Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khiêu Vũ Với Bầy Sói

Đại tá John Dunbar phiêu bạt đến một bộ lạc người da đỏ và được bộ lạc cưu mang. Cuộc sống êm đềm diễn ra giữa thiên nhiên hoang dã và những con người hồn nhiên, đặc biệt tình yêu nảy nở giữa anh và một người con gái da trắng được bộ lạc này nuôi dưỡng từ nhỏ. Năm 1836, khi chiến tranh còn đang giai đoạn nóng bỏng, đại tá John Dunbar vừa thoát chết sau một cuộc giao tranh với một bên chân bị thương nặng. Các bác sĩ ở bệnh viện Union Field tại Tennessee không thể cắt bỏ nó, đau đớn đến cùng cực tưởng như không thể chịu đựng được nữa, Dunbar tuyệt vọng và suýt nữa tự tử. Đột nhiên trong lúc tuyệt vọng và lang thang ở biên giới phía tây, Dunbar bắt gặp một con sói tên là Two-Socks và bộ lạc người da đỏ Sioux. Anh được họ cưu mang và gọi tên là “Dances With Wolves”. Thời gian đầu thực sự khó hòa nhập với những người da đỏ xa lạ. Anh phải quan sát học tập theo lối sống và cách xử sự của họ, kể cả ngôn ngữ của người da đỏ. *** Bản dịch này dịch theo phong cách lược dịch thường gặp ở những bản dịch cũ trước năm 2000, tức là ở đó người dịch sẽ bỏ không dịch một số đoạn văn và ở một số đoạn văn thì trình bày và diễn giải tương đối khác với nguyên tác. Do đó nếu so sánh với nguyên tác Dances with Wolves thì bản dịch này có khác biệt sau: Không chia các chương nhỏ như trong nguyên tác; và đôi khi có vài đoạn văn được bỏ qua, không dịch. Số hoá quyển sách này với mục đích lưu trữ nên tôi chủ trương trung thành hết mức có thể với phiên bản giấy. Ở phiên bản số này tôi chỉ sửa lại các lỗi đánh máy, lỗi chính tả, lỗi dịch tên không thống nhất, và có một đoạn văn dài 1500 chữ mang thông tin quan trọng với nội dung câu chuyện nhưng không được dịch, tôi đã đề chú thích bên dưới để tóm tắt nội dung đoạn bị thiếu nhằm giúp bạn đọc dễ theo dõi mạch truyện hơn. Còn lại, tất cả thông tin của sách giấy được giữ nguyên, bao gồm cả nội dung ở trang xi-nhê và bìa sau. Bìa của phiên bản này, cũng như cách dàn trang sách đều do tôi thiết kế lại. Phần Lời giới thiệu cho phiên bản số do tôi thêm vào. Trung uý John Dunbar là kẻ đang yêu, chàng yêu vùng đất miền Tây hoang sơ và bạo liệt. Tình yêu của chàng là thứ tình yêu nhiều người khao khát mà không có, nó thuần khiết và vô tư, nó cho đi và không cần nhận lại, nó không thể giải thích được bằng lí trí. Chẳng thế mà sau một trường hợp vừa có thể gọi là anh dũng, vừa có thể gọi là may mắn khiến chàng Trung uý trẻ tuổi Dunbar lập một chiến công lẫy lừng đến mức đủ cả cho một đời binh nghiệp, đến mức chàng được tưởng thưởng và xuất ngũ ngay, thế nhưng thay vì trở về quê hương chàng lại xin đầu quân vào đồn biên phòng Sedgewick. Bởi vì chàng vừa yêu miền Tây vừa sợ biên giới phía Tây sẽ biến mất trước khi chàng kịp ngắm nó. Cũng chính vì thế nên mặc cho đồn Sedgewick đã trở thành hoang lương từ lâu trước khi Dunbar đến do toán lính cũ bỏ đi vì nản lòng với cuộc sống thiếu thốn và buồn tẻ, chàng vẫn kiên định bám đồn và tự đặt nhiệm vụ cho mình là sửa sang tôn tạo nó để chờ đến khi chính quyền lại cử toán lính khác tới. Quanh chàng chỉ có nhõn hai người bạn: người bạn vàng Cisco, con ngựa cừ khôi đã cùng chàng vượt qua kì tích thập tử nhất sinh hồi còn trong quân ngũ; và người bạn không mời mà đến, một con sói già đơn độc thường lảng vảng quanh đồn Sedgewick. Chàng cô đơn lắm, mà chàng hẵng còn trẻ trung nên nỗi cô đơn càng thêm bứt rứt. Chàng cần bạn bè, cần đồng đội, và cần đàn bà. Đang lúc những đồng đội da trắng của chàng chưa đến và không biết bao giờ mới đến, thì chàng gặp những người da đỏ. Sau nhiều gặp gỡ và giao tiếp đầy khó khăn vì khác biệt ngôn ngữ, Dunbar nhận ra những người da đỏ thật khác xa với tuyên truyền của chính quyền. Nhưng 5 dù sao chàng vẫn là người da trắng, cuối cùng chàng vẫn phải đứng giữa lựa chọn vì tổ quốc hay vì hạnh phúc cá nhân. Và tuy chàng có chọn gì đi nữa, lựa chọn ấy ắt hẳn là lựa chọn mà theo lời của một người bạn quý đã từng nhận xét về chàng: lựa chọn để được đi trên “con đường của con người chân chính”. 