Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Từ Beirut Tới Jerusalem - Hành Trình “Đi Để Hiểu” Trung Đông Của Một Người Mỹ (Thomas L. Friedman)

Nhắc đến tác giả Thomas Friedman, hẳn độc giả Việt Nam sẽ nghĩ ngay đến các tác phẩm nổi tiếng của ông như: Thế giới phẳng; Chiếc Lexus và Cây Oliu; Nóng, phẳng, chật… Thế nhưng ít ai biết rằng "Từ Beirut đến Jerusalem" lại chính là cuốn sách đầu tiên làm nên tên tuổi Thomas L. Friedman cũng như mang đến cho ông giải Pulitzer.

Thomas Friedman viết tác phẩm đầu tay “Từ Beirut đến Jerusalem” trong những năm 80 của thế kỷ trước và đã đoạt giải Nation Book Award cho hạng mục phi hư cấu, khi ông còn là phóng viên thường trú khu vực Trung Đông của tờ New York Times. Từ Beirut đến Jerusalem là một cuốn sách phi-hư cấu bán chạy bất ngờ ở Mỹ. Cho đến nay nó vẫn tiếp tục được tìm đọc, đặc biệt là được các độc giả là anti-fan của Thomas Friedman tìm đọc. Trái với các cuốn sách kiểu Thế giới phẳng, Chiếc Lexus và cây Olive bị rất nhiều độc giả khó tính coi là ba hoa khoác lác, rỗng tuếch và thông thái rởm, cuốn sách đầu tay này của Friedman được đánh giá cao: viết rất tốt, đọc hấp dẫn, đặc biệt là câu chuyện không bị cài cắm như các cuốn sách khác của tác giả này, thay vào đó là các câu chuyện thực, đắng lòng và chua xót của Trung Đông, đặc biệt là mối quan hệ Israel và Palestine. Thomas Friedman, lúc đó còn trẻ và chưa cố tỏ ra thông thái, bộc bạch ngay trong những chương đầu của cuốn sách: “Cuốn sách chính là con đường từ Beirut tới Jerusalem mà tôi đã rong ruổi, bằng cách này hay cách khác, suốt thời trưởng thành của mình. Đó là một con đường khác thường, hài hước, thi thoảng có bạo lực và thường là không thể lường trước được”.

Đến muộn nhưng rất may mắn, cuốn sách này đến Việt Nam muộn hai mươi năm, nhưng lại đúng lúc độc giả Việt Nam bắt đầu quan tâm nhiều đến Trung Đông, tới Israel, Liban, Syria. Họ không chỉ quan tâm đến sự phát triển thần kỳ của Israel, hay các xung đột chính trị ngoại giao ở Liban, Syria, hay quyền lực của các nhà nước Arab giàu có, hay lịch sử lâu đời và đẫm màu sắc tôn giáo của vùng đất này, hay vai trò của Mỹ, Châu Âu với Trung Đông… Các độc giả Việt Nam quan tâm đến tất cả. Và cuốn sách rất dày này của Thomas Friedman đề cập đến hầu như tất cả.***

Mới đây, khi đáp chuyến xe bus tới phố King George ở Jerusalem, tôi không chú ý lắm tới người phụ nữ trẻ ở phía sau xe bus đang ngồi cạnh một người Do Thái Haredi [cực kỳ chính thống] vì anh ta đội chiếc mũ đen, mặc áo khoác đen, với bộ râu dài, còn cô ta thì đi đôi xăng đan, mặc váy không tay, hợp thành một phần trong khung cảnh điển hình với những người lính đang trong kỳ nghỉ phép, một bà già đội chiếc mũ kiểu quý bà, những chiếc ba lô năm năm có lẻ, và một giáo sĩ nhìn như người Mỹ đang đến muộn một buổi lễ. Chỉ sau khi người phụ nữ trẻ nhẹ nhàng bảo người Haredi làm ơn đóng cửa sổ lại thì tôi mới rời mắt khỏi tờ báo và thấy anh ta đáp lại khá thẳng thừng rằng “Cô làm ơn may tay áo dài ra được không?”

“Thưa ông,” người phụ nữ đáp lại, giọng cô cao vút lên cùng với sự phẫn nộ, “cửa sổ mở ra đang làm phiền tôi!” Tìm mua: Từ Beirut Tới Jerusalem - Hành Trình “Đi Để Hiểu” Trung Đông Của Một Người Mỹ TiKi Lazada Shopee

Người Haredi dường như lúng túng.

