Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cánh Buồm Đỏ Thắm (Song Ngữ)

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Cánh Buồm Đỏ Thắm (Song Ngữ) của tác giả Alexander Grin & Ngô Thanh Tâm (dịch). Tóm tắt Câu chuyện kể về cô bé Assol, sống cùng cha là một thủy thủ nghỉ hưu sau khi mẹ cô là Mary mất sớm. Một lần trong khi mang đồ chơi đi bán, Assol đã gặp ông già Elge. Ông kể cho cô bé nghe về cuộc sống ngoài biển cả và nói với cô rằng, lớn lên sẽ có một chàng hoàng tử lái con tàu có cánh buồm đỏ thắm đến đón cô. Thế là Assol đã tin vào điều đó mặc cho sự gièm pha, chế giễu của người dân trong làng. Cuối cùng niềm tin đã chiến thắng tất cả. Câu chuyện kết thúc với đúng những gì mà ông già Elge kia đã nói, đúng như niềm tin của Assol - một chàng hoàng tử với chiếc thuyền đỏ thắm đã đến và đưa cha con cô đi đến xứ sở của hạnh phúc! Đánh giá Cánh buồm đỏ thắm là một câu chuyện lãng mạn dành cho lứa tuổi mới lớn. Tác phẩm được viết theo phong cách lãng mạn, với những câu văn nhẹ nhàng, bay bổng, mang đậm chất thơ. Câu chuyện kể về tình yêu, ước mơ và niềm tin của con người. Nội dung câu chuyện Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính là cô bé Assol. Assol là một cô bé mồ côi mẹ, sống cùng cha là người thủy thủ nghỉ hưu. Cha của Assol là người rất yêu thương con gái, ông luôn dành cho cô sự quan tâm và chăm sóc chu đáo. Assol là một cô bé có tâm hồn trong sáng, ngây thơ và luôn tin tưởng vào những điều tốt đẹp. Một lần trong khi mang đồ chơi đi bán, Assol đã gặp ông già Elge. Ông già Elge là một người kỳ lạ, ông có thể nhìn thấy trước tương lai. Ông đã kể cho Assol nghe về một lời tiên tri: một ngày nào đó, một chàng hoàng tử sẽ đến đón Assol trên một con tàu có cánh buồm đỏ thắm. Lời tiên tri của ông già Elge đã khiến Assol vô cùng vui mừng. Cô luôn tin tưởng vào lời tiên tri đó và luôn mong chờ đến ngày chàng hoàng tử sẽ đến. Cha của Assol cũng biết về lời tiên tri đó. Ông không tin vào những điều thần bí nhưng ông cũng không muốn con gái mình thất vọng. Ông luôn động viên Assol tin tưởng vào những điều tốt đẹp và luôn cố gắng sống tốt để xứng đáng với tình yêu của chàng hoàng tử trong tương lai. Những năm tháng trôi qua, Assol vẫn luôn tin tưởng vào lời tiên tri. Cô vẫn luôn chăm chỉ học tập và rèn luyện bản thân để trở thành một người con gái ngoan ngoãn, xinh đẹp. Một ngày nọ, một chàng trai tên Arthur Gray đến làng Kaperna. Arthur Gray là một chàng trai trẻ đẹp, giàu có nhưng lại không thích cuộc sống giàu sang mà muốn được sống tự do, tự tại trên biển cả. Khi đi dạo trong rừng, Arthur Gray đã gặp Assol đang ngủ. Anh đã bị vẻ đẹp trong sáng, ngây thơ của Assol thu hút. Anh đã cởi chiếc nhẫn của mình và đeo cho Assol mà cô không hề hay biết. Sau đó, Arthur Gray đã tìm hiểu về Assol và biết được về lời tiên tri mà cô tin tưởng. Anh đã quyết định thực hiện lời tiên tri đó. Anh đã mua một con tàu có cánh buồm đỏ thắm và đến đón Assol. Khi thấy con tàu có cánh buồm đỏ thắm xuất hiện, Assol vô cùng vui mừng. Cô đã tin rằng chàng hoàng tử trong lời tiên tri đã đến. Cô đã cùng cha lên tàu và cùng Arthur Gray đi đến một miền đất mới, nơi có hạnh phúc và niềm vui. Ý nghĩa câu chuyện Cánh buồm đỏ thắm là một câu chuyện lãng mạn, mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc. Câu chuyện ca ngợi tình yêu, ước mơ và niềm tin của con người. Tình yêu là một thứ tình cảm thiêng liêng và cao đẹp. Tình yêu có thể vượt qua mọi rào cản, thử thách để đến với nhau. Tình yêu của Assol và Arthur Gray là một tình yêu đẹp, chân thành và đáng trân trọng. Ước mơ là động lực để con người cố gắng vươn lên trong cuộc sống. Ước mơ có thể giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đạt được thành công. Ước mơ của Assol là một ước mơ đẹp, một ước mơ đáng được ghi nhận. Niềm tin là sức mạnh giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Niềm tin có thể giúp con người đạt được ước mơ. *** “Thức tỉnh đi! Đừng có ở đó mà mơ mộng nữa, chẳng bao giờ có ông bụt hay bà tiên nào cả! Cuộc đời không giống như là mơ đâu!”. Chắc hẳn rằng, sẽ có đôi lúc, ai trong chúng ta cũng tự nhủ với lòng mình như vậy! Nhưng sống là phải có ước mơ chứ! Cho dù ước mơ của bạn chỉ nhỏ bé thôi nhưng nó lại là một ước mơ đẹp thì hãy đặt niềm tin vào đó, bạn sẽ luôn cảm thấy hạnh phúc! Nếu bạn sống trong cuộc đời này mà chưa có lấy một ước mơ cho riêng mình thì tôi khuyên bạn nên bớt chút thời gian đọc cuốn sách  Cánh buồm đỏ thắm - The Scarlet Sails  của nhà văn Aleksandr Grin, cuốn sách sẽ giúp bạn nhận ra niềm tin, ước mơ có sức mạnh to lớn đến chừng nào! Cánh buồm đỏ thắm  là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Nga Aleksandr Grin (1880-1932) - một nhà văn tiêu biểu cho chủ nghĩa tân lãng mạn. Đúng như chủ nghĩa văn học mà ông theo đuổi,  Cánh buồm đỏ thắm  cũng là một tác phẩm thuộc dòng cảm hứng ấy, nó như câu chuyện cổ tích thời hiện đại cứ dạt dào âm vang, làm sống dậy niềm tin yêu của bao thế hệ đã từng một lần đọc truyện. Đừng nghĩ rằng câu chuyện viết  chỉ  dành cho lứa tuổi thiếu niên mà chính mà ai trong các bạn cũng nên đọc một lần để thấy rằng khi không có niềm tin, có ước mơ thì cũng chúng ta đã sống hoài, sống phí cuộc đời này như thế nào!   Cô bé Assol sống với cha là một thủy thủ nghỉ hưu sau khi mẹ cô là Mary mất sớm. Khi ấy cô gái bé nhỏ chưa tròn một tuổi. Cha cô - Longren đã từ bỏ nghề thuỷ thủ mà ông gắn bó đã mười năm để ở nhà chăm sóc cô, ông làm các đồ chơi với những hình ảnh gợi về nghề thủy thủ để bán kiếm tiền. Khi Assol lớn hơn một chút ông để con gái tự mang đồ đi bán. Một lần trong khi mang đồ chơi đi ngang qua cánh rừng, Assol đã gặp ông già Elge. Ông kể cho cô bé nghe về cuộc sống ngoài biển cả và nói với cô rằng, lớn lên sẽ có một chàng hoàng tử lái con tàu có cánh buồm đỏ thắm đến đón cô. Thế là Assol đã tin vào điều đó mặc cho sự gièm pha, chế giễu của người dân trong làng. Cuối cùng niềm tin đã chiến thắng tất cả. Câu chuyện kết thúc với đúng những gì mà ông già Elge kia đã nói, đúng như niềm tin của Assol - một chàng hoàng tử với chiếc thuyền đỏ thắm đã đến và đưa cha con cô đi đến xứ sở của hạnh phúc!   Tình phụ tử - sức mạnh tinh thần bất diệt.   Mở đầu câu chuyện không hề có hình ảnh ngôi làng Kaperna yên bình, ấm no hay màu xanh tươi mát trong lành của nước biển, mà nó bắt đầu với hình ảnh của một bầu trời xám xịt, đen tối. Mary - vợ của người thủy thủ kì cựu Longren dù mệt mỏi, kiệt sức nhưng với tình yêu thương con chị vẫn cố gắng xuống phố đổi chiếc nhẫn - gia sản cuối cùng của chị để lấy tiền mua thức ăn cho con mà chẳng bận tâm đến sức khoẻ của mình. Đêm đông lạnh buốt, đói rét bao trùm đã khiến chị bị viêm phổi nặng, người phụ nữ nghèo khổ ấy đã qua đời một tuần sau đó để lại đứa con thơ. Đó là một nỗi đau lớn đối với Longren, nỗi đau tinh thần chẳng loại thuốc nào có thể chữa khỏi! Đó không chỉ là một sự mất mát vô cùng to lớn đối với ông mà đồng thời đó cũng là vết thương lòng sâu sắc, ảnh hưởng đến đứa con gái bé bỏng Assol, sinh ra mà chưa thể cảm nhận hết tình yêu thương của người mẹ. Nhân vật Longren được tác giả Aleksandr khắc họa là một người trầm tính, lạnh lùng nhưng cũng sống rất tình cảm. Hiểu được những thiếu thốn của đứa con gái thân yêu khi không được hưởng trọn vẹn tình yêu thương của cả cha và mẹ, ông càng yêu thương con hơn bao giờ hết. Longren luôn cố gắng chăm sóc và yêu thương đứa con gái Assol của mình hết mức có thể, như là một sự bù đắp cho phần bỏ trống của tình yêu từ người mẹ. Khó có thể phủ nhận rằng tình thương con sâu nặng của Longren đã chạm mạnh tới cảm xúc người đọc như thế nào. Ông là đại diện của bao người cha, người mẹ. Ông lớn lao biết bao khi dịu dàng bảo vệ con gái mình giống như những người làm cha mẹ khác. Có thể nói, Aleksandr đã rất thành công trong việc truyền tải tình cha con thiêng liêng đến bạn đọc.  Longren có thể đánh đổi tất cả để bảo vệ con gái nhưng cũng có thể tàn nhẫn bỏ mặc kẻ thù trong tình cảnh lâm nguy. Kẻ thù ấy chính là Mecne - người không bao giờ có thể đội trời chung với ông. Ông căm giận hắn đến xương tuỷ. Vì hắn mà Mary phải chết. Cũng vì hắn mà đứa con gái ông yêu quý phải sống không có mẹ. Longren là thế đấy, tốt tính nhưng cũng rất tàn bạo với những ai chà đạp lên hạnh phúc gia đình mà ông luôn cố gắng gìn giữ. Longren chính là một biểu tượng của tình thương con cao cả!   