Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nguồn gốc của văn hóa và tôn giáo - Vật tổ và cấm kỵ

Văn hoá và tôn giáo là những vấn đề vô cùng phức tạp và rông lớn, tác động sâu xa tới toàn bộ đời sống xã hội, tới ý thức, lối sống và nhân cách cá nhân của mọi thành viên. Do vậy, chúng là đối tượng nghiên cứu có tính chất bao trùm lên toàn bộ các khoa học xã hội và nhân văn. Học thuyết Marx với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã có cống hiến to lớn trong giải quyết các vấn đề liên quan đến các khái niệm đó. Tính đúng đắn của học thuyết Marx, đặc biệt là các công trình của F. Engels, là chỉ ra một cách khoa học và thuyết phục những cơ sở lao động-kinh tế của việc hình thành ý thức xã hội, lâu đài văn hoá, tín ngưỡng, các phong tục tập quán và mối tương quan giữa ý thức xã hội với nhân cách cá nhân. Chủ nghĩa Marx nhìn nhận các hiện tương xã hội đó như là kết quả của hành động có ý thức của con người. Tuy nhiên, hành động của con người, đặc biệt là hành vi của các cá nhân, không phải chỉ được điều khiển bởi ý thức, mà có khi nó còn bị thúc đẩy bởi các động lực vô thức nằm sâu trong tận đáy tâm thức của con người, cái đôi khi được đồng nhất với bản năng.

Văn hoá và tôn giáo là những vấn đề vô cùng phức tạp và rông lớn, tác động sâu xa tới toàn bộ đời sống xã hội, tới ý thức, lối sống và nhân cách cá nhân của mọi thành viên. Do vậy, chúng là đối tượng nghiên cứu có tính chất bao trùm lên toàn bộ các khoa học xã hội và nhân văn. Học thuyết Marx với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã có cống hiến to lớn trong giải quyết các vấn đề liên quan đến các khái niệm đó. Tính đúng đắn của học thuyết Marx, đặc biệt là các công trình của F. Engels, là chỉ ra một cách khoa học và thuyết phục những cơ sở lao động-kinh tế của việc hình thành ý thức xã hội, lâu đài văn hoá, tín ngưỡng, các phong tục tập quán và mối tương quan giữa ý thức xã hội với nhân cách cá nhân. Chủ nghĩa Marx nhìn nhận các hiện tương xã hội đó như là kết quả của hành động có ý thức của con người. Tuy nhiên, hành động của con người, đặc biệt là hành vi của các cá nhân, không phải chỉ được điều khiển bởi ý thức, mà có khi nó còn bị thúc đẩy bởi các động lực vô thức nằm sâu trong tận đáy tâm thức của con người, cái đôi khi được đồng nhất với bản năng.

Với tư cách một học thuyết duy vật biện chứng và lịch sử được xây dựng trên cơ sở các thành tựu mới nhất của các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn đương thời, nó thừa nhận tiến hoá luận của Darwin, tiếp thu và kế thừa lí thuyết văn hoá - nhân học của nhà nhân học Mĩ H. Morgan, chủ nghĩa Marx không phủ nhận cơ sở vật chất sinh học của con người, như Marx đã từng chỉ dẫn: "Giải phẫu học về con người là cái chìa khoá cho giải phẫu học về con khỉ", cho nên nó cũng không coi thường bản năng và vô thức. Chỉ có điều, do một số nhà lí luận sau này bởi nhiều lí do khác nhau, đã tuyệt đối hoá mặt ý thức mà xem nhẹ việc nghiên cứu vô thức và tâm lí cá nhân. Mảnh đất quan trọng và thiết thân ấy, do vậy, trong một thời kì dài hàng thế kỉ đã là nơi tung hoành của các trường phái tâm lí học ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu và Bắc Mỹ, mà trung tâm của họ là phân tâm học (Psychanalyse) với đại biểu điển hình là Sigmund Freud được nhiều người xem là cha đẻ của phân tâm học, một người mà tác phẩm của mình từng được coi là "cấm kị", không được phổ biến ở một số nước trong thời kì chiến tranh lạnh. Trong