Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

VĂN SỬ Y DƯỢC TRONG TRUYỆN CHƯỞNG KIM DUNG - TRẦN VĂN TÍCH

Ai đọc Kim Dung cũng biết Quách Tĩnh và Tương Khang. Tên của hai nhân vật nây do Khâu Xứ Cơ đặt với ngụ ý nhắc nhở mối nhục Tĩnh Khang và việc hai thánh khi xưa bị giặc bắt. Tác giả Hương Cảng chỉ viết như vậy mà không cho thêm chỉ tiết, Vậy mối nhục Tĩnh Khang là mối nhục gì? Hai thánh là ai? Giặc nào bắt họ? Nhân vật Khâu Xứ Cơ có thực hay chỉ là do tưởng tượng của nhà viết truyện? Độc giả Việt Nam chắc phải có những thắc mắc như vậy. Và có lẽ cả dịch giả bản Việt ngữ nữa. Vì chính người dịch cũng tỏ ra không hiểu mối nhục Tĩnh Khang là sự kiện lịch sử gì:

Anh hùng xạ điêu, quyển 8, trang 240, thuật lời Quách Tĩnh: “Đó là Khưu đạo trưởng muốn chúng con không quên cái nhục ở Tĩnh Khang”. Như vậy, rõ ràng người dịch đã tưởng Tĩnh Khang là một địa danh. Không phải thế, Tĩnh Khang là một niên hiệu. Ngày xưa, mỗi triều vua thường có một hay nhiều niên hiệu. Ví dụ vua Lê Thánh Tông nước ta, ở ngôi ba mươi tám năm, có hai niên hiệu: mười năm đầu đặt niên hiệu là Quang Thuận, hai mươi tám năm sau đặt niên hiệu là Hồng Đức. Tĩnh Khang là một niên hiệu của vua Huy Tông nhà Bắc Tống. Vị vua nầy tại vị từ năm 1101 đến năm 1126, cải nguyên tất cả sáu lần. Niên hiệu Tĩnh Khang là niên hiệu cuối cùng, chỉ có một năm và tương ứng với năm 1126 Tây lịch. Vào thời điểm đó, quân Kim đánh xuống Nam, chiếm Khai phong, bắt hai vua Huy Tông và Khâm Tông đưa về Bắc, cho nên sử Trung Hoa gọi là nạn hay nhục Tĩnh Khang. Và “nhị thánh” được Quách Khiếu Thiên thân phụ Quách Tĩnh - nhắc đến ở đầu truyện Anh hùng xạ điêu chính là hai vua Huy Tông và Khâm Tông. Trong một bài từ theo điệu Mãn giang hồng (bài từ nầy được Quách Tĩnh đọc cho Hoàng Dung nghe khi ở trên Thánh địa của bang Thiết chưởng và ngẫu nhiên tiếp thu được hai cuốn sách do Hàn Thế Trung sao lục các tác phẩm của Nhạc Phi), vị danh tướng đời Tống đã để cập đến "Tĩnh Khang sử".

Khâu Xứ Cơ cũng là một nhân vật có thật trong lịch sử Trung Quốc, Đó là một đạo sĩ — do đó ông có ngoại hiệu là Trường Xuân Tử hay Trường Xuân chân nhân —phiêu bạc giang hồ khấp chốn, viễn du ở rất nhiều nước ngoài, sang tận vùng Trung đông ngày nay. Trong bộ Trường Xuân chân nhân Tây du ký, ông kể lại những cuộc hành trình xa xôi. Chẳng hạn năm 1222, ông đã đi qua thành phố lộng lẫy với những cung đền. Hồi giáo Samarkand-hiện nay thuộc Usbekistan, đã chứng kiến cảnh đô thành giàu có với một nền văn hóa rực rỡ nầy của miền Trung Á bị quân Mông cổ do Thiết Mộc Chân chỉ huy đốt phá tan hoang, đánh đuổi dân chúng ra khỏi thành khiến cư dân ở đây không còn được một phần tư dân số trước kia.

