Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Người Đàn Bà

NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ là câu chuyện đầy đau đớn, dữ dội về số phận của những người phụ nữ yếm thế trong xã hội Palestine. Họ không có tiếng nói ngay trong gia đình mình, lấy chồng theo sự sắp đặt của cha mẹ và chỉ quẩn quanh bên căn bếp, chăm lo con cái. Xuyên suốt câu chuyện là sự câm lặng của ba thế hệ phụ nữ. Thế hệ đầu thoát khỏi sự chiếm đóng của Israel trong xung đột Palestine và Israel, chạy trốn đến nước Mỹ với mong muốn tránh khỏi cuộc sống ở trại tị nạn. Thế hệ thứ 2 đồng ý một cuộc hôn nhân sắp đặt với người Mỹ gốc Palestine với hi vọng đất Mỹ tự do thì tiếng nói của nữ giới sẽ được tôn trọng hơn trên đất Palestine. Thế hệ thứ 3, suýt nữa thì rơi vào bánh xe đổ của các thế hệ trước, nếu cô ấy không phát hiện ra bí mật kinh khủng của gia đình mình và số phận của người mẹ đáng thương... Mỗi thế hệ đều có giấc mơ và khát vọng về sự tự do và nữ quyền, nhưng không phải ai cũng có thể đấu tranh đến tận cùng. Lấy bối cảnh ở một nước Mỹ đầy khát khao cùng những lời hứa hẹn rộng mở, để kể một nền văn hóa với hủ tục cực đoan, khép kín và kiểm soát đối người phụ nữ, NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ là một cái nhìn sâu sắc về sự tuyệt vọng, thống khổ của phụ nữ gốc Palestine. Dù vậy, ẩn chứa bên trong họ là sức mạnh phi thường, lòng dũng cảm để tìm lại tiếng nói và phẩm giá của mình. Với những trang sách đầy mê hoặc, lôi cuốn và hấp dẫn đến phút cuối cùng, NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ đã được Amazon bình chọn là cuốn sách viết về phụ nữ hay nhất năm. *** Review sách Những Người Đàn Bà Tác giả: Etaf Rum Đôi nét về tác giả: Etaf Rum sinh năm 1989 là Một tiểu thuyết gia trẻ tuổi người Mỹ gốc Palestine. Cô sinh ra và lớn lên trong một gia đình người Ả Rập truyền thống ở Brooklyn New York Review sách: Các vấn đề về con người vẫn luôn là đề tài để các tác giả khai thác, bởi có lẽ chẳng có gì phong phú, đẹp đẽ và xấu xa như con người. Chúng ta ngay cả sự sống, ngay cả bi kịch, cũng là thứ thôi thúc sự viết, sự tìm tòi. Trong đó đề tài “thân phận người phụ nữ” được đào sâu nhiều khía cạnh trong nhiều thời đại bối cảnh. Mình thường nói vui với bạn, cái gọi là “thân phận phụ nữ” sao mà phải viết nhiều thế. Nhưng có lẽ sự phân biệt giới tính đã làm cho phụ nữ trở nên khốn khổ, mà đặc biệt là những người phụ nữ sinh ra giữa chế độ hủ tục của tôn giáo, định kiến xã hội. Những người đàn bà là một cuốn sách như thế, khai thác đề tài thân phận người phụ nữ. Cuốn sách “Những người đàn bà” Lấy bối cảnh ở một nước Mỹ đầy khát khao cùng những lời hứa hẹn rộng mở, để kể một nền văn hóa với hủ tục cực đoan, khép kín và kiểm soát đối người phụ nữ. Cuốn sách kể về câu chuyện đầy đau đớn, dữ dội về số phận của ba người phụ nữ, thuộc ba thế hệ khác nhau, mỗi người đều an bài cuộc đời mình cho những nỗi đau câm lặng trong xã hội Palestine. Họ luôn khao khát mưu cầu sự sống, tình yêu và hạnh phúc nhưng số phận đã bóp nghẹt họ, tước đi tất cả bao gồm cả sự sống. Họ không có tiếng nói ngay trong gia đình mình, lấy chồng theo sự sắp đặt của cha mẹ và chỉ quẩn quanh bên căn bếp, chăm lo con cái. ‘Nơi tôi sinh ra, vô thanh là một trạng thái đặc biệt của nữ giới, thường tình như một bộ ngực nở nang và cần thiết như chúng tôi mang trong mình sự sinh sôi cho những thế hệ sau này” Họ là những người phụ nữ Palestin ngoài việc sinh nở và ở nhà chăm con,thì gần như đánh mất hoàn toàn chức năng của bản thân mình. Dưới một đời sống không lối thoát được truyền từ đời này sang đời khác, cuốn sách này mang lại nhiều sự u tối về số phận con người. Không chỉ người phụ nữ, ngay cả những người đàn ông, những người tưởng chừng được làm mọi thứ cùng tràn ngập bế tắc. Bởi họ phải gồng gánh trên vai hàng ngàn gánh nặng về cơm áo gạo tiền. Từ ngay trong những tác phẩm văn học trong quá khứ mà chúng ta đã từng được tiếp xúc, “bị kịch cự tuyệt quyền làm người” đã được nhắc tới, và có lẽ là thứ bi kịch đau khổ và tuyệt vọng vô cùng. Xuyên suốt câu chuyện là sự câm lặng của ba thế hệ phụ nữ.  Thế hệ đầu thoát khỏi sự chiếm đóng của Israel trong xung đột Palestine và Israel, chạy trốn đến nước Mỹ với mong muốn tránh khỏi cuộc sống ở trại tị nạn. Thế hệ thứ 2 đồng ý một cuộc hôn nhân sắp đặt với người Mỹ gốc Palestine với hi vọng đất Mỹ tự do thì tiếng nói của nữ giới sẽ được tôn trọng hơn trên đất Palestine. Thế hệ thứ 3, suýt nữa thì rơi vào bánh xe đổ của các thế hệ trước, nếu cô ấy không phát hiện ra bí mật kinh khủng của gia đình mình và số phận của người mẹ đáng thương Mỗi thế hệ đều có giấc mơ và khát vọng về sự tự do và nữ quyền, nhưng không phải ai cũng có thể đấu tranh đến tận cùng. Những người đàn bà là một cái nhìn sâu sắc về sự tuyệt vọng, thống khổ của phụ nữ gốc Palestine. Dù vậy, ẩn chứa bên trong họ là sức mạnh phi thường, lòng dũng cảm để tìm lại tiếng nói và phẩm giá của mình Với giọng văn mô tả thực và sống động, Etaf Rum đã mang lại cả nền văn hoá Ả rập đến cho người đọc. Một nền văn hoá cổ hủ không chút giấu diếm, truyền thống trọng nam khinh nữ được bộc lộ một cách khéo léo khiến bản thân dễ dàng cảm thấy đồng cảm được với mỗi nhân vật trong truyện. Một chút thương xót, một chút ngưỡng mộ, có đôi khi thấy hơi bất lực và khó chịu với sự nhu nhược của người phụ nữ thế hệ xưa. Cũng không phải tự nhiên Amazon lại cho rằng đây là tác phẩm hay nhất của năm viết về người phụ nữ hay nó thuộc trong những cuốn New York Times best seller. Có thể khi đọc tác phẩm này chúng ta sẽ vẫn thấy được phảng phất đâu đó sự đồng điệu và quen thuộc, vì chính tại Việt Nam này cũng đã và vẫn đang tồn tại cái nền văn hoá, truyền thống cổ hủ đấy. Chắc cũng khó có ai có thể tưởng tượng được cái sự thật trần trụi ấy lại được tái hiện lại qua giọng văn trẻ như vậy. So với một tác phẩm đầu tay thì Etaf Rum đã thực sự làm nên một điều kì diệu, văn phong tưởng chừng như đơn giản nhưng lại có một chút tính toán. Để mà đánh giá thì mình thấy đây là một tiểu thuyết hay với nội dung cuốn hút người đọc, những cú plot twist và sự bất ngờ sẽ đến với các bạn từ phần nọ sang phần kia. Nhằm muốn bộc lộ rõ được bản chất của những câu chuyện