“Thưa cô, những cánh tay để trần đang làm phiền tôi,” anh ta đáp lại.

Gương mặt người phụ nữ giờ đây trở nên dữ tợn và kiên quyết khi cô ta chậm rãi nhấn từng âm tiết trong miệng và bắn nó tới tai của tất cả mọi người trên xe bus: “Tay của tôi hay tay của ông nhỉ?”

Rabbi Shlomo Riskin đăng trên Jerusalem Post, 20/5/1988

Quay trở lại những năm 1930 ở Quảng trường Mughrabi của Tel Aviv, nơi thường có một chiếc đồng hồ to không có kính chắn trên bề mặt. Huyền thoại kể rằng một hôm Thị trưởng Meir Dizengoff yêu cầu tháo chiếc đồng hồ đó ra. Khi các cư dân trong vùng hỏi ông là tại sao, Thị trưởng Dizengoff trả lời là vì bất cứ người Do Thái nào đi ngang qua chiếc đồng hồ có thể vặn lại nó theo đồng hồ đeo tay của người đó.

Chẳng lâu sau khi đến Jerusalem thì tôi được nghe câu chuyện đó, nhưng tôi hiểu được về tính xác thực của nó như thế nào thì chỉ sau khi sống ở đất nước này một thời gian. Tôi phát hiện ra với tất cả lý do mà tôi đã liệt kê ra trong chương trước, người Israel không thể quyết định được điều gì dân tộc họ nên chịu đựng không chỉ về mặt chính trị mà còn về mặt tinh thần nữa.

Trên thực tế, điều đáng kinh ngạc nhất về nhà nước duy nhất của người Do Thái trên thế giới là nó được xây dựng, và cùng nhau nắm giữ, bất chấp thực tế là có những bất đồng cơ bản và sâu sắc giữa các công dân của mình về một người Do Thái chính xác là gì và một nhà nước Do Thái nên đặc trưng cho kiểu sống nào của người Do Thái. Tôi thường gặp nhiều người Do Thái đến từ Mỹ và Tây Âu, họ nói với tôi rằng họ đến Israel để “tìm kiếm” chính bản thân họ như một người Do Thái. Tôi luôn bảo với họ rằng Israel chắc hẳn là một nơi khó hiểu nhất trên thế giới để làm điều đó. Ở nơi đó bạn sẽ đánh mất chính bản thân mình như một người Do Thái, bởi vì nếu bạn không biết mình là ai trước khi đến, bạn có thể lạc lối hoàn toàn trong mê cung của những lựa chọn được trình ra ngay sau khi bạn đặt chân lên vùng đất này.

Giống như phần lớn những người Do Thái lai Mỹ, tôi đã lớn lên trong đạo Do Thái mà không hề có vùng đất nào - giống như những người Do Thái sống trong đạo Do Thái đã rèn tập khi bị người La Mã trục xuất khỏi Palestine hai nghìn năm trước. Đó là một đạo Do Thái quanh quẩn nơi giáo đường, lòng vòng theo các kỳ nghỉ, và quanh những cuộc gặp mặt cộng đồng. Nói một cách hóm hỉnh thì người Do Thái ở trong cộng đồng Do Thái phân biệt với người Do Thái khác chỉ qua cách họ liên hệ tới lễ nghi, đó là, cho dù họ rèn tập đạo Do Thái theo lối Chính thống, Thủ cựu, hay là Đổi mới - Chính thống vẫn được tuân theo nhiều nhất và Đổi mới thì ít nhất.

Không như vậy ở Israel. Người Do Thái ở Israel không phân biệt bằng các nhánh của giáo đường cũng như cách họ liên hệ tới vùng đất của Israel và tới nhà nước. Sự kết nối trở lại của dân tộc Do Thái với vùng đất và cao ốc của họ trong một nhà nước hiện đại ở đây mở ra một sự thiết lập mới mẻ hoàn toàn của các lựa chọn để xác định bản thân một người là người Do Thái - vài người trong số đó hoàn toàn không được biết đến trong cộng đồng Do Thái.

