Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Gia Đình Trộm Cắp

"GIA ĐÌNH TRỘM CẮP" (Shoplifters) - những xó xỉnh nằm ở rìa xã hội không được ánh sáng chiếu đến. Được chuyển thể từ bộ phim cùng tên của tác giả Kore-eda Hirokazu giành giải Cành cọ vàng tại LHP Cannes lần thứ 71, cuốn tiểu thuyết thuộc thể loại tâm lý xã hội đã làm xúc động hàng triệu trái tim trên toàn thế giới. Vào một đêm mùa đông lạnh giá, Osamu và đứa con trai Shota vừa ăn cắp khỏi một tiệm tạp hóa gần nhà thì tình cờ gặp một bé gái bốn tuổi đang sắp chết cóng trên ban công. Hắn quyết định mang cô bé về nhà mình mà không suy nghĩ quá nhiều. Cuốn tiểu thuyết về một gia đình kì quái được tạo thành bởi những mảnh đời phiêu dạt nằm bên ngoài xã hội, không được ánh sáng chiếu tới. Một người đàn ông ở tuổi trung niên chỉ biết dạy những đứa trẻ ăn cắp, sống vạ vật không đi làm. Một người phụ nữ bị ám ảnh bởi quá khứ bất hạnh yêu thương những đứa trẻ không thuộc về mình. Một cô gái bỏ nhà ra đi sống nương tựa vào một bà già chỉ sống bởi trợ cấp từ chồng cũ và tống tiền gia đình của chồng. Và hai đứa trẻ "bị bắt cóc", không đi học, không được dạy dỗ tử tế, coi việc ăn cắp là tất nhiên. Họ không phải vợ chồng, cha mẹ con cái, nhưng họ lại là một gia đình, sống với nhau bởi những ràng buộc nằm ngoài mối ràng buộc ruột thịt. *** Cuốn tiểu thuyết Gia đình trộm cắp được chuyển thể từ kiệt tác điện ảnh cùng tên đã giành được nhiều giải thưởng danh giá: Cành Cọ Vàng liên hoan phim Cannes lần thứ 71, Phim điện ảnh hay nhất của năm, Giải Viện Hàn Lâm Nhật Bản lần thứ 42… Cuốn tiểu thuyết dung dị này đã chạm đến trái tim của hàng triệu độc giả trên đất nước Mặt trời mọc và được chuyển ngữ tại nhiều quốc gia. Câu chuyện kể về cuộc sống của 5 con người hoàn toàn xa lạ sống với nhau như một gia đình, mỗi người có một hoàn cảnh, câu chuyện riêng nhưng tình yêu, nỗi đau và khát vọng hạnh phúc là điểm chung đã gắn kết những con người này như một gia đình. Mọi chuyện bắt đầu khi Osamu – một gã lười biếng kiếm ăn bằng món nghề trộm cắp vặt tại các cửa hàng, đã dắt một cô bé về nuôi trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Cuộc sống của gia đình cũng bắt đầu đảo lộn từ đây, họ đấu tranh xem có nên trả cô bé đáng thương này về với người cha mẹ vô tâm đã bỏ mặc cô giữa đêm đông, hay tiếp tục giữ đứa trẻ này đồng nghĩa với việc phạm tội bắt cóc? Cuối cùng Nobuyo – người phụ nữ từng bị chồng đánh đập – trong một giây đã quyết định giữ đứa trẻ vì bản năng làm mẹ bỗng được đánh thức. Cô nghĩ về bố mẹ của đứa trẻ rằng: “Những kẻ bỏ quên đều chẳng ra gì” vậy nên những thứ họ lấy: “Đứa trẻ” hay những món đồ ở cửa hàng tạp hóa, tất cả chỉ là “nhặt được” vì chúng chẳng thuộc về ai. Câu chuyện về những con người bị bỏ quên bên lề xã hội, nhưng họ vẫn có trái tim, vẫn có tình yêu và ước mơ dù chúng trông méo mó trong mắt người khác: Một “người cha” dạy “con” hành nghề trộm cắp vì gã chẳng có thứ gì khác để dạy. Một người đàn ông tha thiết được nghe đứa trẻ gọi “cha” nhưng không bao giờ được thỏa mãn. Một người phụ nữ từng đổ vỡ trong hôn nhân chấp nhận sống bên một người đàn ông (chỉ biết đi ăn cắp) như vợ chồng chỉ vì so với những gã đàn ông khác thì “đàn ông không có thói đánh đập đã tốt hơn kẻ khác rất nhiều rồi“ Một bà cụ 80 tuổi đã “cướp” người thân trong gia đình người khác để mình được hả hê khi chứng kiến họ nếm trải mùi vị bất hạnh như bà đã từng. Một cô gái trẻ dùng tên của em gái hành nghề dịch vụ khiêu dâm để trả thù gia đình. … Tất cả những con người ấy đáng thương tới mức những ước mơ đã trở thành xa xỉ đến nỗi họ chỉ dám mơ đến việc ngắm pháo hoa từ tòa chung cư cao nhất vùng này. Vậy mà sau những gì họ làm xuất phát từ lương tâm, tình yêu và mưu cầu hạnh phúc thì họ vẫn bị xã hội nhìn vào bằng cái tên kì dị: “Gia đình trộm cắp”. Cuốn sách này khiến chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn và nhìn vào mặt khuất của những gì chúng ta thường thấy. Có những tội ác lại bắt nguồn từ đạo đức, sự ích kỉ bắt nguồn từ bao dung, và lòng thù hận lại bắt nguồn từ yêu thương… Hà Nội, 31/3/2020   *** Lần đầu tiên Shouta gặp cô bé ấy là vào mùa hè năm ngoái. Hòm thư màu bạc được gắn bên hông cửa ra vào của dãy nhà tập thể năm tầng đã cũ, phía bên