Lời tiên đoán - động lực của niềm tin, của hạnh phúc trong mơ!   Cô gái bé nhỏ với cái tên đầy dễ thương: Assol, lại mồ côi mẹ, phải sống cùng cha Longren ở một hòn đảo nhỏ. Hai cha con bị mọi người trong làng hiểu lầm bởi những suy nghĩ và hành động khác thường, đâm ra ghét bỏ và kì thị. Nhưng đâu cần một lời giải thích, cũng chẳng cần một lời thanh minh với những người không hiểu chuyện, hai cha con vẫn cứ yêu thương, đùm bọc nhau mà sống, bỏ mặc ngoài tai sự chế giễu của người đời, sống cuộc sống chỉ là của riêng hai cha con thôi nhưng đó là sự bình yên hơn bao giờ hết! Assol đã được một ông già tiên đoán rằng: một ngày nào đó, khi cô lớn lên, sẽ có một hoàng tử đến đón cô trên một con thuyền lớn với những cánh buồm màu đỏ thắm. Với người dân trong làng Kaperna, sau khi câu chuyện đến tai họ, họ cho rằng đó là một lời tiên tri thật điên rồ. Bởi vì chưa từng có và chắc chắn rằng sẽ chẳng bao giờ có con tàu lớn, hay con tàu với cánh buồm đỏ thắm nào ghé đến hòn đảo nhỏ bé, nghèo nàn này cả. Ngay cả cha cô bé khi nghe câu chuyện cũng không tin là lại có một phép màu, một lời tiên đoán nào kì diệu đến thế, ông thầm nghĩ: “ Sau này con sẽ phải nhìn thấy không phải là cánh buồm đỏ thắm mà là những cánh buồm bẩn thỉu, độc địa, trông từ xa thì có vẻ đẹp đẽ, trắng trẻo, đến gần thì rách nát, xấu xa. Một người qua đường nào đó đã đùa với con tôi”.  Dù vậy, ông cũng không nỡ cướp mất niềm tin trong trẻo của đứa con thơ, ông luôn củng cố niềm tin ấy cho con, giúp con tránh xa những điều độc ác, giúp con luôn tràn đầy niềm lạc quan, tin tưởng vào chính cuộc đời này! Chính nhờ những điều ấy mà  niềm tin của một đứa trẻ trở thành bất diệt. Assol tin vào điều đó và nuôi dưỡng giấc mơ đó từng ngày mặc kệ mọi người cười chê và cho rằng cô là người không bình thường. Cả ông già Elge nữa - người đã vẽ nên con tàu với cánh buồm đỏ thắm và tạo niềm tin đến tâm trí của cô bé Assol. Ông gieo một hy vọng đến cuộc đời của Assol với một lời tiên tri, một sự đoán trước tương lai rộng mở. Nó như một động lực để cô có thể đối mặt và bước tiếp trong cuộc sống đầy chông gai của mình. Chỉ là một cuộc gặp gỡ tình cờ thôi, nhưng chính lời tiên đoán ấy đã thắp lên sự sống, niềm tin của Assol vào tương lai! Trong cuộc đời này cũng vậy, ai trong chúng ta cũng sẽ gặp những người dẫn đường, những người đã tiếp thêm sức mạnh để ta tiếp tục phấn đấu thực hiện ước mơ.   Ở vùng đất bên kia ngôi làng cũng có một ước mơ đẹp tựa như thế... "Chàng hoàng tử" trong truyện là con trai một gia đình giàu có - Arthur Gray. Ngay từ nhỏ, cậu bé đã không thích sống trong sự giàu sang quyền quý bên trong lâu đài kia, cậu hoàn toàn không thích thú gì với cái gọi là  “làm vẻ vang dòng dõi” .  Ước mơ của cậu bé là  được trở thành một thủy thủ. Để thực hiện ước mơ ấy, cậu rời nhà ra đi mặc sự can ngăn, doạ nạt của cha, cậu xin vào làm thủy thủ tàu Anselm. Ban đầu thuyền trưởng Hop có vẻ không tin cậu thiếu niên nhà giàu này có thể chịu được khắc nghiệt nơi đầu sóng  ngọn gió , nhưng qua chuyến đi biển dài ngày cùng cậu, Gray đã hoàn toàn làm thuyền trưởng Hop nể phục. Sau này, cậu rời bỏ thuyền Anselm để tự mua một con tàu cho riêng mình - tàu  "Bí mật" . Thay vì nối gót cha trở thành một ông chủ quyền thế, cậu chọn cho mình nghề thuyền trưởng, bạn đồng hành của cậu là chiếc thuyền lớn gắn bó với biển cả mênh mông. Đâu dễ dàng gì cho nghề thuỷ thủ ấy, có những lúc Gray phải hứng chịu những đau đớn khi  "vòng dây xích neo cuốn anh ngã đập người vào boong tàu, có khi dây chão không quấn được vào cọc trụ tuột khỏi tay anh làm bong cả mảng da tay, có khi một góc buồm ẩm ướt đính những vòng sắt bị gió thốc đập mạnh vào mặt anh;...".  Nhưng trong tim chàng trai ấy luôn rực cháy sức mạnh của tình yêu nghề, của chiến thắng, không bao giờ từ bỏ quyết tâm!   Hiện thực hoá ước mơ, lời tiên tri không còn là mộng tưởng... Một hôm, trên đường đi, đoàn  tàu của Gray đi ngang qua làng Kaperna (nơi Assol đang sống), chàng chợt có hứng muốn câu cá nên thủy thủ đoàn đã dừng chân ở đây. Tại bụi cỏ gần khu rừng họ nghỉ chân, Gray tìm thấy Assol đang ngủ và ngay lập tức yêu cô. Anh cởi chiếc nhẫn trên tay và nhẹ nhàng đeo cho cô mà cô chẳng hề hay biết. Sau đó, Gray vào làng để tìm hiểu thêm về cô gái mình vừa gặp, và biết được câu chuyện về con thuyền với cánh buồm đỏ. Muốn hiện thực hoá lời tiên tri mà dân làng từ trước đến nay vẫn luôn cười nhạo cha con Assol, anh đã chuẩn bị con tàu y hệt như lời kể và đến rước cô trong sự ngỡ ngàng của dân làng. Chính Gray đã làm được điều kỳ diệu đó, anh đã tự mình hiện thực hóa chuẩn xác và hoàn hảo đến từng chi tiết trong lời tiên tri của ông già Elge. Một buổi sớm mai, Gray - chàng hoàng tử của Assol xuất hiện. Chàng đến đón cô và cha trên con tàu với những cánh buồm màu đỏ thắm. Một tình yêu trong sáng và thuần khiết, họ yêu nhau từ lần gặp đầu tiên và biết đó chính là định mệnh. Câu chuyện tình yêu lãng mạn kinh điển này đã tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho những người trẻ thêm tin vào tình yêu chân chính. Không chỉ dừng lại ở một câu chuyện  tình  lãng mạn, nhà văn đã khéo léo truyền tải thông điệp đến với độc giả về niềm tin vào những điều kì diệu: Điều kì diệu trong cuộc sống là do chính chúng ta tạo nên và nắm bắt. “Tôi đang đến với người con gái đợi và chỉ đợi mỗi mình tôi, còn tôi thì không muốn ai ngoài cô ấy, có lẽ chính nhờ cô ấy mà tôi ngộ ra được một chân lý đơn giản. Đó là phải tự tay mình tạo ra những điều kỳ diệu” Không chỉ là ước mơ, là niềm tin, câu chuyện dần khép lại trong hạnh phúc của cặp vợ chồng trẻ cùng thông điệp ý nghĩa mà Gray sau bao năm sống cuộc đời của một người thủ lĩnh nhận ra rằng: “Nhưng còn có những điều không kém phần kỳ lạ hơn: đó là nụ cười, niềm vui, lòng độ lượng và có thể chỉ là một lời cần thiết được nói đúng lúc. Có được cái đó có nghĩa là có tất cả.” Cánh buồm đỏ thắm  hệt như một câu chuyện cổ tích vậy. Assol, cô bé tin rằng - một ngày kia ước mơ sẽ quay trở lại - nhưng là trên một con tàu thực sự -  “một con tàu với cánh buồm đỏ thắm như tình yêu mà chàng hoàng tử sẽ dành cho cô” . Cuộc hội ngộ của hai nhân vật như một bản tình ca được viết nên từ những nốt nhạc thần tiên trong cổ tích, không toan tính, không vụ lợi, chẳng còn nỗi cô đơn và sự sợ hãi như cũng biến tan cùng bọt nước. Cánh buồm đâu chỉ đơn thuần là dấu hiệu để họ nhận ra nhau giữa biển cả bao la mà chính cái màu đỏ thắm ấy như ẩn dụ cho màu của niềm tin và sự trân quý những giá trị đẹp đẽ trong cuộc đời. Màu đỏ như màu nắng soi sáng cho con người để họ không đi vào con đường lầm lạc, để tâm hồn cô bé Assol không bị hoen ố, lụi tàn bởi những cái xấu xa, để chàng trai Gray không còn đắm mình trong nỗi cô đơn đến nỗi không nhận ra mình phải làm gì, phải đi kiếm tìm điều gì trong cuộc đời mênh mông vô định…   Những câu văn ngọt ngào trải dài từng trang sách mỏng, khiến người đọc phải ngất ngây trong một cảm xúc khó diễn đạt thành lời:  “Từ một nơi rất xa, rất xa, anh nhìn thấy em trong mơ và anh đã đến đây, để đem em đi mãi mãi về xứ sở của anh. Em sẽ sống với anh nơi ấy, trong một thung lũng đầy hoa hồng. Em sẽ có tất cả những gì em mơ ước, chúng ta sẽ sống thuận hoà, vui vẻ với nhau và tâm hồn em sẽ không bao giờ biết đến nỗi buồn và nước mắt” . Dịu dàng và ấm áp, chàng trai đưa cô lên thuyền, đi về xứ sở xa xăm - nơi mặt trời thức dậy và những vì sao trên trời sa xuống để đón chào ngày mới… “Câu chuyện thần thoại mà người đời sau sẽ còn nhớ mãi, có lần vào buổi sớm mai, từ phía biển khơi xa tít tắp sẽ hiện ra rực rỡ dưới ánh mặt trời một con tàu với cánh buồm đỏ thắm, uy nghiêm rẽ sóng lướt đi, tiến gần lại bờ trong tiếng nhạc du dương. Rồi từ con tàu đó, sẽ có một vị hoàng tử khôi ngô tuấn tú đứng trên thuyền, đến đây để đưa em đi mãi mãi về xứ sở của chàng”. Lời kết.  Cánh buồm đỏ thắm  là một câu chuyện lãng mạn dành cho lứa tuổi mới lớn của nhà văn Aleksandr Grin. Tác phẩm được ông tận tâm sáng tác trong sáu năm, từ năm 1916 đến 1922 mới hoàn tất và đã được hãng Mosfilm chuyển thể thành phim năm 1961, được sự đón nhận của rất nhiều độc giả ở khắp mọi nơi trên thế giới! Các bạn có thể xem phim cũng có thể đọc truyện nhưng với những ai muốn tự mình cảm nhận, muốn hiểu tận sâu ý nghĩa của câu chuyện thì hãy một lần tìm đến một trong những quyển sách tuyệt vời này nhé! Mong rằng sau khi gấp cuốn sách lại, bạn sẽ tìm ra ước mơ của chính mình, sống một cuộc đời thật ý nghĩa hơn bao giờ hết!  Review chi tiết bởi Kim Chi –  Bookademy Mời các bạn mượn đọc sách Cánh Buồm Đỏ Thắm (Song Ngữ) của tác giả Alexander Grin & Ngô Thanh Tâm (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiểu Thuyết Anna Karenina (Tiếng Việt)