Vô số những lựa chọn này có thể phân ra thành bốn luồng tư tưởng chính. Luồng đầu tiên và rộng lớn nhất được hình thành từ những người Israel thế tục và không theo lệ cổ, như Shimon Peres và Yitzhak Shamir - là những người thực sự xây dựng lên nhà nước Israel mới. Những người theo Chủ nghĩa Phục quốc thế tục tới Israel phần nào vì một cuộc nổi dậy chống lại ông cha mình và đạo Do Thái định hướng giáo đường Do Thái chính thống ở khu định cư được thực hiện ở Đông Âu. Với những người theo Chủ nghĩa Phục quốc thế tục, quay trở lại vùng đất Israel, xây dựng một xã hội và quân đội hiện đại, và thực hiện các kỳ nghỉ của người Do Thái như những kỳ nghỉ mang tính dân tộc trở thành một thay thế cho buổi lễ kỷ niệm và niềm tin tôn giáo. Họ nói rằng, ở Israel, bầu trời là của người Do Thái, bóng rổ của người Do Thái, nhà nước của người Do Thái, và sân bay cũng của người Do Thái nốt, vậy thì ai còn cần phải tới giáo đường nữa? Với họ, đến vùng đất Israel và trở thành “bình thường” đồng nghĩa với từ bỏ các lễ nghi tôn giáo như đặc điểm nhận dạng cho người Do Thái của họ. Khoa học, công nghệ, và biến cả sa mạc xanh tươi thành Torah mới của họ.

Những người Do Thái thế tục này chiếm khoảng 50% dân số Do Thái của Israel, gửi con cái tới các trường học thế tục do nhà nước nắm giữ, được thuyết phục rằng họ là làn sóng của tương lai và rằng người Do Thái trong truyền thống hạn hẹp là một hồi chết chóc trong lịch sử người Do Thái. Họ sẵn sàng cho phép bất cứ người Do Thái nào trên thế giới muốn sống trong nhà nước mới của họ trở thành một công dân ngay lập tức, vì họ chắc chắn rằng giữa thế hệ có mối liên hệ với vùng đất mà những người Do Thái chính thống cực đoan này đang sống trong những khu ổ chuột tự xây ở châu Âu hay ở Jerusalem sẽ vứt bỏ áo khoác và mũ đen của họ và gia nhập vào cuộc cách mạng của Chủ nghĩa Phục quốc. Hơn tất cả, những người theo Chủ nghĩa Phục quốc tự hỏi mình, tại sao người Do Thái muốn tái tạo một khu Do Thái Ba Lan thời trung cổ trong một nhà nước Do Thái hiện đại. Không chỉ một người Do Thái thế tục nói với tôi rằng khi họ còn là một đứa trẻ, bố họ đã đưa họ tới Mea Shearim, khu vực người Do Thái chính thống cực đoan của Jerusalem, và nói với họ đại khái là: “Hãy ngắm nghía những người này chừng nào có thể. Họ là di tích của quá khứ, là loài khủng long trong nền tảng lịch sử. Giờ hãy chiêm ngắm họ đi, vì đến thế hệ khác, họ không còn nữa.”

