Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tội Ác Dưới Ánh Mặt Trời

Arlena Marshall là một nữ diễn viên xinh đẹp, luôn liếc mắt đưa tình những người đàn ông hấp dẫn đối với cô. Cô đến Khách sạn Hải Tặc cùng chồng Kenneth Marshall, và con gái riêng của chồng, Linda Marshall, 16 tuổi. Linda rất ghét mẹ kế. Arlena đong đưa tán tỉnh anh chàng Patrick Redfern đẹp trai, trước sự giận dữ ra mặt của vợ anh ta, Christine, một cựu giáo viên. Cùng ngụ trong khách sạn này có Hercule Poirot; ông Horace Blatt khoác lác; thiếu tá Barry, sĩ quan người Anh gốc Ấn Độ về hưu hay kể chuyện lê thê; Rosamund Darnley, nhà tạo mẫu thời trang cao cấp, vốn là bạn thanh mai trúc mã với Kenneth; bà Carrie Gardener, một du khách người Mỹ lắm mồm, và ông chồng tên Odell; cha xứ Stephen Lane; và cô Emily Brewster, quý cô chưa chồng khỏe như vận động viên.  Arlena được phát hiện bị giết chết vào buổi sáng của một ngày đẹp trời. Các chứng cứ ngoại phạm bắt đầu được thu thập. Arlena chèo bè đến Vũng Tiên rõ ràng cho một cuộc hẹn hò. Nhưng cả Kenneth lẫn Patrick đều tìm cô. Cuối cùng Patrick xin cô Emily cho anh đi chèo thuyền cùng. Anh phát hiện một cái xác nằm sải tay, giấu mặt trong nón, những lọn tóc đỏ ló ra ngoài. Anh ở lại đó trong lúc Emily đi báo cảnh sát. Bác sĩ pháp y nhận định nạn nhân bị một đôi bàn tay rất khỏe mạnh siết cổ chết. Phải là đôi bàn tay của đàn ông. Hai người có động cơ giết Arlena rõ nhất là: ông chồng Kenneth, Christine – cô vợ của anh chàng nhân tình Patrick nọ. Nhưng Kenneth có chứng cớ ngoại phạm chắc nịch. Còn Christine là một phụ nữ tay chân đặc biệt nhỏ nhắn xinh xắn! Thế rồi cô con gái riêng Linda nổi lên thành kẻ tình nghi số một vì có đôi bàn tay to tướng khỏe mạnh như đàn ông lẫn ác cảm với mẹ kế… và chứng cớ ngoại phạm không vững!  Khi cảnh sát sở tại và Hercule Poirot phối hợp điều tra ráo riết, lần ra nhiều bí mật đen tối của các vị du khách. Ông Horace Blatt khoác lác có thể là một tay buôn lậu ma túy. Cha xứ Stephen Lane thù ghét đàn bà lẳng lơ đến phát bệnh thần kinh và từng phải vào bệnh viện tâm thần. Một lời khai bổ sung của nhà tạo mẫu thời trang Rosamund Darnley hóa ra là nói dối, hơn nữa mọi du khách cùng ở đó đều thấy rõ cô phải lòng Kenneth… Một mê hồn trận những động cơ gây án và nghi phạm!  Đùng một phát, Linda Marshall uống thuốc ngủ tự tử, để lại thư tuyệt mệnh thú nhận tội lỗi! Rất may cô hầu phòng phát hiện và Linda được đưa đi cứu chữa trong tình trạng thập tử nhất sinh. Phải chăng chỉ cần đợi cô bé sống lại là có thể làm rõ các bước gây án? Chỉ có Hercule Poirot mới trả lời được câu hỏi này. *** Khi thuyền trưởng Roger Angmering xây nhà vào năm 1782 trên hòn đảo trong Vịnh Leathercombe, người ta nghĩ căn nhà ấy biểu hiện tính lập dị tột đỉnh của ông. Một người con nhà khá giả như ông đáng lẽ phải có cơ ngơi đường hoàng tọa lạc giữa đồng cỏ rộng, với một dòng suối chảy qua và bãi cỏ ngon lành cho gia súc. Nhưng ông thuyền trưởng này chỉ có một tình yêu vĩ đại, tình yêu biển cả. Vì thế ông đã xây ngôi nhà của mình - còn là một ngôi nhà kiên cố vì cần phải như thể, trên một mũi đất nhỏ lộng gió nơi hải âu thường xuyên lui tới - cách biệt với đất liền mỗi khi thủy triều lên. Ông không lập gia đình, biển cả là hôn thê đầu tiên và cuối cùng của ông, và khi ông qua đời ngôi nhà và hòn đảo về tay một người em họ xa. Ông em họ đó và đàn con cháu ít nghĩ tới việc để lại một chúc thư. Đất đai của họ thu hẹp và những người thừa kế dần dần trở nên nghèo khó hơn. Vào năm 1922 khi cuối cùng thiên hạ bắt đầu đổ xô đi tắm biển vào dịp nghỉ hè, không còn nghĩ vùng bờ biển Devon và Cornwall quá nóng bức vào mưa hè nữa, Arthur Angmering nhận thấy ngôi nhà rộng mênh mông thiếu tiện nghi xây vào cuối thời vua George của mình không bán được, nhưng khu đất nhỏ xíu kỳ quặc do đại úy thuyền trưởng Roger tậu được đem lại một giá trị lớn lao. Ngôi nhà kiên cố đó được xây thêm và trang trí lại thật đẹp. Một con đường bằng bêtông bắt đầu được đắp cao trên bãi lầy nối đất liền ra đảo. Nhiều lối tản bộ và góc riêng tư được hình thành và xây dựng quanh đảo. Có hai sân quần vợt, những nền đất cao để phơi nắng dẫn xuống một vịnh nhỏ với những bè gỗ và ván nhào lặn tôn thêm vẻ đẹp của nó. Khách sạn Hải Tặc, Đảo Buôn Lậu, Vịnh Leathercombe ra đời, hân hoan đắc thắng. Và từ tháng 6 tới tháng 9 cùng với mùa Phục sinh ngắn ngủi, khách sạn đó thường đầy ắp khách đến tận tầng thượng. Nó được mở rộng và nâng cấp vào năm 1934, có thêm một quầy bar, một phòng ăn lớn hơn và một số buồng tắm phụ. Giá cả tăng lên. Người ta hỏi nhau: “Tới Vịnh Leathercombe chưa hả? Ở đó có một khách sạn hay cực kỳ, trên một chỗ như là hòn đảo. Rất tiện nghi thoải mái, chẳng có người dạo chơi hay xe buýt tham quan đâu. Nấu ăn ngon và tất cả đều tốt đẹp. Ông nên tới đó đi.” Và quả thật người ta đã tới. Có một nhân vật rất quan trọng lưu trú tại Khách sạn Hải Tặc (hay ít ra ông ấy tự đánh giá mình như vậy). Hercule Poirot rực rỡ trong bộ comlê bằng vải dày màu trắng, với cái mũ panama nghiêng nghiêng trên đôi mắt, hàng ria mép xoắn lại thật đẹp. Ông nằm dựa ngửa trên ghế bố kiểu cải tiến