Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hòn Đảo Phía Chân Trời (Trần Nhuận Minh)

Tác phẩm kể về nghề biển và những người dân chài trong công cuộc xây dựng làng mới trên hòn đảo Mõm Cá Sấu thân yêu của tổ quốc.

Từ những nhân vật phụ: Ông Trương Sần kì dị, điều khiển được rắn độc, lại có giọng hò đến say lòng người hay người ông nội kiệm lời, cổ hủ nhưng đã quyết định ra đảo, mang theo cả cỗ hậu sự của mình… cho đến nhân vật chính, cậu bé Nhụ, con trai một gia đình đánh bắt cá trên sông Bạch Đằng, tất cả đều sinh động và ấn tượng.

Một sức sống mới đã bừng lên nơi hòn đảo cù lao khô cằn với những con người ấy…

***

Hòn đảo phía chân trời thực chất là tiểu thuyết, gồm hai phần, có hai bối cảnh khác nhau, thông qua một gia đình làm nghề cá trên sông Bạch Đằng. Nhân vật trung tâm là Nhụ, con thứ ba của gia đình. Tìm mua: Hòn Đảo Phía Chân Trời TiKi Lazada Shopee

Thằng Nhụ, mà ông Trương Sần gọi là cu Cõn, không ngờ rằng, một phần cuộc đời nó lại gắn bó mật thiết với ông, một người có cuộc sống lạ lùng, làm cái nghề lạ lùng. Ông không gia đình, không vợ con, chuyên bắt rắn độc, nuôi rắn độc, và chạy chữa cho người bị rắn độc cắn. Cũng chính ông, có giọng hò đến say lòng người, từ hồi còn chèo đò trên sông Bạch Đằng. Có thể nói Trương Sần là nhân vật chính, nhìn ở góc độ khác. Giả sử tiểu thuyết Hòn đảo phía chân trời, thiếu nhân vật này, chưa chắc cuốn sách đã đứng được. Càng về cuối tác phẩm, vai trò ông Trương Sần càng quan trọng. Ngòi bút Trần Nhuận Minh dữ quá một chút nữa, ông Trương Sần sẽ biến thành phù thủy. Nhưng thật may, điều đó đã không xảy ra.

Trong Phần Một: Ngôi nhà bên cửa sông, tác giả mô tả ngôi nhà của Nhụ nằm sát mép nước, mỗi lần tàu chạy qua, sóng sông Bạch Đằng lập tức dào lên, vỗ oàm oạp vào bậc đá dưới thềm nhà. Vấn đề mà phần đầu sách khơi mở, chính từ ngôi nhà đó, bắt nguồn từ người ông. Nhà Nhụ có bốn chị em. Chị Chim sau đổi thành Chiêm, anh Thu, bộ đội hải quân, Nhụ và thằng Đé 5 tuổi. Thằng Đé thường ngủ muộn, bật dậy là bám vào chấn song cửa sổ, vén quần đái vo vo ra sông. Nó có biết gì đâu. Nhụ thì biết. Nhụ biết trong tâm trí ông nó, đang giằng co, về việc đi hay ở, đi là đến làng mới trên đảo xa. Việc hệ trọng đến vậy, ông cũng chỉ nói với Nhụ, kèm một chi tiết khá độc đáo, khiến Nhụ cứ ớ ra. Ông hay ngồi uống rượu trên tấm phản, nguyên là cỗ áo quan, ông tự chuẩn bị cho mình. Ông bảo Nhụ: Nhà ta từ đời thượng cổ đến giờ, chưa ai khuất sóng mà lại được chôn trong một cỗ áo quan. Có lẽ ông là người đầu tiên đây... Khi chết, không bị thả xác xuống biển... mà được chôn trên đất liền, là điều đặc biệt thiêng liêng đối với người dân chài. Ông bám chắc vào cỗ áo quan dành cho mình, là có ý ngầm phản đối việc con trai ông, đang đi tìm miền đất mới trên biển khơi. Hình ảnh bố mẹ Nhụ ở phần đầu sách, chỉ thấp thoáng, đây là sự sắp đặt có chủ ý. Trong điện ảnh, người ta gọi đó là thủ pháp mờ chồng, không chủ yếu, song không thể bỏ qua. Người đọc dễ dàng nhận thấy, tác giả có chút rộng rãi với nhân vật, đôi khi thả lỏng, cho nhân vật hoạt động ngoài tầm kiểm soát của ngòi bút, làm cho một số chương buộc phải nới lỏng dung lượng.