đáng khinh bỉ ấy, nhà văn đã vẫn giữ nguyên một số từ ngữ đặc trưng của nơi đây. Một cuốn tiểu thuyết thực sự mang lại thật nhiều suy nghĩ cho người đọc. *** Tôi sinh ra đã thiếu đi giọng nói, trong một ngày lạnh lẽo, u ám ở phố Brooklyn, New York. Không ai nhắc đến tình trạng của tôi. Tôi không biết mình bị câm cho đến nhiều năm về sau, khi tôi mở miệng xin điều mình muốn, để rồi nhận ra không ai có thể nghe thấy mình. Nơi tôi sinh ra, vô thanh là một trạng thái mặc định của nữ giới, thường tình như một bộ ngực nở nang và cần thiết như việc chúng tôi mang trong mình sự sinh sôi của những thế hệ sau này. Nhưng tất nhiên, chúng tôi sẽ không bao giờ tiết lộ cho bạn điều đó. Ở nơi tôi sinh ra, phụ nữ chúng tôi đã học cách che giấu đi những trạng thái của mình. Chúng tôi được dạy phải im lặng và chỉ có sự im lặng mới cứu được chúng tôi. Phải đến tận bây giờ, sau rất nhiều năm, tôi mới nhận ra điều này là sai lầm. Phải đến tận bây giờ, khi viết ra câu chuyện này, tôi mới cảm nhận được giọng nói của chính mình. Bạn chưa bao giờ nghe về câu chuyện này. Dù bạn có đọc bao nhiêu sách, hay biết bao nhiêu chuyện trên đời thì tôi vẫn tin chưa có ai kể cho bạn nghe một câu chuyện như thế. Ở nơi tôi sinh ra, chúng tôi giữ những câu chuyện cho riêng mình. Kể những câu chuyện ấy cho thế giới bên ngoài là một điều mà chưa ai dám làm bởi nó vừa nguy hiểm vừa đáng hổ thẹn. Nhưng, bạn đã thấy chúng tôi. Hãy dạo bước trong thành phố New York vào một chiều nắng đẹp. Đi xuống Manhattan*cho đến khi những con phố bắt đầu cong lại và rối rắm như những con phố ở Cựu Lục Địa*. Rẽ sang phía Đông, đi qua cầu Brooklyn*, khi ngoái lại, bạn sẽ thấy đường chân trời mỏng tang của Manhattan đang ở ngay phía sau mình. Phía bên kia, giao thông vẫn đang ùn tắc. Vẫy một chiếc taxi vàng và đi xuống đại lộ Flatbush, tuyến đường huyết mạch chính của Nam Brooklyn, bạn tiếp tục hướng Nam cho tới đại lộ số Ba. Nhà ở đây nhỏ hơn, chỉ xây ba hoặc bốn tầng, với những kiến trúc xưa cũ. Cây cầu Verrazano hẹp lửng lơ giữa tâm nhìn như một chú hải âu khổng lồ, hai cánh dang rộng, ở phía xa xa chân trời Manhattan hiện lên lờ mờ như một ảo ảnh. Hướng về phía Nam một lúc, qua những kho hàng cũ tân trang lại thành những quán cà phê và những quầy bán hàu thời thượng, những cửa hàng kim khí tư nhân nhỏ đã có ở đó hằng bao nhiêu thế hệ. Khi những quán cà phê kiểu Mỹ bắt đầu thưa thớt dần, bạn biết là mình đã gần tới nơi. Đi chéo qua phía Đông hai dãy nhà đến đại lộ số Năm, ở đây, bạn sẽ thấy khu Bay Ridge. Cái khu phố rộng ba dặm của chúng tôi là điểm hội tụ văn hóa của Brooklyn. Trên những dãy phố của chúng tôi, bạn sẽ gặp những người Mỹ Latin, Trung Đông, Ý, Nga, Hy Lạp và gốc Á, tất cả đều nói tiếng mẹ đẻ và gìn giữ truyền thống văn hóa của riêng mình. Tranh tường và graffiti*phủ đầy trên tường. Những lá cờ sặc sỡ màu sắc treo trên các ô cửa sổ và ban công. Mùi thơm ngọt ngào của bánh rán churros*, trộn lẫn với mùi thịt xiên nướng shish kebab* và mùi hoa khô trộn - tất cả tạo nên một món hầm hợp chủng. Bước ra khỏi góc phố cắt giữa đường Bảy Mươi Hai và đại lộ số Năm, bạn sẽ thấy xung quanh mình nào là tiệm bánh, những quầy bar hookah*và những chợ thịt của người Hồi giáo. Tiếp tục đi xuống hàng cây đường Bảy Mươi Hai cho đến khi bạn tới một căn nhà cũ trông không có gì khác với những căn còn lại với gạch đỏ phai màu, cửa nâu bụi bặm, số 545. Đây là nơi mà gia đình tôi sống. Nhưng thực ra mà nói, câu chuyện của chúng tôi không bắt đầu từ phố Bay Ridge. Để tới đó, chúng ta cần lật về trước khi tôi tìm thấy giọng nói của mình, trước cả khi tôi được sinh ra. Chúng tôi chưa ở căn nhà trên đường Bảy Mươi Hai, chưa ở Brooklyn, chưa ở Mỹ. Chúng tôi còn chưa lên máy bay từ Trung Đông tới vùng trời mới này, chưa bay qua Đại Tây Dương, chưa biết một ngày chúng tôi sẽ có chuyến đi này. Ấy là năm 1990 và chúng tôi đang ở Palestine. Đó là khi câu chuyện bắt đầu. ***   Isra (BIRZEIT*, PALESTINE) Mùa xuân năm 1990 Ngày nào cũng vậy, suốt phần lớn mười bảy năm của cuộc đời mình, Isra đều nấu ăn với mẹ. Cô thường cuộn từng lá nho trong những buổi chiều ấm áp, hay nhồi mì bí ngòi hoặc ninh những nồi súp đậu láng khi trời mát mẻ và vườn nho ngoài hiên trở nên trống không. Trong kia sẽ là mẹ cô tất tả với căn bếp, như thể cả hai đang thủ thỉ một bí mật gì đó. Hơi nước quẩn quanh hai mẹ con, cho tới khi hoàng hôn buông những vệt nắng màu cam qua cửa sổ. Nhìn ra ngoài, từ đỉnh núi, gia đình Hadid có thể ngắm nhìn quang cảnh của cả miền quê - những triền đồi bao phủ bởi những mái nhà gạch hoa đỏ, tươi sáng, dày dặn và có nét gì đó hoang dại. Isra hay mở toang cửa sổ vì cô yêu mùi của quả vả và hạt hạnh nhân ùa vào mỗi sáng, cả tiếng sột soạt từ nghĩa địa râm ran mỗi tối. Tối đã muộn và tiếng gọi lời cầu nguyện maghrib* đã đến gần, nghĩa là chuyện bếp núc cũng sắp phải xong. Isra và mẹ sẽ đi vào nhà vệ sinh, xắn tay áo lên và rửa đi chút nước sốt đỏ còn dính lại trên ngón tay của mình. Isra đã bắt đầu quỳ xuống cầu nguyện bên cạnh mẹ từ nầm cô lên bảy, năm lần mỗi ngày. Gần đây, cô bỗng mong chờ tới những lần cầu nguyện này hơn, để được đứng bên cạnh mẹ, vai chạm vai, chân sượt qua chân mẹ. Đây là thời gian duy nhất trong ngày mà Isra được cảm nhận sự tiếp xúc của con người. Cô nghe thấy tiếng adhan* đặc sệt gọi họ đến để cầu nguyện. “Lời cầu maghrib hôm nay phải chờ sau mất rồi!” - Mẹ của Isra nói bằng tiếng Ả Rập, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ bếp: “Khách của chúng ta đã tới.” Vừa nghe thấy tiếng gõ cửa, bà chạy vội đến bồn rửa, rửa tay thật nhanh và lau khô tay bằng một cái giẻ sạch. Đi ra khỏi bếp, bà cuốn chiếc áo choàng màu đen quanh vóc dáng bé nhỏ của mình và đội một cái khăn hijab* cùng màu để che đi mái tóc đen dài. Dù mẹ chỉ mới ba mươi lăm tuổi nhưng Isra nghĩ bà trông già hơn thế nhiều, bởi những nếp nhăn của một đời lao động vất vả hằn trên gương mặt. Mẹ nhìn thẳng vào mắt Isra: “Đừng có quên rửa tay cho sạch mùi tỏi trước khi ra chào khách.” Isra rửa tay cố không làm dính bẩn vào bộ váy choàng kaftan* màu hồng mà mẹ đã chọn cho cô. “Trông con có được không mẹ?” “Trông được.” - Mẹ nói, quay mặt chuẩn bị đi: “Nhớ cài hijabcẩn thận không tóc lại hở