quan sát bãi tắm. Một dãy nền đất cao từ khách sạn dẫn xuống đó. Trên bãi biển còn có các phao tấm, phao nằm, thuyền hơi và vải bạt, những quả bóng và đồ chơi bằng cao su. Có một tấm ván nhún dài và ba bè gỗ ở những khoảng cách khác nhau từ bờ biển. Về phần những người tắm biển, một số đang ở dưới nước, một số nằm duỗi dài trên bãi phơi nắng, số khác thì đang bôi díu lên người thật kỹ lưỡng. Ở trảng đất cao bên trên, những người không xuống tắm thì chọn cách ngồi bình luận về thời tiết, phong cảnh trước mặt, tin tức trên báo buổi sáng hay bất cứ đề tài nào khác lôi cuốn họ. Về phía bên trái của Poirot những câu nói dông dài, dịu dàng đơn điệu không ngừng tuôn ra từ miệng bà Gardener, trong khi hai tay bà vẫn thoăn thoắt đan len, khiến hai que đan cứ chạm vào nhau kêu lách cách. Ở phía bên kia là chồng bà, ông Odell C. Gardener nằm trên ghế võng, cái mũ sụp xuống tận mũi. Thỉnh thoảng ông chỉ góp vài lời ngắn gọn khi được yêu cầu nói. Về phía bên phải của Poirot, cô Emily Brewster, một phụ nữ mạnh mẽ rắn rỏi có mái tóc hoa râm và khuôn mặt dạn dày sương gió vui vẻ dễ ưa, đưa ra một lời bình luận cộc lốc. Nghe gần như tiếng sủa ngắn, thật to và mạnh mẽ của một con chó chăn cừu làm gián đoạn tiếng kêu ăng ẳng không ngớt của một con chó dòng Pomerania. Bà Gardener đang nói: “Và thế là tôi nói với ông nhà tôi, à, tôi đã nói là các chuyến tham quan đều rất tốt, và quả là tôi thường đi tham quan suốt. Chúng tôi đã đi khá nhiều nơi khắp xứ Anh này rồi, nên bây giờ tôi chỉ muốn đến một nơi yên tĩnh ở miền biển và chỉ để thư giãn mà thôi. Em đã nói thế, đúng không Odell? Chỉ thư giãn thôi. Tôi cảm thấy mình phải thư giãn. Đúng như thể, phải vậy không Odell?” Từ sau cái mũ ông chồng khẽ đáp: “Phải, em yêu à.” Bà vợ tiếp tục theo đuổi đề tài của mình: “Và thế là khi tôi đề cập chuyện ấy với ông Kelso ở công ty du lịch Cook - ông ấy đã thu xếp cả lộ trình cho chúng tôi, hết sức hữu ích về mọi mặt. Thật tình tôi chẳng biết chúng tôi phải làm gì nếu không có ông ấy! - À, như tôi nói đó, khi tôi đề cập chuyện ấy, ông Kelso nói tốt hơn hết chúng tôi nên tới đây. Một địa điểm đẹp như tranh vẽ, hoàn toàn cách biệt, mà vẫn rất tiện nghi thoải mái và riêng tư. Tất nhiên ông nhà tôi đã xen vào ngay vào hỏi vệ sinh thì thu xếp ra sao? Bởi vì nếu ông chịu tin lời tôi, ông Poirot à, một cô em gái của ông Gardener có lần từng tới trọ ở một nhà khách mà họ bảo là rất riêng biệt giữa một bãi đất hoang, nhưng ông có tin không, chẳng có gì ngoài nhà xí lấy đất phủ lên phân. Vì thế lẽ tất nhiên chuyện ấy khiến ông nhà tôi nghi ngờ những nơi cách biệt với thế giới bên ngoài, có phải vậy không Odell?” “Ờ phải, em yêu à,” ông chồng đáp. “Nhưng ông Kelso lập tức cam đoan với chúng tôi một lần nữa. Ông ấy bảo chuyện vệ sinh tuyệt đối không cần phải bàn thêm gì, và nấu ăn thật xuất sắc. Tôi chắc chắn thế đó. Và điều khiến tôi rất thích là đúng giờ đúng giấc, chắc ông hiểu tôi muốn nói gì rồi. Là một nơi nhỏ bé nên tất cả chúng ta trò chuyện với nhau và ai nấy đều biết nhau. Người Anh nếu có một lỗi thì đó là họ hơi xa cách một chút xíu cho tới khi đã quen nhau chừng vài năm. Sau đó chẳng ai có thể tử tế hơn họ. Ông Kelso bảo những con người thú vị thường hay tới đây, và tôi thấy ông ấy nói đúng. Có các vị đây, ông Poirot và cô Darnley. Ôi! Đúng là tôi đã thích đến chết đi được khi khám phá ra các vị là ai, có phải vậy không Odell?” “Phải, em yêu à.” “Hà!” cô Brewster hùng hổ ngắt ngang câu chuyện. “Thật rộn ràng vui sướng quá, hử, ông Poirot?” Poirot giơ hai tay lên có vẻ không đồng tình. Nhưng đó chỉ là một cử chỉ lịch sự không hơn không kém. Bà Gardener nói tiếp như một dòng nước đang lững lờ trôi: “Xin hiểu cho, thưa ông Poirot, tôi từng nghe Cornelia Robson kể rất nhiều chuyện về ông đó. Tháng 5 vừa rồi, vợ chồng tôi đã tới Badenhoi Và tất nhiên Cornelia đã kể hết cho chúng tôi nghe vể vụ Linnet Ridgeway bị giết chết ờ Ai Cập. Bà ấy bảo ông thật tuyệt vời, và lâu nay tôi đã muốn gặp ông hết sức, có phải vậy không, Odell?” “Phải, em yêu à.” “Rồi sau đó còn cô Darnley nữa. Tôi mua rất nhiều đồ hiệu Rose Mond, và tất nhiên cô ấy là Rose Mond, đúng không? Cô ấy thiết kế trang phục quá thông minh. Một mặt hàng tuyệt diệu quá đỗi. Cái đầm tôi mặc đêm hôm qua là của cô ấy đó. Quả đúng là một phụ nữ đáng yêu về mọi mặt.” Từ phía bên kia cô Brewster, thiếu tá Barry nãy giờ vẫn ngồi dán cặp mắt ốc nhồi vào những người đang tắm, lẩm bẩm: “Cô nàng trông ngon lành đáo để!” Bà Gardener khua que đan lách cách: “Tôi phải thú nhận một điều thôi, ông Poirot à. Gặp ông ở đây khiến tôi bị điếng người kiểu nào đó - chẳng phải tôi không phấn khích khi gặp ông đâu, phấn khích quá đi chứ. Ông nhà tôi biết điều ấy. Nhưng tôi vừa nghĩ đến chuyện có thể ông tới đây - à, là để hành nghề. Ông biết tôi muốn nói gì chứ? À, tôi vốn cực kỳ nhạy cảm, như ông Gardener sẽ nói cho ông biết, và quả tôi chẳng thể chịu nổi nếu phải dính líu vảo bất cử kiểu tội ác nào. Xin ông hiểu cho.” Chồng bà ta đằng hắng rồi nói: “Xin ông hiểu cho, ông Poirot à, bà nhà tôi nhạy cảm lắm.” Hai tay thám tử Poirot giơ thẳng lên trời thật nhanh: “Xin