Anna Karenina là một tiểu thuyết của nhà văn Nga, Lev Nikolayevich Tolstoy, được đăng tải nhiều kỳ trên tờ báo Người đưa tin từ năm 1873 đến năm 1877 trước khi xuất bản thành ấn phẩm hoàn chỉnh.   Lev Tolxtoi (1828 - 1910) là một trong những nhà văn cổ điển lớn nhất nước Nga, đã viết nhiều tác phẩm nổi tiếng:   - Truyện kể về Xevaxtopol,   - Luyxerno, Bốn năm sau khi viết xong Chiến tranh và Hòa bình, ngày 19-3- 1873, L. Tolstoi lại hạ bút viết dòng đầu tiên của cuốn tiểu thuyết dài Anna Carenina. Cũng như nhiều nhà văn hồi đó, Tolstoi chịu ảnh hưởng của Puskin. Ông nói: "Tôi học tập được nhiều ở Puskin, ông là người cha của tôi, ta nên học tập ông". Đây không phải là ảnh hưởng bề ngoài về cách viết, giọng văn; cũng không phải là vay mượn, bắt chước cốt truyện này nọ. Những tác phẩm Puskin đã khơi dậy tất cả sức lực sáng tác sẵn có của Tolstoi, thôi thúc ông làm việc và gợi nhiều ý sáng tác tốt, mới. *** Anna Karenina - Nàng thơ với vẻ đẹp u buồn của Lev Tolstoy Nếu bài thơ Tôi Yêu Em của thi hào Nga Pushkin được khởi nguồn từ mối tình không thành với con gái viện sĩ viện Hàn lâm Nga thì cuốn Anna Karenina của Lev Tolstoy được lấy ý tưởng từ con gái của Pushkin. Đó là cô Maria Pushkina. Trong lần đầu gặp gỡ Pushkina tại bữa ăn tối, Lev Tolstoy đã bắt đầu lưu ý tưởng viết cuốn sách ấy. Cũng có thể nói con gái nhà thơ Pushkin chính là nguyên mẫu của hình tượng nàng thơ Anna Karenina trong cuốn tiểu thuyết của tên. Kể từ ngày đầu phát hành vào năm 1877, cuốn sách Anna Karenina đã gây được tiếng vang trong giới phê bình văn học Nga. Cuộc sống khắc họa một bóng dáng nàng thơ u buồn Anna Karenina. Cô sống trong vòng dây xiềng xích, trói buộc tự do trong xã hội Nga những năm bất ổn chính trị với tư tưởng phong kiến già cỗi. Anna Karenina vốn rất yêu tiểu thuyết, cô đọc nhiều cuốn sách và cảm thấy như đó là cách để cô sống những cuộc đời khác. Những cuộc đời tự do, tự chủ và hạnh phúc hơn. Những thứ mà cô chưa từng biết đến, chưa từng nếm trải. Mọi chuyện bắt đầu từ lòng ham mê quyền thế và tiền bạc của bà cô của Anna. Bà đã đem Anna gả cho Karenin, một người có danh vọng và quyền lực, một người mà Anna không có tình yêu. Cuộc hôn nhân ấy đem đến cho gia đình Anna những lợi ích lớn. Anh trai của cô trở thành Chánh án dù có thành tích học tập không tốt. Tất cả là nhờ quyền lực của Karenin. Và cuộc hôn nhân ấy cũng chấm dứt tất cả cuộc đời tự do, hạnh phúc của Anna Karenina. Cuốn sách một nghìn trang: một xã hội Nga đương thời thu nhỏ Ngài Karenin, chồng của Anna là một người có danh vọng và địa vị trong chính trường. Vì thế ông luôn quan tâm cách xã hội thượng lưu nghĩ gì về mình hơn là tự yêu thương và nhìn nhận bản thân. Người ta vẫn hay nói một câu rất hay: "Sống ở đời đau khổ nhất là nhìn người khác mà sống và sống để người khác nhìn.". Có lẽ Karenin chính là loại người như vậy. Ngài luôn làm theo những gì giới thượng lưu trông đợi, khiến mọi người phải ngưỡng mộ. Đó là thứ sĩ diện hão vốn phổ biến và bao trùm lên nước Nga trong những năm đầy biến động. Mọi thứ trong cuộc đời ngài Karenin đều vận hành như kế hoạch bản thân vẽ ra. Kể cả việc lấy vợ, kết hôn cùng Anna Karenina cũng là vì muốn giới thượng lưu nhìn thấy, mọi người ngưỡng mộ. Karenin lấy Anna vì cho rằng mình phải làm như vậy. Vì Anna là một người phụ nữ học thức, có khả năng quán xuyến gia đình, xã giao với giới thượng lưu, chứ không phải vì yêu và hoàn toàn không có tình yêu. Hôn nhân chỉ là một thứ làm đầy đủ, trang hoàng cho những thứ mà ngài Karenin có. Là thứ làm đẹp dòng họ Karenin trong xã hội Nga đương thời. Nhiều người vẫn nghĩ rằng Anna Karenina khi lấy ngài Karenin, đặt chân vào giới thượng lưu sẽ có cuộc sống hạnh phúc. Nhưng cuộc đời của người thiếu phụ trẻ ấy trong tám năm hôn nhân lại là những cuộc móc nối quan hệ thượng lưu theo ý của chồng. Ngài Karenin luôn muốn Anna phải làm quen với những phu nhân, tiểu thư của tầng lớp quý tộc giúp ngài. Khi ấy ngài sẽ dễ dàng trong con đường sự nghiệp hơn. Anna Karenina không thích tiệc tùng, cô chưa từng muốn đặt chân đến những nơi ấy. Cô yêu tiểu thuyết, yêu nghệ thuật, yêu những thứ gọi là cái đẹp, gọi là tự do. Nhưng cô lại sống suốt tám năm trong cái cuộc sống, trong cái xiềng xích khóa chặt tự do mà chính người cô ruột của mình đã đặt lên cổ mình. Chỉ vì tiền, người cô ruột đã đem Anna gả cho ngài Karenin. Và chỉ vì tiền mà bà cô ấy đã đốt tự do, hạnh phúc đời đứa cháu ruột Anna của mình cháy thành tro tàn. Chuyến xe lửa tình cờ Anna sẽ sống trong sự sắp đặt đến hết cuộc đời mình mãi cho đến khi cô đi chuyến xe lửa tình cờ ấy, gặp con người định mệnh đó. Đó là chàng sĩ quan Vronsky. Đại úy Vronsky là con người tự do, quyết đoán và can đảm. Anh từng nói: "Tôi sinh ra là người Digan và sẽ chết như người Digan.". Digan vốn là một tộc người yêu tự do, thích lang thang và phóng khoáng. Sĩ quan Vronsky cũng vậy, anh thích sống và yêu một đời tự do. Nhưng anh lại yêu Anna, một người không được phép sống cuộc đời đó. Đại úy Vronsky phải lòng Anna Karenina trên đoàn tàu xa lạ không hẹn ước. Chỉ một thoáng lãng mạn chàng sĩ quan đã không thể quên cô. Nhưng sau vài lần gặp gỡ, Vronsky nhận ra, có lẽ anh với Anna là yêu nhưng không thể yêu. Anh bước xuống, cố gắng không nhìn cô quá lâu như kiểu người ta tránh nhìn mặt trời. Nhưng cũng như mặt trời, anh vẫn trông thấy cô dù chưa một lần chạm mắt Người thiếu phụ ấy dẫu bị ép lấy ngài Karenin nhưng họ vẫn là vợ chồng. Dẫu họ không hạnh phúc, Anna không hạnh phúc nhưng giới thượng lưu lại công nhận họ hạnh phúc. Còn Vronsky chẳng là gì cả, anh chỉ là một người trót yêu Anna. Một người xa lạ bên chuyến tàu định mệnh đem đến cho Anna sự hy vọng đầu tiên trong đời. Nhưng có lẽ đó chính là sự hy vọng muộn màng và bi thương. Người ta vẫn hay nói một câu rất hay: "Một trong những đau đớn của đời người là lúc chưa có năng lực lại gặp người mình muốn chăm sóc cả đời.". Có lẽ câu nói này giống với số phận của sĩ quan Vronsky. Lúc trong tay anh không có gì cả, lại gặp được người anh muốn che chở một đời. Gặp đúng người, nhưng lại sai thời điểm. Vronsky đã gặp Anna muộn mất tám năm trong khi cô đang đau khổ. Nhưng anh không thể bước tiếp mà chỉ có thể lùi lại phía sau. Vì Vronsky đã chậm mất tám năm, lỡ mất một đời. Vronsky không thể bước tiếp, còn Anna Karenina, cô lùi bước. Cô trở về Matxcova, kết thúc chuyến thăm quê sớm hơn dự kiến. Và chấm dứt hy vọng cuối cùng của mình với Vronsky. Màu sắc lãng mạn làm nền cho yếu tố hiện thực và tư tưởng tự do Qua cuốn sách Anna Karenina, Lev Tolstoy muốn chứng minh một điều rằng lãng mạn không phải là thứ vẻ đẹp để tô hồng cho cuộc sống hàng ngày. Lãng mạn không phải thứ xa xỉ mà người ta vẫn nói với nhau. Không phải là thứ sách viết về mở đầu thì phải yêu nhau đắm đuối. Không phải là thứ sách gợi cho người đọc quan tâm đến kết thúc là đau khổ hay vui vẻ, cặp đôi yêu nhau có đến nhau được hay không. Sau tất cả đó chỉ là tình yêu chứ không là gì cả, không có ý nghĩa nhân văn nào cả. Anna Karenina là cuốn sách muốn nói với người đọc và xã hội đương thời rằng tự do còn quan trọng hơn cả tình yêu, con người cần yêu trong tự do và đó là quyền của họ. Trong hiến pháp của Mỹ năm 1877, Tổng thống Washington đã tuyên bố rằng: Chúng tôi khẳng định những chân lý này là hiển nhiên, mọi người sinh ra đều bình đẳng, họ được Tạo hoá ban cho một số quyền tất yếu bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhưng cuộc đời của Anna Karenina lại không có những quyền đó. Cô đã không hạnh phúc, không có quyền hạnh phúc. Đã không có tự do, bị ép sống không có tự do. Cô đã bị gượng ép kết hôn và không có quyền ly hôn. Cuốn sách đặt ra một câu hỏi tình huống nhức nhối muốn người đọc trả lời. Đó là nếu sống cuộc đời hôn nhân bị ép buộc thì phải làm sao. Chịu đựng hay ly hôn và đi tìm hạnh phúc của mình? Anna đã chịu đựng tám năm, cô không muốn phải sống như vậy nữa. Nhưng lại không thể ly hôn. Vì định kiến xã hội đương thời không cho phép một phụ nữ thượng lưu ly hôn. - Làm tất cả, nhưng đừng ly dị! - Darya Alexandrovna đáp. - Chị hiểu tất cả là thế nào? - Chao, thật ghê sợ! Cô ấy sẽ không phải là vợ của ai