ra đấy. Nhà ta không muốn khách có ấn tượng không tốt đâu.” Isra làm theo những gì cô được bảo. Từ sảnh, cô đã nghe thấy tiếng cha mình, ông Yacob, lặp lại tiếng chào salaam*thường lệ khi ông dẫn khách vào phòng khách. Ngay sau đó, ông vội xuống bếp để hỏi xin nước và cô sẽ với lấy ba cái tách thủy tinh từ chạn bát để chuẩn bị cho ông. Những vị khách sẽ thường ca thán về sườn đồi dốc dẫn đến nhà của họ, nhất là trong những hôm như thế này, khi bầu không khí ngày càng nóng, cảm giác như nơi này chỉ cách mặt trời có vài phân. Isra sống tại một trong những ngọn đồi dốc nhất ở Palestine, trên một mảnh đất mà Yacob thường khoe là ông mua vì nó có tầm nhìn đẹp và điều đó khiến cho ông thấy mình thật là oai, cứ như là một ông vua vậy. Isra cứ lặng lẽ nghe ông phán đủ điều. Cô không bao giờ dám nói với Yacob rằng, nhà họ thực ra chẳng có gì oai cả. Sự thật là, gia đình Yacob đã bị sơ tán khỏi căn nhà ven biển ở Lydd khi ông mới mười tuổi, trong thời gian Israel chiếm đóng Palestine. Đây là lý do tại sao họ sống ở ngoại ô Birzeit, trên một ngọn đồi dốc nhìn ra hai bãi tha ma - bên trái là nghĩa địa của người Kitô giáo còn bên phải là nghĩa địa của người theo đạo Hồi. Nó là một miếng đất mà không ai muốn ở và cũng là miếng đất duy nhất mà họ có thể chi trả được. Dù sao chăng nữa, Isra vẫn thích nhìn quang cảnh từ đỉnh đồi ở Birzeit. Nhìn qua hai khu nghĩa địa, cô có thể thấy ngôi trường nữ sinh của mình, một tòa nhà bốn tầng chằng chịt những dây nho và chéo sang một chút, cách một cánh đồng cây hạnh nhân, là ngôi đền mosque* mái vòm màu xanh mà ông Yacob và ba người anh em của ông hay cầu nguyện, trong khi cô và mẹ cầu nguyện ở nhà. Nhìn ra ngoài cửa sổ, Isra cảm thấy vừa khát khao, lại vừa sợ. Vượt ra ngoài rìa làng cô liệu có những gì? Cô vừa muốn đi ra ngoài kia và khám phá thế giới, vừa muốn sống trong sự yên ổn và an toàn, bao bọc bởi những thứ mà cô đã biết. Và câu nói của mẹ lại vang lên trong tâm trí cô: Chỗ của người phụ nữ là ở nhà! Ngay cả khi Isra muốn bỏ đi, cô cũng không biết đi đâu. “Đi pha một ấm chai* đi!” - Yacob nói khi ông bước vào bếp và Isra đưa cho ông cốc nước. Ông nói: “Nhớ bỏ vài lá bạc hà vào nữa.” Isra không cần ông phải nhắc, cô đã thuộc lòng những tục lệ này. Cô đã xem mẹ cô phục vụ và tiếp đãi khách từ khi cô bắt đầu có thể nhớ. Mẹ luôn để một hộp sô-cô-la Mackintosh ở trên bàn cà phê trong phòng khách khi nhà có khách và bà luôn mời họ hạt dưa rang trước khi dọn ra bánh baklava*. Ngay cả đồ uống cũng phải mang ra theo thứ tự: Đầu tiên là trà chai bạc hà và cuối cùng là cà phê kiểu Thổ Nhĩ Kỳ. Mẹ bảo, đảo lộn trật tự là một sự xúc phạm. Isra đã từng được nghe một người phụ nữ kể chuyện về lần bà ấy được nhà hàng xóm tiếp bằng một tách cà phê Thổ Nhĩ Kỳ: “Tôi bước ra ngoài cửa ngay lập tức...” - Người phụ nữ kể lại: “Như thế có khác nào họ đuổi tôi đâu.” Isra vừa với lấy bộ tách sứ màu đỏ vàng, vừa để ý tiếng mẹ ngoài phòng khách. Cô có thể nghe thấy tiếng Yacob đang bật cười và sau đó là tiếng cười của những người đàn ông khác. Isra tự hỏi điều gì khiến họ cười. Vài tháng sau đó, vào tuần ngay trước khi Isra sang tuổi mười bảy, lúc Isra đi học về, cô thấy Yacob ngồi trong phòng khách với chàng trai trẻ và cha mẹ của anh ta. Mỗi lần nhớ lại ngày hôm đấy, ngày mà cô được cầu hôn lần đầu tiên, điều mà cô nhớ nhất là lúc Yacob mắng chửi mẹ cô thậm tệ sau khi khách về. Ông tức giận vì bà không mời khách chai bằng bộ tách chén cổ mà họ dành riêng cho những dịp đặc biệt. “Bây giờ thì người ta biết là nhà mình nghèo!” - Yacob hét lên, lòng bàn tay ông quặp chặt lại. Mẹ không nói gì cả, lẳng lặng lủi vào bếp. Cái nghèo chính là lý do tại sao Yacob lại sốt sắng trong việc gả cưới Isra. Mấy đứa con trai giúp ông cày cấy ruộng đồng, kiếm đồng ra đồng vào. Một ngày nào đó, chúng nó sẽ nối dõi dòng họ của gia đình. Con gái chỉ như một người khách vãng lai, lặng lẽ chờ đợi một người đàn ông đến và rước đi, cùng với tất cả những gánh nặng tài chính mà cô đặt lên vai cả gia đình. Từ dạo đấy đã có hai người đàn ông cầu hôn Isra - một anh thợ bánh mì ở Ramalah và một anh lái taxi ở Nablus - nhưng Yacob từ chối cả hai. Ông không thể ngừng nói về một gia đình từ Mỹ đến thăm để tìm con dâu và bây giờ thì Isra hiểu tại sao ông lại từ chối hai người kia: Ông đang mong đợi một lời cầu hôn khác. Isra không chắc mình cảm thấy thế nào về việc di cư sang Mỹ, một nơi mà cô chỉ biết qua những bản tin, hay đọc qua trong thư viện ở trường. Từ những gì cô tìm hiểu, văn hóa phương Tây có vẻ không hà khắc như văn hóa của cô. Điều này khiến cô vừa phấn khích vừa sợ hãi. Cuộc đời cô sẽ thế nào nếu cô chuyển đến Mỹ? Một cô gái cổ hủ như cô sẽ thích nghi như thế nào ở một nơi cấp tiến như Mỹ? Cô thường thức cả đêm suy nghĩ về tương lai của mình, nóng lòng không biết cuộc đời mình sẽ ra sao khi cô bước ra khỏi nhà Yacob. Liệu sẽ có một người đàn ông yêu cô? Cô sẽ có bao nhiêu đứa con? Cô sẽ đặt tên cho chúng là gì? Có những đêm, Isra mơ rằng cô sẽ cưới được người đàn ông mà mình yêu và họ sẽ sống trong một căn nhà nhỏ trên đỉnh đồi, với cửa sổ rộng mở và mái nghiêng màu đỏ. Những đêm khác, cô lại mơ thấy khuôn mặt của những đứa con mình, hai trai hai gái. Chúng ngước lên nhìn cô và chồng cô, nom như một gia đình hạnh phúc mà cô vẫn thường đọc trong sách. Nhưng rồi những hy vọng ấy chẳng đến với cô nữa. Cô chưa bao giờ tưởng tượng ra cuộc sống ở Mỹ. Cô không biết từ đâu để bắt đầu nữa. Và nhận ra điều này khiến cô sợ hãi. Cô ước mình có thể mở miệng để nói với cha mẹ mình rằng: Không! Đây không phải là cuộc sống mà con mong muốn. Nhưng Isra đã học được từ nhỏ rằng, biết vâng lời là cách duy nhất để thể hiện sự yêu thương. Vì thế mà cô chỉ dám thách thức một cách vụng trộm, phần lớn là với những cuốn sách. Mỗi buổi tối khi đi học về, sau khi đã ngâm gạo và đi phơi quần áo cho những người anh trai của mình, dọn bữa tối ra sufra* và đi rửa bát, Isra sẽ lặng lẽ rút về phòng và đọc cạnh khung cửa sổ mở tung, dưới ánh trăng mờ mờ soi sáng từng trang sách. Đọc sách là một trong rất nhiều điều mà mẹ cấm cô làm nhưng cô không bao giờ nghe lời. Cô nhớ có lần đã nói với mẹ rằng, cô không thể tìm được quả dâu tằm nào trên cây nhưng thực