Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Viên Nhộng Xanh

Vụ án viên nhộng xanh là một trong các tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng nhất của John Dickson Carr. Trong tác phẩm, Marcus Chesney – chủ sở hữu những nhà kính trồng đào tại Sodbury Cross – đã bị đầu độc chết trong một màn trình diễn do chính mình sắp đặt. Khi ấy, Marcus đang dùng một loạt bẫy tâm lí để chứng minh lập luận: nhân chứng không thể kể lại chính xác những điều đã xảy ra ngay trước mắt mình. Và tệ thay, ông đã đúng. Tất cả các nhân chứng đều mục kích vụ sát nhân nhưng dường như họ đều đang đeo một cặp kính đen, mọi thứ đều bị che phủ và lừa mị. Thấy vậy nhưng không hẳn là vậy, nghe thế nhưng chưa chắc là thế. Nhân chứng bị bưng tai bịt mắt bằng các bẫy gài liên hoàn dù cho họ vẫn mở mắt lắng tai. Qua Vụ án viên nhộng xanh, John Dickson Carr không chỉ dẫn dắt người đọc vào ma trận của những lời khai không trùng khớp mà còn nêu bật được một lập luận mới mẻ về giá trị của các nhân chứng trong làng văn trinh thám. *** Câu chuyện bắt đầu, theo trí nhớ của người đàn ông, trong một căn nhà ở thành phố cổ Pompeii. Anh ta không bao giờ quên được buổi chiều yên tĩnh, nóng bức đó, khi những giọng nói tiếng Anh phá vỡ sự tĩnh mịch của “Con Đường Hầm Mộ”. Vạt trúc đào nở hoa đỏ rực trong khu vườn đổ nát, và cô gái mặc váy trắng đứng im lìm giữa nhóm người đeo kính râm, trông như thể bị bao quanh bởi những chiếc mặt nạ. Người đàn ông nhìn thấy quang cảnh trên đã đến Napoli công tác được một tuần. Công việc anh ta cần làm ở Napoli không hề liên quan đến chuyện này. Nhưng công việc đó chiếm hầu hết thời gian của anh, và mãi đến buổi chiều thứ hai, ngày 19 tháng Chín, anh mới thư thả được đôi chút. Tối ấy người đàn ông này dự định sẽ đến Rome, và rồi bay qua Paris và về đến London. Chiều hôm đó anh đang ngắm cảnh trong tâm trạng thảnh thơi, và đối với anh quá khứ luôn có sức hút mãnh liệt không hề thua kém hiện tại. Đó là nguyên nhân tại sao, vào lúc yên tĩnh nhất trong ngày, dưới sự êm ả của ánh mặt trời rực rỡ, anh lại nhận ra mình đang đi trên Con Đường Hầm Mộ. Con Đường Hầm Mộ nằm bên ngoài những bức tường của thành Pompeii. Nó bắt đầu từ cổng Herculaneum và thoải xuống một ngọn đồi thấp, trông giống một cái máng xối lát gạch rộng với vỉa hè ở hai bên. Những cây bách mọc khắp chỗ và khiến con đường chết chóc này dường như có thêm phần sinh khí. Đây là nơi xây cất những hầm mộ của quý tộc La Mã, những bệ thờ thấp hai bên đường chưa đến mức hóa thành phế tích. Nghe tiếng chân mình vang vọng, người đàn ông mơ hồ có cảm giác mình như lạc vào một vùng đất bị quên lãng. Ánh nắng chói chang, nóng nực chiếu xuống những viên đá lát đường đã mòn võng vì bị không biết bao nhiêu bánh xe ngựa nghiến xuống, từ đám cỏ trồi lên từ các kẽ nứt, những con thằn lằn nâu nhỏ xíu phóng qua trước mắt anh ta nhanh như vệt ảnh tối màu. Phía trước anh ta, đằng sau những lăng mộ là ngọn núi Vesuvius mang màu xanh xỉn trong màn sương từ đất bốc lên vì thời tiết oi nồng, nhưng không quá gây ấn tượng với anh ta vì nó còn cách đây chừng năm, sáu dặm. Người đàn ông thấy ấm áp và hơi ngầy ngật buồn ngủ. Những con đường dài với những cửa tiệm chỉ còn trơ lại bốn bức tường này, những khoảnh sân hoa lệ điểm xuyết những hàng cột chống đây đó kia, tất cả đều tác động đáng ngại đến trí tưởng tượng của anh ta. Anh ta đã lang thang hơn một tiếng đồng hồ; và từ khi đặt chân vào thành phố cổ này, anh ta chưa hề thấy bóng dáng của bất cứ sinh vật sống nào, ngoại trừ một nhóm người bí ẩn đi cùng hướng dẫn viên thình lình xuất hiện ở cuối đường Vận Mệnh rồi biến mất một cách đầy ma quái giữa những tiếng rào rạo của đám đá nhỏ. Con Đường Hầm Mộ dần đưa anh đi tới cuối