải kí điều ước, chính thức đồng ý cắt Texas nhượng cho Mỹ. Từ đó về sau, lãnh thổ mà Mỹ nuốt chửng bao gồm California, bang Nevada, Utal, tổng diện tích của những bang này còn lớn hơn cả lãnh thổ của Pháp và Đức cộng lại, giúp lãnh thổ nước Mỹ tăng thêm cả một vùng đất rộng hơn chín mươi hai vạn dặm Anh. Có thể thấy, rõ ràng nước Mỹ là quốc gia đồng thời mang cả hai loại tính cách của bồ câu và rắn độc. Chính một tính cách dân tộc như vậy đã làm cho nước Mỹ trong những năm tháng sau này nhanh chóng bước tới trung tâm của vũ đài lịch sử thế giới. Nói theo sự đánh giá của Gracián: một nửa là rắn độc, một nửa là bồ câu trắng, đó không phải là ma quỷ, mà là thiên tài.   Mời các bạn đón đọc Người Thành Công Có 1% Cách Nghĩ Khác Bạn của tác giả Chu Châu Bân.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tổ Chức Gia Đình - Nguyễn Hiến Lê
Các cụ mất hồi đầu thế kỷ, bây giờ có sống lại mà đứng ở đường Lê Lợi tại Sài Gòn trong các giờ tan sở, chắc phải hoảng lên và la: - Có giặc cướp hay đám cháy nào thế này? Sao mà thiên hạ chạy tíu tít, vẻ mặt đăm đăm như vậy? Chỉ đứng độ năm phút, nhìn lớp sóng người qua lại, nghe tiếng chuông, tiếng còi, các cụ cũng đủ choáng váng và hồi hộp. Nếu các cụ lại sống chung với chúng ta một buổi sáng thôi, thấy chúng ta mới sáu giờ đã dậy tập thể dục, rửa mặt, tắm gội, hấp tấp bận quần áo, húp vội một ly sữa rồi bổ nhào ra ngoài phố, tới đầu đường, liệng một đồng bạc, giựt một số báo, leo lên ô-tô-buýt, tới 12 giờ rưỡi mới về, mặt bơ phờ, nuốt mấy miếng cơm rồi lăn ra ngủ, nếu các cụ thấy như vậy, thì các cụ tất mau mau từ biệt chúng ta để vào rừng ở, dầu chúng ta có đem hết thảy những tiện nghi, xảo diệu của khoa học để dụ dỗ, giữ các cụ ở lại, cũng luống công vô ích. Từ sau đại chiến thứ hai, đời sống chúng ta ồ ạt quá, gần như đời sống tại các kinh đô ở Âu Mỹ. Tám giờ sáng một ngày làm việc mà bạn thấy ai vơ vẩn ở bờ sông Sài Gòn, ngắm mây ngắm nước, tất bạn sẽ ngờ người đó muốn tìm chỗ trầm mình; gặp ai ung dung tản bộ, ngâm thơ trong một công viên, chắc bạn sẽ bĩu môi chê là “thi sĩ mơ mộng” nếu không nghĩ người đó mắc bệnh thần kinh, phải đưa vào nhà thương Biên Hoà. Chúng ta không còn quan niệm được thú nhàn của cổ nhân nữa. Mỗi ngày vẫn chỉ có 24 giờ mà công việc thì tăng lên biết bao nhiêu! Công việc tăng vì nhu cầu tăng. Ta không thể sống như Nhan Hồi với một giỏ cơm, một bầu nước; ta cũng không thể sống như một cụ đồ nho với vài manh áo kép và đơn. Nội khoản chi phí về sách báo của chúng ta đủ nuôi một gia đình hồi trước. Khi ta có thêm một nhu cầu, ta chẳng những mất thì giờ để thoả mãn nó, mà còn mất thì giờ kiếm tiền để có phương tiện thoả mãn nó nữa. Như nhu cầu hớt tóc chẳng hạn. Mỗi tuần hoặc nửa tháng ta phải bỏ ra nửa giờ để hớt tóc, lại phải làm việc thêm một chút để kiếm được 5-10 đồng trả công người thợ. Có khi một nhu cầu tạo ra ba bốn nhu cầu khác. Nhu cầu sẽ còn mỗi ngày một tăng thêm, không biết thế nào là cùng. Bạn thử tưởng tượng, như vậy đời chúng ta sẽ còn bận rộn biết bao nhiêu! Hiện nay, trong phần đông các gia đình, một người không còn kiếm tiền đủ để nuôi 5-6 người, có khi cả chục người như hồi xưa. Tại các châu thành lớn, nhiều gia đình chưa có con mà cả chồng lẫn vợ đã phải làm việc cực nhọc mới đủ ăn. Công việc nhà phải bỏ bê. Người nào có phước thì được mẹ già trông nom giùm. Mà kiếm được người ở bây giờ, không phải là việc dễ. Ông Tham ông Phán thời này đừng hy vọng gì nuôi một anh xe, một anh bếp, một vú già và một chị sen hoặc một anh bồi cho mỗi cô mỗi cậu nữa. Không ai ham cảnh “cơm thầy cơm cô” và trong xã hội, không thiếu gì công việc cho anh em lao động. Người ở đã khó kiếm lại khó giữ. Họ đã biết nhân phẩm, quyền lợi của họ: họ hiểu rằng về mặt pháp luật, họ bình đẳng với chủ nhân nên không chịu để chủ bóc lột, bắt làm