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Từ Beirut Tới Jerusalem - Hành Trình “Đi Để Hiểu” Trung Đông Của Một Người Mỹ PDF của tác giả Thomas L. Friedman nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Hán Mạt Triệu Hổ (Thu Phong Tri Liễu)
Năm thứ 6 niên hiệu Trung Bình, Hán Linh Đế băng hà, Thiếu Đế kế vị, cũng là lúc bọn Thập thường thị tác oai tác quái. Đại tướng quân Hà Tiến bị bọn hoạn quan bắt giết. Từ Lương Châu, Đổng Trác tiến vào kinh thành, phế truất thiên tử. Bọn Viên Tào tháo chạy, dấy binh ở Quan Đông. Có lẽ vì không cẩn thận mà anh chàng Trương Triệu Hổ đã phải hoá thân thành Trương Liêu, bỗng chốc bị đẩy vào bầy lang hang cọp, trà trộn vào đám quân dưới trướng Đổng Trác. Xuất thân kém cỏi, danh tiếng lại xấu xa, vậy thì làm thế nào để mưu sĩ dũng tướng quy về? Chỉ có một cách: Cưỡng ép, lường gạt mà bắt về. "Ta thà đánh người trong thiên hạ, chứ quyết không để người thiên hạ đánh ta". Hắn đánh cho Viên Thuật phải căm phẫn đến nghiến răng bặm lợi, đánh cho Viên Thiệu phải nổi cơn tam bành, đánh cho Tào Đại phải kinh hoàng mà tháo chạy, đánh cho bọn chư hầu Quan Đông cùng chung chiến hào phải đến nỗi chia năm xẻ bảy. Tìm mua: Hán Mạt Triệu Hổ TiKi Lazada Shopee Hắn bình định Khương tộc, mở hành lang Hà Tây, quét sạch lũ Hung Nô, đuổi xa rợ Tiên Ti, đánh đại bại bọn Ô Hoàn, mở mang đất, dựng phòng tuyến. Nhưng Trương Liêu vẫn không kiềm nổi cái thở dài: "Cừu địch khắp thiên hạ, kiều thiếp chẳng một người". Giả Hủ sắc diện chẳng lay động: "Đây là nàng kiều thiếp mà Đổng công ban tặng cho nhà ngươi!". Vương Doãn thần sắc nghiêm nghị: "Khắp lộ chư tướng có thể bỏ, tuyệt không thể bỏ Trương Liêu!".***Lúc này đêm đã rất khuya, vẻ tịch mịch chùm khắp nhân gian. Gió thanh chầm chậm thổi đến, tiếng lá nhè nhẹ vang lên. Tiết trời đêm tháng chín đã mang đôi phần lành lạnh, đám côn trùng núp đầy trong bụi cỏ, chẳng rõ là loài gì, lại cất tiếng kêu không ngớt. Trên không trung, một vầng trăng tròn tựa chiếc mâm bạc vẫn treo lơ lửng, vẩy những ánh quang trong thanh như hạt nước rơi nghiêng đầy mặt đất. Bãi thao trường to rộng, bằng phẳng rải đầy những cát, những đá nhỏ vụn, dưới ánh trăng thuần khiết phủ trùm lại tựa như một miền tuyết trắng. Xung quanh thao trường là doanh trại và những giá xếp binh khí. Tiến ra xa xa thì liền thấy những hòn giả sơn chập chùng, những cây cổ thụ cùng toà cung điện và đoạn tường vây cao lớn. Rõ ràng nơi đây khi xưa từng là khu lâm viên của hoàng tộc, duy có khoảng giữa thao trường và doanh trại thì đích thị là về sau mới được xây lại. Nơi đây chính là Tây Viên, vốn là vườn thượng uyển của hoàng tộc, rộng chừng hai mươi dặm, nằm ở mé Tây thành Lạc Dương. Năm thứ 5 niên hiệu Trung Bình, thái tử Lưu Hoằng hạ lệnh tu sửa Tây Viên, san dời giả sơn, chặt hạ cây cối, lấy đất xây dựng thao trường và doanh trại. Tháng tám năm ấy, vua bắt đầu dùng khu đất làm nơi chiêu mộ tráng đinh, lập nên Tây Viên Bát Quân, phong cho bọn Kiển Thạc, Viên Thiệu, Bào Hồng, Tào Tháo, Triệu Duy, Phùng Phương, Hạ Mâu, Thuần Vu Quỳnh làm thủ lĩnh, gọi là Tây Viên Bát hiệu uý. Lại phó cho tên hoạn quan Kiển Thạc dẫn đầu Bát hiệu uý, thống lĩnh Tây Viên binh mã, nhằm ngầm giám sát và hạn chế quyền hành của đại tướng quân Hà Tiến. Nhưng qua năm sau, tức niên hiệu Trung Bình năm thứ 6, thiên tử Lưu Hoằng mới 33 tuổi chỉ vì