Sang Phần Hai: Làng mới trên đảo biển, tiểu thuyết chặt chẽ hơn, đẩy các nhân vật vào hoạt động đa tuyến. Từ bối cảnh một làng đảo mới hình thành, ở địa danh lạ lẫm là Mõm Cá Sấu, cùng nhiều chi tiết, để lại nhiều dấu ấn.

Nhụ đã theo bố chuyển ra làng đảo. Ở làng biển, Nhụ có thêm mấy người bạn: Đức, Ngạnh. Mỗi người bạn của Nhụ, có một cảnh đời khác nhau. Đức, con nhà khá giả hơn, phải đeo kính, hai mắt cách xa nhau. Đức biết thương người, còn thương cả con chó Róc, bị cáy cắp chảy máu mũi...

Ngạnh thì khác. Ngạnh là thằng bé già trước tuổi. Vì nó sớm phải đối mặt với một cuộc đời buồn. Và càng buồn hơn, mười ba tuổi đầu, Ngạnh chưa hề biết chữ... Cần nói ngay rằng, ngòi bút Trần Nhuận Minh dễ làm xiêu lòng người đọc, ở các trang thể hiện tâm trạng. So với hai bạn, Nhụ có vẻ hiểu biết hơn. Cả ba đứa đều kết thân với chú Thuận, chiến sĩ bộ đội biên phòng, đóng trên đảo. Chú Thuận đã dạy Ngạnh biết đọc biết viết. Mõm Cá Sấu chỉ là một hòn đảo cù lao khô cằn, hoang vu, khi có con người đến sinh cơ lập nghiệp, sự sống mới bừng lên. Hãy nghe ba đứa trẻ đang đi trên mép sóng, bỗng reo to: Chúng ta phải đi báo với chú Thuận. Ngọc trai trước biến đi, bây giờ ngọc trai lại về...

Tháng sau, chú Thuận rời quân hàm xanh về làm Chủ tịch lâm thời xã đảo. Nhà văn phòng Ủy ban rất sơ sài, nổi bật lên trên hết là ngọn quốc kỳ. Hai lần Trần Nhuận Minh viết về lá cờ, cả hai đều hay: Lá cờ đỏ sao vàng động gió, bay như hát trên bầu trời. Và lần khác: Cờ đỏ sao vàng, chủ quyền của đất nước đối với hòn đảo, bay như một đốm lửa, lấp loáng cháy ở lưng trời... Các chi tiết này rất quan trọng, vì nó minh chứng cho việc hình thành thể chế của chính quyền nhân dân Việt Nam, được thiết lập trên hòn đảo rất xa đất liền.

Mọi việc đang được xúc tiến trôi chảy. Các đội tàu cá, dưới sự chỉ huy của bố Nhụ, một tướng cá, với các chuyến đánh bắt ở khơi xa, thì xã đảo xảy ra một chuyện buồn. Một đêm giông, tàu chở Chủ tịch xã vào đất liền, va vào cồn đá, gẫy bánh lái...Cả xã đảo buồn. Nhụ và hai thằng bạn là buồn nhất. Chúng nó truyền tin cho nhau: Đồn biên phòng đang xin trực thăng đi tìm xác chú... Ở đây, tác giả đã nói một điều rất hợp lôgic cuộc sống: Thành công nào mà chả có mất mát hi sinh.

