Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chân Trời Cũ (Hồ Dzếnh)

TỰ SỰ CỦA TÁC GIẢ

Tập truyện này ra đời, tính năm đã được bốn. Nó ra đời và mang lại ngay cho tác giả một kết quả mầu nhiệm: hầu hết những nhân vật của cuốn sách đã “lên đường” về… chân trời cũ: chú Nhì, người anh Cả, thằng cháu đích tôn, chị đỏ Đương, cô em Dìn, và vài nhân vật phụ: bà mẹ ghẻ, em bé Thi. Mấy người sau này, hiện còn sống, nhưng tuổi già, sức khỏe và hoàn cảnh đã giục họ nghĩ đến cái giờ - để mượn một tiếng chuyên môn của Thiên Chúa giáo - giờ “sinh thì”: bà mẹ già thân yêu, người chị dâu Trung Quốc, ông anh Hai phóng lãng và… tác giả tập sách này.

Một người nữa, tuy không cùng họ đương, dòng giống, nhưng quan hệ mật thiết với tác giả về phương diện cảm tình, một linh hồn Việt Nam tế nhị, một nghệ sĩ trang trọng mà đơn sơ, hiện thân của tình yêu đất nước - nhà văn rất thuần túy, rất nhân đạo, Thạch Lam - người bạn đã đáng tiếc từ trần một tháng sau ngày tập đoản thiên này được xuất bản.

Và một người nữa, vẫn góp mặt trong thế giới hữu hình, một tình yêu cố hữu đi sóng đôi với ân nghĩa anh em đã hy sinh chút ít tiền của để cho in lần thứ nhất cuốn sách này, dầu biết rằng nó “không chạy như các món quà giải trí khác”.

Thêm một người nữa, mà định mệnh đã chọn hộ cho con đường chồng vợ theo luật cõi đòi, người con gái có đôi mắt đẹp như thơ, có quê hương mơ màng và xanh biếc, có tấm lòng thắm dịu, mở rộng như trang sách ái tình… Tìm mua: Chân Trời Cũ TiKi Lazada Shopee

Tên hai người trên đây, không viết ra vì nhiều lẽ, và cái lẽ chính đáng nhất vẫn là niềm yên lặng đầy tiếng nói thầm.

Và còn những tâm hồn xa xôi và đẹp đẽ, những thương nhớ giải rộng như không gian, những tên có màu xanh hay lòng có nước mắt, sống giữa đô thành hay dưới trời thôn dã, những vương vấn ảo huyền mà chỉ nhà văn mới có toàn quyền đặc hưởng.

Ròng rã trong bốn năm, sống cái đời cô đơn và tịch mịch trong đó thoáng dệt đôi lúc những bóng nắng, hình mây, tôi đã nghĩ rất nhiều đến bao nhiêu linh hồn bạn mà hơi thở hòa vào hơi thở tôi, làm vui buồn những tư tưởng phù hoa do người đời mệnh danh là Nghệ thuật. Bốn năm! Hương sắc chưa mờ, từ ngày reo than lần đầu tiên những tiếng lòng ngây dại. Nước non, trong quãng thời gian đó, từng rung cảm những lớp Phế, Hưng, để ngày nay đi về một Mùa Xuân Trọng Đại.

Dưới bóng thiều quang của một năm ghi bằng nét vàng vào lịch sử cách mệnh người dân Việt, tôi dám tin tưởng rằng tập sách này tái sinh sẽ nói hộ lòng tôi được nhiều lắm. Bằng tình cảm, bằng tôn giáo, bằng tinh thần vĩnh viễn phương Đông, xứ Á châu quê hương của chúng ta, trong đó nổi lên hàng trên Việt Nam và Trung Quốc, sẽ tiến triển một cách mạnh mẽ hơn hết bao giờ. Và Nghệ thuật sẽ làm vinh hiển đời sống rồi đây sắp trở lại tươi tốt với loài người.

