Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lời Nói Dối Thứ Ba

Tiểu thuyết Cuốn Sổ Lớn (Le Grand Cahier) được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi]) Đó chính là cái bút pháp độc đáo của cuốn tiểu thuyết Le Grand Cahier: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. *** Tiểu thuyết được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi] - tập 1 - Cuốn sổ lớn.) * Đó chính là cái bút pháp độc đáo của bộ 3 cuốn tiểu thuyết của Agota Kristof: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. Bộ sách Twins Trilogy gồm có: Cuốn Sổ Lớn Bằng Chứng Lời Nói Dối Thứ Ba *** Agota Kristof sinh năm 1935 tại Hungary, rời bỏ quê hương năm 1956 khi quân đội Liên-Xô tràn vào đàn áp cuộc nổi dậy của sinh viên và công nhân ở Budapest. Cùng chồng và đứa con gái 4 tuổi, bà sang tỵ nạn ở Neuchâtel, Thụy-sĩ. Sau 5 năm sống với cảm thức cô đơn và đau đớn của một người lưu vong, bà quyết định từ bỏ việc làm của một công nhân, ly dị với chồng, rồi bắt đầu học tiếng Pháp và viết truyện, viết kịch, viết tiểu thuyết và làm thơ. Sau nhiều năm vật vã với ngòi bút, Agota Kristof cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay Le Grand Cahier [Cuốn sổ lớn] năm 1986. Tác phẩm này là một thành công, đoạt giải "Prix du Livre Européen", và thúc đẩy bà tiếp tục viết thêm hai cuốn tiểu thuyết nữa để hoàn tất một bộ ba. Cuốn thứ nhì La Preuve [Bằng chứng] được xuất bản năm 1988, và cuốn cuối cùng của bộ ba tiểu thuyết là Le Troisième Mensonge [Lời nói dối thứ ba] được xuất bản năm 1991 và đoạt giải "Prix du Livre Inter" năm 1992. Sau đó, bà xuất bản tiểu thuyết Hier [Hôm qua] năm 1995, rồi tiểu thuyết L'Analphabète [Người Đàn Bà Mù Chữ] năm 2004. Hoàng Ngọc-Tuấn Sydney, 14/08/2006 *** Tôi ngồi tù tại cái thành phố nhỏ thời thơ ấu. Không phải là một nhà tù thực sự, đó là một phòng giam trong ngôi nhà của cảnh sát địa phương, một tòa nhà hai tầng như biết bao những nhà khác của thành phố. Phòng giam của tôi xưa kia là một xưởng giặt, cửa và cửa sổ trông ra sân. Những chấn song cửa sổ đã được gắn vào bên trong để cho không ai có thể chạm vào và đập vỡ kính. Một góc vệ sinh được che sau một cái riđô. Giáp với một bức tường, có một cái bàn và bốn cái ghế gắn chặt xuống đất, giáp với bức tường phía trước có bốn cái giường có thể gập xuống. Ba cái đã được gập. Chỉ có một mình tôi trong phòng giam. Trong thành phố này có rất ít tội phạm, và khi có, người ta lập tức đưa đến thành phố bên, thủ phủ của vùng này cách đây hai mươi cây số. Tôi không phải là tội phạm. Tôi ở đây là do giấy tờ của tôi không hợp lệ, hộ chiếu của tôi hết hạn. Với lại tôi cũng có nợ tiền. Buổi sáng, người coi tù mang đến cho tôi bữa sáng, sữa, cà phê, bánh mỳ. Tôi uống chút cà phê rồi tôi đi tắm. Người coi tù ăn nốt bữa sáng của tôi và quét dọn phòng giam. Cửa để mở, tôi có thể ra sân nếu tôi muốn. Đó là một cái sân có tường cao phủ dây trường xuân và nho dại bao quanh. Đằng sau một bức tường, ở phía trái khi ra khỏi phòng giam là một cái hành lang có mái che của một trường học. Tôi nghe tiếng trẻ con cười, đùa, la hét trong giờ ra