dưới xếp ngổn ngang xe đạp dành cho trẻ em và những bìa các tông quên vứt. Cô bé ngồi đó như đang phải chịu phạt, đưa mắt nhìn người qua đường. Dãy nhà tập thể ấy nằm chính giữa nhà của họ và một siêu thị mang tên “Shinsengumi” mà Shouta vẫn đi cùng bố mỗi tuần một lần. Ngày xưa, trên bức tường trắng toát, những vết nứt đã xuất hiện, và để che đi những vết nứt đó, người ta đã quét lên một lớp sơn trắng mới. Lớp sơn trắng ấy như càng làm nổi bật hiện trạng của bức tường đang dần bị màu tro tàn bao phủ. “Làm ăn gì mà chán thế. Đúng là nghiệp dư mà”. Mỗi khi đi ngang qua bức tường của dãy nhà tập thể đó, người bố Osamu sẽ ngẩng lên nhìn, huých khuỷu tay vào. Shouta và nói như vậy. Nghe nói trước kia, chính gã cũng từng làm nghề quét sơn. “Tại sao chú lại nghỉ việc?”, mỗi lần Shouta hỏi, Osamu lại cười và nói, “Vì bố sợ độ cao mà”. Người bố gọi khu nhà tập thể ấy là “koudan”[2]. Còn người mẹ Nobuyo lại gọi là “toei”[3]. Shouta không thể phân biệt được đâu là cách gọi đúng và sự khác nhau giữa hai từ đó là gì. Lời Nobuyo thốt ra “Tiền nhà rẻ đến khó tin” vừa như ghen tị lại vừa như khinh miệt, có biết bao điều ẩn chứa trong nụ cười lạnh của cô. Việc tới siêu thị vào mỗi thứ tư hằng tuần không phải để mua sắm, mà đó là công việc quan trọng nhằm duy trì kinh tế gia đình Shibata. Thứ tư là ngày bán hạ giá của cửa hàng này nên rất đông khách. Mặc dù khắp nơi đều dán giấy ghi “Nhân 3 tích điểm”[4], nhưng Shouta cũng chẳng hiểu rõ nó có lợi hơn bao nhiêu so với ngày thường. Hai người chen vào được bên trong cửa hàng tầm năm giờ chiều thứ tư hôm đó. Họ nhắm vào khoảng thời gian chuẩn bị bữa tối, lúc cửa hàng nhộn nhạo nhất. Đó là ngày mà dự báo thời tiết đã gây xôn xao rằng, buổi sáng sẽ lạnh tới mức kỷ lục trong tháng hai và chiều tối sẽ bắt đầu có tuyết rơi. Đi từ nhà tới siêu thị chỉ mất có mười lăm phút mà đầu ngón tay Shouta đã lạnh tới mức mất cảm giác. “Lẽ ra nên mang theo găng tay”, cậu hối hận. Cứ thế này sẽ không thể làm việc được. Shouta bước qua cửa ra vào của siêu thị thì dừng lại, vừa quan sát bên trong cửa hàng, vừa cử động năm ngón tay đang đút trong túi, cậu muốn đầu ngón tay nhanh lấy lại cảm giác. Osamu vào chậm hơn Shouta vài bước, lặng lẽ đứng cạnh cậu. Ở đây không được liếc nhìn nhau. Điều này là quy tắc ngầm giữa hai người kể từ khi bắt đầu công việc này. Cầm lấy quả quýt là mặt hàng mẫu được đặt bên hông lối vào, Osamu khẽ lẩm bẩm “ừm” trong miệng, vẫn không nhìn Shouta mà đưa qua một nửa. Miếng quýt vừa nhận được trong tay đã trở nên lạnh lẽo. Như để bảo vệ bàn tay đang dần ấm lên, Shouta bỏ cả miếng quýt đó vào mồm. Vị chua lan rộng trong miệng. Quả nhiên vì chỉ là hàng mẫu nên không được ngọt lắm. Hai người vô thức nhìn nhau rồi cùng đi sâu vào tận bên trong cửa hàng. Osamu nhanh nhẹn bỏ chùm nho vào cái giỏ đựng đồ màu xanh gã đang cầm trên tay. Chùm nho trông có vẻ cao cấp với màu xanh đọt chuối. “Nho này có hạt nên ăn sẽ phiền phức lắm”, Osamu nói rồi chỉ ăn một quả nho hạt nhỏ màu đỏ tía. Shouta biết đó là loại nho rẻ tiền nhất, nhưng cậu không nói ra. Tuy nhiên, hôm nay không cần chú ý đến giá cả. Osamu dễ dàng bỏ hai túi nho vào trong giỏ. Từ đây, nếu tiếp tục đi thẳng sẽ đến quầy bán thực phẩm tươi sống như cá, thịt lợn... ở cuối đường, còn nếu rẽ trái sẽ đến góc bán mì ly và các loại bánh kẹo. Ở vị trí đó, như mọi khi, hai người cụng nắm đấm rồi tách nhau ra. Shouta chầm chậm rẽ trái rồi dừng lại trước một cái giá đựng bánh kẹo đã nhắm từ trước, đặt ba lô xuống dưới chân. Móc khóa hình máy bay treo trên ba lô khẽ nảy lên. Hình ảnh của một nhân viên cửa hàng phản chiếu trong chiếc gương trước mặt Shouta. Đó là một thanh niên mới được nhận vào làm bán thời gian từ tháng trước. Người thanh niên này không thành vấn đề với Shouta. Khi cậu xác nhận xong vị trí của anh ta rồi quay sang trái thì cũng vừa lúc Osamu đi vòng quanh trong cửa hàng đã quay lại. Osamu dựng ba ngón tay lên, chỉ chỗ đứng của từng nhân viên trong cửa hàng. Shouta khẽ gật đầu, sau đó chống hai bàn tay vào nhau, xoay vòng hai ngón trỏ rồi nắm tay trái lại áp lên miệng. Shouta thuận tay trái. Nghi thức này là do Osamu dạy cho, trước khi tiến hành “công việc”, cậu nhất định sẽ thực hiện nó. Shouta vẫn không rời mắt khỏi người nhân viên