Bạn ạ, tôi là kẻ ít tin nhất rằng loài người đẻ ra đã sẵn cái tài trong óc. Cho nên, được mang danh là nhà văn, tôi thấy thẹn thùng biết mấy! Do những tình cờ của hoàn cảnh, xô xát với cõi đời, chúng ta, để gắng nói ra những nỗi lòng u kín, đã nghiêng về cuộc sống bên trong. Nhưng trên cả Tình và Tài, trên những vinh hạnh chói lòa nhiều khi rất không chân thật, một điểm sáng lấp lánh tự ngàn thu, một Triều Thiên mà thế kỷ nào cũng ước ao, thèm khát, đó là Tấm Lòng. Nhà thi sĩ Nguyễn Du đã nói, và câu của thi sĩ có thể dùng để kết thúc bài tự sự nhỏ này:

“Thiện căn ở tại lòng ta,

Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI.”

Hà Nội, tháng Bảy năm 1946

HỒ DZẾNH***

GIỚI THIỆU

Ông Hồ Dzếnh, tác giả tập sách này, là một người Minh hương. Cái trường hợp ấy đáng kể vì ông là một nhà văn. Những chuyện ông kể cho ta biết toàn là những chuyện về gia đình ông, gia đình của những người Trung Hoa nhẫn nại và chịu khó sang lập nghiệp ở bên này. Một người cha lầm lì, suốt ngày không nói, một người mẹ Việt Nam vào hạng những đàn bà Việt Nam đã làm nên đất nước này, người đàn bà chỉ biết có chịu khó về chồng con, không bao giờ một lời phàn nàn hay oán hận, mà cái ước mong sung sướng nhất là cứ được hy sinh mãi. Và một vài người con, một vài nàng dâu, - trong số đó có một nàng dâu Trung Hoa - cùng lập thành cái gia đình mà số phận hình như bắt buộc phải buồn rầu. Sau khi người cha qua đời, thì cái thời sung túc, đoàn tụ cũng mất đi. Dấu vết không còn lại gì. Và hình ảnh con ngựa trắng đủ yên cương trên cánh đồng cỏ xanh nổi lên như vang bóng của thuở nào.

Điều mà ta nhận thấy ở ông Hồ Dzếnh, cũng là một điều gần giống ở bà mẹ ông, nghĩa là cái sức chịu đựng đau khổ. Tác giả đã đau khổ trong cuộc sống: và chúng ta nhận thấy ông ưa thích quay về dĩ vãng, để lại khiến những đau khổ cũ trở dậy và thêm sắc mắc hơn nữa. Cho nên những chuyện ông kể cho chúng ta nghe đều có một màu sắc riêng, đều nhuộm một tiếc hận thấm thía. Ông chỉ kể những chuyện ấy thôi, nhưng mà đủ có mực thước để khỏi thành ra phô phang, và cũng đủ rung động để độc giả cảm thấy sự thành thực, sự “đã sống” của những chuyện đó.

Những nhân vật ông trình bày đều linh động cả. Mỗi người đều có một bản ngã riêng, và chúng ta nhận thấy - tình cờ hay là số mệnh? - người nào cũng mang một tâm hồn đau khổ. Người mẹ, người con cả, người con thứ, cho đến cô Yên, cái cô gái nuôi đặc biệt Việt Nam, vẫn sống trong một gia đình không phải của mình, để mà chịu đựng bao nhiêu vất vả bất công, tuy có được người mẹ nuôi biết thương đến. Cái đời sống tối tăm và lặng lẽ ấy không đi đến đâu cả, và tác giả để chúng ta thấy thoáng qua số phận một dân số nghèo khó ở các tỉnh đông đúc hay nghèo nàn, cuộc sinh hoạt khó khăn trên những đồng ruộng bạc màu.

Đấy là cả những điều mà chúng ta sẽ thấy khi lần giở trang quyển sách này. Tác giả đã khéo xếp đặt, cho độc giả thấy cả cái dĩ vãng của một gia đình Việt-Hoa. Chúng ta thấy tác giả đã ít nói đến mình, để làm trội những nhân vật khác lên, tuy rằng lúc nào tác giả cũng là vai chủ động trong các truyện. Mà nói về dĩ vãng là một sự khó khăn, khi những điều ta ngẫm nghĩ chưa có đủ thì giờ lắng xuống và thêm bền chặt.

Tuy vậy, ông Hồ Dzếnh đã vượt qua nỗi khó khăn đó một cách đáng vinh hạnh cho tài ông. Tôi không nói rằng tác phẩm này không có khuyết điểm, nhưng tác giả còn trẻ và tài năng của ông còn hứa hẹn cho chúng ta nhiều.