Trong tập sách nầy, chúng tôi sẽ cố gắng tập hợp và bình giải các chi tiết thuộc những lĩnh vực văn học, sử học, y học và dược học được Kim Dung để cập đến qua những bộ truyện kiếm hiệp. Ví dụ căn cứ vào sự kiện bộ Anh hùng xạ điêu lấy bối cảnh khởi đầu là năm thứ năm niên hiệu Khánh nguyên đời vua Ninh Tông (bản dịch Việt ngữ ghi sai thành Linh Tôn) nhà Tống, tương ứng với năm 1199 dương lịch và chi tiết trong Cô gái Đồ long theo đó Quách Tĩnh và Hoàng Dung đã liên thủ giúp quân dân Tương Dương giữ thành nầy và tử nạn khi quân Nguyên phá thành mà việc nầy thì xẩy ra năm 1273 theo sử liệu Trung văn sau sáu năm quân dân nòi Hán kiên trì chiến đấu và không được triều đình Nam Tống chi viện; nên chúng tôi có thể tính ra rằng Quách Tĩnh đã hưởng thọ 74 tuổi (1273 - 1199 = 74). Chi tiết này không hề được Kim Dung ghi nhận trong các tác phẩm của mình.

Truyện võ hiệp Kim Dung và sau nầy, phim chưởng Kim Dung đã phổ biến sâu rộng trong giới thưởng ngoạn Việt Nam, từ Nam chí Bắc, ở quốc nội cũng như tại quốc ngoại. Những trang sách sau đây hy vọng sẽ cung cấp được một số tri thức bổ ích và thú vị cho đồng bào đồng hương.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Dược Tính Chỉ Nam Quyển Tư - Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác - Nguyễn Văn Minh dịch
BÀI BẠT BÀI BẠTNhững loài cây cỏ kim thạch cầm thú ở trong hoàn vũ, xung quanh chúng ta, từ đồng nội đến núi sông, từ vườn ruộng cho đến rừng rú, thường có nhiều thứ để làm thuốc hay, như đã giúp ích cho sự sinh tồn chúng ta nói riêng và nhân loại nói chung. Nếu biết đem những năng chất của nó mà chi phối, mà sử dụng, thì ích lợi biết dường nào!? Nhưng cũng chỉ vì ít người để ý, hay ít ai hiểu biết, nên đã coi thường, đó cũng là việc đáng tiêc vậy.Đông Y cũng như Tây Y đều là biến chế trong những phương thuốc hay, các thuốc hay ấy bởi đâu mà ra? Chắc cũng không ngoài các thứ thảo mộc kim thạch cầm thú.Theo Đông y học có trên ngàn thứ thuốc, thuộc các loại đã được nghiên cứu biết rõ tính chất của nó, và đã áp dụng trong ngành y học từ xưa đến nay.Nhưng các sách vở để tham khảo phần nhiều viết bằng chữ Hán, đối với nền văn học Việt Nam hiện tại khó bề phổ biến...Vui lòng tải sách về máy để đọc tiếp..." Dược Tính Chỉ Nam" là bộ sách của  Lãn Ông Lê Hữu Trác do soạn giả Nguyễn Văn Minh biên soạn. Bộ sách này được chia thành 4 quyển từ quyển nhất đến quyển nhất đến quyển tứ bao gồm hơn 4400 vị thuốc. Bộ sách được chia theo alphabet để tiện việc nghiên cứu. Nội dung cuốn sách nói về tính chất của các vị thuốc và cách dùng, theo phương pháp cổ truyền được chia làm 5 loại là Tân, Cam, Hàm, Toan, Khổ.... Ngoài ra còn có thêm ít nhiều bài thuốc khác để nghiên cứu cách dùng thuốc uyên thâm của người xưa còn để lại. "" là bộ sách của  do soạn giả Nguyễn Văn Minh biên soạn.Bộ sách này được chia thành 4 quyển từ quyển nhất đến quyển nhất đến quyển tứ bao gồm hơn 4400 vị thuốc. Bộ sách được chia theo alphabet để tiện việc nghiên cứu.Nội dung cuốn sách nói về tính chất của các vị thuốc và cách dùng, theo phương pháp cổ truyền được chia làm 5 loại là Tân, Cam, Hàm, Toan, Khổ.... Ngoài ra còn có thêm ít nhiều bài thuốc khác để nghiên cứu cách dùng thuốc uyên thâm của người xưa còn để lại.