trong chiếc gương kia, thận trọng vươn cánh tay trái đã tự mình cầu phúc lúc nãy, với lấy thanh sô cô la. Cậu nắm chặt thanh sô cô la mà không phát ra bất kỳ tiếng động nào, ánh mắt không hề nhìn xuống, nhanh tay kéo khóa ba lô quẳng vào trong. Âm thanh nhỏ đó chìm nghỉm giữa tiếng nhạc ồn ào trong cửa hàng. Nhân viên, và tất nhiên cả khách khứa đông đúc cũng không một ai chú ý đến. Quả là một khởi đầu tốt đẹp. Shouta lại đeo ba lô lên lưng, di chuyển vị trí. Mục tiêu chính của công việc hôm nay là mì ly. Shouta dừng lại trước giá đựng mì ly kim chi heo cay mà cậu vốn rất thích, lần nữa hạ cái ba lô xuống dưới chân. Tuy nhiên, một nhân viên cửa hàng đứng trước giá hàng hóa đang chắn mất lối đi nhỏ hẹp, mãi mà không di chuyển. Đối phương là một người trung niên kỳ cựu trong nghề, khá khó đối phó. “Nếu có thể một mình đánh bại ông ta thì con sẽ trưởng thành đấy”, vì những lời này của Osamu, Shouta đã lựa chọn đỉnh điểm trong “công việc” ngày hôm nay chính là đối đầu với ông ta. Tuy nhiên, ông ta chỉ đơn giản là không để lộ sơ hở của mình cho Shouta thấy. Mời các bạn đón đọc Gia Đình Trộm Cắp của tác giả Kore-eda Hirokazu.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đêm
Tiểu thuyết Đêm của nhà văn Elie Wiesel được bình chọn là tác phẩm hay nhất của văn chương holocaust. Ngày hôm nay, dù Phát-xít đã thất trận, nhưng Lịch sử giải thích thế nào về những trẻ sơ sinh đã bị ném vào lửa, về những đứa con sẵn sàng đánh chết cha mình vì một miếng ăn, về những con người trần truồng giẫy chết trong các buồng hơi ngạt? Và Lịch sử sẽ nói gì với những con người sống sót bước ra từ các khu trại chết chóc ấy? Không có lời giải đáp thích đáng nào cho những thân phận vô tội đã bị ép chết, cũng không có câu trả lời hợp lẽ về các trại tập trung ghê rợn đã đày đọa người Do Thái, càng không có lời lẽ nào công bằng cho những con người bước ra từ nhục hình ấy; bởi lẽ chính những cái chết phi lý đã là sự kiện, những trại tập trung đã là nơi chốn, những tù nhân sống sót đã là nhân chứng của một trang đen tối và bi thảm nhất trong lịch sử loài người. *** Lời tựa của François Mauriac  Các nhà báo ngoại quốc thường đến gặp tôi. Tôi rất thận trọng với họ và luôn bị giằng co giữa ước vọng được nói hết với họ nhưng lại e rằng sẽ giao vũ khí vào tay những người phỏng vấn mà mình không hiểu thái độ của họ đối với nước Pháp như thế nào. Trong những lần gặp gỡ đó, tôi thường có khuynh hướng thủ thế. Buổi sáng đặc biệt đó, người thanh niên Do Thái đến phỏng vấn tôi cho một nhật báo ở Tel Aviv đã giành được thiện cảm của tôi ngay trong khoảnh khắc đầu tiên. Cuộc trò chuyện của chúng tôi đã nhanh chóng chuyển thành tâm sự. Chẳng mấy chốc tôi đã chia sẻ với anh ta những hồi ức từ thời kỳ Chiếm đóng5[5]. Không phải lúc nào những biến cố đã tác động đến cá nhân chúng ta cũng là những biến cố ảnh hưởng đến chúng ta nhất. Tôi thố lộ với người khách trẻ tuổi của mình rằng chẳng có điều gì mà tôi đã chứng kiến trong gian đoạn đen tối ấy đã ghi dấu ấn sâu đậm lên tôi bằng hình ảnh của các toa xe chở súc vật đầy những trẻ em Do Thái tại nhà ga Austerlitz... Thực ra thì không phải chính mắt tôi đã mục kích những toa xe đó. Vợ tôi đã kể cho tôi, và lúc kể bà vẫn còn bị chấn động về sự ghê rợn mà bà đã cảm thấy. Vào lúc đó chúng tôi vẫn chưa biết chút gì về các phương cách tiêu diệt của Đức Quốc xã. Và ai mà lại có thể tưởng tượng nổi những phương cách như thế! Nhưng những con cừu non này bị giựt ra khỏi các bà mẹ đã là điều tệ hại hơn tất cả những gì chúng ta nghĩ là có thể xảy ra được. Từ ngày đó tôi tin là như thế. Tôi tin rằng ngày đó là ngày lần đầu tiên tôi biết đến sự bí hiểm của điều tội lỗi mà khi lộ ra ánh sáng nó đánh dấu sự cáo chung của một thời đại và sự khởi đầu của một thời đại khác. Giấc mơ, thai nghén bởi người Tây phương trong thế kỷ 18, mà buổi bình minh của giấc mơ đó họ tưởng là đã thoáng thấy vào năm 17896[6], và rồi đến ngày 2 tháng Tám năm 19147[7], đã lớn mạnh hơn với sự ló dạng của Thời đại Ánh sáng và những phát minh khoa học – giấc mơ đó cuối cùng đối với tôi đã tan biến trước những toa xe lửa nhồi nhét đầy trẻ nhỏ. Mà lúc đó tôi vẫn còn xa cách hàng ngàn dặm với việc hình dung ra được rằng những đứa trẻ này đã được quyết định đưa