THẠCH LAM (trong Tự Lực Văn Đoàn)***

HỒ DZẾNH (1916-1991) tên thật là Hà Triệu Anh hay Hà Anh, sinh tại làng Đông Bích huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa. cha ông là người gốc Quảng Đông, còn mẹ là người Việt.

Ông là một nhà văn nổi tiếng ở Việt Nam từ thời tiền chiến.

***

“Vẳng nghe tiếng ếch bên tai,

Giật mình còn ngỡ tiếng ai gọi đò…”

Ngày nhỏ, mỗi lần chán chúng bạn, tôi vẫn hay lại bên mẹ tôi, cầu khẩn người kể lại sự cưới xin giữa người và ba tôi, rồi để tôi đem thuật lại với hàng xóm. Tôi còn nhớ nơi mẹ tôi ngồi kể chuyện là một cái hè bằng đất nện trước nhà. Tự đó, tôi vừa nghe chuyện, vừa nhìn ánh nắng chiều nghiêng xế, và những bóng lá lung linh. Có khi đương giữa câu chuyện, tôi véo má mẹ tôi mà hỏi:

- Đố mẹ biết bao giờ đến Tết? Đố mẹ biết con được bao nhiêu tiền phong bao?

Mẹ tôi khẽ gỡ tay tôi ra, lặng lẽ nói tiếp, và lặng lẽ ru tôi ngủ mất lúc nào! Tuy nhiên, trong giấc mơ kỳ dị, tôi vẫn hình dung được cả đám cưới, chú rể là ba tôi, cô dâu là mẹ tôi và… tôi là người dự lễ! Dần dần tôi lớn lên. Qua mẩu đời sum họp của hai người sinh ra tôi, tôi nhận thấy một định mệnh khe khắt, một duyên phận tăm tối và buồn rầu. Vì thế, tôi được sự thật cho biết rằng phần nhiều, hay tất cả cũng được, những bà mẹ Việt Nam - tôi nói những bà mẹ đáng là mẹ - đều phải đau khổ ngay từ lúc lọt lòng. Mọi sự do “Trời” định, các tâm hồn đó chỉ biết vâng theo, một cách nhẫn nhục, một cách lặng lẽ, một cách chua xót vô cùng! Bao nhiêu thế kỷ rồi, những tiếng thở dài mất tăm trong đêm tối, những mái đầu bù rối nghiêng xuống bổn phận hằng ngày, tầm thường và nhỏ mọn. Cuộc hôn nhân của mẹ tôi, đến nay, tôi mới thấm thía được hết cái đơn giản, mới biết suy ngẫm trước sự lễ nghi của nó.

Và đến ngày nay, tôi mới hiểu mẹ tôi hơn lúc nào hết, người con gái lái đò trên sông Ghép ngày xưa, người mẹ Việt Nam một cách dịu dàng và cao trọng…

* * *

Cách đây hơn năm mươi năm.

Một buổi chiều mùa hè vàng rực.

Trên bờ sông Ghép lặng lẽ của tỉnh Thanh Hóa, dân làng Ngọc Giáp bỗng thấy mọc lên bóng một người ngoại quốc, tay xách một gói vải xanh thay va li, và đầu chụp chiếc mũ rơm đã vàng ỏng. Người khách lạ có chiếc trán rất lạ: nó nhỏ nhưng nhô ra một cách bướng bỉnh. Nhất là đôi mắt, sắc như dao, bén như nước, nhìn vật gì thì như hút lấy vật ấy. Hai cái đặc điểm đó nhất định không được tạo bằng thủy thổ Việt Nam, mà là bằng tinh hoa của một dân tộc khác. Một vẻ gì xương xương, rắn rắn độn khắp mình người khách, biến cái thân thể thoạt trông thì gầy kia ra sự chịu đựng khó nhọc, ở đấy, một nghị lực bền vững tiềm tàng.