Người đọc lại chú ý một nhân vật phụ: Ông Quang. Ông già bán kẹo kéo ở cạnh cây lim Giếng Rừng (đầu tác phẩm), không ai ngờ lại chính là bố chú Thuận. Chú Thuận, đứa con duy nhất, chỗ dựa duy nhất của ông, không còn. Ông ra đảo, rồi tình nguyện ở lại đảo, nơi con trai ông đã hi sinh. Rồi ông Nhụ cũng ra đảo ở với con, với cháu. Ông đem theo cả cỗ hậu sự. Chi tiết này thật đắt. Cũng vẫn con người ấy, sự việc ấy, song tác giả hướng cái nhìn vào một quan niệm mới.

Cuối cùng là ông Trương Sần cũng ra đảo, sống vui cùng mấy bạn già. Cảm giác như cứ trang viết nào trong cuốn sách, có ông Trương Sần, là trang ấy sinh động hẳn lên. Bởi nhân vật này quy tụ được bọn trẻ. Ông Trương Sần hấp dẫn tụi trẻ ở nhiều lẽ. Câu chuyện bố con ông Trương Sần, vật lộn với con rắn hổ mang to đại, thì cả khu Giếng Rừng, người lớn, trẻ con, đều biết. Từ trong lòng, bọn trẻ rất cảm phục. Bằng những kinh nghiệm sống khổ đau, mất mát, cùng chút niềm vui hiếm hoi, ông truyền dạy cho lũ trẻ cái nhân ái của con người. Ở đây, bất chợt ta gặp một Trần Nhuận Minh - nhà thơ, tác giả tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ, nâng hình tượng Nhân nghĩa và Tự do, lên thành chủ thể của tác phẩm.

Trong tập sách này, Trần Nhuận Minh có những trang viết hay và cảm động, về nhiều mặt của cuộc sống, như: gà đẻ trứng, ông lão chèo đò chống đỡ với con rắn hổ mang..., các trang viết về những câu hò sông nước, về phong tục tập quán, kinh nghiệm người đi biển, về nghề biển v.v... cả những câu thơ, câu hò trong tập sách, người viết dụng công đưa vào, dù rằng, đó là câu hò dân gian hay thơ của Trần Nhuận Minh, cũng đều đáng khích lệ, bởi lời hay, hợp với khung cảnh. Song, về phần thơ, bạn đọc muốn tác giả cân nhắc thêm. Dùng thơ để thể hiện cao trào của tiểu thuyết, xưa nay chưa có ai làm, mà phải bạo tay và vững nghề mới dám làm. Bài thơ đứng một mình Chương kết không đánh số là bài khá, khiến các bạn nhỏ tuổi phải suy nghĩ nhiều, cũng chấp nhận được. Sách có nhiều chương viết sinh động, chứng tỏ tác giả có vốn sống phong phú về nghề biển và người dân chài.

Tạo dựng đời sống hiện thực trong một tác phẩm văn chương về một làng đảo, đâu có dễ. Đây là một thành công trong truyện viết cho thiếu nhi. (Bài đăng báo VĂN NGHỆ. Số 22 ngày 2/6/2001)