cam đoan với bà, Madame, tôi tới đây cũng y như bà vậy thôi - để vui hưởng - để nghỉ hè thôi. Thậm chí tôi chẳng hề nghĩ tới tội ác.” Cô Brewster lại nói như tiếng chó sủa ngắn cộc cằn: “Chẳng có cái xác nào trên Đảo Buôn Lậu đâu.” “A!” Hercule Poirot nói. “Nói thế cũng không hoàn toàn đúng.” Ông chỉ tay xuống phía dưới. “Bà nhìn họ đang nằm dài ra đó từng hàng đi! Họ là gì vậy hả? Không phải đàn ông hay đàn bà. Chẳng có đặc điểm cá nhân nào cả. Họ chỉ là - những thân xác.” Thiếu tá Barry tán thành: “Một đám ngớ ngẩn trông cũng được mắt đó, vài người trong bọn họ. Mảnh khảnh, có lẽ vậy.” “Phải đó,” Poirot kêu lên, “nhưng có gì hấp dẫn? Có gì bí ẩn? Tôi già mất rồi, thuộc trường phái cũ xưa, hồi tôi còn trẻ người ta hiếm khi trông thấy mắt cá chân. Thoáng thấy một cái váy lót xốp cũng làm mình mê mẩn xiết bao! Một bắp chân căng tròn mém mại - một đẩu gối - ghim nịt vớ…” “Hư đốn, hư đốn!” thiếu tá Barry nói với giọng khàn khàn. “Đồ ta mặc ngày nay gợi cảm hơn nhiều,” cô Brewster nhận xét. “À phải đó, ông Poirot à. Bọn con trai con gái đời nay sống tự nhiên khỏe mạnh hơn nhiều. Chúng chỉ nô đùa đây đó với nhau rổi chúng - à, chúng nó…” bà Gardener hơi đỏ mặt vì đầu óc bà vốn rất tinh tế - “chúng chẳng nghĩ gì về chuyện ấy, ông hiểu ý tôi chứ?” “Tôi hiểu rồi,” Poirot đáp. “Thật đáng trách!” “Đáng trách sao?” bà Gardener rít lên. “Xóa bỏ hết tình cảm lãng mạn - hết còn bí ẩn! Ngày nay mọi thứ đều bị tiêu chuẩn hóa.” Ông thám tử phẩy tay về phía những hình hài nằm sấp nằm ngửa. “Cái cảnh đó nhắc tôi nhớ rất nhiều tới Nhà xác ở Paris.” “Ông Poirot!” bà Gardener cảm thấy bị xúc phạm. “Những cái xác - xếp trên những phiến dày và rộng - y hệt thịt ở cửa hàng bán thịt!” “Ông Poirot à, nói vậy chẳng phải là quá cường điệu sao?” Hercule Poirot thừa nhận: “Có lẽ thế, đúng vậy.” “Dù sao đi nữa,” bà Gardener đan len thật hăng, “tôi vẫn có thể đồng ý với ông về một điểm. Những cô gái đang nằm dài phơi nắng như thể kia sẽ bị mọc lông tay lông chân đó. Tôi từng bảo Irene - con gái tôi, ông Poirot à, - tôi bảo nó nếu cứ nằm dài phơi nắng như thế, con sẽ mọc lông khắp mình khắp mẩy, lông tay lông chân và lông ngực, khi ấy trông con sẽ như thể nào hở? Em đã nói với con bé, phải vậy không Odell?” “Phải, em yêu à,” chồng bà đáp. Mọi người im lặng, có lẽ đang mường tượng trong đầu hình ảnh của Irene khi tình huống xấu nhất đã xảy ra. Bà Gardener cuốn đồ đan len lại rổi nói: “Bây giở tôi tự hỏi..” Ông chồng hỏi: “Gì thế, em yêu?” Ông gượng đứng lên rời khỏi cái ghế võng, cầm lấy đồ đan len và quyển sách của vợ rổi hỏi: “Cùng uống với chúng tôi một ly nhé, cô Brewster?” “Ngay bây giờ thì không được, cảm ơn ông.” Hai vợ chồng đi trở lên khách sạn. Cô Brewster nói: “Các ông chồng người Mỹ thật tuyệt vời!” Cha Stephen Lane ngồi vào chỗ của bà Gardener. Đó là một ông thầy tu cao ráo sung sức ngoài năm mươi. Khuôn mặt rám nắng và cái quần dài bằng nỉ mỏng tanh màu xám sẫm thích hợp để đi nghỉ mát lại làm ô uế thanh danh của một kẻ tu hành. Ông nói thật hăng hái: “Miền quê này thật kỳ diệu! Ta đã đi từ Vịnh Leathercombe đến Harford rồi quay về chỗ gành đá.” “Hôm nay đi bộ làm ấm người lắm đó,” thiếu tá Barry nói, nhưng ông ta chẳng bao giờ đi bộ. “Rèn luyện thân thể là rất tốt,” cô Brewster thêm vào. “Tôi vẫn chưa chèo thuyền đây. Muốn tập cơ bụng thì không gì bằng chèo thuyền đâu.” Cặp mắt Hercule Poirot sụp xuống, hơi rầu rĩ liếc nhìn chỗ trương phình lên chính giữa bụng. Để ý thấy, cô Brewster nói thật tử tế: “Ông sẽ sớm làm chỗ ấy xẹp xuống thôi, ông Poirot ạ, nếu hằng ngày chèo thuyền ra biển.” “Merci, Mademoiselle. Tôi thì lại ghét cay ghét đắng các loại thuyền bè!” “Ông muốn nói đến những chiếc thuyền nhỏ sao ạ?” “Thuyền bè mọi kích cỡ.” Ông nhắm mắt lại và rùng mình. “Biển động thì chẳng hề dễ chịu.” “Chúa ban phúc lành cho cái ông này, hôm nay sóng yên biển lặng mà ông.” Poirot đáp lại với niềm tin vững chắc: “Thật ra chẳng có chuyện biển lặng đâu. Lúc nào, lúc nào cũng chuyển động.” “Nếu ông hỏi tôi,” thiếu tá Barry nói, “cứ mười người thì có tới chín người bị say sóng đó.” “Thế đấy,” ông thầy tu hơi nhếch mép mỉm cười, “là thủy thủ lành nghề mà cũng nói thế ư, ông thiếu tá?” “Chỉ bị say sóng mỗi một lần, đó là lúc tôi vượt Biển Manche! Đừng nghĩ tới say sóng, đó là phương châm của tôi.” “Say sóng thật sự là một chứng rất kỳ quặc,” cô Brewster có vẻ đâm chiêu. “Vì sao người này mắc chứng ấy, còn kẻ khác lại không chứ? Chẳng phải là quá bất công hay sao? Chẳng liên quan gì tới sức khỏe thể chất cả. Có người cực kỳ ốm yếu lại là thủy thủ giỏi. Từng có người bảo tôi chứng ấy liên quan gì đấy với cột sống. Rồi còn có cái kiểu chẳng chịu nổi độ cao. Chính tôi cũng chịu đựng không tốt lắm, nhưng bà Redfern còn tệ hơn nhiều. Hôm nọ ở lối đi trên vách đá đến Harford, bà ấy bỗng dưng bị chóng mặt, đến nỗi phải vịn vào tôi đấy. Bà kể tôi nghe có lần từng bị kẹt ở nửa chừng đường đi xuống cầu thang bên ngoài nóc Nhà thờ Milan. Bà ấy leo lên thì chẳng hề nghĩ ngợi gì, nhưng khi đi xuống lại bị choáng.” “Thế thì tốt hơn hết bà ấy không nên leo cái thang xuống Vũng Tiên,” cha Lane nhân xét. Cô Brewster nhăn mặt. “Chính tôi cũng khiếp nữa là. Bọn trẻ thì không sao cả. Thằng bé nhà Cowan với cậu Mastermans cứ leo lên trèo xuống nhoay nhoáy, ra cái điều thích thú lắm.” Ông thầy tu nói: “Bà Redfern vừa tắm xong lên đây kia kìa.” Cô Brewster nhận xét: “Ông Poirot phải tán dương bà ấy đấy. Bà ấy tắm biển không hề bắt nắng.” Cô Redfern trẻ trung đã cởi cái mũ cao su và đang giũ tóc. Đó là một phụ nữ tóc vàng xám tro và làn da trắng tinh rất hợp với màu tóc. Chân tay rất trắng trẻo. Thiếu tá Barry cười khềnh khệch: “Trông cô ấy còn tai tái một tí, chưa nướng chín như những người khác nhỉ?” Redfern từ bãi biển đi lên rồi leo các bậc thềm tiến về phía họ. Khuôn mặt nghiêm trang của cô thật xinh đẹp, một kiểu xinh đẹp trơ trơ vô vị, bàn tay bàn chân nhỏ nhắn xinh xắn. Cô mỉm cười với họ, buông mình ngồi xuống bên cạnh, kín mít trong lớp áo tắm bọc lấy người. Brewster nói: “Chị được ông Poirot đánh giá cao đấy. Ông ấy chẳng thích đám người da rám nắng. Bảo họ giống như những súc thịt trong hàng thịt, hay những từ mô tả vậy đấy.” Christine Redfern mỉm cười buồn bã: “Tôi vẫn ước ao da mình có thể ăn nắng thì tốt. Nhưng nó chẳng chịu đổi màu nâu. Chỉ bị rộp lên vì bỏng nắng và có những vết tàn nhang kinh khủng nhất khắp cả hai cánh tay.” “Còn đỡ hơn là bị mọc đầy lông như cô bé Irene con gái bà Gardener,” cô Brewster nói. Rồi đáp lại cái liếc nhìn dò hỏi của thiếu phụ xinh xắn trắng trèo, cô nói tiếp: “Sáng nay bà Gardener cực kỳ phấn khởi. Cứ luôn mổm nói liên tu bất tận. ‘Có phải vậy không Odell?’ Ông chồng liền đáp, ‘Phải, em yêu à.’” Cô dừng lại một lát rổi nói: “Tuy thế tôi vẫn ước ao, ông Poirot ạ, lẽ ra ông nên trêu bà ta một chút. Sao ông không làm thế? Sao không bảo bà ta rằng ông xuống đây để điều tra một án mạng ghê rợn, và kẻ gây án là một tên sát nhân cuồng loạn, mà nhất định là một trong số khách trọ của khách sạn này?” Hercule Poirot thở dài. “Tôi rất ngại bà ấy sẽ tin lời tôi.” Thiếu tá Barry cười khò khè khục khặc. “Chắc chắn bà ấy sẽ tin.” Cô Brewster nói: “Không đâu. Chắc ngay cả bà ấy cũng chẳng tin có án mạng xảy ra ở đây đâu. Đây không phải là nơi có thể tìm ra một cái xác.” Hơi nhúc nhích cựa quậy trong cái ghế, Poirot phản đối: “Nhưng sao lại không, thưa cô? Sao lại không có cái mà cô gọi là cái xác ở đây trên Đảo Buôn Lậu này?” Emily Brewster đáp: “Không biết nữa. Tôi cho rằng một số nơi ít có khả nàng xảy ra án mạng hơn những nơi khác. Đây không phải là nơi kiểu đó…” Đột nhiên cô ngừng lại, thấy khó lòng giải thích điều mình muốn nói. “Nơi này thật lãng mạn, đúng vậy,” Poirot đồng ý. “Thật bình an. Mặt trời chiếu sáng. Biển xanh. Nhưng cô quên rồi, cô Brewster à, tội ác có ở khắp mọi nơi dưới ánh mặt ười.” Ông thầy tu cựa quậy trong cái ghế bố của mình. Ông chồm người tới trước. Đôi mắt xanh lơ sáng rực lên. Cô Brewster nhún vai. “Ôi, dĩ nhiên tôi biết điều ấy chứ, nhưng dù sao đi nữa…” “Nhưng dù sao đi nữa nơi đây đối với cô hình như vẫn không có khả nàng là bối cảnh xảy ra một án mạng à? Cô quên mất một điều, thưa cô.” “Bản tính con người phải không ông?” “Đúng vậy đó. Vẫn luôn như vậy. Nhưng không phải là điều tôi vừa mới nói. Tôi vừa chỉ cho cô rõ ở đây mọi người đều đang đi nghỉ mát.” Cô Brewster quay khuôn mặt bối rối sang nhìn Poirot: “Tôi không hiểu.” Poirot tươi cười nhìn cô. Ông nhịp nhịp ngón trỏ vào không trung. “Giả sử cô có một kẻ thù. Nếu cô cố tìm cho ra hắn ở căn hộ của hắn, ở sở làm, ở ngoài đường phố, eh bien, cô phải có một lý do - cô phải giải thích hành vi của mình. Nhưng ở đây trên bờ biển chẳng ai cần phải giải thích về hành vi của mình. Cô tới Vịnh Leathercombe, sao hả? Parbleu! Bây giờ là tháng 8 - người ta thường ra biển vào tháng 8 - đi nghỉ hè. Hoàn toàn là lẽ đương nhiên chuyện cô và cha Lane tới đây, chuyện thiếu tá Barry và cô Redfern cùng chồng tới đây. Bởi vì đi nghỉ mát vào tháng 8 là tập quán ở xứ Anh này.” “À,” Brewster công nhận, chắc chắn đấy là một ý kiến rất tinh tế. “Nhưng còn ông bà Gardener thì sao? Họ là người Mỹ cơ mà.” Thám tử mỉm cười. “Chính bà Gardener cũng nói với chúng ta bà cảm thấy có nhu cầu được thư giãn. Hơn nữa bà đang tham quan xứ Anh, nên nhất thiết phải trải qua nửa tháng ngoài bờ biển mới đúng là một du khách sành điệu, chứ không làm điều gì khác. Bà ấy thích quan sát mọi người.” Christine Redfern khẽ hỏi: “Chắc ông cũng thích quan sát mọi người chứ?” “Thưa bà, tôi xin thú nhận điều đó. Tôi thích chứ.” Cô nói vẻ trầm ngâm: “Ông thấy - khá nhiều đấy.” Có một khoảnh khắc tạm dừng. Cha Lane đằng hắng rồi nối, hơi ngượng ngùng một chút. “Ta quan tâm đến điều ông vừa nói lúc nãy, ông Poirot ạ. Ông bảo tội ác hoành hành khắp nơi dưới ánh mặt trời. Đấy có vẻ như là một câu trích dẫn từ Sách Truyền Đạo.” Cha tạm dừng rồi sau đó tự trích dẫn: “Phải, trong tim con cái của con người cũng đầy rẫy cái ác, và sự điên cuồng ở trong tim họ trong khi họ sống.” Mắt ông rực lên một thứ ánh sáng gần như cuồng tín. “Ta rất vui khi nghe ông nói câu ấy. Đời nay chẳng ai tin có cái ác cả. Cùng lắm được xem đơn giản chỉ là phủ định của cái thiện. Người ta bảo cái ác được thực thi bởi những kẻ chẳng biết