lịch sử hình thành và phát triển của phân tâm học, người ta thấy nó quan tâm trước hết đến bệnh lí tâm thần và đời sống vô thức của cá nhân, rồi sau đó mới có bước chuyển di sang lĩnh vực đời sống xã hội. Thuật ngữ phân tâm học (Psychoanalyse) xuất hiện bằng tiếng pháp lần đầu tiên năm 1896 trong một báo cáo của Freud. Thời kì đó người ta hiểu nó như một liệu pháp y học gọi là "liên tưởng tự do" (freie assoziation). Rồi sau đó đã bành trướng thành một phương pháp thời thượng sang nhiều lĩnh vực khác của các khoa học tinh thần. Các hiện tượng xã hội được phân tích truy nguyên theo các yếu tố bản năng vô thức là những cái được di truyền từ loài thú đến loài người nguyên thuỷ và tồn tại mãi cho đến con người hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi nguyên uỷ của bệnh tâm thần cá nhân và những nỗi đau đớn của họ, phương pháp phân tâm học cũng quan tâm đến sự tác động của các bối cảnh xã hội thông qua các câu chuyện do người bệnh kể lại. Những nhân tố xã hội ấy do vậy cũng làm thành cơ sở của phân tâm học. Vấn đề cội nguồn của văn hoá và của tôn giáo hiển nhiên chỉ được đề cập đến trong các giai đoạn phát triển tương đối muộn của phân tâm học, một mặt phía chủ quan, khi mà nó tin rằng có thể vận dụng qui luật sinh lí - tâm thần cá nhân để giải thích được các hiện tượng xã hội quan trọng như vấn đề truyền thống, phong tục tập quán, tôn giáo và văn hoá của các dân tộc. Mặt khác, sự ra đời của các tác phẩm phân tâm học về xã hội cũng là sản phẩm bởi tác động của các bối cảnh lịch sử của xã hội đương thời. Các nguồn tư liệu gần đây cho thấy Freud, Adler cũng như nhiều nhà phân tâm học hàng đầu khác cuối thế kỉ 19 - đầu thế kỉ 20 đã có những quan hệ chặt chẽ với phong trào công nhân châu Âu dưới sự lãnh đạo của những người xã hội dân chủ theo tư tưởng Mác-xít. Thậm chí bản thân một số nhà phân tâm học đồng thời là lãnh tụ của các đảng phái xã hội dân chủ, như A. Adler, H. Heller, C. Furtmueller, D.-E. Openheim. Bản thân Freud cũng như nhiều nhà phân tâm học khác tỏ ra tán thành quan điểm tâm lí hoc duy vật Mác-xít. Vật tổ và cấm kị (Totem und Tabu) là tác phẩm quan trọng nhất của Freud nói riêng và của phân tâm học nói chung về nguồn gốc của văn hoá và tín ngưỡng. Ngay tác phẩm cuối cùng Moise và tôn giáo nhất thần (1939) cũng như Tâm lý học đại chúng và phân tích cái tôi (1921) đều xây dựng trên cơ sở Vật tổ và cấm kị. Phải chăng đó là sự ngoan cố của Freud, cái đã cho phép ông bám chắc các luận đề của mình, hay phải chăng những lý thuyết ông phát minh trong đó chính là những viên đá tảng quan yếu cho văn hoá luận phân tâm học? Tác phẩm này được chính Freud xem là "thử nghiệm đầu tiên (...) trong vận dụng các quan niệm và kết quả nghiên cứu của phân tâm học vào các vấn đề chưa sáng tỏ của tâm lí hoc dân tộc", và đối với độc giả thì nó "đáp ứng mối quan tâm của một phạm vi rộng lớn hơn của những người có văn hóa, nhưng thực ra chúng chỉ có thể được hiểu và phân định bởi một số ít ỏi nhất mà với họ phân tâm học không còn xa lạ nữa. Nó ra đời trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lâm sàng và điều trị bệnh nhân tâm thần của chính Freud, các công trình khảo cứu nhân chủng học và văn hóa học của nhiều học giả, đặc biệt là Frazer, và ít nhiều chịu kích thích trực tiếp từ tác phẩm Những biến hoá và biểu tượng của dục tính của nhà phân tâm học trẻ C-G. Jung, môn đệ của ông. Nhưng tác phẩm của Freud có sức khái quát hoá hơn hẳn và mang tính duy vật cao.