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hòn Đảo Phía Chân Trời PDF của tác giả Trần Nhuận Minh nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Chuyện Tình Romeo Và Juliet (Willam Shakespeare)
William Shakespeare, sinh năm 1564, mất ngày 23 tháng 4, 1616 là một nhà văn và nhà viết kịch Anh, được coi là nhà văn vĩ đại nhất của Anh và là nhà viết kịch đi trước thời đại. Ông cũng được vinh danh là nhà thơ tiêu biểu của nước Anh và là "Nhà thơ của Avon" (Avon là quê của Shakespeare, viết tắt của Stratford-upon-Avon). Những tác phẩm của ông, bao gồm cả những tác phẩm hợp tác, bao gồm 38 vở kịch, 154 bản sonnet, 2 bản thơ tường thuật dài, và vài bài thơ ngắn. Những vở kịch của ông đã được dịch ra thành rất nhiều ngôn ngữ lớn và được trình diễn nhiều hơn bất kì nhà viết kịch nào. Truyền thuyết về Roméo và Juliette đã được kể lại nhiều lần hơn 100 năm trước khi William Shakespeare viết thành kịch bản. Vào năm 1476 trong cuốn sách Ý nhan đề là Il Novellino, tác giả Masuccio Salernitano đã kể về mối tình vụng trộm, về vụ giết người, vụ đầy đi khỏi xứ, về một nhà tu sẵn lòng giúp đỡ và cả về đám cưới của hai gia đình thù nghịch. Năm 1530, Luigi da Porta cũng kể lại câu chuyện tình này, gắn cho các nhân vật trong truyện các tên Ý và nơi diễn ra nghịch cảnh là thành phố Verona. Theo truyện của Da Porta, đôi tình nhân này cũng tự sát. Tới năm 1562 tại nước Anh, nhà thơ Arthur Brooke đã dùng đề tài này trong tập thơ dài “The Tragical Historye of Romeus and Julius” (Lịch sử bi thương của Romeus và Julius), đã đề cập tới một thứ đam mê không thánh thiện, một thứ tình yêu vụng trộm, sự không vâng lời cha mẹ và bất tuân luật pháp. Ngôn ngữ trong tập thơ của Brooke thì khô khan, thiếu hấp dẫn dù cho tác giả có cảm tình với cặp uyên ương. Tới khi William Shakespeare dùng câu chuyện tình kể trên làm chất liệu cho vở bi kịch, thì Đại Văn Hào đã làm cho các nhân vật hành xử giống như chúng ta ngày nay: họ có các ưu điểm và khuyết điểm, có lúc nổi giận, có lúc khôi hài… Vở kịch “Roméo và Juliette” là một chuyện tình và một định mạng bi thương. Các nhân vật trong vở kịch đã suy nghĩ như thế nào, tại sao họ đã chọn các cách hành động như vậy? Trong vở kịch “Roméo và Juliette” của Shakespeare, có hai loại nhân vật: loại chuyển biến và loại thụ động. Các nhân vật chuyển biến đã phát triển và thay đổi qua thời gian, đã hành động theo nhiều cách tùy theo các hoàn cảnh khác nhau, gồm có Juliet, Roméo, Cha Lawrence, Hoàng Tử Escalus. Loại thụ động không thay đổi, hành động theo lề lối chúng ta có thể đoán ra được, gồm có bà vú nuôi, Mercutio, Hầu Tước và bà Montague, Hầu Tước và bà Capulet, Tybalt, Benvolio, Paris … Mời các bạn đón đọc Roméo và Juliette của tác giả William Shakespeare.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chuyện Tình Romeo Và Juliet PDF của tác giả Willam Shakespeare nếu chưa có điều kiện. Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chiếc Lá Cuối Cùng (O Henry)