ra cô dành cả buổi chiều đọc sách trong khu mộ. Tối đấy, Yacob đã đánh cô hai lần, như một hình phạt cho sự coi thường luật lệ. Ông gọi cô là sharmouta*, đồ con đĩ. Ông nói ông sẽ cho cô thấy chuyện gì xảy ra nếu bọn con gái không biết vâng lời, rồi ông xô cô vào tường và cầm thắt lưng đánh cô. Căn phòng bỗng trở nên trắng bệch. Mọi thứ trông nhợt nhạt. Cô nhắm mắt lại cho đến khi cơ thể tê lại, cho đến khi cô không thể di chuyển nổi nữa. Nhưng nghĩ lại giây phút đó, khi nỗi sợ dâng lên, cô còn cảm thấy một điều gì nữa từ sâu bên trong. Một sự can đảm lạ lùng. Isra sắp xếp những cái chén bốc hơi lên khay và bước vào phòng khách. Mẹ nói có một mẹo để giữ thăng bằng, đó là đừng bao giờ nhìn vào hơi nước bốc lên nên thay vào đó, cô nhìn xuống đất. Trong phút chốc, Isra ngừng lại. Từ khóe mắt, cô có thể nhìn thấy những người đàn ông và đàn bà ngồi đối diện nhau ở trong phòng. Cô hé lên nhìn trộm mẹ, bà ngồi thu mình như thường lệ: Đầu bà cúi xuống và mắt bà dán vào tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ màu đỏ trước mặt. Isra liếc nhìn họa tiết trên thảm. Nào là xoắn ốc, nào là xoáy, cả hai thứ cuộn tròn chung một kiểu, cái này nối đuôi cái kia. Cô quay mặt đi. Cô nóng lòng muốn lén nhìn chàng trai trẻ nhưng cô cảm giác Yacob đang theo dõi mình và cô có thể nghe thấy tiếng ông vang lên bên tai: Một người con gái đúng mực không bao giờ nhìn chằm chằm vào một người đàn ông nào cả! Mắt Isra dán xuống đất nhưng cô vẫn cho phép mình liếc sang phía bên kia sàn. Cô để ý đôi tất của anh chàng, xám sọc hồng với những đường khâu trắng ở phía trên. Nó khác với những gì cô thường thấy trên đường phố Birzeit. Cô cảm thấy như có gì đang châm chích da mình. Làn hơi nước bốc lên từ khay chén bao phủ khuôn mặt Isra. Cô nhanh chóng đảo quanh phòng cho đến khi cô đã mời nước tất cả những người đàn ông. Tiếp đến, cô mời nước người mẹ của chàng trai. Isra để ý hình như cái khăn hijab màu xanh dương đậm của bà ấy bị rơi ra, để lộ mái tóc nhuộm henna* của bà. Isra chưa bao giờ thấy một người phụ nữ Hồi giáo nào đội hijab kiểu này ngoài đời cả. May ra chỉ có ở trên tivi, trong những bộ phim Ai Cập đen trắng mà Isra và mẹ hay xem cùng nhau, hay những video ca nhạc từ Lebanon*, với những người phụ nữ ăn mặc khêu gợi nhảy múa, hay phần minh họa trong cuốn sách yêu thích của Isra, Nghìn lẻ một đêm, tuyển tập truyện cổ tích Trung Đông ở thời Trung Cổ. Nhưng chưa bao giờ cô thấy thế này ở Birzeit. Khi Isra cúi người, cô có thể thấy mẹ chàng trai đang quan sát mình. Bà có dáng người đầy đặn, lưng khom, cười hơi méo. Đôi mắt hình hạt hạnh nhân của bà nheo lại ở phía đuôi. Từ vẻ mặt bà, Isra đoán chắc bà không hài lòng với ngoại hình của cô lắm. Dù gì thì mẹ cũng hay nói rằng cô là một cô gái mờ nhạt - khuôn mặt đù đờ như bột mì và mắt thì đen như than chì. Điểm nổi bật nhất của Isra có lẽ là mái tóc, đen và dài như dòng sông Nile. Tiếc là không ai có thể thấy điều đó dưới lớp khăn hijab cô đội trên đầu. Mà kể cả có đi chăng nữa cũng chẳng làm nên điều gì khác biệt, Isra nghĩ. Cô là một cô gái tầm thường. Suy nghĩ ấy khiến cô nhói đau. Đứng trước mặt mẹ chàng trai, cô thấy môi mình đang run lên. Cô bước về gần phía bà, tay cô giữ chặt cái khay. Cô có thể cảm thấy Yacob đang lườm cô, cô có thể nghe thấy cả tiếng ông hắng giọng. Hình như, cô thấy cả mẹ ấn ngón tay vào đùi cô. Nhưng Isra vẫn ngả về phía người phụ nữ, cái chén sứ trong tay cô rung lên và cô hỏi: “Bác có muốn dùng cà phê Thổ Nhĩ Kỳ không ạ?” Nhưng câu hỏi của cô chẳng có hiệu quả gì. Những vị khách từ Mỹ chả buồn để ý rằng cô mời họ cà phê trước. Sau đó, gia đình nhà trai đã đưa ra lời cầu hôn và Yacob đồng ý ngay lập tức, khuôn miệng ông nở rộng, đó là nụ cười tươi nhất của Yacob mà Isra chưa từng thấy từ trước tới nay.   Mời các bạn đón đọc Những Người Đàn Bà của tác giả Etaf Rum & Nguyễn Minh Anh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngang Trái Phủ Tây Hồ
Ngô Văn Phú sinh ngày 8 tháng 4 năm 1937, quê quán xã Nam Viêm, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc. Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hà Nội (ngành ngữ văn), là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1970). Nhà thơ Ngô Văn Phú vào đời văn khá sớm, ngay từ khi còn là học sinh Trường trung học Hùng Vương, ông đã có thơ in báo. Ông có sở trường về đề tài nông thôn và lịch sử. Ngoài sáng tác ông còn dịch sách. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông về làm biên tập viên báo Văn học, (1961-1963); báo Văn nghệ (1963-1966); biên tập viên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Năm 1972 ông giải ngũ; Từ 1972 đến 1976 phụ trách tổ thơ và tổ văn xuôi, tuần báo Văn nghệ. Từ 1976 đến 1989 là Trưởng ban thơ, Phó giám đốc Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Hiện là Tổng biên tập Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Nhà thơ đã nhận Giải thưởng thơ tạp chí Văn nghệ năm 1961, Giải thưởng văn xuôi báo Văn học, Giải thưởng ca dao của báo Văn học 1962, Giải thưởng văn học 5 năm của Hội Văn nghệ Hà Nội (1980-1985), Giải thưởng 5 năm Văn học Hùng Vương của Hội Văn nghệ Vĩnh Phú (1975-1980). • Tác phẩm đã xuất bản: - Về thơ: Tháng năm mùa gặt (1978); Ngọn giáp búp đa (1978); Đi ngang đồi cọ (1986); Cỏ bùa mê (1988); Đừng khóc (1991); Âm thầm (1992); Mặt trái xoan (1986); Mắt mùa thu (1994);.Hoa trắng tình yêu (1995). - Về văn xuôi: Ngõ trúc (1986); Bụi và lốc (1988); Ngôi vua và những chuyện tình (1990); Người đẹp ngậm oan (1990); Nợ đời phải trả (1990); Gươm thần Vạn kiếp (1991); Trần Hoàng làng (1993); Quán trọ giữa đời (1992); Dạo chơi núi Dục Thúy (1993); Ngang trái Phủ Tây Hồ (1993); Giấc mơ hoàng hậu (1994); Đêm rừng (1994); Quá trời (1994); Tuyên Phi họ Đặng (1996); Sao không là tình yêu? (1996). *** Nguyễn Trãi lại được triệu về kinh đô. Vua Lê vừa mất. Ngài mất đúng năm tuổi bốn chín, còn minh mẫn lắm. Nghe nói, sau khi triệu Lê Sát, Lê Ngân vào, ở bên giường, Lê Thái Tổ dặn dò: - Ta cùng các ông dấy nghĩa ở Lam Sơn. Ta thương mình thương người mà được làm vua, các ông theo ta mà được làm tướng. Lộc trời cho mà không biết… Vua mệt, nghỉ một lúc, nói tiếp: - Nay đất nước đã sạch bóng thù, muôn dân vất