24/1/2021 TORNAD Trung úy Dunbar chưa đến nỗi bị choáng ngợp. Đó là ý nghĩ đầu tiên bật ra trong đầu óc chàng. Mọi thứ xung quanh đều mênh mông. Bầu trời bao la không một gợn mây. Cả một thảo nguyên rập rờn bất tận. Ngoài ra không còn thứ gì khác, không có thứ gì lưu giữ tầm mắt của chàng. Không hề thấy một con đường. Thậm chí không một vết bánh xe khả dĩ đưa cỗ xe ngựa to lớn của chàng lần theo. Hoàn toàn chỉ là một khoảng trống bao la. Chàng cảm thấy lạc lõng. Điều đó khiến trái tim chàng rộn ràng một cách kỳ lạ và sâu sắc. Trong lúc ngồi trên tấm ghế phẳng lỳ lộ thiên, để mặc cho thân thể lắc lư dọc theo đám cỏ, ý nghĩ của Trung úy Dunbar tập trung vào trái tim đang đập rộn rã. Nhưng dòng máu của chàng lại không chảy mạnh. Máu của chàng vẫn bình thản. Tình trạng trái ngược ấy giúp trí óc chàng hoạt động đầy thích thú. Các từ ngữ liên tục quay cuồng trong đầu và chàng cố thử tách bạch ra xem câu nào, chữ nào thể hiện đúng cảm giác của chàng lúc này nhưng không nổi. Sang ngày thứ ba chàng bỗng chộp được một câu: “Thật là linh thiêng!” và câu đó có vẻ chính xác hơn cả. Khốn nỗi Trung úy Dunbar chưa hề theo tín ngưỡng nào bao giờ nên tuy câu đó có vẻ chính xác, chàng vốn hoàn toàn không biết dùng nó để làm gì. Nếu như bị câu đó ám ảnh nhiều, có lẽ Trung úy Dunbar cũng thử phân tích xem sao. Nhưng đầu óc mơ màng, chàng quên ngay câu ấy đi. Trung úy Dunbar trở thành kẻ si tình. Chàng phải lòng cái xứ sở hoang vu tuyệt đẹp cùng mọi thứ chứa đựng trong đó. Đấy là loại tình yêu bất cứ ai cũng khao khát được có đối với một người khác: một tình yêu vị tha và tuyệt đối tin tưởng, một tình cảm tôn sùng và bất biến. Tinh thần chàng phấn chấn và trái tim chàng rộn ràng. Phải chăng đó chính là nguyên do khiến chàng trung úy kỵ binh đẹp trai và tâm hồn cao thượng thoáng nghĩ đến tôn giáo. Chàng liếc mắt sang bên và thấy bác đánh xe Timmons đang nghiêng đầu ra ngoài thành xe nhổ nước bọt đến lần thứ một ngàn xuống đám cỏ mọc cao ngang lưng. Bác nhổ liên tục đến nỗi đờm dãi bắn ra thành một dòng dính liền nhau, chỉ chốc chốc mới đứt quãng khiến bác ta phải lấy tay quệt ngang miệng. Dunbar không nói gì nhưng thấy Timmons khạc nhổ liên tục như thế chàng bất giác co rúm người lại. Cử chỉ của bác ta là vô hại nhưng làm chàng ghê tởm, giống như lúc nào cũng phải nhìn một người xỉ mũi. Họ ngồi cạnh nhau suốt buổi sáng. Mặc dù chỉ cách nhau hai bước chân nhưng vì gió thổi từ phía Dunbar sang nên chàng không ngửi thấy mùi nồng nặc của bác Timmons. Trong gần ba chục năm sống trong cõi đời, chàng đã phải ngửi quá nhiều mùi chết chóc và không thứ mùi gì khó ngửi hơn thế. Nhưng xác chết nào cũng chỉ một lúc sau đã được đem đi chôn hoặc bản thân chàng Michael Blake rời xa nó, nhưng với bác Timmons này thì chàng không có cách nào thoát được. Khi gió đổi chiều, mùi hôi thối từ người bác ta bay sang, trùm lên Dunbar như một đám mây ô uế vô hình. Nghĩ đến đây chàng ngoái lại nhìn con ngựa Cisco đang chạy lóc cóc đằng sau cỗ xe, khoan khoái vục mõm vào chiếc bị đựng thóc. Bộ da màu nâu như da nai của nó ánh lên dưới nắng. Dunbar mỉm cười nhìn con ngựa và bỗng mong muốn loài ngựa cũng sống lâu được như loài người. Con Cisco này may lắm cũng chỉ sống được khoảng mười, mười hai năm nữa. Tất nhiên sau đó chàng sẽ cưỡi những con ngựa khác, nhưng chắc chắn là không có con ngựa nào sánh được với Cisco. Trong lúc Dunbar nhìn, con ngựa bé nhỏ ngước cặp mắt màu hổ phách lên như thể dò tìm xem chàng trung úy của nó lúc này đang ở đâu và làm gì. Đến khi thấy chủ, nó yên tâm lại vục đầu vào trong bị thóc. Dunbar điều chỉnh lại thế ngồi rồi thọc tay vào túi tấm áo choàng sĩ quan, lấy ra một tờ giấy gấp tư. Chàng giữ gìn rất cẩn thận tờ giấy này bởi đó là bản quyết định, trong có ghi tất cả những mệnh lệnh quân sự chàng phải thực hiện. Từ lúc rời khỏi căn cứ Fort Hays chàng đã đưa cặp mắt màu sẫm và không đồng tử lướt trên mặt giấy sáu bảy lần, nhưng nghiên cứu mãi nó chàng vẫn chưa cảm thấy yên tâm thêm chút nào. Trong bản quyết định, tên họ chàng bị ghi sai đến hai lần. Ông