phóng túng buông thả quá độ mà kiệt quệ, băng hà tại điện Gia Đức Nam cung, thuỵ hiệu là Hiếu Linh hoàng đế. Con trưởng Lưu Hoằng là Lưu Biện vì được sự bảo bọc của mẹ là Hà thái hậu và cậu là tướng quân Hà Tiến nên cứ thẳng băng một đường lên ngôi kế vị. Nhưng thượng quân hiệu uý Kiển Thạc lại muốn lập em của Lưu Biện là Lưu Hiệp làm vua, do vậy hắn bèn bí mật liên hợp với đám Thập thường thị bàn mưu tính kế hãm hại đại tướng quân Hà Tiến. Chẳng ngờ, lũ thập thường thị trở mặt, quay ra bán rẻ Kiển Thạc, ngầm tố giác hắn với Hà Tiến. Hà Tiến liền dùng Mệnh Hoàng môn lệnh đến bắt Kiển Thạc, ung dung đem hắn đi hành quyết. Sau khi Kiển Thạc chết, Hà Tiến lập tức nắm toàn quyền chỉ huy Tây Viên Bát Quân. Lúc này đã sang giờ Dần, trong khu rừng phía sau doanh trại, nằm ở góc tây bắc Tây Viên, ánh trăng vẫn còn toả rạng, len lỏi qua những tán cây đủ loại sắc màu mà bám xuống mặt đất. Trương Triệu Hổ tóc tai rối bù, thần sắc mờ mịt, cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn mà ngồi đờ ra trên phiến đá dài. Một canh giờ trôi qua, hắn vẫn tuyệt chẳng thay đổi thần sắc, dường như cả thân xác cũng đã chìm vào cảnh mộng. Trong suy nghĩ của hắn, bao dòng ký ức không ngừng lưu chuyển. Nhưng những ký ức này chẳng phải là của hắn, chúng vốn thuộc về chủ nhân thực sự của thân xác này, một người tên là Trương Liêu. Đúng vậy, chính là tướng quân Trương Liêu, một trong Ngũ Hổ Tướng thời Tam Quốc. Trương Triệu Hổ đưa tay dụi thật mạnh khuôn mặt hồi lâu, rồi hắn cất một tiếng thở dài. Hắn vốn là người của thế kỷ 21, là một công chức chính phủ. Hắn cảm mến một cô giáo dạy môn lịch sử cấp Trung học. Hôm đó, hắn lẻn vào sân trường chơi bóng rổ cùng cô ấy, đang lúc bay mình lên úp rổ, tay bám vào khung rổ, người lơ lửng trên không, vừa định quay người lại nở nụ cười với người tình trong mộng của mình thì không ngờ cột bóng đột nhiên gãy sập, cổ hắn liền bị vướng chặt vào khung rổ. Lần thứ hai tỉnh dậy, hắn sửng sốt tột độ, không biết bằng cách nào mà hắn lại có thể xuất hiện tại một doanh trại binh lính cổ đại như thế này. Ngoài những dòng ký ức lạ lùng cứ liên tục dấy khởi trong đầu, hắn chẳng thể lý giải được thì ngay đến cả thân thể hiện tại, hắn cũng mờ mờ mịt mịt, hắn chỉ biết mình đã trẻ ra đến năm sáu tuổi. Những đoạn hồi ức cứ lởn vởn trong suy nghĩ đã cho hắn biết, hắn đang ở vào cuối thời Hán, tên hắn là Trương Liêu, 21 tuổi, xuất thân từ vùng Bính Châu. Gặp phải cơ sự này, dù là một người tinh thần khoáng đạt vô tư như Trương Triệu Hổ thì thử hỏi liệu có vô tư nổi chăng? Vả lại, dù là kẻ một phân bẻ đôi lịch sử cũng chẳng tường như Trương Triệu Hổ cũng biết rõ rằng, những năm cuối đời Hán, phong ba cuồng nộ, khắp nơi đổ nát, phỉ tặc hoành hành, xương trắng ngổn ngang, thôn xóm hoang tàn, trống trận đua tiếng, khói lửa liên miên, quần hùng dương uy, chia ba thiên hạ. Hôm nay là đúng vào rằm tháng 9 niên hiệu Trung Bình năm thứ 6, Trương Triệu Hổ ngày trước vì theo đuổi nàng "nữ thần lịch sử" trong mộng, nên cũng có gia công trau dồi chút ít kiến thức lịch sử, xem sơ lược qua thời Tam quốc thì hắn cũng biết được rằng năm Trung Bình thứ 6 này vừa là điểm chấm dứt của một thời kỳ và cũng vừa là điểm khởi phát của một thời kỳ mới. Hán Linh Đế băng hà, Thiếu Đế kế vị, bọn Thập thường thị tác loạn, đại tướng quân Hà Tiến đưa thân vào chỗ chết, Đổng Trác tiến kinh phế truất thiên tử, đám chư hầu Viên Thiệu, Tào Tháo chạy đi lánh nạn, không lâu sau lại đua nhau dấy binh, thời kỳ loạn lạc liên miên hơn mấy chục năm bắt đầu từ đây.