vào những phòng hơi ngạt và những lò thiêu. Điều này, hôm ấy, là những gì có thể tôi đã nói với nhà báo này. Và khi tôi nói, với một tiếng thở dài, “Tôi đã nghĩ đến những đứa bé này rất nhiều lần!” thì anh đã nói với tôi, “Tôi là một trong những đứa trẻ đó.” Anh là một trong những đứa trẻ đó! Anh đã trông thấy mẹ anh, thấy đứa em gái nhỏ thân yêu, và hầu như cả gia đình anh, trừ người cha và hai chị lớn, biến vào một lò lửa mà nhiên liệu là những sinh vật sống, về phía người cha, cậu bé này đã ngày này qua ngày khác chứng kiến sự đọa đày của ông và cuối cùng, chứng kiến cơn hấp hối và cái chết của ông. Một cái chết! Những chi tiết của cái chết đó được kể trong quyển sách này, và tôi sẽ để cho độc giả – sẽ đông bằng số người đọc của quyển Nhật ký của Anne Frank – tự khám phá các chi tiết này cũng như cái phép lạ đã giúp cho cậu bé thoát được. Như thế tôi khẳng định rằng bản hồi ký cá nhân này, ra đời sau quá nhiều những hồi ký khác và mô tả nhưng việc ghê tởm như những việc mà chúng ta đã coi là không còn là bí mật gì đối với chúng ta nữa, thì vẫn khác lạ, riêng biệt và độc đáo. Số phận của những người Do Thái ở một thị trấn nhỏ tên là Sighet ở Transylvania; sự mù loà của họ khi đối diện với một định mệnh mà họ vẫn còn cơ hội để thoát thân; sự thụ động không thể hiểu được khiến họ đầu hàng định mệnh, điếc đặc với những lời cảnh báo và van nài của một nhân chứng là người đã thoát được cuộc tàn sát, kể lại cho họ những gì ông ta đã tận mắt nhìn thấy, nhưng họ từ chối không tin ông ta và gọi ông ta là người điên – tập hợp này cua những tình huống chắc chắn sẽ đầy đủ để viết nên một quyển sách mà tôi cho rằng không một quyển sách nào có thể so sánh được. Tuy nhiên một khía cạnh khác của quyển sách khác thường này đã là điều tôi chú ý đến. Đứa trẻ kể lại cho chúng ta câu chuyện của nó là một đứa bé được Thượng đế chọn lựa. Từ lúc nó bắt đâu biết suy nghĩ, nó đã chỉ sống cho Thượng đế, nghiên cứu Talmud8[8], nôn nóng được khai tâm vào Kabbalah9[9], tận hiến cho Đấng Toàn năng. Hãy nghĩ xem hậu quả của một sự kinh sợ kém rõ ràng hơn, ít lộ liễu hơn, nhưng là sự kinh sợ tệ hại nhất, cho những người có lòng tin trong chúng ta: cái chết của Thượng đế trong tâm hồn của một đứa trẻ đột nhiên phải đối diện với cái xấu tuyệt đối. Xin hãy cùng tưởng tượng đến những gì diễn ra trong đầu óc đứa bé khi mắt nó trông thấy khói đen tỏa lên trời, luồng khói phát xuất từ các lò mà đứa em gái nhỏ của nó cùng với mẹ nó đã bị ném vào sau hàng ngàn nạn nhân khác. “Không bao giờ tôi có thể quên được đêm ấy, cái đêm đầu tiên của đời tôi trong trại tập trung, cái đêm đã biến cuộc đời tôi thành một đêm dài tăm tối mịt mù. Không bao giờ tôi quên được làn khói ngùn ngụt ấy. Không bao giờ tôi quên được những khuôn mặt ngây thơ, những thân xác bé nhỏ đang biến dần thành cuộn khói ngùn ngụt bay vào không trung yên tịnh. Không bao giờ tôi quên được ngọn lửa ấy đã thiêu cháy vĩnh viễn lòng tin của tôi. Không bao giờ tôi quên được cái im lặng của màn đêm ấy đã vĩnh viễn tước đi lòng khao khát sinh tồn của tôi. Không bao giờ tôi quên được những giây phút đã giết đi Thượng đế trong tôi, đã mang đi linh hồn tôi, và biến những giấc mơ của tôi thành tro bụi... Không bao giờ, không bao giờ tôi quên được những thứ ấy, cho dù tôi có phải sống lâu như Thượng đế, tôi cũng không bao giờ... Không bao giờ. ” Đến lúc đó tôi hiểu ra điều gì đã thu hút tôi về chàng thanh niên Do Thái này: cái nhìn của một Lazarus trỗi dậy từ cái chết mà vẫn bị giam giữ ở những vùng tăm tối nơi anh đã lạc vào, vướng chân vào những thây ma đã bị xúc phạm. Với anh, tiếng thét của Nietzche gợi lên gần như một thực tế bằng xương băng thịt: Thượng đế đã chết, Thượng đế của tình yêu, của sự dịu dàng và an ủi, Thượng đế của Abraham, Issac và Jacob, dưới con mắt chăm chú của cậu bé này, đã tan biến vĩnh viễn vào ngọn khói bốc lên từ cuộc tàn sát Holocaust10[10] mà Chủng tộc, thứ phàm ăn nhất trong tất cả các thần tượng, đã đòi hỏi. Và đã có bao nhiêu người Do Thái thuần kiên đã phải chịu đựng một cái chết như thế? Trong cái ngày kinh tởm nhất đó, kinh tởm hơn tất các ngày tệ hại khác, khi đứa trẻ đó chứng kiến việc treo cổ – vâng!, một đứa bé khác, đứa bé mà nó bảo với chúng ta là có gương mặt