Với tư cách một học thuyết duy vật biện chứng và lịch sử được xây dựng trên cơ sở các thành tựu mới nhất của các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn đương thời, nó thừa nhận tiến hoá luận của Darwin, tiếp thu và kế thừa lí thuyết văn hoá - nhân học của nhà nhân học Mĩ H. Morgan, chủ nghĩa Marx không phủ nhận cơ sở vật chất sinh học của con người, như Marx đã từng chỉ dẫn: "Giải phẫu học về con người là cái chìa khoá cho giải phẫu học về con khỉ", cho nên nó cũng không coi thường bản năng và vô thức. Chỉ có điều, do một số nhà lí luận sau này bởi nhiều lí do khác nhau, đã tuyệt đối hoá mặt ý thức mà xem nhẹ việc nghiên cứu vô thức và tâm lí cá nhân. Mảnh đất quan trọng và thiết thân ấy, do vậy, trong một thời kì dài hàng thế kỉ đã là nơi tung hoành của các trường phái tâm lí học ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu và Bắc Mỹ, mà trung tâm của họ là phân tâm học (Psychanalyse) với đại biểu điển hình là Sigmund Freud được nhiều người xem là cha đẻ của phân tâm học, một người mà tác phẩm của mình từng được coi là "cấm kị", không được phổ biến ở một số nước trong thời kì chiến tranh lạnh.

Trong lịch sử hình thành và phát triển của phân tâm học, người ta thấy nó quan tâm trước hết đến bệnh lí tâm thần và đời sống vô thức của cá nhân, rồi sau đó mới có bước chuyển di sang lĩnh vực đời sống xã hội. Thuật ngữ phân tâm học (Psychoanalyse) xuất hiện bằng tiếng pháp lần đầu tiên năm 1896 trong một báo cáo của Freud. Thời kì đó người ta hiểu nó như một liệu pháp y học gọi là "liên tưởng tự do" (freie assoziation). Rồi sau đó đã bành trướng thành một phương pháp thời thượng sang nhiều lĩnh vực khác của các khoa học tinh thần. Các hiện tượng xã hội được phân tích truy nguyên theo các yếu tố bản năng vô thức là những cái được di truyền từ loài thú đến loài người nguyên thuỷ và tồn tại mãi cho đến con người hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi nguyên uỷ của bệnh tâm thần cá nhân và những nỗi đau đớn của họ, phương pháp phân tâm học cũng quan tâm đến sự tác động của các bối cảnh xã hội thông qua các câu chuyện do người bệnh kể lại. Những nhân tố xã hội ấy do vậy cũng làm thành cơ sở của phân tâm học.

Vấn đề cội nguồn của văn hoá và của tôn giáo hiển nhiên chỉ được đề cập đến trong các giai đoạn phát triển tương đối muộn của phân tâm học, một mặt phía chủ quan, khi mà nó tin rằng có thể vận dụng qui luật sinh lí - tâm thần cá nhân để giải thích được các hiện tượng xã hội quan trọng như vấn đề truyền thống, phong tục tập quán, tôn giáo và văn hoá của các dân tộc. Mặt khác, sự ra đời của các tác phẩm phân tâm học về xã hội cũng là sản phẩm bởi tác động của các bối cảnh lịch sử của xã hội đương thời. Các nguồn tư liệu gần đây cho thấy Freud, Adler cũng như nhiều nhà phân tâm học hàng đầu khác cuối thế kỉ 19 - đầu thế kỉ 20 đã có những quan hệ chặt chẽ với phong trào công nhân châu Âu dưới sự lãnh đạo của những người xã hội dân chủ theo tư tưởng Mác-xít. Thậm chí bản thân một số nhà phân tâm học đồng thời là lãnh tụ của các đảng phái xã hội dân chủ, như A. Adler, H. Heller, C. Furtmueller, D.-E. Openheim. Bản thân Freud cũng như nhiều nhà phân tâm học khác tỏ ra tán thành quan điểm tâm lí hoc duy vật Mác-xít.