vả chưa được hưởng cảnh thái bình là bao nhiêu. Các ông nên giúp rập Vua trẻ mà làm rạng rỡ huân nghiệp của mình… Lê Sát, Lê Ngân dập đầu, lạy tạ lui ra… Vua mệt thiêm thiếp ngủ. Thái giám Đinh Thắng hầu hạ bên cạnh. Ánh đèn chập chờn để Vua ngủ, càng làm cho những người gần vua, phút chót, đều lo sợ… Vua khó qua khỏi được. Đức Vua trở mình. Đinh Thắng vội đến bên giường, vua hỏi: - Nguyễn Trãi đã đến chưa? - Dạ, hình như sắp đến! - Sao lại hình như? - Tâu, quân kỵ đi từ sớm tinh mơ, chắc đến Côn Sơn đã lâu, cũng sắp về rồi… - Lê Sát, Lê Ngân có còn ngồi chờ ngoài ấy không? - Dạ quan đại tư đồ, tư khấu đều về cả rồi… Chợt có người hầu ở phòng ngoài vào báo: - Hàn lâm viện thừa chỉ đã đến! Đinh Thắng thưa: - Tâu Hoàng thượng, Nguyễn Trãi đã về. - Vời vào ngay! [Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.] Nguyễn Trãi vừa từ Côn Sơn đến, đường xa rong ruổi, ông rất mệt. Song biết vua cho gọi trong lúc bệnh nặng, không phải chuyện thường, nên vừa đến hoàng thành, chưa kịp tắm gội, liền sửa khăn mũ, vào hầu ngay. Vua quay mặt ra, hơi thở khó khăn, mắt lờ đờ, ngước nhìn lên, thân mật hỏi: - Ông Trãi đấy à, ta chờ ông mãi! - Tâu Hoàng thượng, thần được triệu, sửng sốt lên đường ngay, không được biết thánh thể bất an nhường này, thật là đắc tội. Vua lấy sức, khẽ nói: - Ngồi lại gần đây với ta, ông Trãi. Nguyễn Trãi ngồi xích lại. Vua giơ tay ra, cầm lấy tay Nguyễn: - Ông Trãi, ông có nhớ hồi ông về Lam Sơn, ta hồi hộp chờ ông thế nào không? - Dạ, thần nhớ! - Hôm nay, ta chờ ông cũng như thế! Trãi cảm động lắm, giọng líu ríu: - Thần không bao giờ quên đặc ân mà Hoàng thượng ban cho thần. - Ông Trãi, ta được ông ở Lam Sơn như được người bạn lớn… Ta có những lúc sai sót, nghe quyền thần, xa người ngay thẳng thực bụng. Thông hiểu trời đất, lòng người, không ai bằng ông. Ta mong ông giúp rập con ta, nối chí lớn của ta ngày trước. Vua mệt, trở mình, nằm nghỉ, Đinh Thắng, đưa nhân sâm vua dùng, vua gạt tay ra, rồi thiêm thiếp trong phút phiêu du nhất của đời người. Người lẩm bẩm: - Con ta… làm vua… còn nhỏ quá! Vua thiếp dần đi. Nguyễn Trãi ràn rụa nước mắt, lui ra… * Tin Nguyễn Trãi được vua vời đến bên màn trướng, trút những lời tâm huyết cuối cùng, khiến quan đại thần Lê Sát bực bội lắm, ông ngồi đứng vào ra, không yên. Đêm ấy, cho người hầu lui, uống rượu một mình, lại cho gọi con gái nuôi đến bảo: - Con vào Hoàng cung, ngay bây giờ, được không? - Chẳng hay có việc gì gấp vậy, thưa cha? - Con hãy gặp Hoàng hậu và hỏi cho ta, khi Nguyễn Trãi gào gặp Hoàng thượng, ngài dặn dò ông ta những điều gì. - Con biết hỏi ai được! - Hỏi chị con, xem ai có mặt với Nguyễn Trãi trong lúc vua sắp mất ấy! - Dạ, con xin đi ngay… Đêm ấy, Lê sát hầu như mất ngủ. Ông cáu gắt, thất thường. Bọn hầu cận đưa mắt nhìn nhau, len lét sợ hãi, mờ sáng Lê Ngân đến, Lê Sát mời ngay vào phủ đệ, đến tận chỗ xét việc cơ mật, pha trà Long tỉnh, nói: - Ông có biết chuyện hệ trọng tối qua không? - Tôi chưa được biết! - Hoàng thượng đã cho vời Nguyễn Trãi về, dặn dò gì không biết. Làm quan tể tướng, lúc vua chết, không được nghe lời dặn dò, ủy thác, tôi và ông phải cẩn thận đấy! Lê Ngân ngồi thừ ra không nói! Lê Sát, bỏ chén trà, đứng dậy, đi đi lại lại, thổ lộ: - Vua là người từ đất hoang dã, làm nên nghiệp lớn, về kinh thành, rất sợ sự tráo trở. Do đó bọn võ biền chúng ta mới được dùng. Trần Nguyên Hãn bị sơ rồi bức tử mà chết. Phạm Văn Xảo, chỉ là người kinh kỳ cũng bị loại trừ… Đức vua là người lõi đời, biết được việc xa, việc gần. Nguyễn Trãi là một danh sĩ của Bắc Hà, mọi người đều kính nể. Bọn nho sĩ, văn thần ở kinh đô rất nể phục, vây cánh triền miên, không sao lục tìm diệt hết được. Lúc Trần Nguyên Hãn bị hạch tội, Nguyễn Trãi từng bị hạ ngục, ta muốn giết, nhưng Hoàng thượng sợ chấn động lòng người mà không giết, tha cho về, hưởng những ngày tàn ở Côn Sơn… Bây giờ, hắn lại mò về đây. Kinh đô là đất dụng võ của hắn. Vua mới nay mai còn nhỏ quá, lòng người lại càng phân tán thêm, ta và ông không biết có giữ được ngôi tể tướng nữa không. Mời các bạn đón đọc Ngang Trái Phủ Tây Hồ của tác giả Ngô Văn Phú.
Long Đong
Gió lạnh kéo mây đen nghịt khắp bốn phương trời. Anh hai cung vác cuốc lên vai định ra đi, nhưng mới bước qua khỏi thềm thì mưa trút ào xuống, anh liền quay trở vào ném cây cuốc dưới sàn ván, vừa nói lằm bằm: - Mới mở mắt ra là mưa rồi. Hết ngày mưa hay sao mà nhè bữa nay mình tính lên vồng lại mưa. Chị Cung ẳm con Nương thả xuống chiếc chõng tre gần phía trong bếp, đọan nhìn chồng buông tiếng bất bình: - Mình không sợ tội... với trời đất! Ông mưa mà mình biểu phải mưa mấy ngày mình nghỉ sao. Anh Cung vẩn còn lằm bằm: Vậy chớ... mới mở con mắt ra là mưa rồi. Ai còn làm ăn gì được. Chị Cung múc cháo đút cho con, vừa cừơi nhẹ: - Ông trời mà ở còn chưa vừa lòng người, đừng nói chi ai. Anh Cung làm thinh, đi thẳng vô bếp ôm một khúc củi mít đem ra chui vào bếp un trước thềm . Chị Cung nói vói theo: - Nay mưa thì nghỉ , mai làm , có gì đâu mà cằn nhằn. Đành đầu hàng hoàng cảnh , anh Cung ngồi luôn bên bếp un, mở bì thuốc rê quấn lấy một điếu , vừa lặng nhìn giọt mưa giăng giăng ngoài hiên. Thình lình , chị Cung hỏi chồng: - Đất bên cồn , mình dọn hết chưa? Mồi lửa xong, anh Cung dán điếu thuốc lên đầu lưỡi, mấp mấp mấy cái, đoạn hít một hơi khói thật dài. Đôi môi anh lép nhép trong khói thuốc mịt mù: - Đã dọn đâu mà dọn. Mình tính bữa nay ở nhà cuốc cho rồi mấy vồng đất đâng cặm mấy cây mì, xong bên nay mới đi qua cồn luôn. Mưa như vầy là phải bỏ một ngày nữa. Dứt lời; anh lại ngồi im lặng phì phà khói thuốc, ngắm bong bóng nứơc nổi lêu bêu bên thềm. Chiếc bong bóng này vỡ tan lại có chiếc bong bóng khác nổi lên như hy vọng trong lòng anh. Bỗng đôi mắt anh rực sáng lên. Anh cúi đầu thấp xuống xem kỹ một dấu chân giày in rõ trên lớp tro của bếp un. Rồi từ dấu chân đó, anh tìm thấy thêm những dấu chân khác rải rác từ ngoài hàng ba vào tận ngữơng cửa. Liếc thấy vợ đanh lo đút cháo cho con Nương, không để ý đến anh, anh vụt đứng dậy bước theo từng vết giày, nhưng qua khỏi ngưởng cửa một chút , anh không còn thấy dấu chân lạ nữa.Anh lại ngồi xuống quan sát thật kỹ khắp mặt đất. Mời các bạn đón đọc Long Đong của tác giả Nghiêm Lệ Quân.