Khách mặc một bộ quần áo bằng lĩnh Quảng Đông, nguyên màu đen, nhưng sau khi trải nhiều phong trần, đã đổi sang màu xám kệch. Y phục ấy gợi được trong lòng người gặp, bao nhiêu là cảm giác thanh thú, hương vị xa xôi. Từ đằng xa, những gợn lụa phơ phất như những gợn gió trùng dương, và khi lại gần thì gió trùng dương lại chỉ toàn xông lên một mùi cá mặn!

Linh hồn Trung Quốc phát lộ ra trong từng bước đi, điệu đứng, trong sự trầm mặc, trông tìm, trong cả cách đưa năm đầu ngón tay có móng dài vẩn ghét lên gãi sồn sột chiếc đầu gần như húi trọc tếch.

Đêm về trong những bước nhẹ, hắt hiu bốc hơi lên mặt sông. Nắng tắt dần dần chỉ còn ánh vàng pha sắc tím. Hoàng hôn ở đây không như hoàng hôn của Giang Tây, Hồ Bắc, hoàng hôn ở đây ưu hoài như một chinh phụ nhớ chồng.

Và như một gã giang hồ chạnh lòng khóc nước.

Tuy nhiên, đôi mắt trong và sáng kia không hề vẩn bởi màu sắc thê lương, vẫn quắc lên nhìn những đợt sóng nhuyễn nhàng bò quanh mấy con thuyền ngái ngủ. Cử chỉ lạnh lẽo đó thật là trái hẳn với cảnh sông nước buồn rầu, cái cảnh tầm thường nhưng đã làm chuyển dời bao nhiêu cuộc đời ngang dọc.

Khách ngồi xuống vệ cỏ, không để ngắm cảnh chiều tang tóc, mà để tháo cái gói vải từ bao lâu vẫn đeo ở tay, lấy trong đó ra một gói cơm nắm. Rồi không dao, không đũa, khách bẻ ngoắt nửa nắm cơm, đưa lên miệng, trong khi mấy ngón tay lần gỡ từng miếng cá khô. Đôi lúc khách ngừng nhai, chép miệng cho thấm xuống đáy lòng cái hương vị đậm đà của bữa cơm lưu lạc.