thành phố. Đang cân nhắc xem nên ngừng cuộc thăm thú và trở về, hay quay gót tiếp tục khám phá thêm, đột nhiên anh ta trông thấy một căn nhà nằm giữa những ngôi mộ. Ngôi nhà đó khá lớn, đúng kiểu trang viên ngoại ô biệt lập những quý tộc La Mã hay xây dựng hồi thành phố còn phồn thịnh. Anh ta bước lên bậc thềm và vào nhà. Khoảnh sân nhỏ trong nhà tối tăm và bốc mùi ẩm ướt, lại không được giữ gìn tốt như những ngôi nhà tôn tạo anh đã nhìn thấy. Nhưng phía bên kia khoảnh sân là khu vườn cảnh có những hàng cột đá trang trí bao quanh, tắm trong ánh mặt trời rực rỡ. Khu vườn khá um tùm, mọc đầy trúc đào nở hoa đỏ rực và xung quanh phế tích đài phun nước là những cây tùng châu Á. Đột nhiên anh nghe có tiếng sột soạt trên đám cỏ mọc cao, và những giọng nói tiếng Anh. Cạnh đài phun nước, một cô gái mặc đồ trắng đang đứng quay mặt về phía anh ta. Và anh ta thấy cô ấy không chỉ đẹp mà còn có nét thông minh lanh lợi. Mái tóc nâu sẫm được rẽ đôi và vén ra sau tai, tạo thành những lọn xoăn nhỏ buông lơi qua gáy. Cô có khuôn mặt trái xoan, đôi môi nhỏ, căng mọng, và đôi mắt to thể hiện nét giễu cợt bất chấp gương mặt đang nghiêm nghị. Đôi mắt cô mang sắc xám, với mí mắt hơi dày và mang nét suy tư. Tư thế tạo dáng của cô rất đơn giản, chỉ vu vơ xòe vạt váy. Nhưng rõ ràng cô gái đang rất căng thẳng, chỉ cần nhìn vòng cung lông mày của cô là biết. Đối diện với cô gái là một chàng trai trẻ tóc đen mặc bộ vét vải nỉ xám, đang cầm chiếc máy quay và dán mắt vào ống ngắm. Chiếc máy quay bắt đầu kêu xè xè và phát ra tiếng lách cách nho nhỏ. Với má tì vào một bên máy, chàng trai trẻ nói với cô gái qua khóe miệng. “Này, em làm gì đi chứ!” Anh chàng thúc giục. “Mỉm cười, cúi đầu hay châm thuốc hoặc gì cũng được, nhưng hãy làm gì đó! Nếu em chỉ đứng yên đấy thì có khác gì chụp ảnh đâu.” “Nhưng, George, em biết làm gì bây giờ?” “Anh vừa nói với em còn gì. Mỉm cười hay cúi đầu hoặc… ” Rõ ràng cô gái đang bị ảnh hưởng bởi Hội chứng Tự ý thức, điều mà mọi người thường mắc phải khi họ biết rõ máy quay sẽ ghi lại bất cứ chuyển động nào trên cơ thể mình. Lúc đầu khuôn mặt cô có vẻ cực kì lo lắng, sau đó cô xoay xở để mỉm cười với vẻ hối lỗi. Cô nhấc chiếc túi xách màu trắng của mình lên và ve vẩy nó trong không khí. Sau đó cô ngó quanh tìm cơ hội lảng đi, và cuối cùng quyết định nhìn thẳng về hướng chiếc máy quay rồi cười lớn. “Chúng ta đang sử dụng hết phim rồi,” chàng trai rên lên, cứ như một nhà sản xuất phim. Người quan sát đứng ở cửa ra vào, cách nhóm người trong khu vườn khoảng hơn chục bước chân, bỗng nhiên tin chắc rằng cô gái này đang ở trong tình trạng căng thẳng đầu óc nguy hiểm, rằng cô ấy chỉ giả vờ khỏe mạnh; và rằng chiếc máy quay phim nhỏ đứng yên một chỗ không ngừng kêu lách cách đang bắt đầu ảnh hưởng đến cô, tựa như cơn ác mộng kinh hoàng có một con mắt cứ nhìn mình chằm chằm. “Sao, em có thể làm gì được?” “Đi dạo xung quanh, hoặc làm gì đó chẳng hạn. Di chuyển qua đó, đến bên phải. Anh muốn quay được những cây cột trụ đằng sau em.” Một thành viên khác trong nhóm, người đã đứng chống nạnh quan sát mọi chuyện nãy giờ, bật ra một tiếng khịt mũi. Đó là một người đàn ông nhỏ bé có vẻ lanh lợi và chiếc kính đen đang đeo giúp che đậy sự thật rằng ông già hơn rất nhiều so với bộ quần áo nghỉ mát đang mặc trên người. Bạn có thể thấy được điều đó qua làn da nhăn nheo chảy xệ dọc quai hàm, và qua đuôi tóc lốm đốm bạc dưới vành mũ cói sụp xuống trên đầu ông. “Hời hợt!” ông ta nói với vẻ khinh miệt. “Đó là thứ cậu đang cố làm: một kẻ hời hợt. Cậu muốn quay những cây cột sau lưng con bé, hả? Cậu không muốn có hình ảnh của Marjorie. Cậu thậm chí cũng không muốn có hình ảnh ngôi nhà cổ ở Pompeii. Thứ cậu muốn chỉ là hình ảnh Marjorie trước một