Biển Còn Sóng Gió
Mang nội dung khá thú vị về chuyện tình yêu tuổi, Biển Còn Sóng Gió mở ra cốt truyện khá mới lạ, thu hút không ít bạn đọc chiêm nghiệm. Mang những ngôn từ lãng mạn, truyện teen Biển Còn Sóng Gió hứa hẹn đem đến những tình tiết mới lạ và hấp dẫn. *** Anh thật sự lo lắng cho em, Lục Di. Chúng ta đã sống và làm việc quá lâu trong gia đình họ Nhâm. Chúng ta đủ hiểu rằng họ là những con người lạnh lùng và khép kín Nhậm Triều Phong lại là một kẻ không hề mảy may có xúc cảm thậm chí hắn không buồn hồi âm những thư tín của bà Gia Yến. Hắn đã rũ bỏ quá khứ và chà đạp lên gia phả của dòng họ mình. Hắn giống hệt người cha vô tâm của hắn, đã ra đi biệt xứ hơn ba mươi năm về trước. Anh thật sự không yên tâm khi thấy em tiếp cận một con người nguy hiểm như Nhậm Triều Phong. Lục Di mỉm cười chua xót: – Thôi, Lãnh Bình! Đừng bận tâm về chuyện ấy nữa. Tôi sẽ đứng vững trên đôi chân của mình. Tôi vẫn như vậy mà. – Lục Di! Anh biết em vẫn còn oán trách anh vì chuyện cũ phần nào lỗi tại anh. Anh không hề yêu Nhậm Tinh Doanh, nhưng cũng chấp nhận cưới cô ấy làm vợ chỉ vì sự nghiệp của gia đình anh. *** Dưới tình yêu của Lãnh Bình, liệu có khiến Lục Di tỉnh ngộ và quay trở lại con đường đúng đắn? Truyện luôn mang đến những câu hỏi và tình tiết éo le khiến bạn đọc cảm thấy tò mò, khơi gợi tính sáng tạo và trí tưởng tượng phong phú để rồi đón nhận cái kết đầy bất ngờ mà tác giã đã an bài sẵn. Bên cạnh tựa truyện mang lại nhiều cung bậc cảm xúc. *** Triều Phong nhìn Lục Di đầy vẻ ngưỡng mộ. Đêm nay, nàng trông giống như bầu trời lúc hoàng hôn. Bộ áo váy màu lam khoác lên người nàng trông như một làn mây mỏng. Trong tâm trí anh, cứ tưởng tượng ra cái cảm giác man mác của những búp tóc xinh xinh nơi gáy nàng. Đường cong của đôi môi nàng, đôi môi như cánh bướm mỗi khi lướt nhẹ trên má anh. Anh thấy lòng rộn lên khi nàng nhìn anh mỉm cười. Mắt nàng lộ rõ sự chân thành ấm áp, mà với anh nó chẳng khác gì ngọn lửa hồng trong đêm đông giá lạnh. Anh tự nhủ, nàng không đáng yêu như thế nếu nàng đang âm mưu trả thù gia đình anh. Triều Phong bắt đầu một cách quyết tâm: – Lục Di, anh nghĩ đã đến lúc chúng ta phải nói chuyện với nhau. Lục Di chớp mắt: – Em không rõ anh muốn nói gì? Những người họ Nhậm luôn luôn cường điệu tất cả sự việc. – Lục Di ạ! Hôm nay anh đã nói chuyện khá lâu với bà nội. – Thế à? Em cũng vậy. – Bà đã hốt hoảng phải không? Dường như điều đó đã ăn sâu vào trong máu bà rồi. – Trái với điều anh nghĩ, bà rất vui khi nói với em rằng bà rất mãn nguyện với những thành quả mà anh đã đem lại cho công ty. Bà rất hạnh phúc khi thấy cơ nghiệp đứng vững trên chính đôi chân của nó, anh đã đem lại mạch đập và sự hồi sinh ảnh đất này. Chính màu hồng trên đôi má nàng làm anh cảm thấy lòng rộn lên. – Ai nói anh đến đây không phải để trả thù? Lục Di mỉm cười: – Em biết anh đến đây không phải là để trả thù. Triều Phong ạ! – Em có tin chắc mình nghĩ đúng không? Làm sao em biết được điều đó? – Bởi vì những gì anh đã làm cho công ty, cho Nhậm Tinh Doanh, cho Mã Lãnh Bình, cùng với những chuyện khác nữa. – Em đừng có suy diễn. – Anh thật sự đã làm nên một sự thay đổi kỳ diệu. Mã Lãnh Bình đã nói với em, chính anh đã giúp anh ấy vượt qua một chặng đường không mấy bằng phẳng, anh đã cứu cuộc đời anh ấy. Lãnh Bình mang ơn anh nhiều hơn những gì anh ấy có thể nói với anh. – Những gì tốt đẹp, anh đã làm ọi người, có thể chỉ là một phần trong kế hoạch trả thù của anh. – Thôi nào, Triều Phong. Hãy thôi nói đùa về chuyện ấy đi. – Không đùa đâu, anh nói nghiêm chỉnh đấy. Ngay cả khi anh nói lên sự thật, mọi người cũng không tin anh. Quanh họ là một bầu không khí yên lặng. Tự dưng Lục Di suy nghĩ, từ khi nàng biết anh đến giờ, chưa bao giờ nàng lại thấy anh với một cảm giác như vậy qua đôi mắt sâu thẳm của anh. Cuối cùng nàng hỏi: – Có chuyện gì vậy, Triều Phong? – Không. – Tối nay, anh có vẻ căng thẳng. Có lẽ không phải là một buổi tối tốt đẹp để chúng ta đến với nhau. Triều Phong hít một hơi thở sâu, rồi nói: – Anh muốn nói bên cạnh việc mọi người tin tưởng và mang ơn những gì anh đã làm cho họ. Bà nội anh có nói gì khác với em không? Lục Di cúi mặt nhìn ngón tay bé xíu đang nguệch ngoạc những đường nét vô nghĩa trong lòng bàn tay. – Bà lo sợ tình cảm em quá sâu đậm đối với anh. – Còn gì nữa? – Triều Phong ... – Lục Di, hãy nhìn anh đây này! Lục Di từ từ nhìn lên và thấy anh đang chăm chú ngắm mình một cách căng thẳng. – Hãy nói thật với anh đi. Một thiên thần không biết nói dối. Bà nội anh còn nói gì với em nữa? Bà không muốn em lấy anh phải không? Bà luôn cho rằng mình có quyền điều khiển cuộc sống người khác. – Bà không điều khiển, bà chỉ lo sợ cho em mà thôi. – Thế em trả lời sao? – Em xin lỗi, chưa nghe rõ anh nói gì? Anh lườm nàng: – Em đã nghe anh nói rõ rồi mà. Câu trả lời của em là thế nào? Lục Di đã nhận ra lời đề nghị kết hôn của anh. Mắt nàng nhìn anh dưới đôi mày thanh tú khẽ chau lại: – Em chưa nghe được câu hỏi. – Em thừa biết câu hỏi là gì rồi. Em có lấy anh hay không? Lục Di gườm gườm nhìn anh: – Thế anh mong đợi điều gì? Em không thích điều ám chỉ trong câu nói của anh. Giọng anh trầm lắng: – Anh sợ điều đó, Lục Di. Anh sợ bi kịch ngày xưa. Anh thật sự không muốn điều đó xảy ra với bất cứ ai. Lục Di nhìn thẳng vào mắt Triều Phong: – Mọi người đã cố tình đào xới câu chuyện quá khứ đau lòng này, thì có lẽ bây giờ cũng là lúc để tôi hỏi. – Điều gì vậy, Lục Di? – Tôi hiểu là ông Nhậm Khởi Minh bỏ đi cùng với cô nhân tình của mình: Triều Quân. Ông ấy yêu say đắm và những người họ Nhậm các người thường làm những việc đầy kịch tính trong những hoàn cảnh cũng đầy kịch tính. Nhưng tại sao ông ấy không có một lời giải thích với mẹ tôi, để bắt bà phải chịu đựng sự nhục nhã đau đớn khi bị bỏ rơi trước bàn thờ Chúa. Mời các bạn đón đọc Biển Còn Sóng Gió của tác giả Dạ Tuyền.