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hán Mạt Triệu Hổ PDF của tác giả Thu Phong Tri Liễu nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hai Trăm Năm Cũ (Anthony Grey)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hai Trăm Năm Cũ PDF của tác giả Anthony Grey nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hải Ngoại Kỷ Sự (Thích Đại Sán)
Năm 1695, theo lời mời của chúa Nguyễn Phúc Châu, Thích Đại Sán từ Quảng Đông - Trung Hoa đã đến vùng Thuận Quảng và lưu lại ở đây từ mùa xuân năm Ất Hợi - 1695 đến mùa hạ năm Bính Tý - 1696. Trong khoảng thời gian đó, ngoài việc sáng tác nhiều tác phẩm thơ ca,… Thiền sư Thích Đại Sán còn ghi chép các sự việc liên quan đến văn hóa, xã hội thời bấy giờ ở vùng Thuận Quảng và tất cả được tập hợp thành tác phẩm Hải ngoại kỷ sự với bài tựa giới thiệu do Đại Việt quốc vương Nguyễn Phúc Châu đề. Sách này do Đại Sán Hán Ông đời nhà Thanh soạn, tất cả 6 quyển. Khang Hy năm Giáp Tuất, đáp ứng lời mời của Việt vương, ông đi qua Quảng Nam; những nơi trải qua, sơn xuyên, hình thế, phong thổ, tập tục ông đều ghi chép tất cả, xen lẫn những thơ văn rất tao nhã hứng thú. Ông chính là một ẩn giả lánh mình trong cửa thiền vậy. Cừu Triệu Ngao bảo sách này gồm có cái hay của Đỗ Thiếu Lăng, Liễu Tứ Hậu, có thể bổ khuyết những điều mà các sách Sơn hải kinh, Hải chí, Chức phương ký, Vương hội đồ chưa từng chép đến…”.(Bút ký tiểu thuyết đại quan)Trân trọng giới thiệu!Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hải Ngoại Kỷ Sự PDF của tác giả Thích Đại Sán nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Gươm Thiêng Trấn Quốc (Uyên Thao)
Sử chép: "Đầu thế kỷ 10, Giao Châu đại loạn. Dân chúng nổi dậy khắp nơi, đánh đuổi đám quan lại phương Bắc, cử Khúc Thừa Dụ lên làm Tiết Độ Sứ. "Khúc Thừa Dụ quê tại Hồng Châu - Hải Dương, là một hào phú nhân hậu được người khắp nước kính phục nhưng cầm quyền chưa tròn một năm đã từ trần. "Khúc Hạo nối chí cha, lo gấp rút xây dựng guồng máy tự chủ, việc còn dở dang lại lâm trọng bệnh qua đời, chuyển gánh nặng cho con là Khúc Thừa Mỹ. Thừa Mỹ nắm quyền sáu năm thì nhà Nam Hán cử Lý Khắc Chính đem quân sang đánh. Khắc Chính thắng trận, bắt được Khúc Thừa Mỹ, tái lập chế độ đô hộ, nhưng bộ hạ họ Khúc khắp 12 châu tiếp tục kháng cự, trong số có Dương Diên Nghệ-" ° ° ° Tìm mua: Gươm Thiêng Trấn Quốc TiKi Lazada Shopee Tiết Độ Sứ Lý Tiến tại An Nam Đô Hộ Phủ vừa áp chế bằng binh lực vừa dùng các cao thủ võ lâm phiêu bạt truy sát con cháu họ Khúc cùng những người chống đối. Trong khi đó, tại hai châu Hoan - Ái, Dương Diên Nghệ ráo riết tập trung binh lực quyết tái chiếm Đại La và giới võ lâm Giao Châu sôi sục chận đánh đám tay chân Lý Tiến. Chết chóc diễn ra khắp nơi, nhất là trên các trục lộ nối liền thành Đại La với hai châu Hoan - Ái. Người qua lại nơi này thường bị bất ngờ cuốn vào giữa vòng gươm dáo và trở thành nạn nhân của các cuộc chém giết đẫm máu. Chính vào thời điểm đó đã diễn ra câu chuyện về thanh gươm mang tên Lạc Hồng Thần Kiếm. ° ° ° Thanh gươm được nhắc tới từ rất lâu trước đó, thuở An Dương Vương khởi công xây dựng Cổ Loa thành. Tương truyền: "Các loài ma quái sợ hết đất dung thân khi thành xây xong nên họp nhau cản phá công việc của nhà vua. Từng đoạn thành dựng lên lúc ban ngày đều bị ma quái xô đổ vào đêm khuya khiến công việc kéo dài mãi trong cảnh dở dang. Cuối cùng, An Dương Vương phải cầu xin thần linh giúp sức. "Thần Kim Qui liền hiện ra đánh bạt hết ma quái, giúp hoàn tất việc xây thành. Trước khi chia tay, Thần tặng nhà vua một chiếc móng, dặn dùng làm nẫy nỏ và chỉ dẫn cách làm nỏ liên châu mỗi lần có thể bắn ra hàng vạn mũi tên". Nhưng việc giữ nước không thể dựa vào một cây nỏ liên châu nên nhà vua vẫn lo lắng xin được Thần giúp đỡ. Thần bèn trao cho nhà vua một thanh gươm và nói: - Lưỡi gươm này có sức mạnh gào mưa thét gió, trừ sạch mọi hiểm họa trên đời. Lạc Long Quân nhờ nó mà mở mang bờ cõi cho giống nòi Lạc Việt, tạo dựng cơ đồ bền vững mấy ngàn năm của giòng họ Hồng Bàng. Nó có tên là Lạc Hồng Thần Kiếm và là vật báu trấn quốc của đất nước này. Thần nói thêm về đặc tính của thanh gươm: - Sức mạnh của gươm không nằm nơi nước thép mà nằm trong các bí quyết được khắc trên hai mặt gươm, một bên là Toàn Phương Kiếm Phổ, một bên là An Định Chân Kinh. Nhà vua không thể dùng gươm để xung trận nhưng có thể vận dụng những bí quyết trên để tạo một sức mạnh thần kỳ cho toàn cõi Lạc Việt này. Hãy y theo Toàn Phương Kiếm Phổ dạy nghề múa gươm cho ba quân và y theo An Định Chân Kinh để tu dưỡng bản thân, thực hành chính pháp. Làm như thế cho tới khi hòa được hồn mình theo hồn gươm thì người và gươm sẽ hội nhập thành nhất thể tỏa ra một uy lực khả dĩ dời non lấp biển, tạo nên vĩ nghiệp lấn át cả trăng sao. Khi đó, mối lo hiện nay của nhà vua không còn đáng kể nữa. An Dương Vương cúi đầu suy nghĩ hồi lâu rồi lên tiếng: - Muốn hòa theo hồn của gươm, cần phải làm gì? Thần đáp: - Cần phải nhận rõ hồn gươm và lấy hồn gươm làm hồn mình. - Hồn gươm là gì? - Gươm được hun đúc bằng khí thiêng sông núi trên toàn bờ cõi. Hồn gươm chính là hồn thiêng sông núi của đất nước này. - Làm cách nào để biến hồn thiêng sông núi thành hồn của mình? - Cách độc nhất là biến chính bản thân mình thành sông núi. Nhà vua băn khoăn đưa mắt nhìn về phía chân trời trong lúc Thần ngưng tiếng. Một cụm mây trắng lơ lửng treo giữa không trung in bóng xuống dòng Hoàng Giang uốn khúc quanh Cổ Loa thành. Một khắc im lặng trôi qua rồi nhà vua lên tiếng: - E rằng không dễ hiểu hết ngụ ý trong lời nói của Thần. Thần mỉm cười, cao giọng: - Không phải vì sông núi mà có sự sống. Trái lại, chính vì sự sống mà có sông núi. Sông núi là thành trì và sữa ngọt đối với sự sống. Đã trải mấy ngàn đời, sông núi phơi mình ngoài mưa nắng, miệt mài đổ sức nuôi giữ sự sống trong im lặng. Sông núi không bao giờ đòi được che chở, không bao giờ đòi được cung đốn mà luôn luôn sẵn sàng dâng hiến. Thần nhìn thẳng vào mắt nhà vua, chậm rãi: - Kẻ chỉ mưu tận hưởng tới cạn nguồn sữa ngọt và mải mê vun quén cho bản thân không bao giờ biến nổi thành sông núi. Giọng Thần sang sảng khiến nhà vua bất giác rùng mình, ngập ngừng hỏi: - Loại người nào có thể làm nổi điều Thần vừa nói? Thần đáp: - Đó là người đang ngồi trên ngai báu như nhà vua. Đó cũng là kẻ ở giữa đám đông đang trần lưng vác đất dưới chân thành kia. Nhà vua thắc mắc: - Kẻ vác đất dưới chân thành không có thần kiếm trong tay thì dù hòa nổi hồn mình theo hồn sông núi phỏng có ích gì? Thần nói: - Đây là