chơi. Khi tôi còn bé, trường học đã ở đó rồi, tôi nhớ, dù tôi không bao giờ đến trường, nhưng nhà tù thì hồi đó lại ở nơi khác, tôi cũng nhớ bởi vì tôi đã đến đó một lần. Buổi sáng một giờ, và buổi tối một giờ, tôi đi bộ ngoài sân. Đó là thói quen tôi đã có từ thuở nhỏ, khi tôi mới lên năm, tôi đã buộc phải tập đi. Điều này khiến người coi tù khó chịu, vì lúc đó tôi không nói và không nghe một câu hỏi nào. Mắt nhìn xuống đất, tay chắp sau lưng, tôi bước đi, tôi đi vòng quanh dọc theo các bức tường. Mặt đất có lát đá, nhưng cỏ vẫn mọc giữa các kẽ đá. Cái sân gần như vuông, chiều dài mười lăm bước, chiều rộng mười ba bước. Giả sử bước chân của tôi dài một mét thì diện tích cái sân là một trăm chín mươi lăm mét vuông. Nhưng chắc chắn bước chân của tôi ngắn hơn. Giữa sân có một cái bàn tròn và hai cái ghế, và giáp với bức tường cuối vườn là một cái ghế dài bằng gỗ. Ngồi xuống ghế dài đó tôi có thể nhìn thấy một phần lớn bầu trời thuở nhỏ của tôi. Từ hôm đầu, bà chủ hiệu sách đã đến thăm tôi và mang đến cho tôi các đồ dùng cá nhân và một món xúp rau. Bà tiếp tục đến hàng ngày vào giờ trưa với món xúp rau của bà. Tôi bảo bà rằng ở đây tôi được nuôi dưỡng tốt, người coi tù mang đến cho tôi một ngày hai bữa đầy đủ từ nhà hàng trước mặt, nhưng bà ấy tiếp tục mang xúp đến. Tôi ăn một chút để giữ lễ, rồi tôi đưa cái xoong cho người coi tù ăn nốt. Tôi xin lỗi bà chủ hiệu sách vì sự lộn xộn tôi đã để lại trong căn hộ của bà. Bà nói: - Có quan trọng gì đâu. Tôi và con gái tôi đã dọn dẹp cả rồi. Chỉ có rất nhiều giấy. Tôi đã đốt những tờ giấy nhàu nát và những tờ ném vào sọt. Những tờ khác, tôi đã đặt lên bàn, nhưng cảnh sát đã đến và lấy đi. Tôi im lặng một lát, rồi nói: - Tôi còn thiếu bà hai tháng tiền nhà. Bà ấy cười: - Tôi đã đòi ông quá đắt cho căn hộ nhỏ đó. Nhưng nếu ông muốn thì ông có thể hoàn lại cho tôi khi ông được về. Có lẽ là sang năm. - Tôi không nghĩ là sẽ về. Người được ủy thác của tôi sẽ thanh toán cho bà. Bà ấy hỏi tôi có cần gì không, tôi nói: - Có, tôi cần giấy và bút chì. Nhưng tôi không còn tiền. - Đáng lẽ tôi đã phải tự nghĩ ra. Hôm sau, bà ấy trở lại với món xúp, một gói giấy kẻ và nhiều bút chì. Mời các bạn đón đọc Lời Nói Dối Thứ Ba của tác giả Agota Kristof.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiếng Rền Của Núi - Yasunari Kawabata
Yasunari Kawabata là một trong những nghệ sỹ lớn nhất của của Nhật Bản thế kỷ XX. Ông là một bậc thầy trong nghệ thuật biểu cảm vǎn học, mang đậm bản sắc dân tộc. Ông đã mở ra cho nhân loại cánh cửa của tư duy và tân hồn Nhật Bản vốn vẫn được coi là bí hiểm và kín đáo. Trong cuộc đời sáng tác của mình, ông đã tạo nên những tác phẩm bất tử có vai trò thúc đẩy sự phát triển của nền vǎn học Nhật Bản nói riêng và nền vǎn học trế giới nói chung. Mời bạn đọc tìm hiếu đất nước và con người Nhật Bản qua tập truyện ngắn của Yasunari Kawabata. *** Không có một thái độ thực sự rõ ràng, dứt khoát nào của tác giả được đưa ra đối với hành vi, suy nghĩ của mọi nhân vật. Không lên án, không ca ngợi. Mỗi độc giả sẽ tuỳ theo cách nghĩ của mình mà đưa ra thái độ cảm tình hay