Chỉ sau mười phút, không còn một miếng cơm, một khúc cá nào sót lại trên mảnh lá chuối héo. Tất cả lương thực đã ngọt ngào trôi qua cổ họng, đảo lộn trong cái dạ dày vô bệnh, để biến thành những dòng máu hùng cường luân lưu nuôi mạch sống, và nuôi lớn mãi cái chí nguyện giang hồ.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chân Trời Cũ PDF của tác giả Hồ Dzếnh nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Tuyển Tập Truyện Ngắn Nam Cao (Nam Cao)
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Trí. Sinh ngày 29-10-1917 tại làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam - nay là xã Nhân Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam Ninh. Gia đình làm ruộng và có một hiệu bán đồ gỗ ở Nam Định, sau bị phá sản. Thời kì Mặt trận Dân chủ, học xong bậc Cao đẳng Tiểu học, Nam Cao về làng, rồi theo một ông cậu họ vào Sài Gòn để kiếm việc làm ăn. Làm phóng viên báo Kịch bóng, viết quảng cáo, thư ký hiệu buôn, dạy học tư, chích thuốc ở bệnh viện….Lúc rỗi, thâm nhập đời sống thợ thuyền, đọc sách, học thêm và mơ ước một chuyến đi xa. Ốm nặng, trở về làng một thời gian, rồi ra Hà Nội dạy học tư, viết văn dưới bút danh Nam Cao (ghép hai chữ đầu tên huyện và tổng quê: Nam Sang, Cao Đà), cùng một số bút danh khác như Nguyệt, Thúy Rư, Xuân Du, Nhiêu Khê… Sự kiếm sống khá vất vả, vì vào nghề văn khá chật vật, và dạy học tư thu nhập bấp bênh. Vợ con và bố mẹ sống ở quê - làng Đại Hoàng, nơi nhà văn thường xuyên lui về để nghỉ ngơi, và khai thác chất liệu để viết. Hoạt động trong nhóm Văn hóa Cứu quốc bí mật ở Hà Nội từ 1943. Cách mạng tháng Tám về làng, tham gia cướp chính quyền ở xã, rồi làm báo thông tin, văn hóa tỉnh. Chuyển ra Hà Nội, công tác ở Hội văn hóa Cứu quốc và tham gia tòa soạn tạp chí Tiên Phong, cơ quan ngôn luận của Hội. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, trở về quê, hoạt động ở xã, rồi lên tỉnh tham gia công tác tuyên truyền, địch vận, công giáo vận…Giữa 1947, được điều lên Việt Bắc làm báo Cứu quốc Việt Bắc cùng Tô Hoài, Trần Đình Thọ. Thời gian này, được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương. Ở Việt Bắc, Nam Cao làm báo, viết văn, soạn sách giáo khoa, viết sách địa lý phổ thông. Sau chiến dịch Biên giới năm 1950, về công tác ở Hội Văn nghệ. Cuối năm 1951, sau khi cùng Nguyễn Huy Tưởng vào Khu Bốn trở ra, Nam Cao đi theo đoàn cán bộ Thuế nông nghiệp vào công tác ở vùng địch hậu Khu Ba. Bị địch phục kích và bắn chết ở quãng Miễu Giáp - Hoàng Đan (tỉnh Ninh Bình cũ) ngày 31-11-1951. Tìm mua: Tuyển Tập Truyện Ngắn Nam Cao TiKi Lazada Shopee - Tác phẩm Chí Phèo (tên cũ: Đôi lứa xứng đôi); NXB Đời mới: 1941. - Nửa đêm (tập truyện): NXB Cộng lực: 1943. - Truyện người hàng xóm (truyện dài): in trên Trung Bắc chủ nhật, từ tháng 4 đến tháng 9 - 1944 - Cười (tập truyện); NXB Minh Đức: 1946 - Đôi mắt: đăng báo năm 1948; in thành tập cùng một số truyện kí khác viết trong khoảng 1947-1948; NXB Văn nghệ: 1954. - Chuyện biên giới (tập kí); NXB Văn nghệ: 1951. - Đóng góp (kịch); NXB Văn nghệ: 1951 - Sống mòn (tiểu thuyết) viết 1944; NXB Văn nghệ: 1956 Tái bản: - Chí Phèo (tập truyện); NXB Văn nghệ; 1957. - Truyện ngắn Nam Cao (tập truyện); NXB Văn hóa; 1960 - Một đám cưới (tập truyện); NXB Văn học; 1963 - Nam Cao - Tác phẩm (2 tập); NXB Văn học; 1976-1977. Truyện thiếu nhi (trước 1945): - Nụ cười. Hoa Mai số 20. - Người thợ rèn. Hoa Mai số 20. - Con mèo mắt ngọc. Hoa Mai; Tết 1942. - Ba người bạn. Hoa Xuân số 28; 1942. - Những