điều gì tốt hơn - những kẻ chậm phát triển - những kẻ đáng thương hơn là đáng trách. Nhưng ông Poirot này, cái ác có thật đấy. Đấy là một thực tế. Ta tin có cái ác cũng như ta tin có cái thiện. Nó tồn tại! Nó có quyền lực lớn lao! Nó bước đi khắp trên quả đất này!” Ông thầy tu dừng lại, hơi thở gấp gáp một chút. Ông lấy khăn tay lau trán và chợt có vẻ ân hận. “Ta rất tiếc vì đã quá sa đà.” Poirot nói thật điềm tĩnh: “Tôi hiểu ý của ông. Tôi đồng ý với ông về một điểm. Quả là cái ác vẫn bước đi khắp trên trái đất và ta có thể nhận biết điều đó.” Thiếu tá Barry đằng hắng. “Bàn về chuyện kiểu ấy thì, mấy thằng cha tu hành khổ hạnh ở Ấn Độ…” Thiếu tá Barry ở Khách sạn Hải Tặc đã đủ lâu để mọi người cảnh giác đề phòng cái khuynh hướng sa vào những câu chuyện Ấn Độ dài lê thê chán ngắt của ông ta. Cả cô Brewster lẫn Christine đều đột nhiên cùng cất tiếng. “Bây giờ chồng cô đang xuống bơi, phải không cô Redfern? Kiểu bơi sải của ông ấy thật cừ khôi. Ông ấy bơi giỏi kinh khủng.” Cùng lúc đó Redfern nói: “Ôi, xem kìa! Chiếc thuyền nhỏ có những cánh buồm đỏ ở ngoài kia đẹp quá! Là thuyền của ông Blatt, phải không?” Chiếc thuyền buồm đỏ đúng là đang băng qua cuối vịnh. Thiếu tá Barry lẩm bẩm: “Ý tưởng thật kỳ khôi, những cánh buồm màu đỏ.” Nhưng mọi người đã thoát khỏi câu chuyện phiền hà về những nhà tu khổ hạnh của ông ta. Hercule Poirot nhìn người đàn ông trẻ vừa bơi vào bờ, tấm tắc khen thầm. Patrick Redfern là một mẫu người thật tuyệt. Thanh mảnh, nước da màu đồng thau, đôi vai rộng và hai bắp đùi săn chắc, anh ta có cái kiểu vui vẻ khoan khoái dễ hòa đồng - tính hồn nhiên bẩm sinh mà tất cả đàn bà và hầu hết đàn ông đều quý mến. Anh ta đứng đó giũ nước trên người rổi giơ tay vui vẻ gọi vợ. Cô vợ vừa vẫy tay đáp lại vừa cất tiếng: “Đến đây đi, Pat!” “Anh đến ngay.” Anh ta đi một quãng ngắn dọc theo bãi biển để lấy cái khản tắm đã để lại đó. Ngay lúc ấy một phụ nữ từ khách sạn đi xuống bãi biển ngang qua chỗ họ. Chuyện cô ta tới chỗ đó có tầm quan trọng cỡ như một diễn viên bước ra sân khấu. Hơn nữa cô ta bước đi như thể biết rõ điều đó. Chẳng hề có vẻ ngượng ngùng gì cả. Dường như cô ta đã quá quen thuộc với hiệu quả bất biến do sự có mặt của mình. Dáng người cao ráo mảnh mai, cô ta mặc chiếc áo tắm một mảnh hở lưng màu trắng và từng li từng tí trên thân thể lộ ra ngoài đều nhuốm một chút màu đồng thau tuyệt đẹp. Hoàn hảo như một bức tượng. Mái tóc màu nâu đỏ rực lửa uốn quăn úp thật sát vào cái cổ rất đẹp. Nét mặt hơi nghiêm nghị thường thấy khi ba mươi năm đã đến rồi đi, nhưng toàn bộ tác động của cô ta là tác động của tuổi trẻ - của sức sống chiến thắng thật mãnh liệt. Khuôn mặt ấy bất động kiểu Trung Hoa và đôi mắt xanh sẫm xếch lên. Trên đầu đội một cái nón Trung Hoa bằng bìa cứng màu xanh ngọc thạch thật kỳ quái. Cô ta có điểm gì đó khiến mọi phụ nữ khác trên bãi biển dường như đểu lu mờ đi và chẳng có nghĩa lý gì. Cũng không thể nào tránh khỏi điều đó, mọi cặp mắt đàn ông hiện diện đều bị hút dính vào cô ta. Hercule Poirot mở to cặp mắt, hàng ria mép rung rinh tấm tắc khen thầm. Thiếu tá Barry ngổi thẳng dậy, cặp mắt ốc nhồi thậm chí còn lồi ra nhiều hơn vì quá phấn khích. Bên trái Poirot, cha Stephen Lane hít vào một hơi với một tiếng rít khe khẽ, còn toàn thân thì cứ cứng đơ ra. Thiếu tá Barry thì thào, giọng khàn khàn: “Arlena Stuart – là tên cô ta trước khi lấy Marshall. Tôi từng xem cô ta trong vở Đến và Đi trước khi cô ta rời bỏ sân khấu. Cũng có cái đáng để ngắm nhìn đó, hử?” Christine Redfern nói thật chậm rãi, giọng lạnh lùng: “Cô ta trông cũng được mắt - vâng. Tôi nghĩ - trông cô ta như một con thú thì đúng hơn!” Emily Brewster nói cộc lốc: “Lúc nãy ông vừa bàn về cái ác, thưa ông Poirot. Giờ đây trong tâm trí tôi người đàn bà này chính là hiện thân của cái ác! Cô ta là một ả đê tiện suốt từ đầu đến cuối. Tôi tình cờ được biết rất nhiều chuyện về cô ta.” Thiếu tá Barry hồi tưởng: “Tôi còn nhớ một ả ở bên Simla. Tóc ả cũng màu đỏ. Vợ của một trung úy hải quân. Có làm cho nơi ấy xào xáo hay không ư? Xin thưa là có ạ. Đàn ông phát điên lên vì ả. Tất nhiên hết thảy đàn bà đều muốn móc mắt ả ra! Ả đã phá nát hơn một gia đình rồi đó.” Ông ta cười khục khạc khi nhớ lại. “Chồng ả là một thằng cha trầm lặng thật tuyệt. Sùng bái cả mặt đất dưới bước chân ả. Chẳng bao giờ thấy cái gì - hay vờ không thấy.” Cha Lane nói với giọng trầm trầm đầy cảm xúc mãnh hệt: “Phụ nữ như thế là một mối đe dọa - đe dọa đối với… Ông dừng lại. Arlena Stuart đã ra tới mép nước. Hai cậu trai choai nhảy dựng lên rồi hăm hở tiến tới. Cô đứng lại mỉm cười với họ. Mắt cô lướt nhanh ngang qua họ tới chỗ Patrick Redfern đang đi dọc theo bãi biển. Hercule Poirot nghĩ như thể ông đang theo dõi cây kim la bàn. Patrick Redfern đi chệch đường, đôi chân anh ta đổi hướng. Kim la bàn dù muốn hay không cũng phải tuân theo quy luật của từ trường và xoay về hướng bắc. Hai chân Patrick Redfern đưa anh ta đến với Arlena Stuart. Cô đứng đó mỉm cười với anh ta. Rồi cô chầm chậm di chuyển dọc theo bải biển sát bên những ngọn sóng. Anh ta đi cùng với cô. Cô nằm duỗi dài ra cạnh một tảng đá. Patrick buông