căn nhà Pompeii, để chứng tỏ mình từng ở đó. Tôi cho rằng điều đó thật kinh tởm.” “Như vậy thì có gì sai?” Một giọng nói vang như sấm phát ra. Giọng nói đó là của một người đàn ông cao lớn và vạm vỡ có bộ râu hoe đỏ, người đứng đối diện cặp đôi đang bị mắng. “Thì hời hợt chứ sao,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Em hoàn toàn không đồng ý với anh,” người đàn ông vạm vỡ đáp lời. “Và em cũng chẳng hiểu nổi thái độ của anh, Marcus. Cứ mỗi lần chúng ta đến được nơi nào đó có vài cảnh đẹp, anh lại muốn tránh xa chúng ra (nếu em hiểu đúng) chỉ bởi vì đó là địa điểm tham quan. Vậy chúng ta chỉ được tìm hiểu về địa ngục thôi chắc,” ông ta gầm lên giữa khu vườn, “hay là anh thích đến nơi không có mấy địa điểm ngắm cảnh hơn? Anh phản đối việc hàng ngàn người tìm đến chỉ để nhìn thấy những quang cảnh đó. Nhưng có bao giờ anh nghĩ rằng, nếu hàng ngàn người đến đây chỉ để nhìn tận mắt một địa điểm hàng nghìn năm lịch sử, thì có thể là do nó có thứ gì đó đáng xem không?” “Ăn nói cho cẩn thận,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Và dừng ngay trò la hét đi. Cậu không hiểu, và sẽ không bao giờ hiểu được. Chẳng hạn như, cậu đã thấy được gì? Hoặc là, cậu có biết bây giờ chúng ta đang ở đâu không?” “Dễ ợt,” người kia nói. “Anh bạn trẻ, chỗ này là chỗ nào?” Người đàn ông vạm vỡ quay sang hỏi chàng thanh niên trẻ đang cầm máy quay phim. Người này đã miễn cưỡng dừng việc chụp hình cô gái lại, bây giờ cô ấy đang cười to một cách thoải mái. Anh ta cất máy quay vào chiếc túi đeo vai, sau đó rút từ trong túi áo ra một cuốn sách hướng dẫn du lịch và cần mẫn lật qua lật lại các trang. Sau đó anh ta hắng giọng. “Số ba mươi bốn, hai sao. Trang viên của Arrius Diomedes,” anh ta đọc với vẻ xúc động sâu sắc. “Ngôi nhà có tên gọi đó bởi vì…” “Vớ vẩn,” người đàn ông vạm vỡ lên tiếng. “Chúng ta vừa tham quan cái nhà đó mười phút trước. Chỗ họ tìm thấy mấy bộ xương ấy.” “Những bộ xương nào?” Cô gái phản đối. “Chúng ta có thấy bộ xương nào đâu, bác sĩ Joe.” Sau cặp kính râm tối màu, khuôn mặt của người đàn ông vạm vỡ dường như đang bốc hỏa. “Tôi không nói chúng ta đã nhìn thấy những bộ xương,” ông ta đáp, điều chỉnh lại chiếc mũ bằng vải tuýt trên đầu. “Tôi chỉ nói đó là nơi người ta tìm thấy mấy bộ xương. Chỗ ngay dưới đường ấy, cô không nhớ à? Tro nóng từ núi lửa nhốt những người nô lệ ở trong, sau đó các nhà khảo cổ tìm thấy họ, la liệt khắp sàn nhà như những bộ ki trên sân bowling. Ngôi nhà có những cây cột sơn màu xanh lá cây đó.” Người đàn ông già nhỏ con, lanh lợi đội mũ cói khoanh tay lại. Trong một thoáng, khuôn mặt ông ta thoáng lên vẻ ác ý rõ ràng. “Có thể thú vị với cậu, Joe, nhưng họ thì không.” “Không cái gì?” bác sĩ Joe gặng hỏi. “Không hứng thú với căn nhà xanh lá bạc màu. Hết lần này đến lần khác tôi đã chứng minh cho luận điểm của mình,” người đàn ông nhỏ con tiếp tục nói, “rằng những con người bình thường, như cậu – hay cậu ta, hoặc con bé – hoàn toàn không thể thuật lại chính xác những điều đã nhìn hay nghe được. Cậu không quan sát. Chính xác hơn là cậu không thể quan sát. Nhỉ, giáo sư?” Ông ta quay đầu lại và liếc nhìn về phía sau. Nhóm này còn hai người đàn ông khác nữa, và họ đang đứng ngay trong bóng râm của những mái hiên, đằng sau hàng cột bao quanh khu vườn. Người quan sát hầu như không ý thức được sự tồn tại của họ; anh không nhìn được họ rõ như những người đang đứng dưới ánh sáng mặt trời kia. Anh chỉ nhận thấy một người trạc trung niên, còn người kia trẻ. Họ đang dùng kính lúp nghiên cứu một khối đá hay mảnh dung nham nào đó, có vẻ như họ đã nhặt được nó từ hàng lan can nối những cây cột. Cả hai đều đang đeo kính râm đen. “Đừng quan tâm đến trang viên của Arrius Diomedes nữa,” một giọng nói