nữa, đời cô ấy thế là bỏ đi! Cuộc đời thế là bỏ đi - đó là cách mà xã hội nhìn nhận những người phụ nữ có ý định ly hôn. Giá trị của người phụ nữ đến thế là cùng. Anna Karenina đã không còn đường lui nữa. Phía trước cô là định kiến xã hội, còn phía sau cô lại là cuộc hôn nhân mất tự do. Không thể bước tiếp nữa, nhưng cũng không thể lùi bước được nữa. Sức chịu đựng của một người đến thế là cùng, ròng rã suốt tám năm, cô không thể chịu đựng được nữa. Cô sống trong cuộc hôn nhân đau khổ với ngài Karenin, nhưng khi gặp sĩ quan Vronsky thì lại càng đau khổ hơn. Có lẽ đại úy Vronsky cũng giống như thứ ánh sáng đẹp đẽ, cao quý làm đau mắt một người đã ngần ấy năm không nhìn thấy ánh sáng như Anna. Cô chỉ còn cách chọn con đường thứ ba, con đường buông bỏ. Buông bỏ cả đau khổ và và niềm vui muộn màng với sĩ quan Vronsky, buông bỏ cả tự do và định kiến. Sẽ không có cách nào để thoát khỏi định kiến nếu không buông bỏ tự do của bản thân. Đó là điều mà xã hội già cỗi đương thời của Nga đem đến cho thần dân nước mình khi họ muốn sống một đời tự do. Giải thoát bản thân mình bằng cái chết, Anna Karenina không chỉ muốn thoát thoát khỏi đớn đau mà còn muốn giáng một đòn mạnh mẽ vào ý thức hệ già cỗi, lạc hậu của nước Nga lúc bấy giờ. Và luồng sáng đã soi cho nàng thấy rõ cuốn sách cuộc đời mình với biết bao lo âu, phản phúc và đau khổ, lúc này càng bừng lên chói lọi hơn, rọi chiếu vào mọi vật bấy lâu nay chìm trong bóng tối; rồi nó rung rinh, mờ đi và tắt ngấm vĩnh viễn. Mãi về sau, đến năm 1941, khi tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao ra đời, người ta vẫn nhắc mãi về Anna Karenina của Lev Tolstoy: cái chết của Chí Phèo và Anna Karenina sao mà giống nhau quá. Chí Phèo muốn sống lương thiện nhưng không thể lương thiện, Anna Karenina muốn tự do nhưng không thể tự do. Họ chỉ đành tìm đến cái chết để giải thoát bản thân mình. Và cũng để những người sống đau khổ như họ không phải sống cuộc đời như vậy nữa. Cái chết ấy bất lực, là tiếng thét oan khuất giữa xã hội đầy biến động, đầy bất công. Nhưng cái chết ấy lại dũng cảm, là lời tố cáo đanh thép về một xã hội thiếu tự do được viết bằng máu và nước mắt của Anna Karenina. Anna Karenina- tác phẩm lớn nhất mọi thời đại do tạp chí Times bình chọn Cuốn sách Anna Karenina của Lev Tolstoy được phát hành lần đầu năm 1877, sau 147 năm, cuốn sách vẫn vẹn nguyên giá trị. Cuốn sách ấy vinh dự được Times bình chọn là tác phẩm lớn nhất mọi thời đại và gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền tư tưởng thế giới. Văn hào Lev Tolstoy, tác giả của cuốn sách Anna Karenina được tôn xưng là "Sư tử văn học Nga". Ông là nhà tư tưởng, cải cách giáo dục lớn với chủ nghĩa hoà bình và tư tưởng bất bạo động. Qua Anna Karenina ông đã làm thay đổi nhận thức của xã hội về tư tưởng tự do đương thời: Trên hết, tôi sẽ không muốn mọi người nghĩ rằng tôi muốn chứng minh bất cứ điều gì. Tôi không muốn chứng minh bất cứ điều gì, tôi chỉ muốn sống; không gây ác cho ai ngoài bản thân mình. Tôi có quyền, phải không? Tư tưởng của Lev Tolstoy đã gây ảnh hưởng đến những con người có khả năng gây ảnh hưởng lớn cho xã hội. Trong đó có nhà lãnh đạo đảng Quốc Đại Ấn Độ, người đấu tranh cho tự do, Mahatma Gandhi. Martin Luther King, Jr, chủ nhân của giải Nobel Hòa bình năm 1964 cũng là người chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng tự do bất bạo động của Lev Tolstoy. Có thể thấy, giá trị lớn nhất của một cuốn sách không phải là chân hay mỹ mà chính là thiện, là giá trị xã hội lan tỏa và làm xã hội tốt đẹp hơn. Đó còn là lòng yêu thương và bao dung, là con người cần được yêu thương và có quyền sống hạnh phúc. Trong tất cả nỗi buồn của con người, không có gì mang lại sự an ủi ngoài tình yêu và đức tin, và trong tầm nhìn của lòng từ bi của Chúa Kitô đối với chúng ta, không có nỗi buồn nào là tầm thường. Cuốn sách Anna Karenina không kết thúc bằng sự ra đi của Anna, mà là cuộc hành quân tình nguyện của sĩ quan Vronsky. Sau ngày Anna rời bỏ thế gian, trong lòng Vronsky có những chuyển biến quan trọng. Chàng sĩ quan rời quê hương và tham gia đội quân tình nguyện trong chiến tranh giúp Serbia chống lại Thổ Nhĩ Kỳ. Vẫn là lòng tin đó, lòng tin tự do không xa sẽ đến. Cùng với Chiến Tranh Và Hòa Bình, cuốn sách Anna Karenina đã đem tư tưởng tự do của Lev Tolstoy đi khắp thế giới. Sống tự do và hạnh phúc luôn là điều viên mãn nhất trên đời. Và khi nào, nơi nào đó trên thế gian này còn thiếu hai điều ấy, thì con người sẽ tiếp tục đấu tranh. Vì lẽ phải luôn đúng và luôn chiến thắng tất cả. Bài viết bởi Trần Hạnh - Bookademy Mời các bạn mượn đọc sách Tiểu Thuyết Anna Karenina (Tiếng Việt)của tác giả Lev Tolstoy.
Bí Ẩn Một Cái Tên
Cô bé 12 tuổi Heidi không biết ngày sinh của mình, không biết quê hương của mình ở đâu và cũng không biết cha ruột của mình là ai. Quả thực, mọi điều về quá khứ của Heidi và người mẹ thiểu năng của cô bé là một bí mật lớn. Khi bị ám ảnh bởi soof - một từ lạ trong vốn từ vựng của Mẹ, Heidi quyết định thực hiện một cuộc hành trình dọc đất nước để tìm kiếm bí mật về quá khứ của mình. Rời xa gia đình, những mảnh vụn của lịch sử cá nhân cô bé dần được ghép lại thành một bức tranh hoàn chỉnh. Nhưng khi biết được về sự thật mình là ai, mình từ đâu tới... liệu rằng điều đó có khiến Heidi cảm thấy hài lòng, và trên hết, có làm cho cô bé hạnh phúc như trước khi thực hiện cuộc hành trình truy tìm quá khứ. *** “So B. It - Bí ẩn một cái tên” (NXB Hội Nhà văn) là tiểu thuyết của Sarah Weeks, nữ văn sĩ người Mỹ rất thành công với những tác phẩm dành cho thiếu nhi và tuổi mới lớn. Lần này, độc giả cùng khám phá hành trình đi tìm thân thế của cô bé 12 tuổi. Một hành trình độc đáo, lạ lùng và thấm đẫm nhân văn. Câu chuyện được viết qua giọng kể của Heidi, cô bé 12 tuổi, sống với người mẹ bị thiểu năng trí tuệ trong một căn chung cư. May mắn là mẹ con cô có người hàng xóm tốt bụng Bernadette, một phụ nữ trung niên sống một mình sát vách nhà. Chính bà là người đỡ đần, chăm sóc 2 mẹ con từ khi Heidi mới chào đời. Do bác Bernadette mắc chứng sợ khoảng rộng, không thể ra khỏi nhà nên Heidi không được đến trường mà học tại gia do bác kèm cặp, dạy dỗ. Cuộc sống của 3 người chỉ quanh quẩn ở nhà, cửa hàng tạp hóa và thư viện gần đó. Người mẹ ngờ nghệch của cô bé chỉ có thể nói được 23 từ đơn giản, nhưng có một từ là Heidi luôn thắc mắc vì không tìm được nghĩa dù đã tra nhiều từ điển, đó là từ “soof”. Cho đến một ngày, Heidi phát hiện ra chiếc máy ảnh cũ và sau khi rửa hình, cô thấy có mẹ mình cùng những người lạ trong một trại nuôi dưỡng người khuyết tật ở New York. Điều kỳ lạ là mẹ cô chỉ vào một bức hình kêu lên “soof”. Điều đó càng thôi thúc Heidi đi tìm ý nghĩa của từ “soof” và khám phá xuất thân của mình. Bởi từ trước đến nay, cô không biết cha mình là ai, không biết ngày sinh nhật và đặc biệt là mẹ cô không có một giấy tờ tùy thân nào ngoài một cái tên khó hiểu: “So B.It”. Heidi một mình bắt xe buýt đi suốt 4 ngày trời để đến trại Hillltop ở Liberty, New York, nơi mẹ cô có mặt trong những tấm hình để tìm hiểu về quá khứ của mẹ. Hành trình ấy đầy gian nan và  bất ngờ… Câu chuyện đầy những điều lạ lùng, thú vị cuốn hút người đọc dõi theo đến trang sách cuối cùng. Tác phẩm giúp người đọc hiểu hơn về chứng bệnh khoảng rộng, một chứng bệnh hiếm gặp trên thế giới, về những người thiểu năng trí tuệ và cách họ thích nghi với cuộc sống. Cách dẫn dắt, đặt vấn đề của tác giả khiến người đọc tò mò, đặt ra hàng loạt câu hỏi: tại sao Heidi có vận may kỳ lạ khiến trong các trò chơi về óc phán đoán thì cô bé luôn chiến thắng? Tại sao mọi chi phí thuê nhà, hóa đơn điện nước… của hai mẹ con cô bé đều không phải trả? Tại sao không có bất cứ giấy tờ hay hình ảnh, tài liệu nào về thân thế của hai mẹ con?... Do đó, khi Heidi lên đường đi tìm sự thật, độc giả cũng háo hức muốn khám phá mọi điều cùng cô bé. Hành trình ấy đã giúp Heidi tiếp xúc với nhiều người, va chạm với cuộc sống thực tế, khám phá bao điều, có cả niềm vui lẫn nỗi buồn, hoang mang và sợ hãi… Từ một cô bé nhìn cuộc sống bằng đôi mắt thơ ngây, đơn giản, Heidi đã chững chạc hơn, bắt đầu biết băn khoăn day dứt hơn bởi những trải nghiệm thực tế. Những khám phá phảng phất màu sắc triết lý nhẹ nhàng của một cô bé 12 tuổi như Heidi nhận thấy việc nói dối chưa hẳn là đã xấu vì “Đôi khi người ta nói dối vì sự thật quá nặng nề để thừa nhận nó...”