thiên thần, nó nghe có ai đó ở đằng sau rên rỉ: ‘‘Lạy Thượng đế, Thượng đế ở đâu rồi? Và từ trong tôi, tôi nghe một tiếng trả lời: Ngài ở đâu? Ngài ở ngay đây – đang bị treo ở trên giảo đài này. ” Vào ngày cuối năm của Do Thái, đứa trẻ đó được đem ra trình diện tại buổi lễ Rosh Hashanah trang nghiêm. Nó nghe thấy hàng ngàn nô lệ đồng thanh la lên, “Phúc thay cho Đấng Toàn năng!” Trước đó chăng bao lâu, chắc hẳn nó cũng sẽ quỳ xuống, cũng với lòng phụng thờ, với lòng hãi sợ, với tình yêu như thế! Nhưng hôm nay, nó không quỳ, nó đứng. Cái tạo vật người đó, đã bị làm nhục và làm tổn thương ở mức cả tim lẫn óc đều không thế tưởng tượng ra được, đã chống lại vị thần linh mù và điếc. “Nhưng bây giờ, tôi không còn van xin gì nữa cả. Tôi không còn khả năng để than vãn. Trái lại, tôi thấy tôi thật mạnh mẽ. Chính tôi mới là nguyên cáo, và bị cáo là Thượng đế! Đôi mắt tôi đã mở to, và tôi thật lẻ loi, cố đơn kinh khủng trong một thế giới không có Thượng đế, không có cả người. Không có tình yêu hay lòng thương hại. Tôi không là gì cả, chỉ là tro bụi, nhưng tôi lại cảm thấy tôi mạnh hơn cả đấng Toàn năng đã gắn bó với đời tôi từ bấy lâu nay. Giữa đám đông những người tụ tập để cầu nguyện, tôi thấy tôi như là một quan sát viên thật xa lạ. ” Và tôi, người tin rằng Thượng đế là tình yêu, tôi có câu trả lời nào cho người thanh niên trẻ đang truyện trò với tôi, người mà trong đôi mắt sâu đen vẫn còn lưu giữ phản ảnh của nỗi buồn thiên thần ngày đó hiện trên mặt của một đứa bé bị treo cổ? Tôi đã có nói với anh về người Do Thái kia, người anh em bị đóng đinh, người có lẽ trông giống anh, người mà thập giá của mình đã chinh phục thế giới không? Tôi đã có giải thích với anh rằng cái đã là khối chướng ngại anh vấp phải về đức tin của anh đã trở thành một nền móng cho đức tin của tôi không? Và rằng sự liên hệ giữa thập giá và sự thống khổ của con người vẫn còn là, theo tôi, chìa khoá dẫn đến sự huyền bí sâu thẳm trong đó đức tin của thời niên thiếu của anh đã biến mất vào đó. Và Zion11[11] đã lại vươn lên một lần nữa từ những lò thiêu, những lò sát sinh. Quốc gia Do Thái đã được làm sống dậy từ giữa hàng ngàn cái chết của người Do Thái. Chính những kẻ chết đã đem lại cho Do Thái cuộc đời mới. Chúng ta không biết trị giá của chỉ một giọt máu, chỉ một giọt nước mắt. Tất cả là ân sủng. Nếu Đấng Toàn năng là Đấng Toàn năng, lời cuối của mỗi chúng ta thuộc về Ngài. Đó là những gì đáng lẽ tôi đã phải nói với đứa bé Do Thái. Nhưng tất cả những gì tôi đã có thể làm lúc đó chỉ là ôm lấy anh và khóc.  Mời các bạn đón đọc Đêm của tác giả Elie Wiesel & Marion Wiesel.
Đêm Lisbon
Trên bến cảng Lisbon sầm uất, có hai con người, với hai con đường khác nhau, đang cùng tồn tại. Một người mong được bỏ lại sau lưng tất cả, rẽ sóng đến chân trời của an toàn và tự do; một kẻ muốn trở về khi còn món nợ chưa nguôi từ chuỗi ngày trốn chạy triền miên khỏi cánh tay bạch tuộc của bọn mật vụ. Định mệnh đẩy họ vào cuộc gặp gỡ không báo trước và người này chấp nhận trở thành nơi lưu giữ những ký ức của người kia, thứ ký ức đớn đau không còn mang theo nổi. “Chúng tôi bám vào nhau trên một bờ vực của thế giới khác. Không có cách nào quay lui, chẳng rõ nơi đến, chỉ biết là bay lên, cùng với nhau, và cùng thất vọng, một nỗi thất vọng trầm lặng, siêu thực: nó uống cạn những giọt nước mắt thầm lặng vì chỉ biết rằng cứ phải đi, không đường trở lại mà cũng chẳng có nơi nào để đến.” *** Review của Phuc Hieu:   Erich Maria Remarque, một bậc thầy kể chuyện người Đức, dường như đối với ông, việc “bịa” ra một cuộc đời ai đó quá sức dễ dàng, mà cũng có thể, chúng là thật. Đêm Lisbon, đêm cuối cùng trước khi chuyến tàu chở những con người trốn chạy khỏi châu Âu tìm đường sang đất Mỹ tự do, có những kẻ đang vật vã khốn cùng tìm cho mình cơ hội lấy một tấm vé hay một con dấu nước Mỹ trên tấm hộ chiếu. Nhân vật kể chuyện của Remarque là một kẻ đang đi tìm chiếc phao cứu sinh đời mình. Anh ta dốc tiền vào canh bạc nhằm tìm vận đổi đời để có thể mua lại chiếc vé tàu từ ai đó, rủi thay, số tiền rơi vào tay kẻ khác. Đen bạc đỏ tình. Có lẽ vậy.   