Một số rau dại ăn được ở Việt Nam
Từ lâu, con người đã biết kiếm hái, sử dụng cây rau mọc hoang dại để phục vụ nhu cầu trong cuộc sống. Đặc biệt trong những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đầy gian khổ và thiếu thốn, cây rau mọc hoang dại đã góp phần quan trọng trong bữa ăn của bộ đội và nhân dân. Rau rừng đã bổ sung một lượng dinh dưỡng cần thiết cho sức khỏe của mọi người để hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu và công tác. Ngày nay tuy là thời bình, cây rau mọc hoang dại vẫn đóng vai trò quan trọng về dinh dưỡng cũng như làm thuốc phòng và chữa bệnh đối với bộ đội và nhân dân ở những vùng rừng núi, hải đảo, vùng cao, vùng xa... có khí hậu khắc nghiệt. Bởi vậy, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xin giới thiệu cùng bạn đọc cuốn sách "Một số rau dại ăn được ở Việt Nam". Đây là một đề tài khoa học của nhiều thế hệ các nhà khoa học đã nghiên cứu, điều tra, khảo sát trong một thời gian dài, đầy công phu và tỷ mỷ trên nhiều vùng sinh thái khác nhau. Cuốn sách cũng chứa đựng nhiều kinh nghiệm phong phú và nhiều ý kiến đóng góp quý báu của bộ đội và nhân dân trên mọi miền đất nước về đặc điểm, tính chất, cách kiếm hái và sử dụng cây rau mọc hoang dại trong đời sống. Nội dung cuốn sách giới thiệu: - Những điều cần biết khi khai thác và sử dụng rau rừng. - Các loại cây rau rừng ăn được và loại cây rau độc. - Các phụ lục tra cứu. "Một số rau dại ăn được ở Việt Nam" là cuốn sách kế thừa và phát triển cao hơn về tính khoa học và ứng dụng của các sách đã xuất bản như: "Một số rau dại ăn được ở Việt Nam" (năm 1968), "Sổ tay rau rừng" (năm 1971) của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Cuốn sách là một công trình khoa học công phu và bổ ích đối với mọi người nghiên cứu và ứng dụng.
Đạt Ma Dịch Cân Kinh
ĐẠT MA DỊCH CÂN KINHGiới thiệu Đạt Ma Dịch Cân Kinh( Đây là bài thuốc số 1 trong 100 bài thuốc hay cổ Truyền Á đông, bài tập này còn có tên gọi là Phất Thủ Liệu Pháp).Năm 917 (sau công nguyên) Đạt Ma tổ sư từ Ấn độ sang Trung Quốc thuyết pháp và truyền giáo, sau ở lại Trung Sơn, Hà Nam, Trung Quốc xây dựng chùa Thiếu Lâm. Ông nhận thấy nay đem một tín ngưỡng đi truyền tụng có khi trái với tín ngưỡng của dân bản xứ, dễ xảy ra xung đột. Các đệ tử chùa Thiếu Lâm vừa phải học lý thuyết Phật giáo lại phải vừa luyện võ để tự vệ. (Môn phái Thiếu lâm phát triển và tồn tại đến ngày nay). Do nhiều người đến nhập môn nhưng thể lực yếu không luyện võ được, nên Tổ sư truyền dạy một phương pháp luyện tập để chuyển biến thể lực cho các đệ tử từ yếu thành mạnh, gọi là Dịch Cân Kinh (chuyển đổi trạng thái cơ thể). Cách tập đơn giản nhưng hiệu quả to lớn vì tiêu trừ được các bệnh tật hiểm nghèo.Đây là một phương pháp phòng bệnh, trị bệnh không dùng thuốc thật kỳ diệu, kể cả một số bệnh nan y như: chàm (eczéma) - Huyết áo cao - Huyết áp thấp - Suy nhược thần kinh - Suyễn - Ung thư - Viêm mũi dị ứng - Viêm thấp khớp - Xơ cứng động mạch - Xơ gan (giai đoạn 1) - Các bệnh về tim - Gan - Thận - Hệ tuần hoàn - Hệ hô hấp - Hệ tiêu hóa - Phụ khoa, v.v... (theo người luyện tập, hiện nay chưa có nghiên cứu chứng minh).