Vật tổ và cấm kị (Totem und Tabu) là tác phẩm quan trọng nhất của Freud nói riêng và của phân tâm học nói chung về nguồn gốc của văn hoá và tín ngưỡng. Ngay tác phẩm cuối cùng Moise và tôn giáo nhất thần (1939) cũng như Tâm lý học đại chúng và phân tích cái tôi (1921) đều xây dựng trên cơ sở Vật tổ và cấm kị. Phải chăng đó là sự ngoan cố của Freud, cái đã cho phép ông bám chắc các luận đề của mình, hay phải chăng những lý thuyết ông phát minh trong đó chính là những viên đá tảng quan yếu cho văn hoá luận phân tâm học? Tác phẩm này được chính Freud xem là "thử nghiệm đầu tiên (...) trong vận dụng các quan niệm và kết quả nghiên cứu của phân tâm học vào các vấn đề chưa sáng tỏ của tâm lí hoc dân tộc", và đối với độc giả thì nó "đáp ứng mối quan tâm của một phạm vi rộng lớn hơn của những người có văn hóa, nhưng thực ra chúng chỉ có thể được hiểu và phân định bởi một số ít ỏi nhất mà với họ phân tâm học không còn xa lạ nữa. Nó ra đời trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lâm sàng và điều trị bệnh nhân tâm thần của chính Freud, các công trình khảo cứu nhân chủng học và văn hóa học của nhiều học giả, đặc biệt là Frazer, và ít nhiều chịu kích thích trực tiếp từ tác phẩm Những biến hoá và biểu tượng của dục tính của nhà phân tâm học trẻ C-G. Jung, môn đệ của ông. Nhưng tác phẩm của Freud có sức khái quát hoá hơn hẳn và mang tính duy vật cao.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Vũ Trụ Xoắn - Quyển 4 (Dolores Cannon)
Tôi đang giả định rằng (mà có thể không chính xác), vào thời điểm người đọc đạt đến điểm này trong tác phẩm của tôi, họ sẽ cảm thấy quen thuộc với hình ảnh tôi là một người nghiên cứu về sự huyền bí thông qua sử dụng thuật thôi miên. Tôi bắt đầu sử dụng thuật thôi miên từ những năm 1960 với các phương pháp cũ. Sau khi có gia đình, tôi trở lại với công việc này vào năm 1979. Sau đó, tôi muốn nghiên cứu sâu hơn về thuật hồi quy tiền kiếp để trị liệu, vì vậy tôi đã nghiên cứu các phương pháp cảm ứng mới và nhanh hơn, sử dụng hình ảnh và hình ảnh hóa. Qua nhiều năm nghiên cứu và trị liệu, tôi đã phát triển được kỹ thuật của riêng mình, chỉ sử dụng thuật thôi miên. Đây là phương pháp mà tôi có thể khai thác được vô số thông tin bằng cách giao tiếp trực tiếp với Siêu Thức (subconscious mind). Bằng phương pháp này, các thực thể khác thường sẽ tận dụng trạng thái thôi miên sâu của đối tượng nghiên cứu để giao tiếp. Điều này vẫn đang tiếp tục sau hơn 20 năm, khiến lượng thông tin mà tôi thu thập được vô cùng khổng lồ. Tôi sẽ sử dụng các thông tin này để đưa vào các cuốn sách sắp tới. Tôi đã được báo rằng tôi vượt qua các bài kiểm tra và sẽ được phép hỏi bất cứ câu hỏi nào tôi muốn. Đó là vì tôi đã luôn trung thực với các ghi chép, không sửa đổi nó. Vì tôi xem bản thân là một người ghi chép lại, một nhà nghiên cứu tâm lý, và nghiên cứu các kiến thức “bị đánh mất”. Do đó, công việc nghiên cứu này là không có hồi kết. Bạn đọc sẽ để ý các nghiên cứu của tôi rằng các thực