. Hay Heidi hiểu ra rằng “không biết một điều gì đó chẳng có nghĩa rằng ta ngốc nghếch. Nó chỉ có nghĩa rằng vẫn còn chỗ cho sự ngạc nhiên”. Nghĩa của từ “soof” và bí ẩn về cái tên của mẹ cuối cùng cũng được giải dù đổi lại là những mất mát, những khoảng trống trong tâm hồn cô bé. Dù vậy, cả Heidi và người đọc cũng không hối tiếc bởi nó xứng đáng và cần thiết. Hơn hết, hình mẫu nhân vật Heidi thông minh, dũng cảm, đáng yêu thật sự tỏa sáng trong lòng độc giả khi khép sách lại. CÁT ĐẰNG *** Lời khen tặng dành cho So B. It: “Cuốn tiểu thuyết có đủ sự hồi hộp để lôi cuốn những người ưa thích sự bí ẩn, đồng thời Weeks đã miêu tả sinh động cuộc phiêu lưu thể chất và xúc cảm của Heidi với sự chừng mực và tiết chế về ngôn từ đến mức đáng khâm phục.” - The Horn Book “Văn phong duyên dáng - chân thực, cảm động và được gọt giũa cô đọng đến mức tinh tế.” - ALA Booklist. “Những nhân vật thú vị, khác thường. Người đọc sẽ thực sự cảm động.” - VOYA. *** SARAH WEEKS là ca sĩ, người viết nhạc và một tác giả viết sách cho thiếu nhi. Cô đã viết hơn 30 cuốn truyện tranh và các tiểu thuyết cho teen. Weeks thường đi thăm các trường học và thư viện trên khắp nước Mỹ, đọc sách của mình, hát những bài hát do mình sáng tác và trò chuyện với trẻ em về việc viết lách. Sarah Weeks hiện sống tại thành phố New York cùng hai con trai. Bạn có thể ghé thăm cô trên trang web www.sarahweeks.com. Ta không thể thực sự biết về bộ não của Mẹ chỉ bằng cách nhìn vào bà, nhưng điều đó trở nên rõ ràng khi bà lên tiếng. Giọng của bà cao vói, giống như một đứa bé gái, và bà chỉ biết vỏn vẹn có hai mươi ba từ. Tôi biết điều này từ thực tế, vì chúng tôi giữ một danh sách những từ Mẹ nói, ghim nó ở tủ bếp. Phần lớn từ ngữ khá quen thuộc, giống như tốt và nữahay nóng, nhưng có một từ duy nhất Mẹ nói thì rất đặc biệt, soof. Tặng David - người đã dạy tôi rất nhiều về cả những điều biết và không biết. - S.W *** So B. It và hành trình đi tìm sự thật, Nếu bạn thích tìm kiếm cuốn sách viết về những sự thật lạ lùng đến khó tin, cuốn sách chứa đựng những điều bí ẩn và hồi hộp, cũng thật khó lòng đoán được kết thúc, có sức lôi cuốn mạnh mẽ đến mức không dễ dàng gì buông sách xuống nửa chừng… thì So B. It đúng là tác phẩm dành cho bạn. Có thể nói, So B. It là một tác phẩm độc đáo, từ giọng văn nhẹ nhàng mà có sức lay động kỳ lạ, đến một cốt truyện đơn giản nhưng sâu sắc, ẩn chứa những triết lý thông minh đáng để ngạc nhiên. So B. It được viết qua giọng kể của Heidi - cô bé 12 tuổi đáng yêu, ngây thơ và đầy tò mò - về hành trình tìm về sự thật, về quá khứ của chính mình. Heidi có một cuộc đời kỳ lạ: cô bé không biết về quá khứ, không biết cha mình là ai, không biết ngày sinh của chính mình. Cô bé sống cùng người mẹ bị thiểu năng, người chỉ có thể nói được 23 từ tất cả, và Bernadette - một phụ nữ hàng xóm bị bệnh sợ khoảng rộng không dám ra khỏi nhà. Cuộc sống của Heidi hầu như tách biệt với xã hội bên ngoài, cô bé tiếp xúc với thế giới thông qua sách vở, trí tưởng tượng và các chuyến đi mua sắm, đến thư viện gần nhà. Có thể nói, cô bé có một tuổi thơ êm đềm và hạnh phúc. Mọi chuyện xảy ra khi Heidi bị ám ảnh bởi một từ trong số từ vựng của mẹ mà cô bé không tìm ra nghĩa - soof. Cũng chính từ lạ này đã thôi thúc Heidi khám phá về quá khứ của mình, muốn tìm câu hỏi lý giải mình là ai, từ đâu tới? Và cô bé một mình thực hiện chuyến đi dọc nước Mỹ, từ Nevada tới New York, để tìm ý nghĩa của soof… Ngay dòng mở đầu, Heidi đã làm chúng ta phải tò mò: “Nếu như sự thật là một cây bút chì màu đang chờ tôi bọc lại rồi đặt tên cho nó một màu nào đó, tôi biết chính xác mình sẽ muốn nó có màu gì - màu da khủng long.” Và cứ thế, người kể chuyện sẽ dẫn dắt bạn bước vào cuộc phiêu lưu thể chất và xúc cảm của cô bé. Hành trình đi tìm từ soof của Heidi, hay hành trình đi khám phá ra mình là ai, đầy những điều ngạc nhiên thú vị và những cảm giác sợ hãi, thậm chí cả sóng gió bất ngờ chờ đợi cô bé ở đích đến. Lần đầu tiền Heidi thực sự bước ra thế giới, chặng đường đó với những trải nghiệm mới mẻ đã làm thay đổi Heidi. Từ một cô bé nhìn cuộc sống bằng đôi mắt thơ non, Heidi đã chững chạc hơn, bắt đầu biết băn khoăn day dứt hơn bởi những “sự biết” về cuộc sống. Có thể nói, câu chuyện là một hành trình cảm động hồi hộp, rất lôi cuốn với những nhân vật khác thường đồng thời rất thật. Một kết thúc đẹp và buồn, thật ngọt ngào và sâu lắng sẽ ám ảnh ta khi gấp cuốn sách lại. Điều làm tôi ấn tượng hơn cả về cuốn sách này đó là những trải nghiệm của Heidi về cuộc sống. Những khám phá phảng phất màu sắc triết lí nhẹ nhàng của một cô bé mười hai tuổi như những tia sáng nhỏ bé soi rọi vào mặt bên kia của những điều tưởng như đã trở thành chân lý hiển nhiên chẳng cần bàn cãi. Chẳng hạn, qua những gì chứng kiến, Heidi nhận thấy việc nói dối chưa hẳn là đã xấu: “Đôi khi người ta nói dối vì sự thật quá nặng nề để thừa nhận nó…” Hay Heidi hiểu ra rằng “không biết một điều gì đó chẳng có nghĩa rằng ta ngốc nghếch. Nó chỉ có nghĩa rằng vẫn còn chỗ cho sự ngạc nhiên.” Trong quá trình tìm về quá khứ của mình, Heidi cũng đã thừa nhận rằng có những điều vĩnh viễn chúng ta chẳng thể nào biết được, cho dù chúng ta cố gắng đến mấy để tìm hiểu về chúng. Ngay cả khi khám phá ra được sự thật - như sự thật gây ngỡ ngàng về quá khứ của mẹ Heidi - cũng không hẳn đã khiến cho chúng ta sống hạnh phúc hơn; nhưng dẫu vậy không dễ gì chúng ta từ bỏ được mong muốn được biết sự thật… Sarah Weeks, nữ văn sĩ người Mỹ rất thành công với những tác phẩm dành cho thiếu nhi và tuổi teen, thực sự sẽ làm bạn hài lòng qua tác phẩm So B. It. Những nhà phê bình văn học đã không quá lời khi khen ngợi So B. It là một cuốn sách với “văn phong duyên dáng - chân thực, cảm động và được gọt giũa cô đọng đến mức tinh tế”. Và trên hết, đây là một cuốn sách gây ám ảnh… Sài Gòn 9.4.2011 Nguyễn Hồng Dung   Mời các bạn mượn đọc sách So B. It - Bí Ẩn Một Cái Tên của tác giả  Sarah Weeks & Nguyễn Hồng Dung (dịch).
Hòm Thư Số 110
Tình yêu của anh nhón chân rón rén bước "Em đã bước vào vườn hoa của anh rồi nhỉ. Dù chưa được cho phép." Ở độ tuổi 30, bận bịu trong nhịp sống thường ngày quen thuộc khiến Jin Sol lẳng lặng đem cất những rung động tình yêu xa xỉ vào góc sâu trái tim. Mục tiêu cô đề ra là “Đừng để lòng vướng bận”. Song lẽ dĩ nhiên, trời chẳng chiều lòng người, đợt cải tổ nhân sự định kỳ của đài phát thanh đã mang đến cho cô một cộng sự khó nhằn - một nhà sản xuất chương trình còn sáng tác cả thơ. Để đối phó với anh ta, dường như mọi sự phòng bị là không đủ, hoặc chỉ một cốc smoothie đã đủ… Viết về những con người gần gũi trong cuộc đời bình dị, những người lớn dù đã khoác lên mình lớp vỏ trưởng thành song vẫn còn vô số khuyết điểm cũng như nhược điểm, ngày ngày vẫn đối mặt với nỗi cô đơn trong chừng mực cho phép, đây là câu chuyện “thử yêu thêm lần nữa” của họ, của bạn và của tôi. *** [Review nhè nhẹ] Hòm thư số 110 – Yi Do Woo “Bạn biết bạn đã đọc một cuốn sách hay, khi giở đến trang cuối cùng và cảm nhận như mình vừa mất đi một người bạn.” (Paul Sweeny) Thú thật thì mình là người yêu thích văn học (tiểu thuyết) Hàn Quốc nên khi cuốn sách vừa xuất bản là lao ngay tới quầy sách Nhã Nam để đón “Hòm thư số 110” về. Không nhiều hy vọng về một câu chuyện tình yêu phải có những tình tiết nhân văn hay đưa lại một ký ức thật đặc biệt, mình đón nhận cuốn sách với tâm thế đọc để “giao lưu học hỏi”. Thế rồi ba ngày trôi qua, chỉ rời cuốn sách khi nấu cơm, ăn cơm, vệ sinh cá nhân, đi ngủ, làm việc, mình đã bị “đốn gục” bởi cái sự bình dị mà không tầm thường của “Hòm thư số 110”.  