thiếu tá hơi thở nồng nặc mùi rượu ký vào dưới tờ giấy đã vụng về quệt ống tay áo lên nét chữ chưa khô mực và chữ ký của ông ta bị nhòe nhoẹt. Tờ quyết định lại quên không ghi ngày tháng cho nên Trung úy Dunbar đành phải điền thêm lúc chàng đã trên đường đi. Nhưng chàng điền bằng bút chì và nét chữ đè lên vết mực nhòe của ông thiếu tá, lẫn cả vào hàng chữ tiêu đề in sẵn trên tờ quyết định. Trung úy liếc nhìn bản quân lệnh. Trông nó giống như một tờ giấy lộn nhiều hơn. Bản quân lệnh làm chàng nhớ lại do đâu mà có nó và chàng càng thấy bối rối hơn. Chàng bực dọc nhớ lại cuộc tiếp xúc với vị thiếu tá thở ra toàn mùi rượu ấy. Do tha thiết muốn được sớm nhận nhiệm vụ, khi bước chân ra khỏi tàu hoả, chàng đã đi thẳng một mạch đến ban chỉ huy tiểu đoàn. Ông thiếu tá là người đầu tiên và cũng duy nhất chàng nói chuyện trong khoảng thời gian từ khi chàng tới tiểu đoàn đến lúc chiều tà, khi chàng leo lên cỗ xe ngựa ngồi bên cạnh bác đánh xe chuyên môn nhổ nước bọt Timmons. Ông thiếu tá với cặp mắt đỏ ngầu đã giữ chàng lại khá lâu. Và khi lên tiếng, giọng ông đầy châm biếm làm chàng thấy khó chịu. — Thích đánh nhau với bọn da đỏ, hả? Trung úy Dunbar từ bé chưa hề nhìn thấy một người da đỏ nào, nói gì đến chuyện chiến đấu với họ. — Vâng, nhưng không phải dịp này, thưa thiếu tá. Tôi nghĩ rằng tôi có thể chiến đấu với họ, chắc chắn là như thế. — Vậy là cậu thích chiến đấu, chứ gì nữa? Trung úy Dunbar không trả lời câu hỏi đó. Hai người nhìn thẳng vào mắt nhau một lúc lâu rồi ông thiếu tá mới cầm bút điền vào bản quân lệnh in sẵn. Ông ta viết với vẻ giận giữ, không buồn để ý đến việc mồ hôi chảy ròng ròng trên má. Dunbar nhìn thấy cả những giọt mồ 10 Michael Blake hôi đang to dần trên đỉnh chiếc đầu hói gần hết của ông ta. Vài sợi tóc lơ thơ màu muối tiêu còn sót lại dính bết trên đỉnh đầu ông. Hình dạng ông khiến chàng trung úy nhớ đến một con người bệnh hoạn nào đó. Dunbar đâu biết được rằng ông thiếu tá quá ốm yếu. Đôi khi sức khỏe của ông chỉ được giữ bằng một sợi chỉ mong manh và sợi chỉ ấy hôm nay vừa mới đứt, đúng mười phút trước khi chàng trung úy đến gặp ông. Lúc đó ông đang ngồi bất động sau bàn giấy, hai bàn tay chắp lại đặt trên bàn và đang quên béng cả cuộc đời. Đó là một cuộc sống bạc nhược, dựa trên sự bố thí mà người ta dành cho những kẻ phục vụ nhẫn nhục nhưng không hề làm nên được chiến tích gì. Khốn nỗi cả cuộc đời đã trôi qua, bao gồm những năm tháng sống độc thân, những năm tháng chống cự với rượu chè, tất cả đều đã biến đâu mất như do một phép thần thông. Nỗi nhàm chán đắng cay của cuộc đời Thiếu tá Fambrough chỉ được thay thế trong khoảnh khắc bằng một sự kiện hấp dẫn và nhất thời. Ông thèm được thấy mình ngồi trên ngai vàng như một bậc vua chúa trong cái căn cứ Fort Hays, một lát trước bữa ăn tối. Ông thiếu tá viết xong, nhấc tờ giấy lên. — Tôi điều cậu ra đồn Sedgewick. Cậu nhận phân công trực tiếp của Đại úy Cargill. Trung úy Dunbar ngó xuống bộ quân phục nhàu nát. — Xin tuân lệnh thiếu tá. Tôi sẽ đi đến đó bằng cách nào? — Cậu tưởng tôi biết ư? – Viên thiếu tá xẵng giọng đáp. — Không phải thế, thưa thiếu tá. Chỉ có điều tôi không biết. — Tôi đang vui và sẵn sàng ưu ái cho cậu. Một cỗ xe tiếp tế chất đầy lương thực, thực phẩm và vật dụng sắp sửa lên đường ra đó. Cậu hãy đi tìm một bác nông dân tên là Timmons và cùng ngồi xe với bác ấy. Nói đến đây ông ta trỏ tờ giấy Dunbar đang cầm. — Con dấu của tôi sẽ bảo đảm an toàn cho cậu trong vòng một trăm năm mươi dặm của vùng đất mọi rợ này. Ngay từ ngày nhập ngũ, Dunbar đã hiểu rằng không nên băn khoăn về những thói tật oái oăm của các sĩ quan chỉ huy cấp trên. Chàng lập tức đưa tay lên mũ chào và đáp: “Rõ, thưa thiếu tá!” rồi quay gót bước ra. Chàng tìm được Timmons, bay ra ga nhận con ngựa Cisco. Nửa giờ sau chàng đã rời khỏi căn cứ Fort Hays. Lúc này, sau khi vượt được một trăm dặm đường, ngồi ngắm tờ quân lệnh, chàng nghĩ, chắc mọi sự sẽ ổn thỏa thôi. Chàng thấy xe đi chậm lại. Bác Timmons đang nghiêng đầu nhìn xuống bãi cỏ ngay bên cạnh. — Trung úy nhìn kìa! Vật gì