điều mà ta muốn nhắc với nhà vua. Thần kiếm không khi nào chịu biến thành vật vô tri trong những bàn tay bất xứng. Thần kiếm sẽ tự rời khỏi tay kẻ không hòa nổi hồn mình vào hồn thiêng sông núi. Vẫn nhìn thẳng vào mắt nhà vua, Thần nhấn mạnh từng lời: - Ta vừa đặt thần kiếm vào tay nhà vua, nhưng ta không đủ uy lực buộc thần kiếm nằm mãi bên mình nhà vua. Điều này hoàn toàn tùy thuộc nhà vua quyết định. Dứt lời, Thần nghiêng mình chào và biến mất. ° ° ° An Dương Vương sao chép lại Toàn Phương Kiếm Phổ, dạy thuật dùng gươm cho ba quân tướng sĩ. Không bao lâu, khắp nước xuất hiện những kiếm thủ tài ba tuyệt thế. Nhà vua đứng trên thành cao nhìn về bốn phương bừng bừng hào khí. Dưới tay nhà vua là tinh binh mãnh tướng. Bên mình nhà vua là nỏ báu, kiếm thần. Xung quanh nhà vua, Cổ Loa thành sừng sững vách lũy dầy kiên cố sau hào sâu hiểm trở. Nhà vua hướng về phương Bắc nhếch miệng cười ngạo nghễ, phất tay ra dấu. Viên cận thần lập tức xoay về phiá bên hô lớn: - Tấu nhạc! Một loạt âm thanh rung lên. Tiếng tơ đồng quyện theo tiếng sáo chơi vơi dìu dặt rồi những giọng ca trong như tiếng ngọc vươn cao, vươn cao mãi. Nhà vua tựa mình vào thành kỷ, lim dim mắt dõi theo những tà áo màu thướt tha bay múa tựa hàng ngàn cánh bướm chập chờn nô giỡn. Viên cận thần quỳ xuống kính cẩn dâng chiếc ly ngọc chạm hình rồng phủ. Nhà vua đón ly, ngửa đầu uống cạn một hơi. Men rượu khiến nhà vua bừng nóng toàn thân trong một cảm khoái lâng lâng. Những cánh bướm đang chập chờn nô giỡn bỗng đồng loạt chuyển hình thành những tiên nga tuyệt sắc. Những khuôn mặt diễm lệ mê hồn, những tấm thân uốn mềm như tơ liễu dìu nhà vua cất cánh bay lên. Trong khoảnh khắc, nhà vua thấy mình chen giữa bày tiên nữ lơ lửng trên vùng trời ngập ánh hào quang của những vừng mây ngũ sắc. Tiếng nhạc bên tai nhà vua càng lúc càng thêm dặt dìu thánh thót. Nhà vua hết sức đẹp lòng, cất tiếng cười sảng khoái. ° ° ° Tiếng cười của nhà vua vang rền như sấm, chấn động khắp bốn phương. Thần Kim Qui đang ngủ say dưới đáy đại dương bỗng giật mình choàng tỉnh. Thần đánh tay xủ quẻ rồi kinh hãi, lật đật bơi về phía bờ biển Đông. Đúng lúc Thần Kim Qui choàng tỉnh giữa lòng biển cả thì tại Cổ Loa thành, An Dương Vương sa vào quỉ kế của Triệu Đà. Nhà vua chưa dứt cơn say, mãnh tướng chưa kịp mặc giáp, tinh binh chưa kịp cầm gươm thì kẻ thù phương Bắc tràn ngập các vách thành. Quân thù dồn lên như thác lũ trong lúc tả hữu hốt hoảng quỳ trước nhà vua nói không thành tiếng: - Muôn tâu, nỏ báu đã mất còn gươm thần không thấy đâu. Nhà vua đau đớn nhìn ra phía ngoài. Tiếng reo hò chiến thắng của kẻ thù dội tới thâm cung. Khắp nơi trong thành nội, những cột lửa đỏ bốc lên ngùn ngụt nhả khói vào vùng trời còn xanh thẳm buổi chiều qua. Nhà vua đờ đẫn nhìn khói đen dầy đặc đang tỏa rộng che rợp Cổ Loa thành, bên tai văng vẳng giọng năn nỉ tuyệt vọng của tả hữu: - Xin nhà vua cùng công chúa rời ngay hoàng cung chạy về biển Đông lánh nạn. Tương truyền: "Tại bờ biển Đông, Thần Kim Qui đang chờ sẵn. Thần lặng lẽ ngậm ngùi rẽ sóng mở lối cho nhà vua bước sâu vào lòng biển cả". Từ đó, cuộc truy tầm tung tích Lạc Hồng Thần Kiếm bắt đầu và kéo dài căng thẳng từng ngày.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Gươm Thiêng Trấn Quốc PDF của tác giả Uyên Thao nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.