Lược Sử Cái Chết
Rất nhiều xã hội Phi châu quan niệm rằng có ba thế giới: thế giới của những người còn sống trên mặt đất, thế giới của những người-chết-đang-sống và thế giới của những người chết. Nhiều người, sau khi lìa trần, vẫn chưa hoàn toàn chết vì họ vẫn sống trong ký ức của những người đang sống - họ có thể được tái tạo trong nghệ thuật, được nhắc đến trong các câu chuyện kể, hoặc đơn giản là sống trong tâm trí của một người nào đó. Sau khi người cuối cùng biết về người-chết-đang-sống đó chết đi, họ trở thành những người chết thực sự. Tất nhiên, sẽ có rất nhiều người chết vẫn còn lưu danh lại, nhưng họ cũng không còn là người-chết-đang-sống nữa. Lược sử cái chết là một câu chuyện huyễn tưởng không chỉ gây băn khoăn về ngày tận thế mà còn đặt ra những vẫn đề rất thực và những suy ngẫm rất sâu sắc về sự tồn tại của chúng ta, về sự giao thoa giữa tâm hồn ta với những bản thể khác và với toàn vũ trụ... - "Một cuốn sách khiến ta không thể dừng mở trang kế tiếp" - Rocky Mountain News. - "Một tiểu thuyết ly kỳ được viết với một trái tim giàu lòng nhân ái" - O, The Oprah Magazine. - "Một tiểu thuyết đầy sức mê hoặc và gợi nhiều suy nghĩ về ký ức của con người, về sự giao thoa giữa những tâm hồn, về cuộc sống sau khi chết, và về hiện tại" - Tucson Citizen. - "Có sức lay động mạnh... Ngay từ chương đầu, cuốn tiểu thuyết đã tạo ra một sức thu hút khác lạ, và chắc chắn nó sẽ còn đọng lại trong lòng độc giả sau khi trang sách cuối cùng khép lại. Là một câu chuyện ngụ ngôn, một câu chuyện cổ, một câu chuyện thần thoại đương đại... Trong lịch sử cái chết, Brokmeier đã đưa ra một cái nhìn giả thuyết về kết thúc của nhân loại... Nếu sự vĩnh hằng tồn tại, thì đây chính là một định nghĩa sắc nét cho thời đại của chúng ta"... - Beacon Journal. - "Không chỉ là một câu chuyện gây băn khoăn về tận cùng của thế giới. Đó là một sự suy ngẫm sâu sắc về sự tồn tại của chúng ta, về sự giao thoa giữa tâm hồn ta với những bản thể khác và với toàn vũ trụ. Với bối cảnh viễn tưởng ly kỳ và các nhân vật đa diện, Lược sử cái chết không tuân theo các thể văn truyền thống. Tác giả đã rất khôn ngoan "đứng cả hai dòng nước", một bên là dòng tiểu thuyết khoa học giả tưởng và một bên là các truyền thống văn học để tạo nên một tác phẩm độc nhất vô nhị - đầy ám ảnh, gây xáo trộn, và thú vị về mọi mặt." - The Charlotte Pbserver. "Lung linh huyền ảo... Đánh động tâm thức." - The Seatle Times "Brockmeier có văn phong gây ấn tượng sâu sắc, cốt truyện vô cùng độc đáo, các mẩu chuyện trong sách có sức ám ảnh kéo dài phải đến nhiều tuần sau khi đọc xong tác phẩm." - Lexington Herald - Leader (Kentucky) "Một tác phẩm văn chương ngập tràn tưởng tượng... Hãy tưởng tượng một thành phố của những người đã chết. Hãy tưởng tượng một nhà khoa học còn sống bị mắc kẹt lại một mình ở Nam Cực và nhận ra cô có thể là một trong số ít những người còn sót lại trên Trái Đất sau một trận đại dịch. Và rồi hãy tưởng tượng một tiểu thuyết gia đủ sắc sảo để có thể xây một chiếc cầu nối hai thực tại hư cấu khó tưởng đó." - Newsweek "Một cuốn sách khiến ta không thể dừng mở trang kế tiếp" - Rocky Mountain News. "(Brockmeier) không gì hơn là một nhiệt thành thiết tha sống, và những sáng tác tuyệt diệu của ông, những trang sách đầy yêu thương và đáng được yêu thương, là một nguồn năng lượng sống dồi dào đáng kinh ngạc trong một thế giới mệt mỏi và dễ làm con người ta mệt mỏi." - Chicago Tribune "Một tiểu thuyết ly kỳ được viết với một trái tim giàu lòng nhân ái" - O, The Oprah Magazine. "Một tiểu thuyết đầy sức mê hoặc và gợi nhiều suy nghĩ về ký ức của con người, về sự giao thoa giữa những tâm hồn, về cuộc sống sau khi chết, và về hiện tại."  - Tucson Citizen. "Có sức lay động mạnh... Ngay từ chương đầu, cuốn tiểu thuyết đã tạo ra một sức thu hút khác lạ, và chắc chắn nó sẽ còn đọng lại trong lòng độc giả sau khi trang sách cuối cùng khép lại. Là một câu chuyện ngụ ngôn, một câu chuyện cổ, một câu chuyện thần thoại đương đại... Trong Lược sử cái chết, Brockmeier đã đưa ra một cái nhìn giả thuyết về kết thúc của nhân loại... Nếu sự vĩnh hằng tồn tại, thì đây chính là một định nghĩa sắc nét cho thời đại của chúng ta"... - Akron Beacon Journal. "Rất ấn tượng... Không ai có thể tung hứng với lối xử lý tình tiết hài hước, mang đầy tính triết lý và lại gây suy nghĩ như Brockmeier." - The Plain Dealer "Đầy sáng tạo... Lôi cuốn... Trữ tình." - Newsday "Điều đáng sợ về câu chuyện của Brockmeier là tính thuyết phục như thật của tác phẩm. Giống Borges, nhưng thật hơn." - Los Angeles Times Book Review "Không chỉ là một câu chuyện gây băn khoăn về tận cùng của thế giới. Đó là một sự suy ngẫm sâu sắc về sự tồn tại của chúng ta, về sự giao thoa giữa tâm hồn ta với những bản thể khác và với toàn vũ trụ. Với bối cảnh viễn tưởng ly kỳ và các nhân vật đa diện, Lược sử cái chết không tuân theo các thể văn truyền thống. Tác giả đã rất khôn ngoan "đứng cả hai dòng nước", một bên là dòng tiểu thuyết khoa học giả tưởng và một bên là các truyền thống văn học để tạo nên một tác phẩm độc nhất vô nhị - đầy ám ảnh, gây xáo trộn, và thú vị về mọi mặt." - The Charlotte Observer. "Đầy mê hoặc... Rất lôi cuốn." - USA Today "Kỳ lạ và gần gũi.... Chính không khí truyện và nỗi lòng tha thiết, chân thành mà không phô trương ồn ã của Brockmeier... đã khiến Lược sử cái chết có sức mê hoặc như vậy... Một tác phẩm đẹp, chứa đựng nhiều khám phá." - Salon             Kevin Brockmeier là tác giả của cuốn Sự thật về Celia, Những thứ rơi từ trời, và hai tiểu thuyết cho thiếu nhi là Thành phố của những cái tên và Grooves: Một điều bí mật. Các sáng tác của ông đã xuất hiện trong nhiều ấn phẩm, như: The New Yorker, McSweeney’s, The Georgia Review, Tuyển tập truyện ngắn hay nhất của nước Mỹ, Các tiểu thuyết kinh dị và viễn tưởng hay nhất của năm… và nhiều số phát hành của Hợp tuyển các tác phẩm được trao giải O.Henry. Ông đã được trao tặng Giải thưởng Nelson Algren, Giải thưởng Italo Calvino cho tiểu thuyết ngắn, Học bổng James Michener – Paul Engle, ba lần được trao tặng Giải thưởng O.Henry – một trong số đó là một giải nhất – và Học bổng Tài trợ Nghiên cứu sinh Quốc gia về Nghệ thuật. Ông đã giảng dạy tại Hội thảo Nhà văn bang Iowa và sinh sống tại Little Rock, Arkansas. *** Khi người mù vào đến thành phố, lão kể đã vượt qua một sa mạc cát lún. Lúc đấy ta đã chết, lão kể, nhưng rồi “tách!”, sa mạc lại hiện ra. Lão kể cho bất cứ ai sẵn lòng nghe trong khi đầu gật gù theo tiếng bước chân người qua lại. Những hạt sạn đỏ hung li ti rơi xuống từ bộ râu cằm. Lão kể: Sa mạc hoang vu và cô độc. Nó hướng về lão, rít lên như một con rắn. Lão đã đi bộ ròng rã suốt ngày này qua ngày khác cho đến khi những đụn cát lở ra dưới chân, cồn lên vây lấy lão, đập vào mặt lão. Rồi, mọi thứ đột nhiên trở nên im bặt, và bắt đầu có tiếng đập nhè nhẹ như nhịp tim. Âm thanh đó rất rõ ràng, y hệt nhịp tim trước giờ lão vẫn biết. Chỉ đến lúc đó, lão kể, vào cái khoảnh khắc một triệu hạt cát sắc lẻm như những mũi tên đồng loạt tấn công, lão mới thật sự nhận ra mình đã chết. Jim Singer, chủ cửa hàng sandwich ở khu đài tưởng niệm, kể rằng bác có cảm giác như có kiến bò trên các ngón tay, rồi, bác ngừng thở. “Đó là do tim tôi có vấn đề - bác nhấn giọng trong khi ấn ngón tay cái vào ngực – nên tôi mới nằm liệt giường như vậy.” Tay đã xuôi, mắt đã nhắm, rồi đột nhiên bác mở mắt ra, thấy mình đang ở trên một chiếc tàu lửa, loại tàu chuyên chở trẻ con chạy quanh khu giải trí. Đường ray dẫn đến một khu rừng rậm toàn những cây màu vàng nâu. Hóa ra đó là những con hươu cao cổ, những chiếc cổ dài ngoẳng vươn lên trời như những thân cây. Một ngọn gió nổi lên thổi bay các đốm lông màu trên lưng những con hươu. Những đốm màu lả tả rơi xuống, lửng lơ xung quanh bác, xoay mòng mòng rồi rơi xuống chạm vào đường bánh xe do con tàu để lại. Phải mất một lúc bác mới hiểu ra âm thanh bác nghe thấy không phải là tiếng bánh xe nghiến vào đường sắt. Cô gái hay thích đứng dưới cây dương trong công viên kể: Cô đã chết trong một biển màu sắc các trái sơ ri khô. Nước giúp em nổi được một lúc, cô nói, rồi em nằm ngửa, xoay tròn trong những vòng tròn vô nghĩa và hát đoạn điệp khúc của tất cả những bài hát pop em có thể nhớ ra. Rồi đột nhiên, một tiếng sấm vang lên. Các đám mây mở ra, những ổ bi bắt đầu trút ào xuống xung quanh – phải có đến hàng ngàn hàng vạn ổ. Em cố hết sức nuốt chửng các viên bi nhưng những cành cây dương gãy rơi xuống làm em mắc nghẹn, cô kể. Bị nhồi đầy như một chiếc bao tải, cô từ từ chìm xuống xuyên qua các tầng đại dương. Nhiều đàn cá bơi ngang qua, những chiếc vảy xanh biếc, vàng óng là những điểm sáng rực rỡ duy nhất ánh lên trong làn nước. Rồi cô nghe thấy âm thanh đấy ở mọi nơi xung quanh, âm thanh đó, âm thanh mà những người khác đều nghe thấy, nhịp đập đều đặn của một trái tim khổng lồ. Những câu chuyện được kể lại về khoảnh khắc vượt qua giao lộ sống-chết rất khác nhau, cũng như mười tỉ người trên thế giới này không ai sống một cuộc sống giống ai khác. Chỉ có điều khi kể về cái chết của mình, người ta có khuynh hướng miêu tả chi tiết hơn, tường tận hơn. Rốt cuộc, đâu có bao nhiêu cách: nếu không phải do trái tim thì cái đầu của một người mang người ta vào cõi chết, không ai giống ai. Lev Paley kể lúc đó anh ngồi nhìn các phân tử của mình phân rã ra thành từng mẩu li ti như cẩm thạch, lăn khắp vũ trụ, rồi sau đó bỗng chốc quay trở lại dính lấy nhau. Hanbing Li kể anh thức dậy, thấy mình là một con rệp sống suốt đời trong một trái lê. Graciella Cavazos chỉ kể đoạn cô bắt đầu biến thành tuyết và khi người ta đòi biết chi tiết hơn, Graciella chỉ bẽn lẽn cười. Không bao giờ có hai câu chuyện giống nhau. Tuy vậy, ai cũng kể về một âm thanh giống như tiếng sấm. Một số khăng khăng khẳng định âm thanh đó không bao giờ ngừng, nếu anh tập trung chú ý không rời tai khỏi nó, anh luôn nghe thấy nó lẩn khuất mơ mồ sau mọi tiếng ồn trong thành phố - đằng sau tiếng còi, tiếng phanh xe, tiếng chuông nhà hàng, tiếng lộp cộp của hàng trăm loại gót giày khác nhau bước trên đường phố. Nhiều người tụ tập cùng nhau trong công viên hay trên tầng thượng các tòa nhà cao tầng để lắng nghe. Họ ngồi lặng lẽ, lưng quay vào nhau. Ba-đum. Ba-đum. Ba-đum. Cảm giác giống như cố gắng nhìn theo bóng chim bay lên, nhòa đi và mờ dần thành một chấm nhỏ. Luka Sims đã tìm thấy một chiếc máy roneo ngay tuần đầu tiên anh đến sống ở thành phố và quyết định sẽ sử dụng nó để in tạp chí. Mỗi buổi sáng, anh đứng bên ngoài tiệm cà phê Đường Bờ Sông để phát các bản in tự chế. Có lần tờ Tin tức & Nghiên cứu L. Sims của anh, hay Báo Sims như mọi người vẫn gọi, có bàn về thứ âm thanh này. Không đến hai mươi phần trăm những thứ được Luka phỏng vấn cho biết sau khi chết, họ vẫn có thể nghe thấy nó, nhưng hầu như tất cả thảy mọi người đều đồng ý: nó nghe giống như tiếng tim đập hơn là bất cứ âm thanh nào khác. Vậy vấn đề là: nó từ đâu đến? Không thể là nhịp đập của chính trái tim họ. Vì tim họ không đập nửa. Mahmoud Qassim thì tin rằng đó không phải là âm thanh của trái tim lão đập mà có thể là âm thanh còn lưu lại trong ký ức, âm thanh mà dù không thật sự để ý lão cũng đã nghe trong suốt một thời gian dài nên âm hưởng của nó vẫn còn lưu lại trong tai lão. Người phụ nữ bán vòng tay bên bờ sông lại nói đó là nhịp đập từ tâm quả đất, cái nơi chói lóa, sục sôi chị đã vượt qua trên đường vào thành phố. Riêng bản thân người viết”, bài báo kết luận, “tán thành ý kiến của đa số. Mời các bạn đón đọc Lược Sử Cái Chết của tác giả Kevin Brockmeier & Mai Huyền Chi.