trăng trắng nằm trong đám cỏ, cách xe chừng hai mươi bộ(1). Cả hai người cùng nhảy xuống xem thứ gì. Thì ra một bộ xương người trắng, sáng lên dưới ánh nắng, sọ ngửa lên phía trên. Dunbar quỳ xuống bên cạnh bộ xương, cỏ mọc lách xuyên qua xương sườn. Khoảng hai chục mũi tên chĩa lên như những chiếc trâm cắm vào gối. Dunbar rút một (1) Từ đây người dịch sẽ giữ nguyên cách đo lường của nước Anh. Bộ = 0,30 m. Thước = 0,91 m. Dặm = 1,609 m. Bảng = 453 g. (ND) Michael Blake mũi tên lên lật lật trong hai bàn tay. Thấy chàng đưa ngón tay sờ mũi tên, bác Timmons thốt lên sau lưng chàng. — Chắc phải có người nào nhìn thấy chứ, sao họ không báo gì về nhà nhỉ? Ngày thứ tư cũng giống như ba ngày trước, không xảy ra sự cố gì. Rồi ngày thứ năm và thứ sáu, Dunbar bắt đầu thất vọng khi thấy cỏ không còn um tùm nữa. Chàng vẫn chưa nhìn thấy một sinh vật nào hết. Bác đánh xe Timmons bảo rằng đôi khi các bầy súc vật bỗng tự nhiên biến đâu mất cả, chẳng đáng băn khoăn làm gì, bởi sẽ đến lúc chúng hiện ra đông đúc như châu chấu vậy. Họ cũng không thấy một người da đỏ nào nhưng điều này thì bác Timmons không có cách giải thích nào hết. Bác ta chỉ bảo rằng nếu nhìn thấy lúc này thì là quá sớm, và thế là may, họ không bị bọn cướp hay du đãng nào tấn công. Nhưng, sang đến ngày thứ bảy thì Dunbar chỉ nghe bác Timmons bằng nửa tai. Trong lúc họ vượt nốt những dặm đường cuối cùng Trung úy Dunbar càng suy nghĩ nhiều hơn. Chàng nghĩ đến cái đồn biên giới chàng sắp tới. Đại úy Cargill quay quay lưỡi trong miệng, mắt ngước đăm đăm. Nét mặt ông ta tươi lên một chút rồi lập tức lại cau có ngay. Lại một đứa nữa bị mất tích, ông ta nghĩ. Mẹ kiếp! Mời các bạn đón đọc Khiêu Vũ Với Bầy Sói của tác giả Michael Blake.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nếu Biết Trăm Năm Là Hữu Hạn - Phạm Lữ Ân
“Nếu biết trăm năm là hữu hạn, cớ gì ta không sống thật sâu…” Chỉ xuất hiện vỏn vẹn trong hơn bốn mươi bài viết trên chuyên mục Cảm thức của Bán nguyệt san 2! (số Chuyên đề của báo Sinh Viên Việt Nam), Phạm Lữ Ân là một tác giả đã âm thầm tạo nên hiện tượng đặc biệt trong văn hoá đọc của giới trẻ Việt nam hiện nay. Các bài viết của Phạm Lữ Ân được đăng tải, trích dẫn rất nhiều lần trên các trang web, trên blog cá nhân, đươc đọc trên Youtube, thành cảm hứng cho sáng tác ca khúc và cả kịch bản phim với những lời bình ưu ái. Với nhiều bạn trẻ, những bài viết này như đã thưc tỉnh trái tim và nhận thức của họ về cuộc đời, vốn chứa đựng nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng đầy ắp lo toan. Bằng giọng văn dung dị, thân mật, giàu cảm xúc và có khi rất quyết liệt, tác giả dẫn dắt người đọc đi sâu vào những cảm nhận khác nhau về cuộc đời, về tình yêu trong góc nhìn tỉnh táo và không ngộ nhận (Hãy nói yêu thôi, đừng nói yêu mãi mãi), về tình bạn (Dư vị từ những tình bạn nhạt nhoà), về sự thành bại trong cuộc đời (Còn thời cưỡi ngựa bắn cung), về sự chờ đợi một cơ hội ngắn ngủi và cả một vận hội trong sự an nhiên và điềm tĩnh (Như chờ tình đến rồi hãy yêu)...  Không ít người cho rằng mình đã tìm thấy điều gì đó lạ lẫm và tươi mát trong nhận thức từ những bài viết này. Một số thú nhận mình đã đọc đi đọc lại những bài viết của Phạm Lữ Ân và mỗi lần đọc đều tìm thấy một ý nghĩa mới mẻ tiềm ẩn trong đó. Với hiệu ứng của các bài viết, cái tên Phạm Lữ Ân luôn khiến bạn đọc tò mò. Và thật thú vị khi biết được bút danh này là sự kết hợp của hai nhà báo viết cho giới trẻ, cũng là một đôi vợ chồng. Nhờ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái nhìn trong trẻo, tinh tế và sắc sảo với sự từng trải, thương yêu và khoan dung, những bài Cảm thức này đã đưa ra được những kiến giải đầy thú vị và vô cùng sâu sắc về cuộc đời, không chỉ cho giới trẻ mà cho bất cứ ai trong chúng ta, ở bất kỳ lứa tuổi nào. Có đôi khi những bộn bề của cuộc sống cuốn ta đi như dòng nước hững hờ cuốn trôi chiếc lá. Cứ thế, ta vội vã làm, vội vã ăn, vội vã ngủ, vội vã yêu và vội vã…để sống! Chắc hẳn đã không ít lần mỗi chúng ta đều thốt lên “giá như…” Nếu biết trăm năm là hữu hạn, đưa người