vang lên từ bên trong lan can. “Căn nhà này là của ai thế?” “Giờ cháu đang tìm đây,” người thanh niên trẻ với máy quay phim và cuốn sách hướng dẫn du lịch tìm kiếm một cách nhiệt tình. “Hồi nãy cháu lật sai trang. Đây là số ba chín, đúng không? Đúng vậy. Đây rồi. Số ba mươi chín, ba sao. Nhà của kẻ đầu độc Aulus Lepidus.” Xung quanh bỗng nhiên trở nên cực kì yên lặng. Cho đến lúc này, đám người trông có vẻ giống một gia đình – hoặc – một nhóm bạn, với những thành viên lớn tuổi nóng tính có chút bực bội bởi ảnh hưởng của thời tiết hoặc sự mệt mỏi của chuyến đi. Nếu đây là một gia đình, theo thái độ mà họ nói chuyện với nhau, có thể suy ra rằng bác sĩ Joe và người đàn ông nhỏ con đội mũ cói (tên là Marcus) là hai anh em. Cô gái được gọi là Marjorie cũng có thể có quan hệ họ hàng với hai người đó. Không ngạc nhiên lắm. Tuy nhiên, khi những từ ngữ trong cuốn sổ hướng dẫn du lịch được đọc lớn lên, rõ ràng không khí giữa họ bỗng trở nên lạnh lẽo và u ám hơn cái sân này rất nhiều. Chỉ có chàng trai trẻ cầm cuốn sách là không ý thức được điều đó. Mọi người còn lại thì đều quay đầu nhìn quanh; và sau đó hướng về cùng một chỗ. Bốn cặp mắt kính đen nhìn thẳng về hướng cô gái, mặc dù cô đứng ngay chính giữa mọi người. Ánh sáng mặt trời lia trên bề mặt những cặp kính, khiến chúng có vẻ tối tăm và hung hãn như những chiếc mặt nạ. Bác sĩ Joe khó khăn lên tiếng: “Nhà của ai cơ?” “Kẻ đầu độc,” chàng trai trẻ nói. “Bằng hình thanh kiếm và cây liễu lột vỏ (‘lepidus’ nghĩa là ‘tước vỏ’ ‘làm bóng’, nghĩa củ là ‘dí dỏm’ hoặc là ‘dễ chịu’) nằm trên vỉa hè lát đá ghép mảnh, Mommsen đã xác định trang viên này thuộc quyền sở hữu của…” “Biết rồi, nhưng mà ông ta đã làm gì?” “… người, theo Varro, đã giết năm thành viên của gia đình mình bằng cách cố ý bỏ thuốc độc vào món súp nấm,” chàng trai trẻ tiếp tục. Anh ta ngẩng đầu nhìn xung quanh với vẻ hứng thú, như thể mong được thấy các thi thể vẫn đang nằm ở đâu đó. “Ngay tại đây, điều này hay ho đây!” Cậu ta nói thêm. “Cháu nghĩ thời đó việc đầu độc hàng loạt diễn ra khá dễ dàng.” Và sau đó, người thanh niên đột nhiên biết rằng có điều gì đó không đúng đang xảy ra; lông tơ sau gáy anh ta dường như dựng đứng hết cả lên. Anh ta gập cuốn sách lại và nhẹ giọng hỏi. “Có vẻ như,” anh ta buột miệng nói. “Có vẻ như, cháu đã nói điều gì đó không phải sao?” “Dĩ nhiên là không,” Marjorie trả lời với vẻ điềm tĩnh tuyệt vời. “Ngoài ra, sở thích của bác Marcus là nghiên cứu về các tội ác. Đúng không ạ?” “Đúng vậy,” bác Marcus gật đầu. Ông quay sang nói với chàng trai trẻ. “Nói cho tôi biết, cậu… gì nhỉ, tôi cứ quên tên cậu hoài?” “Bác biết rõ tên anh ấy mà,” Marjorie la lên. Nhìn vào sự kính trọng thái quá mà chàng thanh niên dành cho Marcus, người quan sát có thể nhận ra Marcus không chỉ là bác của Marjorie, ông ấy hành động như cha mẹ của cô vậy. “Harding, thưa bác. George Harding,” chàng trai trả lời. “A, đúng rồi. Giờ thì, cậu Harding, nói cho tôi biết, cậu từng nghe đến một nơi gọi là Sodbury Cross, gần Bath bao giờ chưa?” “Không, thưa bác. Sao bác lại hỏi thế?” “Chúng tôi đến từ nơi đó,” Marcus nói. Ông ta thoăn thoắt bước đi và ngồi xuống mép đài phun nước với tư thế như thể đang chuẩn bị đọc một bài diễn văn dài. Ông bỏ cả mũ và kính mát xuống rồi đặt chúng nằm thăng bằng trên đầu gối mình. Việc tháo bỏ phụ kiện che mặt giúp người quan sát nhận ra Marcus có một mái tóc xám thẳng trông như bướu lạc đà, có lẽ sáu mươi năm chải đầu cũng không thể khuất phục được mái tóc đó. Đôi mắt xanh của ông rất sáng sủa, thông minh và ác ý. Thỉnh thoảng, ông ta lại dùng tay chà xát làn da nhăn nheo ở quai hàm mình. “Giờ, cậu Harding,” ông tiếp tục, “chúng ta hãy đối mặt với sự thật này. Tôi giả sử như mối quan hệ giữa cậu và Marjorie không chỉ là loại tán tỉnh bất chợt trên tàu. Tôi giả sử là cả hai đứa đều nghiêm túc, hoặc hai đứa đều nghĩ là mình nghiêm túc.” Có một sự thay đổi khác nữa lại diễn ra trong nhóm người. Sự thay đổi đó cũng ảnh hưởng đến hai người đàn ông đứng cạnh những cây cột bao quanh khu vườn. Một trong số họ (người quan sát nhận thấy) là một người đàn ông trung niên có vẻ ngoài vui vẻ với chiếc đầu hói và có đội mũ phớt. Mắt ông cũng bị kính râm che mất, nhưng khuôn mặt ông thì tròn đầy và hồng hào ưa nhìn. Ông hắng giọng. “Tôi nghĩ,” ông ấy nói, “nếu mọi người thứ lỗi, tôi sẽ đi xuống phía sau và… ” Người đứng cạnh ông ta, một chàng trai trẻ tuổi có khuôn mặt không mấy ưa nhìn, quay đi và bắt đầu tế nhị lờ đi nghiên cứu nội thất ngôi nhà. Marcus nhìn hai người bọn họ. “Vớ vẩn,” ông quả quyết nói. “Có thể các anh không phải là thành viên của gia đình này, cả hai người. Nhưng hai người đều biết những gì chúng tôi biết, vậy nên cứ ở yên đó. Và dừng ngay kiểu tế nhị quái quỷ đó đi.” Cô gái khẽ hỏi. “Bác Marcus, bác có nghĩ đây là chỗ để nói chuyện đó ra?” “Có, cháu yêu.” “Hoàn toàn chính xác,” bác sĩ Joe mạnh mẽ đồng ý. Ông đưa ra một cái nhìn lạnh lùng, nghiêm túc và tỏ vẻ quan trọng. “Lần đầu tiên trong đời, Marcus – đã hoàn toàn đúng.” George Harding tỏ vẻ dũng cảm một cách lạnh lùng, nghiêm túc. “Thưa bác, cháu chỉ có thể đảm bảo rằng…” chàng trai nói với vẻ mạnh mẽ. “Ừ, biết rồi, tôi biết hết mà.” Marcus nói. “Và làm ơn đừng có làm khuôn mặt đáng xấu hổ như vậy. Chẳng có gì bất thường hết. Mọi người đều cưới nhau đấy thôi, và họ đều biết phải làm gì khi kết hôn, và tôi tin tưởng cả hai đứa. Giờ thì, cuộc hôn nhân này có diễn ra hay không hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của tôi.” “Và của tôi nữa,” bác sĩ Joe cứng rắn nói. “Đương nhiên rồi,” Marcus lên tiếng với vẻ hơi bực mình. “Và em trai tôi, dĩ nhiên. Chúng tôi mới biết cậu được một tháng hoặc cỡ đó, chỉ trong chuyến du lịch này. Ngay khi cậu bắt đầu hẹn hò với cháu gái tôi, tôi đã lập tức gửi điện tín cho luật sư để hỏi về tất cả các thông tin của cậu. Chà, cậu có vẻ cũng được. Thành tích học tập tốt, và tôi cũng không phàn nàn gì về việc cậu là trẻ mồ côi và không có gia sản…” George Harding bắt đầu giải thích gì đó, nhưng Marcus ngắt lời anh chàng. “Rồi, rồi. Tôi biết toàn bộ cái quy trình sản xuất hóa chất của cậu, thứ có thể tạo ra cả một gia tài hay đại loại thế. Nếu cả hai đứa quyết định sống dựa vào nó thì hai đứa nên biết rằng tôi sẽ không đời nào đầu tư vào đó lấy một cắc đâu. Tôi cũng không mấy quan tâm đến cái gọi là ‘quy trình mới’, tôi ghét cay ghét đắng các quy trình mới, đặc biệt là trong ngành hóa học. Chúng tôn vinh bộ não của những kẻ ngốc và khiến tôi phát ngấy vì sự non nớt. Nhưng có lẽ cậu sẽ vẫn thu được gì đó. Nếu làm việc nghiêm túc và chăm chỉ, cậu sẽ kiếm đủ sống, và có lẽ sẽ kiếm được thêm một chút từ Marjorie. Cậu đã hiểu chưa?” George lại bắt đầu giải thích gì đó nữa. Lần này thì chính Marjorie là người ngắt lời anh ta. Khuôn mặt cô hơi hồng lên, nhưng đôi mắt của Marjorie rất thẳng thắn và cho thấy sự điềm tĩnh tuyệt vời. “Anh chỉ nên trả lời ‘vâng’ thôi,” cô khuyên. “Đó là tất cả những gì anh được phép nói.” Người đàn ông hói đầu đội mũ phớt đang đứng dựa khuỷu tay vào lan can và hơi cau mày khi lắng nghe cuộc trò chuyện, giờ đây bỗng vẫy tay như thể cố thu hút sự chú ý của giáo viên trong lớp học. “Chỉ một chút thôi, Marcus,” ông ta ngắt lời. “Anh đã yêu cầu Wilbur và tôi có mặt trong cuộc trò chuyện này, mặc dù chúng tôi không phải thành viên gia đình. Vậy nên hãy để tôi nói điều này. Có cần thiết phải thẩm vấn chàng trai kia như thể cậu ta là…” Marcus nhìn ông ấy. “Tôi ước,” Marcus nói, “một