kẻ khốn nạn. Hoa Mai số 17-18; 1942. - Phiêu lưu. Hoa Mai; 1943. - Bảy bông lúa lép. Hoa Mai; 1943. - v.v…. Truyện dài, viết trước năm 1945, mất bản thảo: - Cái bát - Một đời người. - Cái miếu. - Ngày lụt. Tập truyện trong ebook này gồm có: NGHÈO ĐUI MÙ CÁI CHẾT CỦA CON MỰC CHÍ PHÈO CÁI MẶT KHÔNG CHƠI ĐƯỢC NHỎ NHEN CON MÈO NHỮNG CHUYỆN KHÔNG MUỐN VIẾT NHÌN NGƯỜI TA SUNG SƯỚNG ĐÒN CHỒNG GIĂNG SÁNG ĐÔI MÓNG GIÒ TRẺ CON KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÓ ĐÓN KHÁCH MUA NHÀ QUÁI DỊ TỪ NGÀY MẸ CHẾT LÀM TỔ THÔI, ĐI VỀ…. TRUYỆN TÌNH MUA DANH MỘT TRUYỆN XÚVƠNIA TƯ CÁCH MÕ ĐIẾU VĂN MỘT BỮA NO Ở HIỀN LÃO HẠC RỬA HỜN RÌNH TRỘM LANG RẬN MỘT ĐÁM CƯỚI NỬA ĐÊM DÌ HẢO TRUYỆN NGƯỜI HÀNG XÓM ĐỜI THỪA SAO LẠI THẾ NÀY CƯỜI QUÊN ĐIỀU ĐỘ NƯỚC MẮT BÀI HỌC QUÉT NHÀ XEM BÓI SỐNG MÒN MÒ SÂM-BANH NỖI TRUÂN CHUYÊN CỦA KHÁCH MÁ HỒNG ĐƯỜNG VÔ NAM ĐỢI CHỜ Ở RỪNG ĐÔI MẮT NHỮNG BÀN TAY ĐẸP ẤY TRÊN NHỮNG CON ĐƯỜNG VIỆT BẮC TỪ NGƯỢC VỀ XUÔI BỐN CÂY SỐ CÁCH MỘT CĂN CỨ ĐỊCH VUI DÂN CÔNG TRẦN CỪ VÀI NÉT GHI QUA VÙNG VỪA GIẢI PHÓNG HỘI NGHỊ NÓI THẲNG ĐỊNH MỨCDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nam Cao":Chí PhèoĐôi Lứa Xứng ĐôiĐôi MắtĐời ThừaLão HạcSống MònTuyển Tập Truyện Ngắn Nam CaoĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tuyển Tập Truyện Ngắn Nam Cao PDF của tác giả Nam Cao nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Tuyển Tập Truyện Ngắn Nguyễn Công Hoan (Nguyễn Công Hoan)
Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, rất ngắn, cấu trúc gọn và đầy tính hài hước. Ngôn ngữ của ông giản dị, chữ dùng chọn lọc chính xác gợi những hình ảnh đậm nét, dí dỏm và thông minh. Gấp trang sách, người đọc cảm thấy không thể chịu đựng nổi nếu những cảnh huống như vừa đọc còn tiếp tục diễn ra trong cuộc sống con người. Nghệ thuật trào phúng của ông không chỉ bộc lộ rõ ưu thế trong truyện ngắn eBook Tuyển Tập Nguyễn Công Hoa gồm có:Bạc đẻ Báo hiếu: trả nghĩa cha Báo hiếu: trả nghĩa mẹ Chiếc quan tài Con ngựa già Tìm mua: Tuyển Tập Truyện Ngắn Nguyễn Công Hoan TiKi Lazada Shopee Công dụng của cái miệng Cụ chánh bá mất giày Đào kép mới Đồng hào có ma Hai cái bụng Hai thằng khốn nạn Kép Tư Bền Ngậm cười Ngựa người và người ngựa Người thứ ba Người vợ lẽ bạn tôi Oẳn tà roằn Phành phạch Răng con chó của nhà Tư sản Sáng, chị phu mỏ Sáu mạng người Thằng ăn cắp Thằng điên Thanh! Dạ! Thật là phúc Thế là mợ nó đi tây Thịt người chết Tinh thần thể dục Tôi cũng không hiểu tại làm sao Vợ Xin chữ cụ nghè Xuất giá tòng phu Nguyễn Công Hoan được tăng lương sau khi… tạ thế? Ái tình tiểu thuyết Anh xẩm Bà chủ mất trộm Bà lái đò Biểu tình Bố anh ấy chết Cái lò gạch bí mật Cái nạn ô-tô Cái tết của những nhà đại văn hào Cái thú tổ tôm Cái ví ấy của ai Cái vốn để sinh nhai Cấm chợ Cậu ấy may lắm đấy Cây mít Chiếc đèn pin Lại chuyện con mèo Hé! Hé! Hé! Chính sách thân dân Cho tròn bổn phận Chuyện chó chết cái thâm ý của anh chàng sợ vợ Chuyện của cô ấy Cô Kếu, gái tân thời Đàn bà là giống yếu *** Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương vị quan trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương) Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Công Bồng nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ nguyên Tổng Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ. Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,…) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ 9 năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ). Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội. Tên ông được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn Chí Thanh. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Công Hoan":Bước Đường CùngKép Tư BềnLá Ngọc Cành VàngLệ DungMột Đứa Con Đã Khôn NgoanNgười Ngựa, Ngựa NgườiNợ NầnOẳn Tà RroằnTấm Lòng Vàng Và Ông ChủTắt Lửa LòngTiểu Thuyết Nguyễn Công HoanTuyển Tập Truyện Ngắn Nguyễn Công HoanBơ VơDanh TiếtÔng ChủTấm Lòng VàngTruyện Ngắn - Nguyễn Công HoanĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tuyển Tập Truyện Ngắn Nguyễn Công Hoan PDF của tác giả Nguyễn Công Hoan nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Tuyển Tập Truyện Ngắn Nguyễn Công Hoan (Nguyễn Công Hoan)
Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, rất ngắn, cấu trúc gọn và đầy tính hài hước. Ngôn ngữ của ông giản dị, chữ dùng chọn lọc chính xác gợi những hình ảnh đậm nét, dí dỏm và thông minh. Gấp trang sách, người đọc cảm thấy không thể chịu đựng nổi nếu những cảnh huống như vừa đọc còn tiếp tục diễn ra trong cuộc sống con người. Nghệ thuật trào phúng của ông không chỉ bộc lộ rõ ưu thế trong truyện ngắn eBook Tuyển Tập Nguyễn Công Hoa gồm có:Bạc đẻ Báo hiếu: trả nghĩa cha Báo hiếu: trả nghĩa mẹ Chiếc quan tài Con ngựa già Tìm mua: Tuyển Tập Truyện Ngắn Nguyễn Công Hoan TiKi Lazada Shopee Công dụng của cái miệng Cụ chánh bá mất giày Đào kép mới Đồng hào có ma Hai cái bụng Hai thằng khốn nạn Kép Tư Bền Ngậm cười Ngựa người và người ngựa Người thứ ba Người vợ lẽ bạn tôi Oẳn tà roằn Phành phạch Răng con chó của nhà Tư sản Sáng, chị phu mỏ Sáu mạng người Thằng ăn cắp Thằng điên Thanh! Dạ! Thật là phúc Thế là mợ nó đi tây Thịt người chết Tinh thần thể dục Tôi cũng không hiểu tại làm sao Vợ Xin chữ cụ nghè Xuất giá tòng phu Nguyễn Công Hoan được tăng lương sau khi… tạ thế? Ái tình tiểu thuyết Anh xẩm Bà chủ mất trộm Bà lái đò Biểu tình Bố anh ấy chết Cái lò gạch bí mật Cái nạn ô-tô Cái tết của những nhà đại văn hào Cái thú tổ tôm Cái ví ấy của ai Cái vốn để sinh nhai Cấm chợ Cậu ấy may lắm đấy Cây mít Chiếc đèn pin Lại chuyện con mèo Hé! Hé! Hé! Chính sách thân dân Cho tròn bổn phận Chuyện chó chết cái thâm ý của anh chàng sợ vợ Chuyện của cô ấy Cô Kếu, gái tân thời Đàn bà là giống yếu *** Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương vị quan trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương) Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Công Bồng nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ nguyên Tổng Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ. Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,…) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ 9 năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ). Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội. Tên ông được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn Chí Thanh. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Công Hoan":Bước Đường CùngKép Tư BềnLá Ngọc Cành VàngLệ DungMột Đứa Con Đã Khôn NgoanNgười Ngựa, Ngựa NgườiNợ NầnOẳn Tà RroằnTấm Lòng Vàng Và Ông ChủTắt Lửa LòngTiểu Thuyết Nguyễn Công HoanTuyển Tập Truyện Ngắn Nguyễn Công HoanBơ VơDanh TiếtÔng ChủTấm Lòng VàngTruyện Ngắn - Nguyễn Công HoanĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tuyển Tập Truyện Ngắn Nguyễn Công Hoan PDF của tác giả Nguyễn Công Hoan nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Bí Thư Tỉnh Ủy (Vân Thảo)