đọc đến nhiều tầng của cung bậc cảm xúc, đến nhiều không gian tưởng chừng ta không thể quay về. Vừa hoài niệm, sâu sắc, vừa giản dị, chân thành, vừa quá khứ, hiện tại. Nếu biết trăm năm là hữu hạn cứ thế cuốn ta đi một cách nhẹ nhàng và đầy sâu lắng… Với tập hợp 40 truyện ngắn, chắc hẳn đâu đó xung quanh những câu chuyện ấy, ta sẽ vô tình bắt gặp chính ta. Nếu biết trăm năm là hữu hạn là một quyển sách dành cho nhiều người. “Người ta gọi tuổi mới lớn là “tuổi biết buồn”. “Biết buồn” tức là chạm ngõ cuộc đời rồi đó. Biết buồn tức là bắt đầu nhận ra sự hiện hữu của những khoảng trống trong tâm hồn. Biết buồn là khi nhận ra rằng có những lúc mình cảm thấy cô độc. Khi đó, hãy dành cho sự cô độc một khoảng riêng, hãy đóng khung sự cô đơn trong giới hạn của nó, như một căn phòng  trống trong ngôi nhà  tâm hồn. Mỗi lần vào căn phòng ấy, dù tự nguyện hay bị xô đẩy, thì bạn vẫn có thể điềm tĩnh khám phá bản thân trong sự tĩnh lặng. để rồi sau đó, bạn bình thản bước ra, khép cánh cửa lại và trở về với cuộc sống bề bộn thường ngày, vốn lắm nỗi buồn nhưng cũng không bao giờ thiếu niềm vui...” (Trích "Những khoảng trống không phải để lấp đầy") *** "Nếu biết trăm năm là hữu hạn" đưa bạn đọc đến nhiều cung bậc cảm xúc, những không gian tưởng chừng không thể quay về, vừa hoài niệm, sâu sắc, lại giản dị, chân thành... Phạm Lữ Ân là bút danh chung của 2 tác giả đồng thời là một cặp vợ chồng được rất nhiều bạn đọc trẻ yêu mến: Đặng Nguyễn Đông Vy và Phạm Công Luận. Nhờ kết hợp giữa cái nhìn trong trẻo, tinh tế, sắc sảo với sự từng trải, thương yêu và khoan dung, những bài viết của tác giả được những kiến giải đầy thú vị và sâu sắc về cuộc đời, không chỉ cho giới trẻ mà cho bất cứ ai, ở bất kỳ lứa tuổi nào. Nếu biết trăm năm là hữu hạn là cuốn sách đưa bạn đọc đến nhiều cung bậc cảm xúc, những không gian tưởng chừng ta không thể quay về, vừa hoài niệm, sâu sắc, vừa giản dị, chân thành, vừa quá khứ, hiện tại. Cuốn sách cứ thế cuốn ta đi một cách nhẹ nhàng và đầy sâu lắng… Đôi khi giữa bộn bề cuộc sống, bạn không nhận ra bản thân đã lãng phí thời gian, tiền bạc, công sức... vào những thứ vô bổ. Nhiều lúc bạn vội vàng chạy đua cùng thời gian mà quên cảm nhận những thay đổi, điều thú vị, hạnh phúc xung quanh ta. Cứ thế, ta vội vã làm, ăn, ngủ, yêu và vội vã… sống. "Người ta gọi tuổi mới lớn là 'tuổi biết buồn'. 'Biết buồn' tức là chạm ngõ cuộc đời rồi đó. Biết buồn tức là bắt đầu nhận ra sự hiện hữu của những khoảng trống trong tâm hồn. Biết buồn là khi nhận ra rằng có những lúc mình cảm thấy cô độc. Khi đó, hãy dành cho sự cô độc một khoảng riêng, hãy đóng khung sự cô đơn trong giới hạn của nó, như một căn phòng trống trong ngôi nhà tâm hồn. Mỗi lần vào căn phòng ấy, dù tự nguyện hay bị xô đẩy, thì bạn vẫn có thể điềm tĩnh khám phá bản thân trong sự tĩnh lặng. Để rồi sau đó, bạn bình thản bước ra, khép cánh cửa lại và trở về với cuộc sống bề bộn thường ngày, vốn lắm nỗi buồn nhưng cũng không bao giờ thiếu niềm vui...". Cuốn sách với cách viết nhẹ nhàng, giọng văn như thủ thỉ, khiêm nhường khiến người đọc như được đắm mình trong những dòng cảm xúc. Đọc 40 truyện ngắn, độc giả có thể bắt gặp bản thân ở những câu chuyện ấy. Những điều ấy khiến ta phải dừng lại suy ngẫm, chiêm nghiệm lại bản thân mình để sống tốt hơn cho mình và mọi người xung quanh. “Có những món quà mà bạn không cần phải tốn tiền mua. Có những món quà mà bạn luôn muốn được nhận. Có những món quà mà người khác chờ đợi bạn tặng”. Bạn hãy sống trọn vẹn cho ngày hôm nay, sống thật và dành cho nhau những gì tốt đẹp nhất để cảm nhận cuộc sống từ chính tâm hồn mình vì “Ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay”. Có thể nói, Nếu biết trăm năm là hữu hạn là quyển sách dành cho những người đang mất phương hướng trong cuộc sống. Bởi cuốn sách là các chân lí, quan niệm nhân sinh của người từng trải viết về tình yêu, tình bạn, gia đình... giúp bạn suy nghĩ lạc quan, xác định được hướng đi đúng đắn cho cuộc đời.   Mời các bạn đón đọc Nếu Biết Trăm Năm Là Hữu Hạn của tác giả Phạm Lữ Ân.