Anh gặp một người đàn ông giữa đêm khuya, người nằng nặc đòi anh phải theo hắn vào quán bar- chỉ để lắng nghe câu chuyện đời hắn và đổi lại – anh sẽ có được chiếc vé hộ mệnh để sang thiên đường Mỹ quốc. Người tị nạn phải đang lâm vào tình cảnh nguy hiểm hoặc là nghệ sĩ, nhà khoa học và trí thức nổi tiếng thì mới mong được chào đón ở nước Mỹ. “Cái lối phân biệt giữa con người tầm thường và con người có giá trị chẳng phải có chút bà con gần xa với cái quan niệm siêu nhân đối lập với lũ người sâu bọ của bọ Quốc xã đó sao?”, Remaque đã mượn nhân vật mình thốt lên những lời cay nghiệt ấy. Cứ như thế trong đêm tối, họ lang thang tới vài quán bar cho đến khi trời sáng để hắn có thể tâm sự hết cuộc đời mình – những tháng ngày tù đày tha hương của một kẻ bị ngay chính người anh vợ George, vốn là một tên phát xít Đức yêu nước điên cuồng tố cáo vùi dập hạnh phúc của chính cô em gái mà hắn yêu thương đến mức đáng sợ. Cuộc đời một người Do Thái như hắn có khác gì người đang ngồi nghe hắn kể lể đâu, nhưng có điều hắn cần phải kể, bởi như thế mới giúp hắn giải thoát khỏi cuộc đời của tấm hộ chiếu mang tên người đàn ông khác Schawarz. Những năm tháng ấy người ta chối bỏ tên thật và khoác lên mình tên kẻ đã chết hòng mong tồn tại. Schawarz thay vì trốn chạy đến hết cuộc đời, hắn đã trở lại quê nhà tìm người vợ thân yêu sau năm năm ròng ly biệt. Các nhân vật nam trong những tác phẩm khác của Remarque đều đau đáu về cố hương và những người phụ nữ yêu dấu. Cặp vợ chồng đã lên kế hoạch trốn chạy khỏi nước Đức, mà kẻ đầu tiên chính là người anh máu mủ của cô vợ Helen. Họ trải qua những tháng ngày đẹp đẽ của dân tị nạn với tình yêu thương nồng nàn và cả sự chia cắt khốn khổ. Thế nhưng giữa lúc hạnh phúc đoàn viên ngập tràn, căn bệnh ung thư của Helen đã bộc phát. Chiến tranh ư? Mặc kệ. Lúc này đối với họ cuộc chiến của một kẻ hăm hở đi Mỹ và một con người đang chờ chết mới tàn bạo làm sao. Đêm Lisbon hôm ấy chào đón một linh hồn phụ nữ quyết định đương đầu với thần chết, một kẻ chối bỏ tương lai để báo thù và một kẻ sẵn sàng đón nhận vận may rủi. Đêm ấy nỗi sầu lắng đọng trong bầu không khí tĩnh mịch, trên những con tàu nằm lặng lẽ ở bến cảng và những kẻ tha hương đang mòn mỏi ngóng chờ một hồi tàu vang lên để giã biệt Lisbon và màn đêm u tối của xứ sở châu Âu lụi tàn. *** Remarque (1898 – 1970) là nhà văn lừng danh người Đức. Ông nổi tiếng với Phía Tây không có gì lạ, một trong những tác phẩm hay nhất về Thế chiến I. Các tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Ba người bạn, Khải hoàn môn, Đêm Lisbon…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng và danh tiếng của ông khắp năm châu. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương và Hòa bình. Bia mộ đen (Der schwarze Obelisk – 1956) một lần nữa cho thấy thiên bẩm của Remarque trong việc nhìn ra được niềm vui, lạc quan và những điều tốt đẹp giữa khổ đau, tuyệt vọng và xấu xí. Nhận xét về tác phẩm này, cây bút F.T. Marsh của tờ New York Herald Tribune từng viết: “Dí dỏm nhưng đượm buồn, vừa nghiêm túc lại có chút giang hồ, tuyệt diệu trong từng câu chữ nhưng vẫn khó nắm bắt vô vùng”. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết Bóng Tối Thiên Đường Đêm Lisbon *** Tôi chăm chú nhìn con tàu buông neo trên sông Tagus, đèn thắp sáng rực rỡ. Mặc dầu tôi ở lại Lisbon đã được một tuần lễ, tôi vẫn chưa quen được với cái ánh sáng rực rỡ vô tư lự của nó. Ở những miền đất nước mà tôi đã ra đi, thành phố tối đen như hầm mỏ than, và ngọn đèn lồng trong bóng đêm còn kinh khiếp hơn bệnh dịch thời Trung Cổ. Và đó là châu Âu của thế kỷ hai mươi. Đó là con tàu chở hành khách; nó đang được chất hàng. Tôi biết nó sẽ ra khơi vào chiều ngày hôm sau. Trong ánh sáng gay gắt của những bóng điện trần, những thùng thịt, cá, thực phẩm đóng hộp, bánh mì và rau tươi đang được đưa xuống hầm chứa hàng. Công nhân bốc dỡ đưa hành lý lên tàu, nâng những thùng, những kiện hàng lên tàu một cách lặng lẽ, tưởng như chúng nhẹ tênh. Con tàu đang được chuẩn bị để làm một cuộc hành trình - như con tàu cứu rỗi vào thời Hồng thủy. Nó đúng là một thuyền cứu rỗi. Bất kỳ chiếc tàu nào rời châu Âu vào những tháng đó của năm 1942 cũng là một tàu cứu rỗi. Đỉnh Ararat[*] xưa kia nay là nước Hoa Kỳ, và nước lũ dâng cao lên từng ngày. Đã lâu nó ào vào nước Đức và nước Áo, nay nó làm chìm ngập Ba Lan và Praha; rồi đến lượt Amsterdam, Brussels, Copenhagen, Oslo