ngược lại. Phải chăng trong văn chương cũng cần sự khách quan như trong viết sử? Tôi đang đọc lần thứ hai “Tiếng rền của núi” nhằm suy ngẫm kỹ hơn về diễn biến đời sống nội tâm của từng nhân vật. Và tập trung phát hiện thêm những vẻ lấp lánh trong văn chương của ông. Nhiều khi, không phải ranh giới giữa đúng và sai mơ hồ, mà ngay cả ranh giới giữa được và mất, giữa hay và dở cũng mơ hồ. Và vì thế, nó tạo ra một tâm trạng bất an, bối rối nào đó. Làm sao không bối rối nếu anh không định hướng được nên đi theo hướng nào thì sẽ gặp điều tốt? Làm sao không bất an nếu anh không chắc chắn hướng đi có dẫn anh đến với điều tốt hay không? Vài ví dụ: mối quan hệ ngoài luồng của cậu con trai lại đánh thức chất đàn bà bên trong cô con dâu có vẻ hơi chậm phát triển vì còn quá ngây thơ. Rồi sự có con của tình nhân ngoài ý muốn của anh con trai lại chính là nguyên nhân khiến anh ta từ bỏ cô ta, và quay về chỉn chu với vợ mình. Nhiều khi, tự nhiên tạo ra những nghịch cảnh nho nhỏ, mà chỉ từ sự quan sát kỹ lưỡng mới phát hiện được ra. Ví dụ ông chồng khi chết, trên quan tài đặt một bức ảnh lúc còn trẻ, khá đẹp lão. Và bà vợ già nua bạc tóc đứng bên quan tài. Và người ta dễ ngộ nhận chính ông chồng là nguyên nhân sự già nua của vợ, mà không ai ngờ rằng bà vợ ấy đã đẩy đuổi, đầy ải ông chồng như thế nào. Ví dụ cái tình cha chồng con dâu, ranh giới nào giữa tình máu mủ và cảm xúc giới tính? Tác giả đã đi trên một sợi dây mong manh, giữa sự giản đơn và giáo điều với nguy cơ thừa nhận sự loạn luân. Và cái cách kết thúc tiểu thuyết cũng lửng lơ, không hề có một kết luận dù là tạm thời nào về số phận của các nhân vật, về mối quan hệ giữa họ. Người đọc vẫn có thể tiếp tục suy đoán về tương lai. Mời các bạn đón đọc Tiếng Rền Của Núi của tác giả Yasunari Kawabata.
Truyện Ngắn Trong Lòng Bàn Tay - Yasunari Kawabata
Tiểu thuyết lòng bàn tay (掌の小説 Tenohira no Shōsetsu?) hay còn được biết đến với tên Truyện ngắn trong lòng bàn tay là một "chưởng biên tiểu thuyết" (掌編小説), "chưởng thiên tiểu thuyết" (掌篇小説) của Kawabata Yasunari, tập hợp khoảng trên 100 truyện ngắn được viết từ thời tác giả còn trẻ. Ấn bản đầu tiên phát hành năm 1971. Về sau tái bản sách còn bổ sung những truyện xuất bản sau khi tác giả lâm chung năm 1972. Đặc trưng của các truyện ngắn là mỗi truyện đều ngắn, như để được "trong lòng bàn tay". Khi dịch ra những ngôn ngữ khác, độ ngắn không còn được bảo toàn nữa. ** Trong thung lũng có hai cái ao. Ao dưới óng ánh như ao bạc, ao trên một màu xanh lướt chết chóc, cuốn xuống đáy sâu những bóng núi thầm lặng. Mặt mày nhày nhụa. Tôi ngoái lại thấy máu dính trên bụi cỏ và tre càng cua mình vừa bước qua. Những giọt máu như đang đi. Máu mũi lại tuôn ra từng đợt nóng hổi. Quýnh quá, tôi tóm bừa một góc vải thắt lưng đút nút lỗ mũi, rồi nằm vật ra. Mặt trời không rọi thẳng vào người nhưng phản chiếu trên những chòm lá làm tôi chói mắt. Máu mũi bị chặn nửa đường, chạy ngược trở lại còn ghê hơn, nó òng ọc lên theo nhịp thở. Tiếng ve inh ỏi đầy ắp bầu khí núi, một con bỗng dưng mắc chứng la hoảng lên. Trời gần trưa tháng Bảy, không gian căng mỏng