việc quần quật từ sáng đến tối, tháng này qua tháng khác. Họ muốn nghỉ ngơi mỗi ngày vài giờ, mỗi tuần nửa ngày, mỗi năm dăm bảy ngày. Họ có lý và chỉ những kẻ lạc hậu mới không chịu cho họ những điều họ đòi hỏi ấy. Tóm lại, tình cảnh của phần đông các gia đình ở châu thành bây giờ như vầy: -     Công việc trong nhà rất nhiều. -     Thời giờ của người chủ thì ít. -     Mà người ở khó kiếm, không chịu làm nhiều giờ như hồi xưa. Có lẽ chẳng bao lâu nữa, người ở sẽ hiếm như ở Âu, Mỹ và những gia đình trung lưu chỉ còn cách mướn người chuyên môn mỗi ngày lại nhà làm một vài công việc nào đó trong một thời gian nhất định thôi 1. Trở lại thời trước đã không được mà than tiếc nó chỉ vô ích, nên ta phải kiếm cách thích nghi với thời đại. Thời đã mới, cách sống đã mới thì cách làm việc cũng phải mới. Ta phải biết tổ chức công việc trong nhà cũng như tổ chức công việc trong sở, trong hãng. Tình thế bắt buộc ta như vậy mà sự thế tất nhiên phải tới như vậy. Ở Mỹ, sau khi khoa học tổ chức đã được áp dụng trong kỹ nghệ, tức là có những người đem thực hành nó trong gia đình, mà người đầu tiên là ông F. Gilbreth. Sau ông, có bà Christiane Frederick, tác giả cuốn “Le Taylorisme chez soi”. Ở Pháp, ông H.L.Rumpf viết cuốn “L’organisation familiale” (Editions Drouin) cách đây 20 năm. Ngoài ra lại có những tạp chí như “Mamans, avec moins de fatigue” ... Tại nước nhà từ trước đã xuất bản nhiều cuốn về gia chánh, chỉ cách nấu ăn may vá... nhưng chưa có cuốn nào dạy cách tổ chức gia đình. Gần đây, trên tuần báo “Mới” trong mục “Kim chỉ nam của bà nội trợ”, bà Hoàng Thị Hạnh viết một loại bài về cách xếp đặt việc nhà, nhưng lời khuyên rời rạc, không thành một hệ thống và đọc xong, các bà nội trợ không học được tinh thần tổ chức. Mà chính tinh thần ấy mới là quan trọng hơn cả. Có nó, ta mới biết tổ chức trong mọi trường hợp và biến hoá cách làm việc cho hợp với hoàn cảnh. Thiếu nó, ta sẽ luýnh quýnh mỗi khi gặp một trường hợp không chỉ sẵn trong sách. Vì lẽ ấy, chúng tôi viết cuốn này để giảng rõ tinh thần đó, vạch những quy tắc quan trọng rồi dẫn nhiều ví dụ giúp độc giả biết cách thực hành. Tất nhiên là chúng tôi không dám múa rìu qua mắt thợ mà bàn cách luộc rau, kho cá, cắt áo thêu khăn... Chúng tôi không biết gì về những công việc đó. Chúng tôi chỉ chú trọng đến những phương pháp tiết kiệm thì giờ, tiền bạc và sức lực, mục đích là giúp cho bà nội trợ tổ chức gia đình sao cho mọi việc xong xuôi mà có thì giờ để nghỉ ngơi, tiêu khiển, chơi với trẻ hoặc học hỏi thêm, và may ra bớt được nhiều lo lắng về vấn đề tài chính chăng. Chúng tôi sẽ phải dùng ít nhiều danh từ còn lạ tai đối với phần đông độc giả mà chúng tôi sẽ ráng giảng giải một cách thông thường để những bà nội trợ nào ít học nhưng chịu suy nghĩ cũng có thế hiểu được. Sách chủ ý viết cho các bà nội trợ, nhưng chúng tôi tưởng các bạn trai đã lập gia đình cũng nên đọc nó. Phụ nữ có nhiều đức quý như lòng vị tha, đa cảm, đức kiên nhẫn, tự tin... nhưng thường theo trực giác mà không chịu luận lý, lại cố chấp, thiếu phương pháp. Vì vậy, nếu các ông chồng hiểu rõ những quy tắc trong cuốn này rồi giúp các bà vợ cùng nhau tổ chức việc nhà thì kết quả sẽ mau hơn và không khí trong gia đình cũng sẽ đầm ấm hơn. Chúng tôi vẫn biết đàn ông mà bàn về công việc nội trợ thì không khỏi mang cái tiếng việt vị. Nhưng chúng tôi nghĩ đã không dám lấn vào phạm vi gia chánh, tức may vá, nấu nướng, mà chỉ xét những quy tắc để tổ chức việc nhà, thì các bà các cô cũng không nỡ trách; nên chúng tôi không do dự chi nữa mà cho xuất bản cuốn này với mục đích duy nhất là giúp phụ nữ Việt Nam tập sống đời sống mới tức đời sống có tổ chức, tổ chức bản thân và tổ chức gia đình rồi sau cùng tổ chức xã hội. Long Xuyên ngày 15-2-1953 Mời các bạn đón đọc Tổ Chức Gia Đình của tác giả Nguyễn Hiến Lê.