Nhà văn Vân Thảo và tiểu thuyết “Bí thư tỉnh ủy” Với nhà văn Vân Thảo, người đã trải qua 40 năm mặc áo lính, chiến tranh là đề tài xuyên suốt trong các tiểu thuyết và truyện ngắn của ông. Ông từng viết về đề tài nông thôn với vấn đề nông thôn trong thời kỳ đổi mới như: “Vui buồn sau lũy tre làng”, “Hương đất”... nhưng là kịch bản phim truyền hình. Trong năm 2009, ông cho ra mắt kịch bản phim “Bí thư tỉnh ủy” với độ dài 50 tập, sau đó chuyển thể kịch bản này thành tiểu thuyết. “Bí thư tỉnh ủy” là tiểu thuyết đầu tay của ông viết về đề tài nông thôn. Dưới đây là cuộc trò truyện với tác giả về cuốn tiểu thuyết này. - Xin ông cho biết, tiểu thuyết “Bí thư tỉnh ủy” được “thai nghén” từ bao giờ? Nhà văn Vân Thảo: Thật khó trả lời tôi “thai nghén” tiểu thuyết “Bí thư tỉnh ủy” từ bao giờ. Chuyện khoán hộ của ông Kim Ngọc tôi biết từ những năm sáu mươi của thế kỷ XX. Thời ấy cứ mỗi lần học nghị quyết, người ta lôi chuyện khoán hộ của ông Kim Ngọc ra làm dẫn chứng cho hành động đi trái lại con đường tập thể hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng. Đưa nông dân trở về con đường làm ăn riêng lẻ của chủ nghĩa tư bản. Rồi mọi chuyện bẵng đi hàng chục năm thấy không ai còn nhắc đến chuyện ấy nữa. Vào khoảng năm 1995 hay 1996, vô tình tôi đọc một bài báo của hai tác giả Nguyên Bảng và Hải Thanh đăng trên một số báo xuân nói về chuyện khoán hộ của ông Kim Ngọc. Sau đó tôi đọc một bài báo khác của nhà báo Xuân Ba đăng trên báo An ninh thế giới, bấy giờ trong tôi bắt đầu xuất hiện ý nghĩ phải viết một cái gì đó về nhân vật này. Nhưng viết gì và viết như thế nào thì tôi vẫn chưa nghĩ được, vì tôi không hiểu biết bao nhiêu về ông Kim Ngọc. Giữa năm 2007 nhà văn Thùy Linh, Phó giám đốc Trung tâm sản xuất phim truyền hình (VFC) gọi điện bảo muốn làm một bộ phim dài tập lấy nguyên mẫu từ bí thư Kim Ngọc, liệu tôi có nhận viết kịch bản được không? Được lời như cởi tấm lòng, tôi nhận lời ngay. Trong quá trình thâm nhập thực tế lấy tài liệu để viết kịch bản, trong tôi cũng hình thành ý định sẽ làm một cuốn tiểu thuyết về nhân vật Kim Ngọc. Tôi muốn nói điều này, nếu cuốn tiểu thuyết của tôi thành công ít hay nhiều thì tôi cũng cám ơn nhà văn Thùy Linh. Nếu như không có cuộc hành hương tìm lại hình ảnh nhân vật Kim Ngọc thì không bao giờ tôi viết được cuốn tiểu thuyết này. Tìm mua: Bí Thư Tỉnh Ủy TiKi Lazada Shopee - Ông có thể chia sẻ những khó khăn và thuận lợi khi ông viết cuốn tiểu thuyết này? Nhà văn Vân Thảo: Nói về thuận lợi thì phải nói sau ba tháng tôi sống ở tỉnh Vĩnh Phúc, được sự ủng hộ nhiệt tình của Tỉnh ủy, sự giúp đỡ tận tình của chính quyền và nhân dân ở các địa phương, tôi đã có trong tay những tư liệu vô cùng quý giá của thời kỳ diễn ra sự kiện khoán hộ. Tuy nhiên, do tôi phải viết kịch bản phim trước khi viết tiểu thuyết nên phải lúng túng mất một thời gian mới từ bỏ được lối tư duy của phương pháp viết kịch bản điện ảnh trong đầu để lấy lại tư duy của phương pháp viết tiểu thuyết. Đại thể là khi viết kịch bản, phương pháp chủ yếu là chi tiết hành động. Qua hành động để bộc lộ được tính cách nhân vật. Còn tiểu thuyết đi vào miêu tả chiều sâu của nhân vật. Chỉ tính việc loại bỏ hơn 1.300 trang của kịch bản xuống còn khoảng 600 trang của tiểu thuyết đã là một việc làm rất vất vả rồi. Bỏ chi tiết nào, lấy chi tiết nào đôi khi phải đắn đo cân nhắc mãi mới dám xóa. Tâm lí mà nói, bỏ chi tiết nào cũng thấy tiếc...Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bí Thư Tỉnh Ủy PDF của tác giả Vân Thảo nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.