như thể một mũi kim rơi cũng làm long trời lở đất. Tôi như bị tê liệt. Nằm dài mồ hôi vã ra, tôi mặc cho tiếng ve ầm ĩ, màu xanh lá cây áp đảo, mùi đất ẩm, tiếng tim đập, cùng chui tuốt vào đầu nằm chết cứng trong đó rồi thoắt cái lại ào ra tản mát đâu mất. Tôi có cảm tưởng nhẹ hỗng như mình bị hút lên trời. - Cậu ơi! Cậu ơi! Cậu đâu rồi? Nghe thấy tiếng gọi từ nghĩa địa, tôi vùng dậy. Sáng nay đến lượm xương ông nội sau lễ tang hôm qua, trong lúc đang cời than hãy còn ấm, tôi chảy máu cam, bèn lén rời lò thiêu trèo lên đồi, đút nút lỗ mũi với giải thắt lưng vải. ... Mời các bạn đón đọc Truyện Ngắn Trong Lòng Bàn Tay của tác giả Yasunari Kawabata.
Chiến Dịch Trái Tim - Amanda Quick
Trong giấc mơ hoang đường nhất, Venetia Milton cũng không ngờ được vị hôn phu của nàng lại ĐỘI MỒ SỐNG DẬY, phá hỏng một buổi sáng đẹp trời… Bởi đó là vị hôn phu nàng chỉ mới ranh mãnh "sắm" được sau một đêm hoan lạc. Anh chàng xuất thân dòng dõi mà nàng mượn danh để thuận lợi tiến vào xã hội London, hòng gây dựng sự nghiệp nhiếp ảnh gia thời thượng, chứ không hề có ý gắn bó lâu dài, đừng nói đến hôn nhân. Vị hôn phu mà cái chết đã được đăng khắp các mặt báo. Nhưng người đàn ông đó, vẫn sống điềm nhiên, lại sắp dõng dạc bước vào cuộc đời nàng. Và sau tất cả những hiểm nguy chàng mang theo, sau tất cả những bông đùa giễu cợt, những toan tính bí hiểm, chàng rắp tâm đánh cắp trái tim nàng một lần nữa, trọn vẹn… Là tác giả sách bán chạy theo bình chọn của New York Times, Amanda Quick sẽ dẫn dắt bạn qua một chuyến phiêu lưu tình ái đầy đam mê trong thời đại Victoria xưa. *** Nhận định “Một câu chuyện thú vị và sắc sảo về những bí mật… Với đối thoại dí dỏm, các nhân vật đa chiều, kết cấu truyện thông minh và trí khôi hài phong phú, Amada Quick muôn đời được yêu thích lại viết thêm một tác phẩm nổi bật.” - Booklist “Nếu bạn bắt đầu đọc một cuốn sách của Amanda Quick vào buổi xế chiều, thì chắc chắn bạn sẽ thức trắng cả đêm cùng nó.”- The Denver Post *** Mãi cuối triều đại Nữ hoàng Victoria…   BỘ XƯƠNG NGƯỜI nằm trên chiếc giường mạ vàng được chạm trổ tinh xảo đặt ngay chính giữa phòng luyện kim cổ xưa nay là hầm mộ của nhà giả kim.   Đống xương hai trăm năm tuổi vẫn còn được vấn trong mớ quần áo tơi tả chắc chắn từng có thời là những loại nhung gấm lụa là cao giá nhất. Bao tay và dép mềm được thêu viền chỉ vàng chỉ bạc bao lấy phần xương của hai bàn tay bàn chân, tạo nên vẻ ngoài rờn rợn của da của thịt.   “Tay thợ may của ông này hẳn là yêu ông ta lắm nhỉ,” Gabriel Jones lên tiếng.   “Cho dù có là một nhà giả kim thì khách hàng của anh ta vẫn được quyền có gu thời trang tinh tế chứ,” Caleb Jones nhận xét.   Gabriel liếc sang quần áo của cậu em họ rồi xem xét phục trang trên người mình. Quần âu và áo sơ mi vải lanh họ đang mặc phủ đầy bụi bẩn và cáu ghét nhưng cả quần áo lẫn đôi ủng của họ đều được làm thủ công, vừa vặn như in.   “Có vẻ như là nét biểu trưng của dòng họ nhỉ,” Gabriel bảo.   “Thêm một nét duyên cho huyền thoại dòng họ nhà Jones đây mà,” Caleb đồng tình. ... Mời các bạn đón đọc Chiến Dịch Trái Tim của tác giả Amanda Quick.