số người sẽ loại bỏ được quan niệm ngớ ngẩn rằng bất cứ dạng câu hỏi nào cũng đều là ‘thẩm vấn’ cả. Hình như mọi tiểu thuyết gia đều có quan điểm như vậy. Kể cả anh nữa, giáo sư, dường như chính anh cũng thế. Điều đó khiến tôi bực mình đấy. Tôi chỉ đang kiểm tra cậu Harding mà thôi. Chuyện đó không rõ ràng à?” “Đúng ạ,” George nói. “Ồ, thế thì tốt,” vị giáo sư hòa nhã. Marcus dịch người ngồi cách xa chiếc đài phun nước nhất có thể để không bị ngã nhào vào đó. Biểu cảm trên khuôn mặt ông trông hòa dịu hơn nhiều. “Bởi vì cậu đã hiểu hết điều đó,” ông tiếp tục nói với giọng hơi khác hồi nãy, “bước tiếp theo là cậu cần biết về gia đình chúng tôi. Marjorie đã kể gì cho cậu nghe chưa? Tôi nghĩ là chưa. Nếu cậu nghĩ chúng tôi là những thành viên giàu có nhàn rỗi thích dạo bộ, những người quen với việc nghỉ mát suốt ba tháng tại thời điểm này trong năm, thì ném chúng ra khỏi đầu ngay cho tôi. Đúng là tôi giàu có thật, nhưng tôi không rảnh rỗi và cũng hiếm khi nào đi tản bộ. Những người khác cũng vậy, tôi biết rõ điều đó. Tôi làm việc, và mặc dù tôi xem bản thân mình là một học giả chứ không phải doanh nhân, tôi cũng không phải một người kinh doanh tồi. Em trai tôi là một bác sĩ đa khoa làm việc ở Sodbury Cross. Nó cũng làm việc, bất chấp tính cách lười biếng của mình. Tôi cũng biết rõ điều đó. Nó không phải một bác sĩ giỏi, nhưng mọi người đều thích nó.” Khuôn mặt dưới cặp kính đen của bác sĩ Joe dường như đang bốc hỏa.   Mời các bạn đón đọc Vụ Án Viên Nhộng Xanh của tác giả John Dickson Carr.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Truy Tìm Sự Thật
Trong cuốn truyện trinh thám tuyệt vời tầm cỡ toàn cầu này, cuộc đời của những nhân vật trên sẽ tác động trực tiếp với nhau, một loạt sự kiện được sắp đặt theo chiều hướng có thể làm thay đổi thế giới. Một câu chuyện utterly spellbinding có vẻ như quá thật, The Whole Truth đem lại những nút và mở, những diễn biến tâm lý, các nhân vật không thể quên, cùng với nhịp truyện khiến người đọc không thể bỏ sách xuống. Điều các độc giả luôn thấy ở David Baldacci là những điểm vượt xa bất kỳ tác phẩm nào tác giả đã viết cho tới thời điểm này. *** - “Truy tìm sự thật là một cuốn truyện trinh thám hay, hấp dẫn. Một khi cầm nó lên, hãy chắc chắn rằng bạn có nhiều thời gian rỗi bởi bạn sẽ chẳng muốn bỏ nó xuống để làm bất kỳ việc gì khác như ăn hay ngủ - The Gazette - “Có lẽ đây là một trong những cuốn hay nhất của Baldacci. Phối hợp các nhân vật thú vị và các sự kiện phổ biến với những nút, diễn biến bất ngờ và các chương ngắn, kết quả là một tác phẩm tuyệt vời đọc giải trí trong mùa hè. Hơn nữa Truy tìm sự thật hàm chứa một thông điệp về việc phát tán những thông tin sai sự thật. Điều này khiến cho mỗi chúng ta ngừng lại và suy ngẫm xem một số sự kiện gần đây đã ảnh hưởng thế nào tới cuộc sống của chúng ta thế nào, có lẽ tới cả việc chúng ta đến với sự thật” – Themysteryreader.com - “Đây là cuốn trinh thám hay nhất tôi từng đọc trong một quá trình rất dài, một cuốn tiểu thuyết hành động sẽ khiến bạn phải suy nghĩ rất kỳ trước khi thêm một lần chấp nhận bất cứ thứ gì bạn đọc trên mạng Internet hay ở bất kỳ nơi nào khác như Truy tìm sự thật – Joan Johnston. *** David Baldacci là tác giả của mười bốn cuốn tiểu thuyết liên tục được Thời báo New York bình chọn là sách bán chạy nhất. Sách của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và có mặt trên 80 quốc gia với hơn 65 triệu bản, là một trong những cây viết được yêu thích nhất thế giới. Cùng với vợ, David Baldacci còn là người đồng sáng lập Quỹ Wish You Well - một tổ chức phi lợi nhuận hỗ trợ các hoạt động văn học ở khu vực châu Mỹ. Hiện David Baldacci vẫn sống ở quê hương ông bang Virginia.      *** Tóm tắt: Truy Tìm Sự Thật là một cuốn tiểu thuyết trinh thám của tác giả David Baldacci. Câu chuyện kể về ba nhân vật chính: Jack Graham: Một luật sư trẻ, đang làm việc cho một công ty luật lớn ở Washington, D.C. Anh ta được giao nhiệm vụ bảo vệ một người đàn ông bị buộc tội giết vợ. Samantha Kofer: Một luật sư bào chữa, đang làm việc cho một tổ chức phi lợi nhuận chuyên giúp đỡ những người vô tội. Cô được thuê để giúp Jack Graham trong vụ án. Elena Logan: Một phóng viên điều tra, đang điều tra về một vụ ám sát chính trị. Cô phát hiện ra rằng vụ án có liên quan đến vụ án mà Jack Graham đang tham gia. Cuộc đời của ba nhân vật trên sẽ tác động trực tiếp với nhau, một loạt sự kiện được sắp đặt theo chiều hướng có thể làm thay đổi thế giới. Review: Truy Tìm Sự Thật là một cuốn tiểu thuyết trinh thám hấp dẫn và lôi cuốn. Tác phẩm có nhiều tình tiết kịch tính và bất ngờ, khiến người đọc không thể rời mắt. Nhân vật: Jack Graham: Một nhân vật chính hấp dẫn và đáng nhớ. Anh ta là một luật sư trẻ, tài năng và nhiệt huyết, nhưng cũng phải đối mặt với nhiều thử thách trong cuộc sống. Samantha Kofer: Một nhân vật phức tạp và đáng đồng cảm. Cô là một luật sư giỏi, nhưng cũng có những bí mật mà cô phải che giấu. Elena Logan: Một nhân vật kiên định và dũng cảm. Cô là một phóng viên điều tra, sẵn sàng làm bất cứ điều gì để tìm ra sự thật. Cốt truyện: Cốt truyện của Truy Tìm Sự Thật được xây dựng rất chặt chẽ và hấp dẫn. Tác phẩm có nhiều tình tiết kịch tính và bất ngờ, khiến người đọc không thể rời mắt. Đánh giá: Truy Tìm Sự Thật là một cuốn tiểu thuyết xuất sắc, xứng đáng là một trong những tác phẩm kinh điển của thể loại trinh thám. Điểm cộng: Nhân vật được xây dựng tốt, có chiều sâu và tính cách phức tạp. Cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn và có nhiều tình tiết bất ngờ. Thể hiện rõ ràng những mâu thuẫn giữa thiện và ác. Điểm trừ: Một số tình tiết hơi phi logic, khiến người đọc cảm thấy khó hiểu. Kết luận: Truy Tìm Sự Thật là một cuốn tiểu thuyết đáng đọc cho những ai yêu thích thể loại trinh thám. *** Vào đúng 0 giờ (giờ quốc tế), hình ảnh một người đàn ông bị tra tấn được tung lên trang web nổi tiếng nhất thế giới. Bất kỳ ai từng nghe sẽ không bao giờ quên sáu từ đầu tiên phát ra từ miệng người đàn ông này. “Tôi đã chết. Tôi bị giết”. Người đàn ông nói tiếng Nga nhưng chỉ cần bấm một nút, người xem có thể đọc nội dung câu chuyện khủng khiếp được thuật lại phía dưới màn hình, hầu như bằng bất kỳ ngôn ngữ nào họ muốn, cảnh sát mật của Nga đã khiến anh và gia đình "thú nhận" tội phản quốc nhờ phương pháp tra tấn. Nhưng anh ta đã trốn thoát và làm ra đoạn băng kém chất lượng này. Dù có là ai, người cầm camera hoặc phải sợ chết khiếp, hoặc say rượu, hoặc cả hai, bởi cứ vài giây đoạn phim đầy vệt nhiễu lại lắc và rung bần bật. Người đàn ông nói rằng nếu đoạn phim được tung ra, điều đó có nghĩa là lũ ác ôn của chính phủ đã tóm lại được anh ta, nghĩa là anh ta đã chết. Tội của anh ta là gì ? Đơn giản là muốn tự do. "Có hàng vạn người giống tôi", anh nói với thế giới. "Xương của họ phủ dày mặt đất trơ trụi băng giá của vùng Siberia hay dưới làn nước sâu của hồ Balkhash ở Kazakhstan. Rồi các vị sẽ sớm được thấy. Những người khác sẽ tiếp tục cuộc đấu tranh mà bây giờ không có sự tham gia của tôi". Người đàn ông cảnh báo rằng trong lúc thế giới tập trung vào những tay Osama bin Laden  suốt một thời gian dài, những thế lực đen tối ngày trước – với sức huỷ diệt gấp cả triệu lần những quả đạn của khủng bố Hồi giáo cộng lại - rõ ràng đã trở lại và nguy hiểm hơn bao giờ hết. "Đã đến lúc thế giới biết toàn bộ sự thật', anh ta hét vào ống kính máy quay rồi bật khóc rưng rức. ... Mời các bạn đón đọc Truy Tìm Sự Thật của tác giả David Baldacci.