NGƯ TIỀU Y THUẬT VẤN ĐÁP - NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU (CỤ ĐỒ CHIỂU)
Ngư Tiều y thuật vấn đáp (Ông Ngư, ông Tiều hỏi đáp về thuật chữa bệnh) là truyện thơ dài của Nguyễn Đình Chiểu. Hai nhân vật chính của truyện, Bào Tử Phược và Mộng Thê Triền vì gặp cảnh mất nước nên đã đi ở ẩn làm ngư, làm tiều, sau đó gặp được Đạo Dẫn, Nhập Môn và Kì Nhân Sư truyền cho y thuật trị bệnh cứu đời.  (Ông Ngư, ông Tiều hỏi đáp về thuật chữa bệnh) là truyện thơ dài của Nguyễn Đình Chiểu. Hai nhân vật chính của truyện, Bào Tử Phược và Mộng Thê Triền vì gặp cảnh mất nước nên đã đi ở ẩn làm ngư, làm tiều, sau đó gặp được Đạo Dẫn, Nhập Môn và Kì Nhân Sư truyền cho y thuật trị bệnh cứu đời. Ngày nhàn xem truyện "Tam công"Thương người hiền sĩ sinh không gặp đời Cuộc cờ thúc quí đua bơi Mấy thu vật đổi sao dời, thương ôi! Kể từ Thạch Tấn ở ngôi U Yên mấy quận cắt bồi Khiết Đan Sinh dân nào xiết bùn than U Yên trọn, cũng giao bàn về Liêu Theo trong người kiệt rất nhiều Ôm tài giấu tiếng làm tiều, làm ngư Nước non theo thú ẩn cư Thờ trên nuôi dưới, nên hư mặc trời Lại thêm Phật, Lão đua lời Nghĩ lòng người với đạo đời thêm thương! Nhà năm ba gánh cương thường Phận ai nấy giữ, trọn giường thời thôi Đời vương đời đế xa rồi Nay Di mai Hạ biết hồi nào an! Năm trăm vận ở sông Vàng Nước còn đương cáu, không màng thánh nhân Đã cam hai chữ "tỵ Tần" Nguồn Đào tìm dấu, non xuân ruổi miền Có tên rằng Mộng Thê Triền Tuổi gần bốn chục, nhân duyên năm lần Nhà nghèo ở núi Bạch Vân Dẹp văn theo võ, tách thân làm tiều Ngày ngày đốn củi rừng Nghiêu Hái rau non Thuấn, phận nhiều lao đao Đông Xuyên lại có người hào Tên rằng Tử Phược họ Bào, làm ngư Trong mình ba chục tuổi dư Sinh con mười đứa bé thơ thêm nghèo Ngược xuôi trên nước một chèo Nay doi mai vịnh, nghề theo lưới chài Họ Bào họ Mộng hòa hai Trước theo nghề học đều tài bậc trung Chẳng may gặp buổi đạo cùng Treo kinh dẹp sử, lánh vòng loạn ly Người nam kẻ bắc phân đi Non sông rẽ bạn cố tri bấy chầy Cách nhau mười mấy năm nay Tình cờ lại đặng một ngày gặp đây Ngư, Tiều mở tiệc vui vầy Ngâm thi, uống rượu, đều bày chí xưa Thương người hiền sĩ sinh không gặp đờiCuộc cờ thúc quí đua bơiMấy thu vật đổi sao dời, thương ôi!Kể từ Thạch Tấn ở ngôiU Yên mấy quận cắt bồi Khiết ĐanSinh dân nào xiết bùn thanU Yên trọn, cũng giao bàn về LiêuTheo trong người kiệt rất nhiềuÔm tài giấu tiếng làm tiều, làm ngưNước non theo thú ẩn cưThờ trên nuôi dưới, nên hư mặc trờiLại thêm Phật, Lão đua lờiNghĩ lòng người với đạo đời thêm thương!Nhà năm ba gánh cương thườngPhận ai nấy giữ, trọn giường thời thôiĐời vương đời đế xa rồiNay Di mai Hạ biết hồi nào an!Năm trăm vận ở sông VàngNước còn đương cáu, không màng thánh nhânĐã cam hai chữ "tỵ Tần"Nguồn Đào tìm dấu, non xuân ruổi miềnCó tên rằng Mộng Thê TriềnTuổi gần bốn chục, nhân duyên năm lầnNhà nghèo ở núi Bạch VânDẹp văn theo võ, tách thân làm tiềuNgày ngày đốn củi rừng NghiêuHái rau non Thuấn, phận nhiều lao đaoĐông Xuyên lại có người hàoTên rằng Tử Phược họ Bào, làm ngưTrong mình ba chục tuổi dưSinh con mười đứa bé thơ thêm nghèoNgược xuôi trên nước một chèoNay doi mai vịnh, nghề theo lưới chàiHọ Bào họ Mộng hòa haiTrước theo nghề học đều tài bậc trungChẳng may gặp buổi đạo cùngTreo kinh dẹp sử, lánh vòng loạn lyNgười nam kẻ bắc phân điNon sông rẽ bạn cố tri bấy chầyCách nhau mười mấy năm nayTình cờ lại đặng một ngày gặp đâyNgư, Tiều mở tiệc vui vầyNgâm thi, uống rượu, đều bày chí xưa