mình nằm xuống chỗ đay đá cuội ở bên cạnh. Christine Redfern lập tức đứng dậy và đi vào khách sạn. Có một thoáng im lặng không thoải mái sau khi cô ta bỏ đi. Rồi Emily Brewster nói: “Hơi quá tệ đấy. Cô ấy nhỏ bé, dễ thương. Họ chỉ mới lấy nhau chừng một hai năm thôi.” “Cái ả tôi vừa nhắc đến,” thiếu tá Barry nói, “ở Simla ấy. Ả đã làm đổ vỡ một cặp vợ chồng thật sự hạnh phúc. Có vẻ đáng thương, nhỉ?” Brewster nói: “Có một hạng đàn bà thích phá nát gia đình người ta.” Chừng một vài phút sau cô nói thêm, “Patrick Redfern là đồ ngu ngốc!” Hercule Poirot không nói gì. Ông đang chăm chú nhìn xuống bãi biển. Nhưng không phải nhìn Patrick và Arlena. Cô Brewster lại nói: “À, tôi nên đi chèo chiếc thuyền thì hơn.” Cô rời khỏi họ. Thiếu tá xoay cặp mắt như hai trái lý gai nấu chín ngó Poirot có vẻ hơi tò mò: “Này Poirot, ông đang nghĩ gì vậy? Ông chưa mở miệng. Nghĩ gì về ả mỹ nhân ngư ấy? Cũng nóng bỏng đấy chứ nhỉ?” Poirot trả lời: “C’est possible.” “À ra thế, ông bạn già. Tôi biết ngay ông là người Pháp mà.” Poirot lạnh lùng đáp lại: ‘Tôi không phải người Pháp!” “À, đừng nói với tôi ông chẳng hề để mắt đến gái đẹp nhé! Ông nghĩ gì về cô ả, hử?” “Cô ta không còn trẻ nữa.” “Điều ấy có quan trọng gì đâu chứ? Đàn bà trẻ hay già là tùy ở vẻ bề ngoài. Dáng cô ả cũng được đó chứ.” Poirot gật đầu nói: “Phải, cô ta xinh đẹp thật. Nhưng rốt cuộc sắc đẹp không phải là điều đáng quan tâm. Không phải sắc đẹp đã khiến mọi cái đầu – ngoại trừ một cái – đều xoay ra bãi biển để ngắm nhìn cô ta đâu.” “Chính thế, ông bạn ạ. Chính là điều ấy.” Thiếu tá nói, rồi đột nhiên tò mò hỏi, “Ông đang nhìn cái gì quá chăm chú vậy?” Poirot đáp: “Tôi đang nhìn trường hợp ngoại lệ. Người đàn ông duy nhất không ngước nhìn lên khi cô ta đi ngang qua.” Thiếu tá Barry nhìn theo ánh mắt đăm đăm của Poirot dừng lại nơi một người đàn ông chừng bốn mươi tuổi, tóc vàng hoe và da rám nắng. Khuôn mặt trầm tĩnh dễ ưa, ông ta đang ngồi trên bãi biển vừa hút ống điếu vừa đọc báo The Times. “À ra thế. Đó là ông chồng, ông bạn ạ, là Marshall đó.” “Phải, tôi biết rồi,” Hercule Poirot đáp. Thiếu tá Barry cười khục khặc. Là đàn ông độc thân, ông ta vẫn quen nghĩ Người Chồng có ba nghĩa - là kỳ đà cản mũi, kẻ gây phiền phức hay gã bảo vệ. “Có vẻ là một thằng cha tử tế đó,” ông ta nhận xét. Thật trầm lặng. Tôi tự hỏi phải chăng thời cơ của tôi đã tới?” Thiếu tá Barry đứng dậy và đi lên về phía khách sạn. Cái liếc nhìn của Poirot chầm chậm chuyển sang khuôn mặt cha Lane. Vị cha xứ đang chăm chú theo dõi Arlena Marshall và Patrick Redfern. Chợt ông quay sang Poirot. Trong đôi mắt ông có một thứ ánh sáng nghiêm khắc cuồng tín. “Người đàn bà ấy là cái ác suốt từ đầu đến cuối. Ông có nghi ngờ điều đó không?” cha Lane nói. Poirot đáp thật chậm rãi: “Thật khó lòng biết chắc ạ.” “Nhưng là người còn sống, ông không cảm thấy nó trong không trung hay sao? Khắp xung quanh ông. Sự hiện hữu của Cái Ác.” Poirot chầm chậm gật đầu. Mời bạn đón đọc Tội Ác dưới Ánh Mặt Trời của tác giả Agatha Christie & Trần Hữu Kham (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hẹn Gặp Lại Trên Kia - Pierre Lemaitre
Hẹn gặp lại trên kia là cuốn tiểu thuyết thứ 8 của nhà văn Pierre Lemaitre. Cuốn sách dày hơn 500 trang kể lại câu chuyện về ba anh lính sống sót trở về sau cuộc Đại chiến thứ I và họ phải đối mặt với một xã hội chỉ tiếc thương và ca ngợi công lao những người đã khuất mà quên đi những người còn sống trở về. Căm ghét cuộc sống hiện thực với những mâu thuẫn gay gắt về đạo đức, nhân cách con người, ba người lính trở thành kẻ bất lương, lừa đảo đất nước, lừa đảo toàn xã hội để kiếm những đồng tiền không chính đáng. Nghệ thuật xây dựng nhân vật, cách miêu tả tâm lý nhân vật, lối viết kết hợp giữa nghệ thuật trinh thám, điện ảnh và văn chương, việc lồng ghép và kể chuyện tuyến tính giúp cho câu chuyện có sức hút kỳ diệu. Hẹn gặp lại trên kia đánh dấu một sự thay đổi lớn trong phong cách viết văn từ trước đến nay của Pierre Lemaitre. Cuốn tiểu thuyết được dịch ra hơn 20 thứ tiếng trên thế giới. *** Với kết cấu rõ ràng, mạch lạc, đan xen nhiều giọng kể, khi trần thuật, khi miên man bằng dòng ý thức, vừa rời rạc vừa đau đáu, Pierre Lemaitre đã dựng nên một câu chuyện đầy tính giễu nhại về chiến tranh, nhưng ẩn dưới lớp giễu nhại khiến độc giả nhiều lần bật cười, gật gù tâm đắc ấy là những lớp nghĩa đầy tính chất suy tưởng xoay quanh những cay đắng, bất hạnh mà bất kỳ cuộc chiến nào cũng đem lại. Hẹn gặp lại ở trên kia hội tụ rất nhiều yếu tố “ăn khách”, gay cấn, bí ẩn, thông minh, diễn biến tâm lý nhân vật phức tạp. Hơn thế, tác phẩm của Pierre Lemaitre cũng không hề thiếu những chi tiết lãng mạn, cảm động, những cử chỉ, ứng xử giữa Édouard và Albert, những ký ức của cha Édouard đều được khắc họa bằng một thái độ đầy cảm động và trìu mến. Vốn là một biên kịch, lại say mê phim của Alfred Hitchcock, nên tác phẩm của Pierre Lemaitre, thường có lối khắc họa chân dung nhân vật vô cùng sắc nét, với một hệ thống ngôn ngữ đậm chất điện ảnh, nhiều trường đoạn dài đặc tả nhân vật, với đầy những trăn trở suy tư. Bên cạnh hai nhân vật Albert và Édouard, ông