Cầu Ô Thước - Antoine Audouard
Năm 1945, Pierre Garnier tòng quân, gia nhập quân viễn chinh Pháp sang tham chiến ở Đông Dương. Giữa lúc đang hoang mang tột độ trước thực tế trần trụi của chiến tranh, cậu lạc bước vào tình yêu. Những mối tình mãnh liệt mà bất khả. Những niềm hạnh phúc không thể nào nắm giữ. Cho đến ngày thất trận. Nhiều năm sau, có một người con trai quyết định lần về quá khứ, tìm lại những con người cũ, những mong vén được bức màn bí ẩn về cha, một người cha vắng mặt. Nhưng khi sự thật ấy được phơi bày, liệu lòng anh đã yên? Cầu Ô Thước là một trang lịch sử bị tách rời, nơi thời gian ngưng đọng, nơi dựng lại cái không khí sôi sục của chiến tranh Đông Dương, nơi hiển hiện những nhân vật đã làm nên một phần thế kỷ XX. Nhưng hãy khoan nghĩ bạn đang đọc một cuốn sách lịch sử, bởi như tờ Le Figaro đã nói: "đây không phải một cuốn sách lịch sử, mà là một câu chuyện tình yêu." *** Tôi nhận được cuộc điện thoại vào lúc tối muộn. Một giọng nói lạ hoắc, xoe xóe hỏi xem có phải tôi tên là André Garnier, có đúng tôi là con trai của Pierre Garnier không và khi tôi đang lúng búng trả lời rằng đúng là tôi nhưng ai thế? ai vậy? thì giọng nói ấy tiếp tục: “Cha anh, ông Garnier sẽ tới nhà anh ngày mai. Lúc 10 giờ 30 được chứ?” Chắc chắn, chúng ta không sống trong một thế giới mà người cha là đoàn tàu và con cái là sân ga; chắc chắn người phụ nữ này không có thật, bà ta không xưng danh và tôi cũng chẳng hỏi. Thế nhưng, ngày hôm sau, có hai nhân viên cứu thương - một to con, một gầy nhẳng - gõ cửa nhà tôi rồi đưa một tờ giấy màu xanh cho tôi ký, cứ như là họ đi giao thư bảo đảm vậy. “Đúng 10 giờ 30 phải không nhỉ?” người gầy nhẳng ra vẻ thành thạo hỏi, rồi hai người đàn ông rời đi không để tôi kịp ngậm miệng lại. Bố và tôi cứ đứng trên lối nhỏ dẫn vào nhà, lạ lẫm với nhau. Ông hơi lắc lư người, hai bàn tay nắm chặt chiếc túi da du lịch. “Mẹ con có khỏe không?” cuối cùng ông cũng lên tiếng và tôi thấy lòng mình ngổn ngang những cảm xúc đầy mâu thuẫn mà nổi trội là một cơn giận dữ rất thường tình - tức giận vì đột nhiên tôi phải làm người cha chăm sóc ông trong khi ông chưa từng một ngày làm cha tôi. “Thế còn vợ con?” ông tiếp tục, với giọng niềm nở. “Tốt cả,” tôi nói nhỏ, không cố để ông nghe thấy. Ông đến chậm mất ba mươi năm so với ngày mẹ tôi mất, nhưng chỉ muộn có ba hôm so với ngày vợ tôi bỏ đi. Một chút cố gắng thôi là ông đã có thể đến kịp. ... Mời các bạn đón đọc Cầu Ô Thước của tác giả Antoine Audouard.