thể khác sử dụng từ vựng có trong Siêu Thức của chủ thể, để cung cấp các phép loại suy trong nỗ lực giải thích những điều không thể giải thích theo cách mà con người có thể hiểu được. Vì vậy họ thường sử dụng những từ không chuẩn tiếng Anh. Họ sẽ tạo ra các từ gần với các danh từ và động từ mà họ có thể tìm thấy trong Siêu Thức của chủ thể. Dù gì đi nữa, đó là cách mà họ đã làm và nó hiệu quả, chúng ta có thể hiểu được những gì họ đang cố gắng truyền đạt. Dolores CannonDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Dolores Cannon":Ba Làn Sóng Tình Nguyện Viên Và Trái Đất MớiCon Người Đa ChiềuVũ Trụ Đa ChiềuVũ Trụ Xoắn - Quyển 2Vũ Trụ Xoắn - Quyển 3Những Người Trông Nom Trái ĐấtNhững Người Giám HộTừ Sau Khi Chết Đến Tái SinhVũ Trụ Xoắn - Quyển 1Vũ Trụ Xoắn - Quyển 4Vũ Trụ Xoắn - Quyển 5Cuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 1Họ Đã Dạo Bước Cùng Chúa JesusCuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 2Cuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 3Di Sản Từ Các Vì SaoMột Linh Hồn Nhớ Về HiroshimaNăm Cuộc Đời Được Ghi NhớTìm Kiếm Tri Thức Thiêng Liêng Còn Ẩn GiấuJesus Và Những Người EssenseĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Vũ Trụ Xoắn - Quyển 4 PDF của tác giả Dolores Cannon nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Ami - Cậu Bé Của Các Vì Sao - Quyển 3 (Enrique Barrios)
Ami đưa hai bạn nhỏ đi sâu vào trong lòng trái đất và đó là nơi họ gặp những cư dân đầu tiên của Trái Đất.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ami - Cậu Bé Của Các Vì Sao - Quyển 3 PDF của tác giả Enrique Barrios nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Ami - Cậu Bé Của Các Vì Sao - Quyển 2 (Enrique Barrios)
Ami nói, một thế giới văn minh là một thế giới thỏa mãn ba yêu cầu cơ bản 1. Họ phải công nhận TÌNH YÊU là quy luật căn bản của vũ trụ. 2. Họ phải ngưng bị chia cắt bởi các biên giới và lập một quốc gia huynh đệ duy nhất. 3. Tình yêu phải là nền tảng cho mọi tổ chức.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ami - Cậu Bé Của Các Vì Sao - Quyển 2 PDF của tác giả Enrique Barrios nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Quyển 11: Đức Vua Trần Nhân Tông Dạy Con Cách Giữ Nước, Tín Ngưỡng, Công Thức Giải Thoát... (Nguyễn Nhân)
MỤC LỤC 01. Lời giới thiệu 02. Giới thiệu buổi lễ truyền ngôi vua 03. Thái Tử Trần Anh Tông hỏi câu 1-2 04. Thái Tử Trần Anh Tông hỏi câu 3-8 Tìm mua: Quyển 11: Đức Vua Trần Nhân Tông Dạy Con Cách Giữ Nước, Tín Ngưỡng, Công Thức Giải Thoát... TiKi Lazada Shopee 05. Thái Tử Trần Anh Tông hỏi câu 9-10 06. Thái Tử Trần Anh Tông hỏi câu 11-23 07. Thái Tử Trần Anh Tông hỏi câu 24-44 08. Thái Tử Trần Anh Tông hỏi câu 45-81 09. Cụ Lê Trọng Chính, 75 tuổi, ở nội thành Thăng Long, Lời hứa nguyện với đức vua 10. Cụ Võ Quốc Trọng, 69 tuổi, ở Gia Lâm, Thăng Long, Kính chúc đức vua hoàn thành ý nguyện 11. Cụ Lê Khánh Truyền, 68 tuổi, ở Ninh Bình, hỏi Phật giới ở đâu trong tam giới này 12. Cụ Lý Trung Kiên, 78 tuổi, ở Quốc Oai, hỏi Thế nào là mê tín, chánh tín 13. Cụ Đinh Thành Phát, 76 tuổi, ở Phú Thọ, hỏi Phước đức và công đức lưu ở đâu 14. Cụ Lương Thành Đạt, 78 tuổi, ở Thái Bình, hỏi làm sao tạo Phước đức, Công đức và công dụng 15. Cụ Lý Chánh Trung, 69 tuổi, ở Nam Định, hỏi Ngôi vua và pháp môn Thiền tông, phần nào quý hơn 16. Cụ Nguyễn Chí Dân, 75 tuổi, ở Hải Dương, hỏi Ngoài đạo Phật có những nơi thờ phụng nào nữa 17. Cụ Trương Thế Hoành, 80 tuổi, ở Ninh Bình, hỏi Giết giặc có mang nghiệp sát sanh không 18. Cụ Lê Quốc Trang, 72 tuổi, ở Hưng Yên, hỏi Người tu Thiền tông có cầu xin hay lạy phật, gõ mõ tụng kinh không 19. Cụ Trịnh Đình Khang, 74 tuổi, ở Hà Đông, hỏi Tại sao vua lên núi Yên Tử, Kiến tánh, tại sao không cầu lạy 20. Cụ bà Trương Thị Hoa, 68 tuổi, ở nội thành Thăng Long, hỏi Chùa thờ ông Quan Thánh là chánh tín hay mê tín 21. Cụ ông Trịnh An Huy, 71 tuổi, ở Hà Tây, hỏi Hỏi về pháp môn Tịnh độ 22. Cụ ông Triệu Quốc Ánh, 69 tuổi, ở Gia Lâm, hỏi Hỏi về ngồi thiền "Biết vọng không theo" 23. Cụ ông Lê Trọng Nhàn, 68 tuổi, ở Hà Nam, hỏi Dẹp hết vọng tưởng là thành Phật có đúng không 24. Cụ ông Lương Quốc Cang, 77 tuổi, ở Ninh Bình, hỏi Thiền sư đúng nghĩa, giảng sư đúng nghĩa 25. Cụ ông Thái Hữu Dũng, 75 tuổi, ở Cô Loa, hỏi Tại sao chùa thỉnh quá nhiều tượng về thờ 26. Cụ ông Trịnh Văn Hữu, 78 tuôi, ở Hà Nam, hỏi Đem đạo khác vào chùa để kiếm tiền có bị phạt không 27. Cụ ông Cao Văn Phú, 71 tuổi, ở Hà Tây, hỏi Tu theo Thiền tông là tu làm sao 28. Cụ ông Lý Văn An, 73 tuổi, ở Hà Bắc, hỏi Vào chùa tu có giải thoát được không 29. Cụ ông Trương Văn Quí, 72 tuổi, ở Hải Dương, hỏi Tu thành phật, Đức Phật để tóc, Huyền Ký dạy gì, tại sao không cần lạy Phật nhiều 30. Cụ bà Lê Thị Ánh, 75 tuổi, ở Hà Đông, hỏi không cần tu pháp môn Thiền Tông 31. Cụ bà Lê Thị Liên, 68 tuổi, ở Hà Nam, hỏi Hỏi kinh Kim cang 32. Cụ bà Cao Thị Tuyền, 69 tuổi, ở Hà Bắc, hỏi Tu Thiền tông hàng ngày phải làm những việc gì 33. Đức vua Trần Nhân Tông dạy căn bản của đạo Phật 34. Đức vua Trần Nhân Tông dạy các phần tuyệt mật của Đức Phật truyền theo dòng Thiền TôngDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Nhân":Quyển 1: Tu Theo Pháp Môn Nào Của Đạo Phật Dễ Giác NgộQuyển 2: Những Câu Hỏi Về Thiền Tông - Tập 1Quyển 3: Hành Đúng Lời Đức Phật Dạy Chắc Chắn Được Giải ThoátQuyển 4: Những Câu Hỏi Về Thiền Tông - Tập 2Quyển 5: Khai Thị Thiền TôngQuyển 6: Huyền Ký Của Đức Phật Và Những Vị Ngộ ThiềnQuyển 7: Đức Phật Dạy Tu Thiền Và Công Thức Giải ThoátQuyển 9: Sách Trắng Thiền TôngQuyển 10: Huyền Ký Của Đức Phật Truyền Theo Dòng Thiền TôngQuyển 8: Cuộc Đời Và Ngộ Đạo Của 36 Vị Tổ Sư Thiền TôngQuyển 11: Đức Vua Trần Nhân Tông Dạy Con Cách Giữ Nước, Tín Ngưỡng, Công Thức Giải Thoát...Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Quyển 11: Đức Vua Trần Nhân Tông Dạy Con Cách Giữ Nước, Tín Ngưỡng, Công Thức Giải Thoát... PDF của tác giả Nguyễn Nhân nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.