Péricour cũng là một nhân vật để lại nhiều dấu ấn đặc biệt trong tác phẩm. Trường đoạn gặp lại của ông Péricour và Édouard, người con trai tàn tật ông tưởng đã hy sinh trong chiến tranh, đã được Pierre Lemaitre miêu tả lại đầy ám ảnh. Ánh mắt của Édouard, khi lao vào bánh xe ô tô mà cha anh lái, là điều cuối cùng anh để lại, cũng là điều khiến cha anh và độc giả không thể nào quên được anh. Đó là giây phút xóa nhòa đi mọi đau lòng, mọi tội lỗi và mọi hiềm khích. Ông Péricour đã hình dung đó là ánh mắt của “sự biết ơn”. Và như thế, câu chuyện kết thúc, khi lời nói dối bị phát hiện, và dấu vết còn lại là nỗi khắc khoải của người đọc. *** Pierre Lemaitre là một tác giả người Pháp từng đoạt giải thưởng Prix Goncourt và là nhà biên kịch, nổi tiếng quốc tế với các tiểu thuyết tội phạm có nhân vật hư cấu Commandant Camille  Là một trong những tiểu thuyết gia trinh thám hàng đầu của Pháp hiện nay, Pierre Lemaître hẳn không còn xa lạ với độc giả Việt Nam. Lối viết đa dạng, văn phong khác biệt cùng cách dẫn dắt câu chuyện tài tình, ông đã nhận được không ít đánh giá cao từ giới phê bình cũng như sự hưởng ứng từ phía độc giả.  Mời các bạn đón đọc Hẹn Gặp Lại Trên Kia của tác giả Pierre Lemaitre.
Chuyện Tình Của Mẹ - Ruth Rendell
Liza sống cách biệt với mọi người tại lâu đài Shrove với Eve mẹ nàng, cho đến năm lên 17 tuổi. Nàng không được mẹ cho tiếp xúc với bất cứ ai. Bà đích thân dạy cho con học, mà không cho Liza đến trường. Khi mẹ của Liza bị cảnh sát bắt, nàng trốn theo Sean, chàng trai đã từng là kẻ làm vườn thời vụ cho Lâu đài Shrove. Trên toa nhà xe lưu động, nay đây mai đó, đem đêm Liza đã kể cho Sean nghe mỗi đêm một ít cuộc sống đầy bí ẩn, xa lánh hết thảy mọi người trong xã hội. Những sự bí mật lần lượt bị lột trần. Số phận của những người đàn ông đã bị sắc đẹp của Eve cuốn hút sẽ ra sao? Liza đã thực sự đóng vai trò gì trong các vụ giết người tại lâu đài Shrove bí ẩn? *** Ruth Barbara Rendell, Nam tước Rendell của Babergh, CBE, là một tác giả người Anh của phim kinh dị và bí ẩn giết người tâm lý. Sáng tạo nổi tiếng nhất của Rendell, Chánh thanh tra Wexford, là anh hùng trong nhiều câu chuyện cảnh sát nổi tiếng, một số trong số chúng được chuyển thể thành công cho TV.   Mời các bạn đón đọc Chuyện Tình Của Mẹ của tác giả Ruth Rendell.
Câm Lặng - Eric Rickstad
Mùa đông chết chóc ở Vermont đang tới gần, quỷ dữ nơi đây bắt đầu hiện hữu và trở nên sống động hơn bao giờ hết. Franks Rath cho rằng mình đã không phải dính dáng tới án mạng khi anh rời khỏi lực lượng cảnh sát, trở thành một thám tử tư để dành phần lớn thời gian của mình chăm sóc cho con gái. Cho đến khi lực lượng cảnh sát của vùng Canaan hẻo lánh tìm được một chiếc xe Monte Carlo đời 89 bị bỏ mặc bên đường và chủ nhân của nó – một cô gái tuyệt đẹp ở độ tuổi 16 biến mất không dấu vết, Rath lại một lần nữa lên đường điều tra, hỗ trợ lực lượng cảnh sát từ trong bóng tối. Càng dấn sâu vào vụ án, anh càng tiến gần tới những góc khuất tối tăm của con người. Một người đàn ông vốn chịu đủ những ám ảnh từ quá khứ, mang trên vai trách nhiệm tìm kiếm những cô gái còn đang mất tích. Rath sẽ phải làm gì khi ngay cả ở những nơi sâu xa hẻo lánh nhất cũng không tránh khỏi bị cái ác bao trùm? *** “Không.” Rath nói, “vị trí này không dành cho tôi.” “Cậu đang làm trái tim tôi tan vỡ đấy nhóc.” Barrons vừa nói vừa đặt bàn tay to bè lên ngực như để chứng minh. Nó chả chứng minh được cái khỉ gì cả. “Tôi không phải cớm.” Rath nói. “Vớ vẩn.” “Tôi đã từng là cớm.” “Một sĩ quan tuyệt vời.” “Một sĩ quan phải có niềm tin.” “Vào cái gì?” “Vào luật pháp, vào thể chế. Tôi thì không, không thể, không phải một cái thể chế như thế này, một dạng pháp luật coi một đứa nhỏ mười sáu tuổi là người lớn, một dạng pháp luật thả những thằng khốn như Preacher ra ngoài săn lùng và sát hại phụ nữ. Chết tiệt! Ngay cả mụ phù thủy già Malroy cũng có thể chống án được đấy.” “Nếu...” “Không, chẳng có chữ nếu ở đây đâu. Đây là cuộc đời và chúng ta không thể sống bằng chữ nếu...” “Nghe cậu nói kìa.” “Phải.” “Ừ thì.” Barrons ngả người ra phía sau và dang rộng đôi tay. Nhìn qua cửa sổ phía sau, Rath có thể nhìn thấy đám chim bồ câu bay qua bay lại. “Grout đã đỡ non và xanh hơn rồi đấy.” Rath đùa. “Grout đã vắng mặt không phép kể từ sau vụ con mụ già ở Connecticut. Mụ ấy suýt chết đấy. Tôi không nghĩ thằng nhỏ sẽ quay lại ngành đâu, hình như chuyển sang bên an ninh rồi, ở New Hampshire thì phải.” Rath gật đầu, chẳng lấy gì làm ngạc nhiên. “Sonja cũng gần chín rồi.” “Tôi nói gì cậu cũng không vào tai nhỉ, nhóc?” Barrons nói. “Biết rồi còn hỏi. Ông có thể rủ tôi xuống Bahamas câu cá. Tôi muốn học câu cá bằng ruồi.” “Cậu đã sẵn sàng chưa nhóc? Sống cuộc đời của một lão già về hưu?” “Sẵn sàng!” Quả thực như vậy. Rath cần phải đến một vùng đất mới, đến nơi mà anh chưa bao giờ đi qua, một nơi nào đó đầy nắng và gió, một nơi nào đó anh có thể thả lỏng và điều chỉnh tâm tình để khi trở lại anh có thể tập trung vào điều quan trọng nhất - Ned Preacher. “Tôi cứ tưởng cậu đang hẹn hò cơ mà?” Barrons hỏi. ... Mời các bạn đón đọc Câm Lặng của tác giả Eric Rickstad.
Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ - Higashino Keigo
Trong biệt thự nhà Mashiba Yoshitaka, người chồng trúng độc chết trên sàn, thạch tín còn sót lại trong cốc cà phê đổ lênh láng bên cạnh. Mọi nghi vấn tập trung vào hai đối tượng: người vợ Ayane vốn là nghệ nhân nổi tiếng với các tác phẩm thảm ghép vải độc đáo đắt tiền trưng bày ở khu Ginza, và cô người tình bí mật Wakayama Hiromi, cũng là học trò của Ayane. Nhưng cả hai đều có chứng cứ ngoại phạm vững chắc. Và cảnh sát đau đầu vì vấn đề hóc búa: Làm thế nào hung thủ bỏ thạch tín hạ độc Yoshitaka, khi không ai khác có khả năng tiếp cận nạn nhân quanh thời điểm xảy ra vụ án. Một lần nữa thiên tài “thám tử Galileo” Yukawa Manabu nhập cuộc. Anh đã tìm ra đáp án, nhưng là một “đáp án ảo”, chỉ “có thể suy nghĩ về mặt lý thuyết nhưng không thể tồn tại trong hiện thực”. Từng bước lật lại các tình tiết, tác giả đại tài Keigo đã chìa ra cho chúng ta chân tướng đáng kinh ngạc của một sự thật vô cùng chua xót… *** Lại thêm một tác phẩm xuất sắc nữa của tác giả Higashino, không có gì để chê trách, nội dung tuyệt vời, những bí ẩn dần được khám phá. Nguyễn Quốc Huy *** Có vẻ cái tên Higashino Keigo không ít fan ở Việt Nam đâu nhỉ. Trả lời câu hỏi Sự cứu rỗi của thánh nữ có hay hay không? Câu trả lời là có hay. Có vẻ Nhã Nam vẫn là nhà chọn sách tốt trong rất nhiều các tác phẩm của Keigo. Sẽ chỉ nói về Thánh nữ chứ không so sánh nó với tác phẩm nào của Keigo. Cà phê, lại là cà phê. Mình nhớ trong Sự thật về Bebe Donge của Simenon thì người vợ cũng đã đầu độc chồng trong ly cà phê. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng liên quan đến cà phê. Thế nên các quý ông quý bà thích uống cà phê cẩn thận nha, có thể bị độc chết bất cứ lúc nào. Mashiba Yoshiaka, người chồng bị độc chết trên sàn nhà, thạch tín còn sót lại trong cốc cà phê lênh láng bên cạnh. Mọi nghi vấn được tập trung vào hai đối tượng: người vợ Ayane và cô người tình bí mật Hiromi. Vấn đề là cả hai người đều có chứng cớ ngoại phạm vững chắc. Bài toán đặt ra là làm thế nào để hạ độc Yoshitaka và đầu độc bằng cách nào? Vì trong thời điểm xảy ra vụ án không ai có khả năng tiếp cận nạn nhân. Thật ra, trong Sự cứu rỗi của thánh nữ, hung thủ có thể thấy ngay từ đầu. Vấn đề là nguyên nhân và cách thức gây án. Một bài toán vô cùng khó và có những cái không thể ngờ tới. Vẫn là những người phụ nữ. Nếu bạn nào ít nhiều đọc Keigo chắc hẳn sẽ rất ấn tượng với những người phụ nữ trong tác phẩm của ông. Họ thường đẹp và rất nguy hiểm. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng không ngoại lệ. Cô ấy đẹp, thu hút nhưng luôn treo cái chết trên đầu bạn. Thật sự rất nể người phụ nữ này luôn. Làm sao cô ấy có thể kiên trì sống và chịu đựng, chấp nhận cuộc sống với tình yêu và sự thù hận, treo cái chết lơ lửng từng ngày như vậy. Sự cứu rỗi của thánh nữ nằm trong series “Thám tử Galileo” Yukawa. Đọc đến nửa thì vị thám tử này mới nhập cuộc nhưng vô cùng thú vị. Có lẽ bài toán càng hóc búa thì càng thu hút vị thám tử này. Mặc dù khó tin, có thể là “đáp án ảo” chỉ “có thể chỉ xảy ra về mặt lý thuyết nhưng không hề tồn tại trong hiện thực” nhưng chứng minh đáp án đó là ảo lại cho ra một kết quả hết sức kinh ngạc của một sự thật chua xót. Và tất nhiên tác giả cũng có lồng ghép một số kiến thức rất thú vị vào trong vụ án vì thám tử Galileo là giáo sư dạy vật lý ở trường đại học mà. Cứ tưởng đâu đây là vụ án “hoàn hảo”, biết mười mươi mà không đủ bằng chứng để buộc tội gây “ức chế”, nhưng may quá, vẫn còn ánh sáng cuối đường hầm mặc dù sự thật là đau xót. Có một câu hỏi: Đàn ông quan niệm như nào về lập gia đình? Phải chăng họ lập gia đình chỉ vì cần người sinh con? Họ không cần tình yêu? Nếu không sinh được con thì người phụ nữ chẳng qua chỉ là vật trang trí trong ngôi nhà không hơn không kém? Tác phẩm: Phía Sau Nghi Can X Bạch Dạ Hành Bí mật của Naoko Thánh Giá Rỗng Điều Kỳ Diệu Của Tiệm Tạp Hóa Namiya Hoa Mộng Ảo Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ Trước Khi Nhắm Mắt Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ Tên của trò chơi là bắt cóc Ác Ý Ảo Dạ Ma Nữ Của Laplace Phương Trình Hạ Chí Cáp Treo Tình Yêu Trứng Chim Cúc Cu Này Thuộc Về Ai Thư ... *** Các truyện về Thám tử Galileo: Tiểu thuyết Yōgisha X no Kenshin (容疑者Xの献身?), 2005 (Phía sau nghi can X, Nhã Nam, 2009) Seijo no Kyūsai (聖女の救済?), 2008 (Sự cứu rỗi của thánh nữ, Nhã Nam, 2019) Manatsu no Hōteishiki (真夏の方程式?), 2011 (Phương trình hạ chí, Nhã Nam, 2018) Kindan no Majutsu (禁断の魔術?), 2015 (Ma Thuật Bị Cấm) Tập truyện ngắn Tantei Galileo (探偵ガリレオ?), 1998 Yochimu (予知夢?), 2000 Galileo no Kunō (ガリレオの苦悩?), 2008 Kyozō no Dōkeshi (虚像の道化師?), 2012 Mời các bạn đón đọc Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ của tác giả Higashino Keigo.