Một số người sống trong một quận gạch đỏ dưới phía đông của thành phố luôn luôn thiếu ổn định, mãi trôi giạt, lang thang. Tuy vô gia cư, họ vẫn có hàng trăm chỗ ở. Họ nhảy từ phòng cho thuê này qua phòng khác (phòng nào cũng đủ tiện nghi nội thất), luôn trong cảnh lông bông, lông bông về chỗ trú ngụ, lông bông về tâm hồn và tư tưởng. Họ ca hát “Tổ ấm gia đình” trong điệu dân ca Mỹ rộn ràng, họ mang đồ tế nhuyễn trong một cái thùng đáng lẽ chỉ để đựng đồ linh tinh, dây leo làm cảnh quấn quanh cái mũ rộng vành ta thường thấy trong các bức họa, một cái cây nhỏ là cây bóng mát. Vì thế, những ngôi nhà của quận này, với hàng nghìn nhân khẩu, có hàng nghìn câu chuyện để kể, đương nhiên, phần lớn đều vô vị, nhưng sẽ là điều lạ lùng nếu ta không thể tìm ra một vài bóng ma trong đám dân cư lông bông này. Một buổi tối, một thanh niên lượn vòng, bấm chuông những toà nhà màu đỏ đổ nát này. Đến toà nhà thứ mười hai, anh đặt túi hành lý lép kẹp trên bậc thềm, lau cái trán đã lấm đầy bụi. Cái chuông phát ra âm thanh khe khẽ và xa xôi trong những chiều sâu nào đấy hun hút, trống rỗng. Một người đàn bà đi ra cửa. Bà làm anh liên tưởng đến một con sâu bệnh hoạn, háo ăn háo uống đã đục khoét cả một cái quả chỉ chừa lại vỏ cứng và bây giờ đang lo kiếm khách trọ nào đấy có thể xơi được, để lấp đầy chỗ hổng. Anh hỏi bà có phòng trống cho thuê hay không. Bà trả lời, tiếng phát ra từ cổ họng, cổ họng dường như được lót lông thú: - Mời vào. Tôi có tầng ba, phía sau, đã trống một tuần nay. Anh muốn xem không? Người thanh niên theo bà đi lên cầu thang. Một luồng ánh sáng nhợt nhạt không rõ phát ra từ đâu lắp bớt những khoảng tối trong các hành lang. Họ bước không một tiếng động nào trên một tấm thảm mà cái khung cửi dệt của nó hẳn phải không dám nhìn nhận nó nữa. Dường như tấm thảm đã trở nên một loài thực vật, trong bầu không khí nặng không hề có ánh mặt trời, nó đã bị thoái hoá thành một lớp địa y lùm xùm hay rêu lan tràn mọc từng mảng đến tận cầu thang, nó trơn nhớt dưới chân như là một chất hữu cơ. Ở mỗi chỗ ngoặt của cầu thang là những hốc lõm trên tường. Có lẽ một loại cây cỏ nào đó đã từng mọc trong đấy. Nếu đúng thế, hẳn mấy cây cỏ đó đã tàn lụi trong bầu không khí hôi hám. Có thể có những bức tượng của các vị thánh đã được đặt ở đấy, nhưng ta có thể suy luận dễ dàng là ma quỷ đã lôi họ qua bóng tối xuống những vực sâu có trang bị đồ đạc trần tục ở phía dưới. Bà chủ nói qua cổ họng được lót lông thú: - Phòng này đây. Phòng này tốt lắm. Ít khi trống. Mùa hè vừa rồi có người đứng đắn thuê - không gây rắc rối gì cả, lại còn trả tiền trước. Nước ở cuối hành lang. Sprowls và Mooney đã thuê ở đây ba tháng. Họ diễn trên sân khấu văn nghệ tạp kỹ. Cô B’retta Sprowls - chắc ông có nghe nói đến cô ấy - À, mà đấy chỉ là tên sân khấu - trên tủ quần áo ngay đây là nơi họ treo giấy hôn thú, có đóng khung đàng hoàng. Vòi ga ở đây, có nhiều tủ quần áo, ông thấy đấy. Ai cũng thích phòng này. Không mấy khi trống.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chiếc Lá Cuối Cùng PDF của tác giả O Henry nếu chưa có điều kiện. Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chiếc Lá Cuối Cùng (O Henry)