và Paris. Tiếp theo là các thành phố nước Ý đã nghe nó thấm rỉ vào, và cả Tây Ban Nha cũng không thoát được. Bờ biển Bồ Đào Nha trở thành niềm hy vọng cuối cùng của những người tị nạn mà công lý, tự do và lòng khoan dung đối với họ có giá trị hơn cả quê hương và cuộc sống. Nơi đây là cửa ngõ vào Hoa Kỳ. Nếu bạn không đến đó được, tức là bạn hết thời, bạn sẽ phải mòn mỏi tiêu hao trong đám rừng rậm của những tòa lãnh sự, đồn cảnh sát, và những cơ quan chính phủ, nơi đây hộ chiếu bị từ chối, công việc làm ăn và giấy phép cư trú không thể có, cả một rừng chằng chịt những trại tập trung, cả một hệ thống giấy tờ thủ tục hành chánh, nỗi cô đơn, nhớ nhà và sự lãnh đạm khô héo của mọi người. Như thường lệ trong thời chiến, sợ hãi và ưu phiền, cả đến sinh mạng cá thể của con người cũng không còn có nữa. Chỉ một điều duy nhất là đáng kể: một tờ giấy thông hành có giá trị. Tối hôm ấy tôi đến sòng bạc Casino Estoril để đánh bạc. Tôi còn giữ được một bộ quần áo tươm tất nên họ để tôi vào. Đây là cố gắng cuối cùng và tuyệt vọng của tôi để thách đố số phận. Giấy phép cư trú tại Bồ Đào Nha của chúng tôi trong vài ngày nữa là hết hạn, mà tôi và Ruth chẳng có giấy hộ chiếu nào khác. Khi ở Pháp, chúng tôi đã vạch kế hoạch và liệt kê danh sách các chuyến tàu có thể đi New York. Con tàu bỏ neo tại sông Tagus này là chiếc sau cùng có ghi trên danh sách của chúng tôi. Vé tàu thì đã bán ra từ nhiều tháng nay; mà chúng tôi lại không có dấu nhập cảnh Hoa Kỳ, và còn thiếu hơn ba trăm đô la để mua vé. Ít ra tôi cũng cố gắng nâng số tiền này lên bằng cách còn có thể được đối với một người nước ngoài tại Lisbon, đó là đánh bạc. Thật là một ý nghĩ điên rồ vì nếu tôi đánh bạc có ăn đi nữa thì cũng phải có thêm một phép lạ chúng tôi mới lên tàu được. Nhưng trong lúc hiểm nguy và tuyệt vọng, bạn thường tin tưởng vào phép màu, nếu không bạn sẽ chìm luôn. Tôi đã thua mất năm mươi sáu đô la trong số sáu mươi hai đô la chúng tôi còn lại. Đêm đã về khuya và bến tàu thì gần như hoang vắng. Nhưng một lát sau tôi nhận ra có một người đàn ông cách tôi không xa. Lúc đầu thì hắn thả bộ phất phơ, sau đó hắn dừng lại và cũng bắt đầu chăm chú nhìn ra con tàu. Lại một kẻ tị nạn bị bỏ rơi, tôi chợt nghĩ, và không chú ý đến hắn nữa, cho đến lúc tôi có cảm giác là hắn đang nhìn tôi. Dân tị nạn không bao giờ đánh mất nỗi lo sợ đối với cảnh sát, dù là trong giấc ngủ hoặc trong lúc chẳng có gì phải sợ hãi cả. Bởi thế nên tôi quay đi, giả vờ như dửng dưng chán chường và bắt đầu chậm rãi rời khỏi cầu tàu, như một người chẳng có gì phải lo sợ cả. Một lúc sau, tôi lại nghe tiếng bước chân đằng sau. Tôi vẫn tiếp tục đi mà không vội vã, vừa tự hỏi làm sao tôi có thể báo cho Ruth biết tin nếu tôi rủi bị bắt. Những ngôi nhà màu tùng lam ở cuối cầu tàu ngái ngủ như những con bướm đêm, đối với tôi thật vẫn còn quá xa để tôi có thể chạy đến đó và biến mất trong mấy đường phố quanh co chằng chịt. Giờ đây thì hắn đã đứng ngay bên cạnh tôi. — Ông là người Đức? - Hắn hỏi tôi bằng tiếng Đức. Tôi lắc đầu và tiếp tục bước đi. — Người Áo? Tôi cũng không trả lời. Tôi nhìn những ngôi nhà màu tùng lam đang tiến lại gần một cách quá chậm chạp. Tôi thừa biết có những cảnh sát viên người Bồ Đào Nha nói tiếng Đức rất thạo. — Tôi không phải là cảnh sát. - Gã đàn ông nói. Tôi không tin lời hắn. Hắn mặc thường phục, nhưng đã có năm bảy lần những người mặc thường phục bắt tôi ở châu Âu. Tôi có giấy tờ tùy thân, vốn là một tác phẩm không đến nỗi tệ lắm do một giáo sư dạy toán người gốc thành phố Praha ở Paris thực hiện, nhưng nếu bị kiểm tra kỹ thì chắc sẽ không chút giá trị gì. — Tôi thấy ông nhìn con tàu, - Người đàn ông nói, - Điều đó khiến tôi nghĩ rằng… Tôi dửng dưng nhìn hắn ta. Thật tình thì hắn chẳng có vẻ gì là cảnh sát cả, nhưng người đàn ông mặc thường phục mới đây đã tóm cổ tôi ở Bordeaux lần vừa rồi cũng có vẻ thảm hại như Lazarus[*] khi ra khỏi mồ sau ba ngày, ấy thế mà hắn lại là kẻ tàn bạo nhất trong đám. Hắn đã bắt tôi, dẫu hắn biết qua hôm sau quân Đức sẽ có mặt tại đó, và đời tôi kể như chấm dứt nếu không có tên cai ngục tốt bụng thả tôi ra vài giờ sau đó. — Ông muốn đi New York không? - Người đàn ông hỏi. Mời các bạn đón đọc Đêm Lisbon của tác giả Erich Maria Remarque.