Câu chuyện kể về tình yêu đầy tự nhiên của những con người nhỏ sống ở Seoul. Là cái cách nữ biên kịch Jin Sol từng bước một thoát khỏi cuộc sống nội tâm đầy cô đơn của mình, để bước ra với thế giới bên ngoài và “nhảy” vào tình yêu với vị PD Lee Geon mà cô làm chung. Tình yêu của họ tự nhiên đến độ không có một sự đưa đẩy khiên cưỡng nào làm độc giả lấn cấn hay phản đối. Bầu không khí trong phòng thu, cách họ dạo bước trên cầu Mapo, những cuộc đối thoại trong xe, cảm xúc lúc họ cùng trốn bảo vệ để khám phá cung điện ở Gwanghwamun vào giờ cấm, rồi cùng ngắm sao băng với bạn bè hay uống với nhau vài chén… đều rất trong trẻo và dịu dàng. Ngay cả cái cách miêu tả Jin Sol khi ầng ậc nước mắt, quay người sửa gối vì mất ngủ, khóc òa nơi chân cầu thang thoát hiểm cũng rất mượt mà và làm tim người đọc quặn thắt theo. Là câu chuyện tình yêu của cặp đôi phụ Ae Ri và Seon Woo “chặt không đứt, bứt không rời” cứ như thể họ đã gặp nhiều thật nhiều kiếp, nên ở kiếp này dù có khó khăn thế nào cũng vẫn sẽ tìm thấy nhau, vì nhau mà thay đổi. Vì Seon Woo, cô nàng học giỏi Ae Ri có thể từ bỏ cả việc học hành cao lên, chỉ để cùng nhau làm những việc họ thích đó là mở một quán trà trong con ngõ nhỏ ở Insadong – quán trà “Mở cửa vào ngày mưa”. Vì Seon Woo, Ae Ri có thể mòn mỏi chờ đợi ngay cả khi anh ích kỉ đi du lịch một mình cả tháng trời không liên lạc lại – vào mỗi lần anh thấy u uất trong lòng. Thương Ae Ri, khó chịu với tính cách của Seon Woo, nhưng rồi cứ càng đọc, người ta lại càng hiểu ra thật ra trong lòng Seon Woo luôn có sự tự ti chưa có thuốc giải, và Ae Ri cuối cùng cũng là người “bào chế” thuốc giải đó cho anh. Là hình ảnh người ông của PD Lee Geon với một cuộc sống vui vẻ, hào sảng và luôn thích chuyện trò. Dù xuất hiện không nhiều, nhưng cách mà ông gây cười rồi gây xúc động, cách mà ông xuất hiện dần dần – rõ nét – và tan biến đi lại giống như ánh sáng của con đom đóm - khi đèn điện sáng choang, ta sẽ không chú ý tới chúng, nhưng trong màn đêm thăm thẳm, chúng lại rõ nét và xúc động đến lạ kì. Ngoài những câu chuyện tình yêu đầy tự nhiên và ý nghĩa, “Hòm thư số 110” còn được tác giả viết ra những đoạn văn sinh động như thể đang xem một cảnh phim. Những con chữ lúc thì biến thành chiếc lá bay bay trên đường, khi lại là hạt tuyết rơi trắng xóa, lúc lại là những cơn mưa xối xả, hay vệt sao băng rơi trên bầu trời. Mỗi lần đọc đến đoạn văn mang tới cảm xúc như xem một bộ phim đang hiện hữu là mình lại thầm chắp tay cảm ơn tác giả, dịch giả và biên tập viên. Cuốn sách này đã được mình vừa đọc vừa chép vào sổ tay những đoạn văn, đoạn đối thoại ý nghĩa. Nhưng 2 trong số đó làm mình yêu thích nhất, đó là: 1. “Lát nữa chúng ta sẽ được ngắm những ngôi sao băng rơi từ 150 năm trước sao?” “Những ngôi sao ấy bay hàng vạn năm ánh sáng tới đây mà. Chúng xuất phát từ ba mươi nghìn năm trước tới giờ mới rơi xuống. Đúng là sự tình cờ mất rất nhiều thời gian nhỉ.” 2. “Qua 3 tháng nữa là em đã đi làm được 10 năm rồi. Không hiểu sao em có cảm giác như này. Chắc chắn… bên trong em có một cái giếng, và em đã dùng gàu múc hết số nước trong giếng ra… Giờ chỉ còn trơ đáy giếng mà thôi.” ------- *Bonus 1 chút, tiểu thuyết mới nhất của cô tác giả này đã được đài JTBC chuyển thể thành phim và sẽ phát sóng cuối tháng 2 này với tiêu đề "TRỜI ĐẸP EM SẼ ĐẾN - If the Weather Is Good, I’ll Find You" do Park Min Young và Seo Kang Joon thủ vai chính.* ® Nguyễn Thanh Hương *** Những mạt gỗ mỏng manh rơi từ đầu cây bút chì còn mới nguyên xuống tờ giấy đã dùng một mặt. Jin Sol dùng dao chuốt cho đến khi ruột bút lộ ra, bột chì đen mịn lả tả rơi xuống dính vào mặt giấy. “Vậy tóm lại là PD Lee Geon cũng thuộc phe Daeho à?” Jin Sol vừa áng chừng độ nhọn của ruột chì vừa hững hờ hỏi. Chỉ còn một tuần nữa là đến ngày cải tổ nhân sự mùa thu. Từ sáng sớm phòng biên kịch đã nhốn nháo bàn tán về các chương trình mới cũng như PD được phân công phụ trách. “Nếu phân rạch ròi thì là thuộc phe Daeho chứ còn gì nữa, dù xét về quan hệ đồng môn hay đồng hương anh ta cũng thuộc bên đó thôi, đám người có thế lực ấy!” Biên kịch Kim miệt mài gõ bàn phím máy tính xách tay ngay bên cạnh Jin Sol, từ ban nãy đã liên tục cung cấp thông tin về PD Lee Geon cho Jin Sol. Phía đối diện, biên kịch Choi, người phụ nữ U40 đã lập gia đình đang chăm chú viết bản thảo ôn tồn chen vào cuộc trò chuyện giữa hai người. “Đừng có nói linh tinh. Theo chị anh chàng này, dù sống trong chung cư Daeho đi chăng nữa cũng không thuộc phe Daeho đâu. Đài phát thanh có việc gì còn chưa bao giờ thấy cậu ta ló mặt nữa là. Đây chính là mẫu người chỉ muốn một mình nhẹ thân. Chị từng làm việc với cậu ta nên biết.” Jin Sol thầm nghĩ, những lời này có lẽ đúng bởi kỳ vừa rồi biên kịch Choi đã làm chương trình Nhạc phim đêm cùng với Lee Geon. Đột nhiên bị chọc mạnh vào mạng sườn, Jin Sol lập tức liếc nhanh sang hướng biên kịch Kim vừa chỉ. Ở một góc phòng, biên kịch Song vẫn được đồn là có mối quan hệ thân thiết với hội chung cư Deaho mặt lạnh tanh, tay đặt lên bàn phím ra điều đang làm việc, nhưng kỳ thực tai lại dỏng lên nghe ngóng. Biên kịch Kim lén lè lưỡi còn Jin Sol cười tủm. Jin Sol đặt ngay ngắn chiếc bút chì đã gọt nhọn vào hộp bút rồi lại bắt đầu gọt một cái mới. Những lúc rảnh rỗi hay khi đột nhiên thấy hưng phấn hoặc bồn chồn, cô lại có thói quen lôi vài cây bút chì ra gọt. Jin Sol thích ngắm những mạt gỗ mỏng manh rơi xuống khỏi mũi dao và ruột chì đen lộ dần ra nơi đầu bút. Dù bao năm trôi qua, cô vẫn say đắm hương gỗ phảng phất mỗi khi gọt bút chì, mùi hương vẫn vẹn nguyên như thời cô còn ấu thơ. Kể từ năm cuối đại học đến giờ, đã tròn chín năm cô đặt chân đến đài phát thanh, đảm nhận chân viết kịch bản quèn. Sau khoảng hai năm làm trợ lý biên kịch, phụ trách vài phần kịch bản dưới sự hướng dẫn của các tiền bối, cô đã được mang danh biên kịch đúng nghĩa và tự viết chương trình của riêng mình. Sau khi làm việc tại vài đài phát thanh, ba năm trước, cô bắt đầu chuyển về công tác tại FM Radio có trụ sở đặt ở quận Mapo. Jin Sol không thuộc típ người quá hoạt bát năng nổ hay hòa đồng quảng giao nên ngoại trừ những người làm việc chung, cô chỉ duy trì mối quan hệ xã giao với người khác ở mức nếu gặp thì khẽ cúi đầu chào mà thôi. Cô vô thức thở dài khiến đống mạt gỗ nằm trên mặt giấy bay lên nhè nhẹ rồi lại rơi xuống. Trong vòng một năm rưỡi qua, cô đã đảm nhận công việc viết kịch bản cho hai chương trình phát thanh: Chiếc xe ngựa hoa chuyên gửi tặng các ca khúc truyền thống và Studio hạnh phúc dành cho phái đẹp. Không hiếm trường họp các PD đảm nhận một chương trình trong suốt vài năm trời nên cũng có khi biên kịch phải gắn bó với chương trình đến ba kỳ liên tiếp. Tuy nhiên, trong đợt cải tổ nhân sự lần này, giám đốc đài cho rằng chương trình Chiếc xe ngựa hoa đang trong giai đoạn cần phải đổi mới. Tức là sẽ được chuyển giao cho PD Lee Geon 33 tuổi mới vào công ty được năm năm phụ trách. Với một người mắc bệnh sợ người lạ nặng như Jin Sol, việc phải hòa hợp với cộng sự mới quả có chút đáng ngại. “Gong Jin Sol, giờ cô đã là bậc thầy trong lĩnh vực gọt bút chì rồi đấy.” Biên kịch Kim nửa xuýt xoa nửa trêu chọc khi nhìn thấy đầu bút chì xinh xắn Jin Sol vừa gọt. “Đúng thế. Em đắc đạo rồi.” Jin Sol cười khúc khích hưởng ứng. Đột nhiên cửa phòng mở tung, một giọng nói trong trẻo vang lên khiến ánh mắt mọi người đều đổ dồn về phía đó. “Chào mọi người. Lâu lắm rồi không gặp!” Là biên kịch Ahn Hee Yeon, cô gái luôn khiến người đối diện phải chú ý bởi phong cách thời trang nổi bật và ngoại hình tươi sáng, tràn đầy năng lượng. Biên kịch Kim khẽ nghiêng người thầm thì. “Chuyện gì thế này, sao cô ả lại hạ cố đến cái phòng biên kịch xa xôi hẻo lánh này cơ chứ. Trước giờ toàn ngồi cạnh PD một lát rồi đi ngay cơ mà.” Hee Yeon đi thẳng vào phòng biên kịch, tiến đến vị trí gần cửa sổ nơi Jin Sol đang ngồi, duyên dáng ghếch bộ mông xinh đẹp của mình lên bàn làm việc. “Biên kịch Gong, lần này cô làm việc với PD Lee Geon đúng không?” Mái tóc đen dày, óng mượt của Hee Yeon được tết năm sin sít và cột lại bằng dây nơ màu lá phong. Nhìn bím tóc trước mặt, Jin Sol chợt nghĩ, tết năm như vậy thì phải tết theo thứ tự thế nào nhỉ. “Ừ. Có vấn đề gì sao?” “Tôi vừa đi họp về. Chương trình World Music của chúng tôi kỳ này vẫn sẽ tiến hành như thường lệ. Cô biết anh Geon sẽ làm Chiếc xe ngựa hoa và một chương trình khác nữa rồi chứ? Anh ấy dò hỏi tôi xem biên kịch Gong là người như thế nào, đương nhiên tôi đã nói tốt về cô trước mặt anh ấy rồi.” Nói tốt về mình ư? Ahn Hee Yeon lại biết rõ về mình sao? Dù nghi ngờ nhưng Jin Sol vẫn cố nở nụ cười. “Thế à? Cảm ơn cô nhé.” “Tôi nghĩ biên kịch Gong và anh Geon sẽ làm việc ăn ý với nhau thôi. Anh ấy vốn rất thông minh.” Jin Sol gượng cười, lẳng lặng lấy cây bút chì thứ ba và chỉ gật đầu. Anh Geon cơ đấy. Cho đến tận giờ, cô nàng Ahn Hee Yeon 28 tuổi này chưa từng gọi bất cứ ai trong số các biên kịch ở đài phát thanh bằng chị hay tiền bối. Cả với Jin Sol năm nay đã 31 tuổi hay với những người lớn tuổi hơn nữa, Hee Yeon cũng chỉ gọi trống không là “biên kịch X” để tạo cảm giác ngang hàng. Trước thái độ dửng dưng của Jin Sol, Hee Yeon lén nhìn cô một lượt từ đầu đến chân. Gong Jin Sol dáng người nhỏ bé, đang chăm chú nhìn xuống đầu ngón tay lẳng lặng gọt bút chì. Nghe bảo cô ta viết bản thảo rất chắc tay, lại được các PD đánh giá rất cao? Nhưng theo Hee Yeon thấy, Jin Sol chỉ là một phụ nữ hết sức bình thường, không giỏi xã giao, không có tham vọng, cả chí tiến thủ cũng không nốt. “Cô có biết PD Lee Geon là nhà thơ không?” “Gì cơ?” Suýt chút nữa thì bị dao cứa vào tay. Jin Sol khựng lại, ngước lên nhìn Hee Yeon như thể vừa nghe thấy điều không nên nghe. Cô há hốc miệng vì ngạc nhiên. Phải đến lúc này, Hee Yeon mới mỉm cười tươi tắn. “Cô không biết sao? Cách đây mấy năm, PD Lee Geon còn ra một tập thơ. Viết hay lắm.” Vẻ mặc cảm thoáng hiện lên trên gương mặt Jin Sol, cô khẽ thở dài. “… Chết tiệt.” Hee Yeon nở nụ cười thỏa mãn rồi nhấc mông khỏi bàn. “Tôi phải đi trước đây, còn phải đến Yeouido nữa. À, cô có xem chương trình tôi viết kịch bản không? 