Mộ Bia Giữa Biển - Mảnh Đất Cuối Cùng Nơi Người Cha Nằm Lại - Nakamoto Teruo
Quyển sách ghi chép lại việc chuẩn bị và hoàn thành cuộc tế lễ vong linh trên biển “Mảnh đất cuối cùng nơi người cha nằm lại” mà tôi viết nhằm an ủi những kỷ niệm đầy nuối tiếc về cha mình đã được xuất bản ở Nhật Bản hơn năm năm. Tôi đã được rất nhiều người giúp đỡ trong việc chuẩn bị buổi lễ tế vong linh trên biển ngoài khơi tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Những người bạn thân thiết đã giúp tôi tìm kiếm vị trí tàu chìm, xin giấy phép Hải quân cũng như chuẩn bị thuyền để ra đến nơi. Chủ tịch tỉnh Quảng Ngãi và những người liên quan đã tổ chức tiệc đón tiếp cũng như chuẩn bị vòng hoa cho buổi tế lễ vượt ngoài mong đợi của tôi khiến tôi cảm động vô cùng sâu sắc. Sau khi hoàn thành buổi lễ tế và quay trở về Nhật Bản, tôi luôn day dứt muốn làm một điều gì đó để cảm tạ người dân Quảng Ngãi. Tôi bàn với những người ở Hiệp hội hữu nghị Việt Nam – Nhật Bản và quyết định xây một trường Mầm non cho tỉnh Quảng Ngãi. Sau đó, trong một năm tôi đã quyên góp được ba trăm năm mươi vạn yên (tương đương bảy trăm triệu đồng) từ hơn ba trăm người và trao số tiền này cho đơn vị thi công. Vào tháng 12 năm 2015, việc xây cất trường mầm non ở xã Tịnh Ấn Đông, tỉnh Quảng Ngãi hoàn thành và tôi cũng tham dự lễ khánh thành. Mặc dù trời mưa nhưng có rất đông người đến tham dự. Trên băng khánh thành có ghi “Trường Mầm non này được xây dựng trong tình yêu thương hữu nghị Việt – Nhật. Tôi mong những em bé học ở đây tương lai sẽ trở thành những người bắc nhịp cầu hữu nghị Việt Nam và Nhật Bản” và trường được lấy tên là trường “Nhịp cầu” (架け橋 Kakehashi). Phòng ốc rộng rãi như sẵn sàng đợi chờ các em vào nhập học. Trường được hoàn thành nhờ vào thiện ý quyên góp của nhiều người dân Nhật Bản, sự giúp đỡ của nhiều người tình nguyện và ý tưởng của các thầy cô giáo trong trường. Tôi thực sự mong mỏi các em sẽ được nuôi dạy mạnh khỏe, trở thành người bắc nhịp cầu hữu nghị hai nước trong tương lai. Nhờ sự giúp đỡ nhiệt thành của ông Hoàng Long mà quyển sách này được dịch sang tiếng Việt để nhiều người có thể tìm đọc, khiến tôi rất lấy làm vui mừng. Nhân dịp tái bản, cùng với việc đưa vào các tư liệu hình ảnh buổi khánh thành trường Mầm non, tôi cũng mong muốn sẽ có nhiều người tìm đọc quyển sách để suy ngẫm về sự tàn khốc của chiến tranh cũng như cầu nguyện cho hòa bình. Viết tại Nhật Bản Nakamoto Teruo Mời các bạn đón đọc Mộ Bia Giữa Biển - Mảnh Đất Cuối Cùng Nơi Người Cha Nằm Lại của tác giả Nakamoto Teruo.
Con Kỳ Lân Cuối Cùng - Peter S. Beagle
Đầu xuân năm nay, (1973), tôi được anh bạn thân trao cho cuốn THE LAST UNICORN với lời giới thiệu trước rằng đây là một trong những best-sellers hiện thời. Tôi vốn không tin cẩn những best-sellers nên cũng chỉ hững hờ đọc mươi trang đầu, nhưng rồi kế đó tôi đọc miết mải và đọc kỹ. Peter S. Beagle là một trong những tác giả Tây Phương hiếm hoi thấu hiểu tinh thần Dịch lý âm trung chi dương, dương trung chi âm, và tinh thần phá chấp, vô cầu cực kỳ thanh thoát của Thiền. Tôi dịch THE LAST UNICORN với một tinh thần tri kỷ. Hãy xin ghi chú rất nhanh quan điểm dịch của tôi. Tôi muốn tác phẩm được thật gần gũi với độc giả Việt Nam, nên chủ trương dịch thật thoát nghĩa. Rất nhiều khi tôi phải thêm lời vào cho tròn trịa ý của nguyên tác, và cũng đôi khi tôi tước bỏ đi một vài ý nhỏ xét ra chỉ làm rườm lời tối nghĩa với độc giả Việt Nam. Đặc biệt những bài thơ, những bài đồng dao trong tác phẩm, hầu hết tôi chỉ giữ lấy ý chính, còn hoàn toàn sáng tác lại theo lời Việt, tinh thần Việt. Tất cả những thay đổi nhào nặn nhỏ đó chỉ để phục vụ nguyên tác, luôn luôn theo sát nguyên tác về ý, cũng như về giọng điệu. Đặc biệt cách viết và trình bày đối thoại, tôi cố ý giữ đúng theo dáng dấp nguyên bản, vì đó là nét đặc biệt của văn chương Anh ngữ mà tôi muốn chúng ta làm quen dưới hình thức Việt ngữ. Còn về nội dung CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG - THE LAST UNICORN ra sao đây? Tôi không dại gì tiết lộ trước tình tiết câu truyện ra đây để các độc giả mất thú bất ngờ, chỉ xin ghi mấy cảm nghĩ nhân đọc và dịch CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG mà nẩy sinh. Những cảm nghĩ rất rời rạc, tôi cố ý vậy và cũng chẳng thể nào khác hơn, nhưng khi các bạn đọc xong tác phẩm những cảm nghĩ rời rạc đó sẽ kháp lại thành một hệ thống tô đậm mang nhiều ý nghĩa hơn. Xin được tuần tự nêu như sau đây: - Kỳ lân, lý tưởng chân thiện mỹ, nay với người đời chỉ còn là một huyền thoại thôi hay sao? Có thực người đời ngày nay sa đọa đến nỗi không những quay đi, mà còn cười mũi vào những gì là lý tưởng chân thiện mỹ, nhìn con kỳ lân cuối cùng mà cho là con ngựa cái trắng? Biết kính trọng kỳ lân, mỉa mai thay, lại là lũ gà, vịt, ngan, ngỗng, và bất kỳ con vật lớn nhỏ nào. Nhận được ra kỳ lân chỉ có mấy người: Schmendrick và Molly vốn yêu kỳ lân; Bà Má Định Mạng và Vua Haggard, kẻ thì muốn dùng kỳ lân như phương tiện, kẻ thì muốn độc quyền kỳ lân. Kể ra giữa đám người trần mắt thịt nhìn kỳ lân ra ngựa cái, thì kẻ nhận ra kỳ lân, dù với tâm trạng nào, cũng vẫn là những cặp mắt tri kỷ. Có điều Bà Má Định Mạng ở vào trường hợp tài bất cập chí, thực tội nghiệp, như đứa trẻ cố sử dụng cây trùy lớn hơn mình và bị trùy đè bẹp. Giá trị phù phép của Bà Bá Định Mạng nhẹ như hình nộm mà lại nhốt giữ hai trái núi Thái Sơn của Thiện (lân) và của Ác (ác điểu Celaeno). Bùa phép chỉ là thứ bụi phấn vô cùng mong manh phủ ngoài, khi được tự do, những thứ thiệt cỡ lớn đó chỉ sẽ rùng mình là phủi đi hết, có còn gì nữa đâu. Sự thực nung chảy tà thuyết. Bi kịch của những kẻ tài bất cập chí, đi vào tà đạo lừa người và tự lừa mình bằng ảo thuật là ở đó. Chúng ta há chẳng đương sống trong thời đại yêu thuật của tuyên truyền chính trị? Vua Haggard mới đích thực là phù thủy thứ thiệt đại diện cho Ác, kẻ muốn độc quyền kỳ lân, kẻ có một chính sách vô úy, dùng Con Bò Mộng Đỏ làm phương tiện khủng bố, đẩy hiệu năng tới mức vô tiền tuyệt hậu. Chỉ còn chút xíu nữa, bắt nốt con kỳ lân cuối cùng, là ông ta làm bá chủ, dìm cả thế giới vào vùng ảo thuật đen của ông, trong đó tất cả những vì sao lý tưởng đều bị dập tắt ngấm. Trong thế cheo leo chỉ còn đường tơ kẽ tóc đó, phải làm thế nào để cứu mình và cứu người? Thực ra chẳng ai cứu nổi mình, nếu mình không có ý chí tự cứu mình trước. Điều này chẳng mới lạ gì, nhưng không vì thế, mà chúng ta không nhắc nhở luôn, khi có dịp. Trí nhớ con người nào hơn gì thỏ, dao năng mài mới sắc. Vai trò của chàng ảo thuật gia tưởng như nửa mùa, Schmendrick là ở đó. Chàng là hiện thân của nếp sống nghệ sĩ, chân thành trong thiên nhiên, tiên tri tiên giác dưới hình thức lẩm cà lẩm cẩm, đã dạy ta một cách trọn vẹn nhất về cái nhìn toàn diện và nếp sống vô cầu. Kỳ lân tiếc nuối khi phải trở về với bất tử, Schmendrick tràn trề hạnh phúc khi được trở lại kiếp phù du có sống có chết, nhưng chính vì có sống có chết mà trở thành sống động và quyến rũ muôn vàn, trong đó thiện ác đều có vai trò của chúng. Cái nhìn sâu sắc nhất của Peter S. Beagle chính là ở điểm này. Tình yêu tất nhiên có sự hiện diện và đóng giữ vai trò tích cực lớn lao của nó. Nếu như con kỳ lân cuối cùng không qua kinh nghiệm làm người có sống có chết, có tình yêu trong cõi vô thường, con kỳ lân tất cũng bị dồn nốt xuống biển để cho vua Haggard hoàn toàn làm chủ thế giới bằng thứ ảo thuật đen của ông, dưới trướng là thứ phương tiện vô biên, sự khủng bố của Con Bò Mộng Đỏ. Chính tình yêu là điểm le lói cuối cùng nổ tung thành cả một vùng hào quang cứu lấy thế giới chỉ còn cách sự diệt vong có đường tơ kẽ tóc. Lý tưởng đơn thuần cao vòi vọi của kỳ lân vẫn có thể bị con Bò Mộng Đỏ dễ dàng nhận chìm, nhưng tình yêu thì không, dù là chỉ là một điểm nhỏ. Tình yêu thắp bừng ngọn đèn bất úy, điều kiện cần và đủ để thắng Khủng Bố dưới mọi hình thức mà cứu lấy thế giới này. Cái Ác luôn luôn còn đó. Cái Ác không bao giờ bị tiêu diệt. Chỉ có chúng ta là có thể bị tiêu diệt nếu để mất tình yêu. Đó là bức thông điệp tác giả CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG muốn để lại cho chúng ta. Tất cả tình tiết truyện, nhân vật truyện, đối thoại, đều như xuất hiện trong một giấc mộng bàng hoàng, không hẳn là ác mộng mà chìm đắm miên man trong suy tư cho tới khi bừng tỉnh giữa ánh sáng, âm thanh, và hình ảnh quen thuộc thường nhật. Thoạt vào truyện, quả tình, chúng ta có cảm tưởng như thế giới ngày nay hết chỗ cho kỳ lân, sau đó mới hay chẳng phải thế đâu. Mê có thể trải nhiều kiếp, nhưng ngộ có thể chỉ trong sát na liền. Thiện - Ác, Phúc - Tội chẳng hai! Như nước kia, gió thổi động thì thành sóng, gió dứt, sóng vẫn là nước, cũng là ý trong Pháp Bảo Đàn kinh mà ra. Nhưng tuổi trẻ nào cũng khao khát được chiêm ngưỡng lý tưởng tuyệt đối, được ôm ấp, được thờ phụng cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ tuyệt đối. Đành vậy chứ biết sao bây giờ. Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mạng. Đường đời là thế, chẳng thể đốt giai đoạn được. Điều thành công - điểm cuối cùng tôi muốn ghi nhận nơi đây - của tác giả CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG là đã khiến chúng ta phải lúng túng một cách đáng yêu khi đọc truyện này, lúng túng trong việc loay hoay tìm cách đặt những hình ảnh tượng trưng trong truyện sao cho khít khao với những hình ảnh ngoài đời. Ta cứ phải loay hoay hoài, nghĩa là phải suy nghĩ hoài, vì có cái gì trong lý tưởng tìm được chỗ nằm khít khao ngoài thế giới thực tai đâu. Tìm tòi, suy nghĩ hoài, thấy được một ít, tiếp tục tìm tòi suy nghĩ... Một tác phẩm mà đặt được những câu hỏi, những vấn đề vừa đứng đắn vừa ỡm ờ, vừa rõ ràng, vừa huyền ảo như vậy, ta còn đòi hỏi gì hơn? DOÃN QUỐC SỸ *** Peter S. Beagle sinh tại New York năm 1939. Ông tốt nghiệp Đại học Pittsburgh năm 1959 và hành nghề viết báo chuyên nghiệp. Suốt một thập niên viết báo và tiểu luận cho các tạp chí, ông chuyên trách nhiều lĩnh vực, từ đá gà tại Bắc Carolina cho đến Chiến dịch người nghèo ở Washington D.C. Từ giữa thập niên 1970, ông viết kịch bản cho điện ảnh và truyền hình, trong đó có một phần của bộ phim khoa học viễn tưởng nổi tiếng Cuộc du hành giữa các vì sao (Star Trek) và phim hoạt hình dựa theo tiểu thuyết Chúa nhẫn (Lord of the Rings). Hai tiểu thuyết đầu tay của ông vẫn tiếp tục được in lại cho đến nay và xếp vào loại “kinh điển” của thể loại truyện bestseller. Tiểu thuyết Con kỳ lân cuối cùng (The Last Unicorn) được chuyển thành phim hoạt hình năm 1982, còn Một nơi đẹp đẽ riêng tư (A Fine and Private Place) được chuyển thành nhạc kịch. Năm 1993, vở opera Thiên thần nửa đêm (Midnight Angel) được dựng dựa theo truyện ngắn Khiêu vũ với thần Chết (nguyên tác: Come Lady Death) của ông. Mời các bạn đón đọc Con Kỳ Lân Cuối Cùng của tác giả Peter S. Beagle.