Tôi Không Phải Là Công Chúa
Truyện Tôi Không Phải Là Công Chúa là câu chuyện thú vị về tình yêu tuổi teen nói riêng và phản ánh đời sống tâm lý, xã hội của lứa tuổi này nói chung, xoay quanh câu chuyện về Lam và những người bạn học của mình. Nhẹ nhàng, trong sáng, giản dị và chân thành. Đó là tất cả những gì Tôi không phải là công chúa đem lại đến cho bạn đọc. Những rung động đầu đời trong sáng và vô cùng thú vị, những giận hờn vu vơ những giọt nước mắt tủi hờn và cả những sự tinh nghịch của tuổi học trò là những khoảnh khắc đẹp đẽ của tuổi áo trắng mà tác giả muốn gửi gắm đến bạn đọc. Hy vọng rằng, mỗi chúng ta, đều tìm thấy một nàng công chúa và hoàng tử của riêng mình và mỉm cười khi nhìn lại quãng thời gian của tuổi thanh xuân đã qua! *** Nhận xét của độc giả tiki: Sở Thiên Khoát: Hay Cốt truyện không được gọi là mới nhưng tác giả viết rất thú vị. Hay lắm. cuốn sách rất hay!! Đoàn Thị Mỹ Ngọc :Khá Hài Lòng bìa đẹp, nội dung truyện cx khá ổn, mỗi tội giở sách ra auto bìa xấu, k giống như mấy quyển truyện khác mà mk mua Tô Ngọc Anh Thư Tuyệt ❤Đây là một trong những cuốn sách khiến tôi thao thức mỗi khi đọc xong :) Hay lắm các bác ạ !!!! Ben Heo Lê: Cực Kì Hài Lòng Truyện này rất hay!!!!!!???????????????????????? Nên xuất bản nhiều những tác phẩm của Kawi *** Mình thường chỉ đọc những tiểu thuyết văn học kinh điển hay truyện trinh thám mà ít khi xem đến những thể loại này. Nhưng chẳng biết nghĩ thế nào, là muốn đổi gió chăng? Mình lại đặt mua quyển sách này. Bìa sách thiết kế rất đẹp, lấy gam màu chủ đạo là xanh, mang đến cảm giác dễ chịu và tò mò. Nhưng nội dung thì theo chủ nghĩa “bình cũ rượu mới”,mô típ tình tay 4 (3 chàng theo đuổi một nàng) hay là nhiều chàng theo đuổi một nàng đã không còn xa lạ gì nữa. Nhân vật chính là một cô gái bình thường dễ bị “chìm” trong đám đông. Văn phong của tác giả không đến nỗi tệ nhưng diễn biến của câu chuyện quá nhanh khiến người đọc cảm thấy có sự miễn cưỡng trong mối quan hệ của hai nhân vật chính. Lại chưa nói đến có nhiều tình tiết vô lí và quá thuận lợi trong truyện: từ gia thế của hotboy Lê Thái đến hoàn cảnh đẩy đưa cho hai người sống chung một nhà, rồi cô bạn thân của Lam(tên gì mình quên mất tiêu luôn), đang từ yêu say đắm cái cậu Hải Phi xong tự dưng lại gọi là anh như thường được, cả cô bạn Hoàng Mĩ ở đoạn cuối truyện nữa…. Với lại mới là học sinh cấp 3 mà mua nhẫn cho nhau rồi gọi “vợ ơi là vợ” thì có ổn không nhỉ? Nói chung là truyện chỉ mang tính giải trí và nếu so với những truyện cùng thể loại thì còn kém xa. Nhưng vẫn cảm ơn tác giả vì khi đọc nó, em đã cười rất nhiều…. *** Mười một giờ ba mươi tối. Nó đang ngủ. Đúng hơn là đã ngủ được mấy giấc rồi. Ò o o o... Ò o o o... Theo phản xạ, nó vừa ngủ vừa... với tay mò mẫm chiếc điện thoại đang reo inh ỏi, không biết người nào rảnh rang mà chọn giờ này quấy phá giấc ngủ của nó. Không buồn nhìn số gọi đến, nó vừa ngáp vừa bật nắp, kề cái miệng ngái ngủ vào điện thoại với cái giọng thê thảm: - A... lô! Đầu nó gục gục. Nhưng âm thanh từ đầu dây bên kia khiến nó tỉnh hẳn. - Kin! Bây giờ Kin hãy im lặng, hãy chỉ im lặng nghe Bun nói mà thôi. Nó nuốt nước bọt. - Bun biết Kin đang giận Bun, rất giận là đằng khác. Nhưng thực sự Bun không cố ý. Chỉ là... chỉ là Bun không thể kiềm chế... Bây giờ Bun muốn nói 1 sự thật, 1 sự thật mà bấy lâu nay Bun không giám nói. Bun thích Kin... Kin chỉ biết thế là được. Thôi , kin ngủ đi mai gặp. Tín hiệu đột nhiên bị cắt đứt... Lần này thì nó tỉnh hẳn, nhìn chằm chằm vào điện thoại, số vừa gọi đến là số lạ hoắt, đơn giản là vì nó không phải là Kin, dù buồn ngủ đến mấy thì nó vẫn đủ khả năng để nhớ tên mình. Phải! Nó là Lam. không phải Kin. Nó cười 1 mình. Một cuộc điện thoại kì quặc và nó vô tình trở thành người được tỏ tình bất đắc dĩ. Tội nghiệp thằng nhóc tên Bun nào đó. Nghe qua giọng nói có vẻ khó khăn lắm mới thốt ra được. Ai dè lại không đúng đối tượng. Haizzz... nó quăng điện thoại vào góc giường và ngủ tiếp. Nhưng nó không ngủ tiếp được nữa. Vậy là thêm 1 đêm làm cú vọ... Sáng hôm sau nó gật gà gật gù trên bàn ăn, kết quả của 1 đêm thức trắng. Nhìn đôi mắt thâm quần như bị ai bum vào, mẹ nó nhăn mặt - Con làm gì mà trông kinh khủng thế? - Đêm qua con không ngủ! Mắt mẹ nó bỗng sáng rực. - Ôi! Con gái yêu của mẹ bữa nay đã biết thức khuya học bài rồi cơ đấy! Nó ngán ngẩm không trả lời. Cứ để mẹ nghĩ như vậy cũng được. - Chào mẹ, con đi học! - Ừ! Nó lóc cóc leo lên chiếc xe đạp điện nó cho là "cà tưng" mà ba rước về từ nhà cậu. Vì sự đểnh đoảng bẩm sinh mà nó làm mất con ngựa sắt yêu quý để rồi phải xài con ngựa điện này 15' sau nó "đáp" trường.   Mời các bạn đón đọc Tôi Không Phải Là Công Chúa của tác giả Kawi.