12 giờ đêm thứ Năm hằng tuần nha. Mong cô giúp tăng tỉ suất người xem một chút nha. Hẹn gặp lại mọi người sau.” Hee Yeon rạng rỡ vẫy tay chào tạm biệt tất cả mọi người trong phòng rồi bỏ đi. Biên kịch Song ngồi ở phía cửa ra vào cười khẩy như thể vừa nghe một chuyện thật hoang đường. Ngoài chương trình World Music,Hee Yeon còn đảm nhận cả kịch bản Jazz Concert và cô nàng chưa bao giờ ngừng khoe khoang về việc này. Jin Sol nhìn biên kịch Choi ngồi phía đối diện với vẻ mặt oán trách. “Tiền bối, sao chị không nói với em?” “Chuyện PD Geon là nhà thơ á? Cái đó có gì quan trọng đâu cơ chứ?” Biên kịch Choi đưa tay đẩy lại gọng kính trên sống mũi rồi rời mắt khởi màn hình máy tính, ngước lên nhìn Jin Sol. Ở đài phát thanh có rất nhiều nhà sản xuất họ Lee nên Lee Geon thường được các đồng nghiệp gọi là PD Geon. “Với em thì có đấy. Chị biết trước đây em từng khổ sở như thế nào với tay phê bình âm nhạc kia còn gì?” “Em cứ thử làm việc với người ta đi đã. Thật tình, PD Geon khó tính trong chuyện bản thảo lắm nhưng cậu ta cũng không phải kiểu người thích gây sự lung tung đâu. Cứ làm việc với tâm trạng thoải mái là được.” “Đâu có dễ vậy ạ.” Jin Sol lẩm bẩm trong miệng nghe như tiếng thở dài. Đoạn, cô bỏ dao và bút chì vào ống đựng bút rồi gói tờ giấy hứng bột chì và mạt gỗ lại. Anh ta mà viết lách giỏi thật thì con đường gian nan lại sắp mở ra trước mắt Jin Sol rồi đây. Jin Sol không thích những PD giỏi viết lách, kiểu làm thơ, viết tiểu thuyết hay phê bình văn học. Đâu phải mình cô nghĩ vậy. Mọi biên kịch đều muốn tránh các PD giỏi viết lách. Vài năm trước, Jin Sol từng làm việc chung với một nhà sản xuất kiêm phê bình âm nhạc mà đến tận bây giờ chỉ cần nhớ đến quãng thời gian đó cô lại lắc đầu nguầy nguậy. Người đó luôn vặn vẹo về các bình luận ca khúc, thậm chí là từng câu chữ diễn đạt của cô. Anh ta thuộc típ người trong một ngày phải sửa được một chỗ theo đúng ý mình mới vừa lòng, cho dù nội dung trước và sau sửa không khác biệt là mấy. Jin Sol nghĩ anh ta cứ sửa theo thói quen vậy thôi. Mời các bạn mượn đọc sách Hòm Thư Số 110 của tác giả Yi Do Woo & Trần Hải Dương (dịch).
Đinh Trang Mộng
VÙNG ĐẤT Hà Nam nghèo khó ở Trung Quốc là nền tảng cho nhiều cuốn tiểu thuyết của Diêm Liên Khoa, trong đó có Đinh Trang Mộng. Quan chức địa phương thì tham nhũng, các doanh nhân thì vô đạo đức, còn nông dân chân lấm tay phèn sẵn sàng bất chấp mọi thứ để đạt tới khát vọng làm giàu nhanh chóng. Đạo đức xuống cấp, lòng tự trọng trở nên hao mòn, nhân cách băng hoại, tình người được cân đo đong đếm tỉ mẩn... Rồi một ngày người ta cay đắng nhận ra, khi con người đã không còn phẩm giá, vùng đất chỉ còn lại sự tuyệt vọng và chỉ có sự tuyệt vọng ngự trị mà thôi… Giới thiệu tác giả: Diêm Liên Khoa, sinh năm 1958, người làng Dao Câu, trấn Điền Hồ, huyện Tung, thành Lạc Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Ông được mệnh danh là đại sư của chủ nghĩa hiện thực hoang đường, một nhà văn đầy lương tâm, trách nhiệm khi dùng văn học để đối diện với những mặt trái của xã hội, mặt tối của lòng người. Tác phẩm của Diêm Liên Khoa thường gây tranh luận, mỗi lần ông viết một tác phẩm mới là một lần dấy lên dư luận, chấn động văn đàn. Diêm Liên Khoa thường viết về bóng tối, cái chết và sự băng hoại của nhân phẩm nhưng lại hướng con người đến ánh sáng, sự sống và nhân tính. Sách của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng, được các nhà phê bình và độc giả trên thế giới đánh giá rất cao. Diêm Liên Khoa luôn ý thức mỗi tác phẩm mới của mình phải là một sự cách tân trong phương thức sáng tạo văn bản. Cũng như nhiều tác phẩm nặng kí khác của ông, Đinh Trang mộng đem đến cho bạn đọc nhiều thể nghiệm mới về nghệ thuật tự sự. Mộng vừa là nội dung, vừa là phương thức kiến tạo nên kết cấu đặc thù của tác phẩm. Hai dòng mạch thực và mộng đan xen tạo nên một thế giới trùng phức đa tầng. Ngòi bút của tác giả không chỉ bóc tách bề mặt ý thức tâm lý phức tạp của con người mà còn khoan sâu vào tầng sâu tâm thức... *** Đinh Trang mộng là tác phẩm mà nhà văn Diêm Liên Khoa (Trung Quốc) phải xin lỗi người đọc vì đã trao cho họ một câu chuyện quá đỗi buồn thảm, một nỗi đau đớn thắt lòng. Người kể chuyện của Đinh Trang mộng là linh hồn cậu bé Tiểu Cường mười hai tuổi. Đinh Thủy Dương, ông nội Tiểu Cường, đã thành công trong việc vận động dân Đinh Trang bán máu để thoát nghèo. Khốn thay, ông vừa khiến họ đổi đời vừa khiến họ mất mạng. Ông vừa làm tái sinh Đinh Trang, vừa hủy diệt Đinh Trang. Kiếm tiền quá dễ, người dân Đinh Trang lao vào bán máu như điên. Trạm thu mua máu lưu động mọc lên khắp nơi. Người ta có thể vừa ăn cơm vừa giơ cánh tay lên để lấy máu; đang làm đồng có thể nhảy lên bờ bán máu. Kim tiêm và bông băng dùng chung, rất nhanh và rất tiện. Máu trong cơ thể như nước trong giếng, càng múc càng đầy. Nhà cửa khang trang, tiện nghi đủ đầy, cuộc sống như mơ. Người phất lên nhanh nhất trong cơ cuộc này chính là Đinh Huy - con cả của Đinh Thủy Dương. Đinh Huy trở thành nậu máu, vua máu của một vùng. Hậu quả của bán máu là đại dịch AIDS lan tràn, trở thành thảm họa. Và câu chuyện không dừng lại ở đó... Đinh Trang mộng đậm chất thời sự khi viết về đại dịch AIDS. Tuy nhiên, xét đến cùng, đây là câu chuyện ngụ ngôn về sự tàn lụi của con người. Diêm Liên Khoa đã đặt các nhân vật vào cửa tử để họ bộc lộ đến tận cùng bản chất của mình. Lòng tham, tiền bạc và danh vọng đã làm biến dạng con người, hay điều đó mới chính là nhân dạng của họ?... Đan xen giữa tỉnh và mộng, thực và ảo, phồn vinh và đổ nát, chết chóc và hoan lạc... Đinh Trang mộng là nỗi tuyệt vọng và khúc bi ca lớn lao về nông thôn Trung Quốc và dân tính Trung Hoa. Đối với người Trung Quốc xưa nay, đạo đức và đạo đức nông thôn là những nguyên tắc cơ bản để duy trì nền tảng xã hội. Nông dân đồng nghĩa với nhân hậu, chất phác và hiền lành; nông thôn là quê hương tinh thần, là chốn nương náu tâm hồn của mỗi một con người, đặc biệt là con người thời hiện đại. Vậy mà trong Đinh Trang mộng, nông thôn là chốn tham lam, lọc lừa, tàn độc đến kinh hoàng. Sự sụp đổ đạo đức nông thôn không phải do áp lực chính trị hay điều kiện sinh tồn, mà do chính trong bản chất người. Muôn mặt của "người Trung Quốc xấu xí" lại một lần nữa được Diêm Liên Khoa dũng cảm phơi bày. Nguyên nhân của sự hủy diệt bạo tàn trong Đinh Trang mộng không phải do bệnh AIDS, mà chính do vực thẳm nhân tính. Cũng giống như Lỗ Tấn của thế kỷ 20 từng cô độc như dũng sĩ múa kích một mình trên sa mạc khi đặt những nhược điểm của quốc dân tính Trung Hoa lên đầu bút, viết xong Đinh Trang mộng, Diêm Liên Khoa có cảm giác cô đơn và bất lực "như bị bỏ rơi giữa đại dương mênh mông không một bóng người". Ông khóc và "không nói được rõ ràng vì sao lại đau khổ, vì ai mà rơi lệ". Tuy nhiên, đọc xong tác phẩm, ta sẽ lý giải được vì sao. Không phải là bệnh AIDS trên thân thể, mà là bệnh AIDS trong tinh thần và tính cách dân tộc Trung Hoa đã khiến ông khổ đau mà rơi lệ. Thành công của nhà văn có được khi viết về nỗi ô nhục của dân tộc mình thì xót xa biết nhường nào! *** Có một giòng thông suốt và dữ dội chảy qua truyền thống thuyết thoại Trung Hoa: những tự sự về mộng. Khởi thủy là giấc mơ hóa bướm của Trang Chu thời Xuân Thu. Tiếp nối sau đó mấy trăm năm là những truyền kỳ đời Đường, từ Chẩm trung ký của Thẩm Ký Tế kể chuyện chàng Lư sinh nằm trên chiếc gối của một đạo sĩ mà mơ giấc hoàng lương, cho đến Nam Kha thái thú truyện của Lý Công Tá nói về chàng Thuần Vu Phần mộng giấc Nam Kha, thức dậy mới biết mình đang nằm dưới gốc hòe, say rượu ngủ quên không biết. Đến khi các loại hình sân khấu Trung Quốc như tạp kịch, hí khúc,… ra đời, mộng bắt đầu đi vào Hồ điệp mộng của Quan Hán Khanh (đời Nguyên) hay Mẫu đơn đình của Thang Hiển Tổ (đời Minh) để rồi vươn đến đỉnh cao chói lọi ở tiểu thuyết chương hồi đời Thanh, mà đại diện tiêu biểu nhất phải kể đến là Tào Tuyết Cần với kiệt tác Hồng lâu mộng.  