Năm Em Gặp Anh - Cecelia Ahern
Năm Em Gặp Anh nhẹ nhàng, lãng mạn, sâu sắc và tinh tế trong từng chi tiết nhỏ. Cecelia Ahern là một nhà văn nổi tiếng với các truyện dài: Cảm ơn ký ức, Món quà bí ẩn, Có một nời gọi là chốn này... viết sâu sắc và hư ảo, luôn biết cách khơi gợi để người đọc nhìn thấy những phần sâu thẳm nhất trong tâm hồn mình. Cô bị trầm cảm nặng nề, nhưng cũng chính nhờ một năm ở nhà theo chế độ "về vườn", cô khám phá ra những sở thích của chính mình lâu nay bị guồng quay công việc che lấp, tình cảm gia đình, xóm giềng, và tìm được một  tình yêu đích thực. *** Cecelia Ahern, sinh ngày 30-9-1981, là con gái của cựu Thủ tướng Bertie Ahern Ireland, bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 2004. Ngoài ra, cô còn có nhiều truyện ngắn in trong các tuyển tập, mà tất cả nhuận bút đều được dành để làm từ thiện. Năm 2000, cô từng tham gia một ban nhạc về thứ ba trong cuộc thi nhạc pop toàn quốc để chọn ứng viên tham dự cuộc thi Eurovision Song. Trước khi bắt đầu viết văn, cô đã tốt nghiệp đại học ngành báo chí và truyền thông đại chúng. Năm 2002, Cecelia Ahern viết tiểu thuyết đầu tay, PS, I Love You, được xuất bản năm 2004, và sau đó trở thành sách bán chạy số 1 ở Ireland, Vương quốc Anh, Mỹ, Đức và Hà Lan. Nó cũng được bán ở hơn 40 nước khác. Cuốn sách cũng đã được chuyển thể thành phim và ra rạp năm 2007. Tiểu thuyết thứ hai của cô, Where Rainbows End (Nơi cuối cầu vồng), cũng là sách bán chạy số 1 ở Ireland và Vương quốc Anh, và giành giải CORINE của Đức năm 2005. Tiểu thuyết mới nhất của cô là 'Flawed' và đã được xuất bản cuối năm 2017.   Trước khi bắt tay vào sự nghiệp viết lách, Cecelia Ahern đã có bằng Báo chí và Truyền thông đại chúng. Hai mươi mốt tuổi, cô viết tiểu thuyết đầu tiên, Tái bút Anh yêu em. Cuốn sách ngay lập tức trở thành tiểu thuyết bán chạy nhất trên thế giới và được chuyển thể thành phim với sự tham gia diễn xuất của Hilary Swank. Những tiểu thuyết tiếp theo của cô: Nơi cuối cầu vồng, Nếu em thấy anh bây giờ, Có một nơi gọi là chốn này, Cảm ơn ký ức, Món quà bí ẩn, Cuốn sách của ngày mai đều là những cuốn sách bán chạy nhất. Tiểu thuyết của cô được xuất bản ở bốn mươi sáu quốc gia và bán ra trên mười triệu bản. Cecelia cũng là nhà đồng sáng tạo seri hài kịch ăn khách trên kênh ABC Network Samantha Who? với sự tham gia diễn xuất của Christina Applegate. Năm 2008, Cecelia giành giải thưởng Nhà văn mới xuất sắc nhất tại lễ trao giải Người phụ nữ của năm của tạp chí Glamour. Cecelia hiện đang sống ở Dublin, Ireland. Để đăng ký nhận những bản tin độc quyền về Cecelia Ahern Harper-Collins và tìm hiểu thêm những cuốn sách, bài phỏng vấn, hình ảnh ... của Cecelia, hãy ghé vào trang www.cecelia-ahern.com. Các tác phẩm của Cecelia Ahern đã được xuất bản tại Việt nam: Sức Mạnh Tình Yêu - PS I Love You Nhật Ký Của Ngày Mai Năm Em Gặp Anh Nếu Em Thấy Anh Bây Giờ Nơi Cuối Cầu Vồng Cô Gái Trong Gương Mời các bạn đón đọc Năm Em Gặp Anh của tác giả Cecelia Ahern.