Khả Năng Cải Thiện Nghịch Cảnh - Nassim Nicholas Taleb
Trong Khả năng cải thiện nghịch cảnh, Taleb khẳng định vai trò quan trọng của tính bất định, làm cho nó trở nên đáng mong đợi, thậm chí cần thiết, và đề xuất rằng sự việc nên được xây dựng sao cho có khả năng cải thiện nghịch cảnh. Khả năng cải thiện nghịch cảnh không chỉ là sự mạnh mẽ hay khả năng phục hồi. Khả năng phục hồi chỉ có thể chịu đựng những cú sốc và trở về nguyên trạng; trong khi khả năng cải thiện nghịch cảnh nghĩa là trở nên ngày càng tốt hơn. Quyển sách này bao trùm vấn đề phát minh đổi mới thông qua thử nghiệm và sửa sai, các quyết định trong đời sống, chính trị, quy hoạch đô thị, chiến tranh, tài chính cá nhân, các hệ thống kinh tế, và y khoa. *** Nassim Nicholas Taleb sinh năm 1960 tại Liban, là một nhà viết tiểu luận, học giả, nhà thống kê. The Black Swan (Thiên Nga Đen)là cuốn sách nổi tiếng của ông ra đời năm 2007.   Mời các bạn đón đọc Khả Năng Cải Thiện Nghịch Cảnh của tác giả Nassim Nicholas Taleb.
Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống - Nhã Nam tuyển chọn
Bộ sách Thông điệp yêu thương lan truyền những cảm hứng về cuộc sống, về tình yêu, tình bạn, tình cảm gia đình, tình thầy trò… thông qua những mẩu chuyện, những câu nói giúp bạn sống lạc quan, yêu đời, hạnh phúc và thành công hơn. Hi vọng mỗi cuốn sách sẽ là quà tặng ý nghĩa, là người bạn đồng hành cùng bạn đọc trong cuộc sống. Cuốn sách Luôn mỉm cười với cuộc sống gồm những câu văn, câu chuyện ngắn đầy yêu thương giúp bạn thật sự lạc quan trong cuộc sống dù cuộc sống của bạn không ngừng với những bộn bề lo toan… Mời các bạn đón đọc Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống của tác giả Nhã Nam tuyển chọn.
Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 3
Quyển một “Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới” đã giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quan về Sáng tạo học và Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM). Quyển hai “Thế giới bên trong con người sáng tạo” và quyển ba “Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống” có mục đích trình bày các kiến thức, được rút ra một cách chọn lọc từ những khoa học có đối tượng nghiên cứu là tư duy, hoặc liên quan, hỗ trợ hoạt động tư duy. Các kiến thức này đóng vai trò các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM, theo nghĩa, chúng giúp bạn đọc hiểu cơ sở khoa học của PPLSTVĐM và sử dụng các công cụ có trong PPLSTVĐM (sẽ trình bày từ quyển bốn trở đi) một cách chủ động với hiệu quả cao. Như bạn đọc đã biết, quyển hai dành nói về tâm lý học, lý thuyết thông tin, điều khiển học, nhằm giúp bạn đọc biết, hiểu và sử dụng những hiện tượng phong phú thuộc thế giới bên trong của mình tốt hơn. Từ đó, bạn đọc có thể thấy rằng, cần có những nỗ lực cá nhân hướng đến phát triển khả năng điều khiển thế giới bên trong cũng như các hành động của chính mình, đáp ứng nhu cầu phát triển các nhân cách sáng tạo. Quyển ba này trình bày các kiến thức lấy từ lôgích học hình thức, phép biện chứng duy vật và khoa học hệ thống. Theo chủ quan của người viết, cùng với quyển hai, đây là những kiến thức cần thiết nhất và phục vụ tốt nhất trong tư cách là các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM. Giống như trong quyển hai, những gì trình bày trong quyển ba này là kết quả người viết được học, tự học, nghiên cứu và sử dụng chúng. Bạn đọc nên xem những gì viết ở đây chỉ là tối thiểu, mang tính chủ quan, do vậy, cần tự suy xét, đánh giá và tìm hiểu sâu, rộng thêm các kiến thức liên quan thông qua những nguồn khác. *** Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau: 1. Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. 2. Thế giới bên trong con người sáng tạo. 3. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống. 4. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1). 5. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2). 6. Các phương pháp sáng tạo. 7. Các quy luật phát triển hệ thống. 8. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. 9. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). 10. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới. Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa. *** Vào thế kỷ 17, 18, cơ học cổ điển của Galileo, Newton... đạt được nhiều thành tựu lớn cả trong nhận thức thế giới lẫn giải quyết các bài toán thực tiễn đề ra, tạo nên sự phát triển xã hội mạnh mẽ. Có lẽ vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu khái quát hóa các luận điểm cơ học cổ điển thành thế giới quan (chủ nghĩa) cơ giới: Giải thích sự phát triển của tự nhiên và xã hội bằng các quy luật của hình thức cơ học vận động vật chất. Những quy luật đó được xem là phổ biến và đúng cho tất cả các hình thức vận động vật chất. Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa cơ giới là sự đánh đồng một cách trừu tượng hình thức vận động vật chất bậc cao với hình thức vận động vật chất bậc thấp: Ví dụ, hình thức xã hội với sinh học; sinh học với hóa học hoặc/và vật lý... cho đến cơ học. Tuy có những hạn chế, thế giới quan cơ giới là sự tiến bộ vào thời kỳ đó và đóng vai trò tích cực trong việc phát triển khoa học, triết học. Các kiến thức cơ học giúp người ta hiểu, giải thích được nhiều hiện tượng tự nhiên, thoát khỏi các quan điểm thần bí, tôn giáo giáo điều. Việc dùng các quy luật cơ học ra ngoài phạm vi áp dụng của chúng (xem mục nhỏ 6.5.4. Tính ì tâm lý do ngoại suy ra ngoài phạm vi áp dụng của quyển hai) và tuyệt đối hóa chúng tạo nên bức tranh cơ giới về thế giới: Toàn bộ vũ trụ (từ nguyên tử đến các hành tinh) là hệ cơ học khép kín, bao gồm những yếu tố không thay đổi mà sự vận động của chúng tuân theo các quy luật của cơ học cổ điển. Tư duy tương ứng với mức phát triển nói trên của khoa học chính là tư duy siêu hình. Sự phát triển tiếp theo của khoa học cho thấy, các cố gắng dựa trên các quy luật cơ học cổ điển để giải thích các hiện tượng điện–từ, hóa học, sinh học, đặc biệt, các hiện tượng xã hội đã hoàn toàn thất bại. Các thành tựu khoa học tự nhiên, xã hội của thế kỷ 19, 20 đã phá vỡ bức tranh cơ giới về thế giới, cũng như cách tư duy siêu hình. Thay thế cho cách tiếp cận cơ giới (Mechanistic Approach), được dùng phổ biến từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, là cách tiếp cận hệ thống (Systems Approach). Từ giữa thế kỷ 20, cách tiếp cận hệ thống được dùng rộng rãi trong nghiên cứu các đối tượng phát triển phức tạp như các hệ thống sinh học tự tổ chức, tâm lý, xã hội, các hệ kỹ thuật lớn, hệ thống “người và máy móc”... Cách tiếp cận hệ thống có các nhiệm vụ: 1) Nghiên cứu các phương tiện mô tả, biểu diễn các đối tượng được nghiên cứu hoặc được thiết kế chế tạo như là các hệ thống; 2) Xây dựng các mô hình khái quát hệ thống, các mô hình về các loại hệ thống và các tính chất của hệ thống; 3) Nghiên cứu cấu trúc của các lý thuyết về hệ thống cùng các quan điểm, phương pháp hệ thống; 4) Là cơ sở lý thuyết và phương pháp luận của phân tích hệ thống. ... Mời các bạn đón đọc Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 3 của tác giả Phan Dũng.