Đinh Trang mộng – quyển tiểu thuyết đầy tâm huyết xuất bản năm 2005 của Diêm Liên Khoa – rõ ràng là một sự tiếp nối cái truyền thống đặc trưng đã có lịch sử hàng ngàn năm ấy của văn chương Trung Quốc. Sự tiếp nối hiển lộ ngay từ đầu, trong tựa đề tác phẩm, nhưng sức ám ảnh của nó còn lan rộng sang chính cấu trúc của quyển tiểu thuyết này: thực tại được kể trong Đinh Trang mộng trở nên mờ nhòa, chìm đắm, đan xen, lún ngập trong những giấc mơ và những ảnh tượng đi ra từ sự mơ. Diêm Liên Khoa giao vai kể cho hồn ma của Tiểu Cường, một cậu bé 12 tuổi đã chết, bị đầu độc bằng một quả cà chua tẩm thuốc vì những ân oán mà cha cậu gây nên với người dân ở Đinh Trang. Cách chọn vai kể là một hồn ma như thế đặt toàn bộ tự sự của tiểu thuyết này ở một điểm nhìn toàn tri – một điểm nhìn khá hợp lý, tuy cổ điển, để vừa dễ dàng kể lại những giấc mơ đầy máu và nước mắt của ông giáo già Đinh Thủy Dương (nhân vật chính của tiểu thuyết), vừa thuận lợi cho việc thâm nhập vào những cõi sâu kín nhất trong mộng mị, tâm hồn, cảm xúc, suy nghĩ của hàng loạt những nhân vật, những số phận được nhắc đến trong xuyên suốt tác phẩm này. Nhưng cũng chính từ đây, thế giới ngập tràn sự mơ ấy của Đinh Trang mộng không còn cái đẹp đẽ huy hoàng của mộng như người ta thường nghĩ, mà đã trở thành lớp áo khoác hàm ngụ bên trong một thứ hiện thực sâu thẳm, thứ hiện thực đen tối, cay đắng đến run rẩy của lòng người, của bản tính người và những mối quan hệ người. Trong Đinh Trang mộng, từ những quan sát về tình cảnh cùng khốn của người dân Trung Quốc khi đối diện với nạn bán máu tràn lan và sự bùng phát của đại dịch AIDS những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI[1], Diêm Liên Khoa đưa ra một hư cấu đầy ám ảnh về thôn Đinh Trang – nơi một thời từng giàu có, thịnh đạt nhờ vào việc bán máu, nhưng rồi vì lấy máu không đúng quy trình, thiếu vệ sinh, hàng loạt những người trong thôn bắt đầu nhiễm “bệnh nhiệt”, một cách gọi nôm na của AIDS. Nhân vật chính của tiểu thuyết là ông giáo già Đinh Thủy Dương, suốt đời gắn bó với ngôi trường nhỏ của thôn Đinh Trang, hiền từ, nhân hậu, được mọi người trong thôn yêu kính. Ông có hai người con trai. Con cả tên Đinh Huy, con thứ là Đinh Lượng. Trong những ngày Đinh Trang ồn ào, sôi nổi, say sưa bán máu, Đinh Huy khôn ngoan, lọc lõi, thậm chí xảo quyệt, đã quyết tâm trở thành một đầu nậu máu, kiếm lãi từ chính những giọt máu của người Đinh Trang. Người em trai của anh, Đinh Lượng, cũng tham gia bán máu, để rồi giống như nhiều người khác cùng thôn, anh nhiễm bệnh nhiệt rồi chết. Nhưng Đinh Huy tham lam kia không nhìn thấy thảm cảnh như thế mà dừng lại. Anh tận dụng tình cảnh chết chóc ấy để bán quan tài, phối âm hôn cho người chết,… vì sự tham lam dữ dội trước tiền tài địa vị. Thậm chí, để thăng tiến cao hơn, Đinh Huy chấp nhận phối hôn đứa con trai Tiểu Cường của mình với âm hồn cô bé thiên kim nhà Huyện trưởng, dù cô lớn hơn Tiểu Cường sáu tuổi, bị động kinh và dị tật ở chân. Nhưng sự tha hóa của bản tính người không chỉ xuất hiện ở Đinh Huy, mà như một đại dịch, nó tràn qua Đinh Trang tựa một cơn hồng thủy. Đọc Đinh Trang mộng, người ta thấy cái tham lam, tư lợi của bà vợ cựu trưởng thôn Lý Tam Nhân khi đốc thúc, khích khí chồng mình bán máu để có tiền sửa sang nhà cửa cho bằng những gia đình khác trong thôn. Đọc Đinh Trang mộng, người ta thấy và sợ hãi trước cái bóng đen tàn úa tỏa ra từ lòng ti tiện nhỏ nhen của người đời qua trường đoạn mô tả cảnh những người bệnh nhiệt ở Đinh Trang quần tụ lại ở trường học sống tập thể, rồi mất đồ, rồi đổ lỗi, rồi tra khảo, rồi sỉ nhục. Đọc Đinh Trang mộng, người ta thấy cái thảm cảnh mà lòng sân hận thù hằn đổ lên kiếp người, mà một trong những cảnh tượng đau thương nhất chính là đoạn hai cái huyệt mộ chạm khắc kỳ công của Đinh Lượng và Linh Linh bị phá nát tan, chưa kể cả hai chiếc quan tài cũng bay biến đi đâu mất… Tất cả những gì người nhất trong Đinh Trang mộng, rất nhanh chóng, bị sự tham tàn và vô minh cuốn đi, giết đi, vùi đi. Tất cả. Từ nỗi sợ đau vì bị kim tiêm, từ nỗi nhục nhằn suy tư về thân phận cho đến mối hòa kết gia đình, sự từ ái, lòng nhân hay những phẩm hạnh bản thể nhất của con người. Nhưng cao hơn hết, Đinh Trang mộng bày ra trước mắt ta một tình thế bi ai của sự làm người. Chính ở đây, với sự phát lộ của nét nghĩa này, cái cấu trúc mộng mị đặc thù của quyển tiểu thuyết này trở lại một cách dữ dội. Và nó nói với ta một sự thật lầm than, rằng đời người có ai mà không phải trải qua một giấc mộng Đinh Trang, như luôn phải trải qua những giấc mộng hoàng lương, giấc mộng Nam Kha, giấc mộng lầu hồng,.... Người ta bán máu xây nhà cửa, tiền tài đầy túi, khoa trương hò hét, làm ông nọ bà kia. Nhưng rồi cũng giống như Thuần Vu Phần thức dậy dưới gốc hòe, người ta sẽ nhận ra bao nhiêu mất mát, chết chóc, sợ hãi, bóng tối. Nhà cửa xây lên từ tiền bán máu nhưng rồi bị bỏ hoang, hôi hám, ẩm thấp, ảm đạm vì người lần lượt chết dần. Có người bán máu nuôi vợ con với những khao khát viển vông để rồi nhiễm bệnh, qua đời, gia đình ly tán. Hay như Đinh Huy, người tưởng chừng như có trong tay tất cả, từ tiền tài, nhà cửa, đất đai cho đến uy danh, chức tước, nhưng rồi trong một phút ngắn ngủi bất thần ngã gục sau cú đánh trời giáng của chính cha mình.   Mộng mị trong truyền thống thuyết thoại Trung Hoa là như thế. Chúng thường bao quát những thực tại khổng lồ, đẹp, huy hoàng, rực rỡ. Nhưng đau đớn và độc ác. Cái ác dường như đã trở thành căn cốt của những tự sự về mộng của người Trung Quốc. Nó quăng quật người ta đến những chỗ tận cùng. Nó nâng người ta lên, cho người ta bay bổng rồi kéo tuột người ta xuống, thậm chí vùi người ta xuống đất cát bùn lầy. Nó bày ra trước mắt người ta những yến tiệc tưng bừng, những hội hè say đắm. Nhưng rồi nó đuổi cổ người ta đi, nó lưu đày người ta đến những chốn tuyệt vọng và đau thương cùng cực. Tiếp nối và thừa hưởng từ truyền thống xem cái tàn ác như một phạm trù thẩm mỹ như thế, nhưng Diêm Liên Khoa không phải không có những sáng tạo nhất định của riêng ông. Viết Đinh Trang mộng, rõ ràng Diêm Liên Khoa đã nỗ lực tạo dựng một thế giới mà ở đó sự triển hoạt theo chiều âm, chiều diệt vong của những tự sự về mộng mị Trung Hoa xưa bị thay thế bởi một gia tốc khác: một lực đẩy về phía cái sống. Nếu trong Hồng lâu mộng, Tào Tuyết Cần xây dựng một bức tranh mơ màng phù thế đầy chất sống, để rồi đánh thức tất cả, quăng quật tất cả vào cõi gió bụi ở cuối truyện, thì trong tiểu thuyết của mình, Diêm Liên Khoa làm ngược lại. Ông ngả hẳn về phía của sự tỉnh mộng, của máu và nước mắt, ngay từ đầu. Nhưng cũng chính từ sự ngả theo một chiều hướng khác như thế, Diêm Liên Khoa đã quan sát được những dòng nhựa sống cuộn lên, tươi mới, tân kỳ. Ông thấy trong hai con người mang bệnh nhiệt trầm trọng Đinh Lượng và Linh Linh cái khát khao được yêu, được sống, được làm tình. Ống thấy trong Đinh Thủy Dương cái áy náy, giằng xé, đớn đau của một con người bị phân thành nhiều mảnh, một bên là lòng thương con, một bên là lòng nhân, lòng bác ái, một bên khác lại là chính nghĩa, sự phụng sự đạo đức và chân lý,… Điều này cũng lý giải vì sao Diêm Liên Khoa lại dẫn ra, ngay từ trang đầu tiên, huyền thoại về bảy con bò xấu xí nuốt bảy con bò xinh đẹp mập mạp và bảy bông mạch ốm yếu nuốt lấy bảy bông mạch tròn căng trong Sáng thế ký, Kinh Cựu Ước; hay vì sao ở những dòng cuối cùng, ở cơn chiêm bao cuối tác phẩm của ông lão Đinh Thủy Dương, hình ảnh một người đàn bà với nhành dương liễu và những người bùn xuất hiện. Tôi cho Diêm Liên Khoa, khi viết về những điều như thế, đã ý thức và hiểu rất rõ rằng, sự khai sinh của loài người đi ra từ chính trong những tuyệt vọng đau đớn nhất của người. Cơn sốt đầy máu và bệnh nhiệt ở Đinh Trang trong tiểu thuyết của ông, vì thế, cũng giống như một cơn hồng thủy quét qua. Nhưng không phải để tuyệt diệt. Mà là để tái sinh. Tái sinh con người. Và tái sinh những điều giúp con người trở lại làm người.   Nguyễn Đình Minh Khuê Mời các bạn mượn đọc sách Đinh Trang Mộng của tác giả Diêm Liên Khoa & Minh Thương (dịch).