Một số người sống trong một quận gạch đỏ dưới phía đông của thành phố luôn luôn thiếu ổn định, mãi trôi giạt, lang thang. Tuy vô gia cư, họ vẫn có hàng trăm chỗ ở. Họ nhảy từ phòng cho thuê này qua phòng khác (phòng nào cũng đủ tiện nghi nội thất), luôn trong cảnh lông bông, lông bông về chỗ trú ngụ, lông bông về tâm hồn và tư tưởng. Họ ca hát “Tổ ấm gia đình” trong điệu dân ca Mỹ rộn ràng, họ mang đồ tế nhuyễn trong một cái thùng đáng lẽ chỉ để đựng đồ linh tinh, dây leo làm cảnh quấn quanh cái mũ rộng vành ta thường thấy trong các bức họa, một cái cây nhỏ là cây bóng mát. Vì thế, những ngôi nhà của quận này, với hàng nghìn nhân khẩu, có hàng nghìn câu chuyện để kể, đương nhiên, phần lớn đều vô vị, nhưng sẽ là điều lạ lùng nếu ta không thể tìm ra một vài bóng ma trong đám dân cư lông bông này. Một buổi tối, một thanh niên lượn vòng, bấm chuông những toà nhà màu đỏ đổ nát này. Đến toà nhà thứ mười hai, anh đặt túi hành lý lép kẹp trên bậc thềm, lau cái trán đã lấm đầy bụi. Cái chuông phát ra âm thanh khe khẽ và xa xôi trong những chiều sâu nào đấy hun hút, trống rỗng. Một người đàn bà đi ra cửa. Bà làm anh liên tưởng đến một con sâu bệnh hoạn, háo ăn háo uống đã đục khoét cả một cái quả chỉ chừa lại vỏ cứng và bây giờ đang lo kiếm khách trọ nào đấy có thể xơi được, để lấp đầy chỗ hổng. Anh hỏi bà có phòng trống cho thuê hay không. Bà trả lời, tiếng phát ra từ cổ họng, cổ họng dường như được lót lông thú: - Mời vào. Tôi có tầng ba, phía sau, đã trống một tuần nay. Anh muốn xem không? Người thanh niên theo bà đi lên cầu thang. Một luồng ánh sáng nhợt nhạt không rõ phát ra từ đâu lắp bớt những khoảng tối trong các hành lang. Họ bước không một tiếng động nào trên một tấm thảm mà cái khung cửi dệt của nó hẳn phải không dám nhìn nhận nó nữa. Dường như tấm thảm đã trở nên một loài thực vật, trong bầu không khí nặng không hề có ánh mặt trời, nó đã bị thoái hoá thành một lớp địa y lùm xùm hay rêu lan tràn mọc từng mảng đến tận cầu thang, nó trơn nhớt dưới chân như là một chất hữu cơ. Ở mỗi chỗ ngoặt của cầu thang là những hốc lõm trên tường. Có lẽ một loại cây cỏ nào đó đã từng mọc trong đấy. Nếu đúng thế, hẳn mấy cây cỏ đó đã tàn lụi trong bầu không khí hôi hám. Có thể có những bức tượng của các vị thánh đã được đặt ở đấy, nhưng ta có thể suy luận dễ dàng là ma quỷ đã lôi họ qua bóng tối xuống những vực sâu có trang bị đồ đạc trần tục ở phía dưới. Bà chủ nói qua cổ họng được lót lông thú: - Phòng này đây. Phòng này tốt lắm. Ít khi trống. Mùa hè vừa rồi có người đứng đắn thuê - không gây rắc rối gì cả, lại còn trả tiền trước. Nước ở cuối hành lang. Sprowls và Mooney đã thuê ở đây ba tháng. Họ diễn trên sân khấu văn nghệ tạp kỹ. Cô B’retta Sprowls - chắc ông có nghe nói đến cô ấy - À, mà đấy chỉ là tên sân khấu - trên tủ quần áo ngay đây là nơi họ treo giấy hôn thú, có đóng khung đàng hoàng. Vòi ga ở đây, có nhiều tủ quần áo, ông thấy đấy. Ai cũng thích phòng này. Không mấy khi trống.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chiếc Lá Cuối Cùng PDF của tác giả O Henry nếu chưa có điều kiện. Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Những Người Khốn Khổ (Victor Hugo)
Sách của tác giả: Victor Hugo 17:47:51Nhà Thờ Đức Bà Paris (Victor Hugo) 03:11:43Ngày Cuối Cùng Của Một Tử Tù (Victor Hugo) 17:55:39Những Người Khốn Khổ (Victor Hugo) 13:39:54Chín Mươi Ba (Victor Hugo) Chú Bé Thành Paris (Victor Hugo) Thằng Cười (Victor Hugo) Tử Tù Claude Gueux (Victor Hugo) $('#testCarousel3').owlCarousel({ items: 3, loop: true, margin: 10, autoplay: true, video: true, merge: true, autoplayTimeout: 3000, autoplayHoverPause: true, responsive: { 0: { items: 2 }, 479: { items: 3 }, 768: { items: 4 }, 1200: { items: 5 }, } }).addClass("owl-carousel-init");