Mục Tiêu Thứ 6
Nằm trong series Women's Murder Club của James Patterson, sau các tác phẩm: Kẻ đầu tiên phải chết, Cơ hội thứ 2, Cấp độ 3, Kỵ sĩ thứ 5, Mục tiêu thứ 6 và Thiên đường thứ 7... *** Câu lạc bộ các nữ thám tử đối mặt với một vụ án kinh hoàng nhất từ trước đến nay. Một vụ nổ súng thảm sát làm chết nhiều người – trong đó một thành viên trong Câu lạc bộ các nữ thám tử là nạn nhận trực tiếp. Thanh tra Lindsay Boxer truy kích, đeo bám, điều tra từ manh mối này đến manh mối không hợp lý.  Trong khi trợ lý Công tố viên của Quận, Yuki Castellano chuẩn bị khởi kiện vụ án phức tạp này thì thành phố San Francisco rơi vào vòng kìm kẹp của loại tội phạm nguy hiểm khác. Trẻ em từ các gia đình giàu có bị bắt cóc. Nhưng những kẻ bắt cóc im lặng đến đáng sợ - không gửi thông điệp, không yêu cầu tiền chuộc. Giờ thì với nỗi sợ hãi lan nhanh và phủ trùm lên toàn thành phố, Lindsay phải làm việc không nghỉ để xâu chuỗi và phá các vụ án kinh hoàng ngày càng sớm càng tốt.. *** Những lời khen tặng dành cho bộ tiểu thuyết Câu lạc bộ các nữ thám tử của James Patterson “Không còn cuốn nào hay hơn nữa - hãy nhanh chân đến hiệu sách gần nhất và mua ngay quyển MỤC TIÊU THỨ 6.” - NightstandWeekends.com “Patterson một lần nữa chứng mỉnh rằng mình là một tác giả vĩ đại, ngườỉ có thể chuyển tải một câu chuyện có tiết tấu nhanh, có thể gỉữ mắt người đọc đi hết chiều dài câu chuyện mà không thây chán.” - ReviewingtheEviden.com.  “Patterson và Paetro truyền sự háo hức, say mê đọc sách bằng mạch truyện lôi cuốn hấp dẫn và đầy bất ngờ cho đến trang cuối của sách. Tôi luôn muốn thả mình say sưa theo dõi câu chuyện về Câu lạc bộ các nữ thám tử và trông đợi những bất ngờ thú vị của cuộc phiêu lưu thứ bảy đang chờ đợi họ phía trước”. - BookLoons.com “Một công trình đã ấn tượng giờ lại càng ân tượng và nổi bật hơn”. - ArmchairInterview.com “Kích thích người đọc đến giây phút cuối cùng - điều mà chỉ có Patterson có thể làm được mà thôi”. - EdgeMiami.com “Cốt truyện và kịch tính của quyển sách vẫn còn đọng lại trong tôi và tôi hồi hộp chờ đợi quyển kế tiếp trong bộ sêri này. Tôi sẽ giới thiệu nó với những người yêu thích truyện trinh thám và người hâm mộ các cảnh sát viên của sở cảnh sát San Francisco và những nhân vật nữ đầy cá tính . - ReaderView.com *** Sát thủ đang tìm con mồi, Fred Brinkley, ngồi sụp xuống chiếc ghế dài bọc vải màu xanh nằm trên boong thượng. Mặt trời tháng 11 chói lòa rọi xuống như một con mắt trắng to đùng khi chiếc phà rẽ sóng phăng phăng trên vịnh San Francisco, và Fred Brinkley đang nhìn trừng trừng thách thức ánh mặt trời. Một cái bóng đổ qua người hắn, rồi tiếng một đứa bé cất lên: “Chú ơi, chú có thể chụp hình giúp cháu được không ?” Fred lắc đầu quầy quậy - thôi, thôi, thôi đi - cơn giận dữ của hắn giống như đồng hồ lên dây cót, giống như một sợi dây siết chặt ngang đầu hắn vậy. Hắn muốn đập đứa bé như một con rệp. Fred ngoảnh mặt đi, hát thầm trong miệng, ay, ay, ay, ay, sau-sa-lito-lindo, cố giảm âm lượng giọng hát xuống. Hắn đưa tay sờ vào Bucky để trấn an mình, rúc vào cái áo khoác mỏng màu xanh như muốn quên đi mọi thứ xung quanh, nhưng những tiếng nói ấy vẫn vang lên như tiếng búa nện vào óc hắn. Đồ tồi tệ. Bẩn thỉu. Đàn hải âu xuất hiện, kêu lớn như tiếng trẻ con nô đùa. Trên đầu, mặt trời vẫn rọi xuyên qua bầu trời u ám và khiến hắn trong suốt như một mảnh kính. Chúng biết hắn đã làm gì. Hành khách trong trang phục quần soóc và mũ lưỡi trai đứng thành hàng dài dọc theo lan can tàu, chụp lấy chụp để Đảo Thiên Thần, đảo Alcatraz và Cầu Kim Môn. Một chiếc thuyền buồm lướt qua, chiếc thuyền với hai cánh buồm giương cao căng gió, làm hất tung bọt biển trắng xóa lên lan can tàu, Fred nghiêng ngả cùng lúc một dự cảm xấu xuất hiện trong tâm trí hắn. Hắn thấy cái sào đung đưa. Một tiếng vỡ lớn. Trời đất ! Chiếc thuyền quái quỷ đó ! ... Mời các bạn đón đọc Mục Tiêu Thứ 6 của 2 tác giả James Patterson & Maxine Paetro.
Trâm 4: Chim Liền Cành - Châu Văn Văn
Vụ án gia đình đã sáng tỏ, "tiểu thái giám" Dương Sùng Cổ đã quang minh chính đại lấy lại tên Hoàng Tử Hà, nhưng kèm theo đó là danh phận cô không hề mong muốn: vị hôn thê của Vương Uẩn. Mối quan hệ giữa ba người Hoàng Tử Hà - Lý Thư Bạch - Vương Uẩn bỗng trở nên khó xử lạ lùng. Cùng lúc thế lực giấu mặt mà họ phải đối đầu ngày càng gia tăng áp lực. Quỳ vương bị vu cáo bắt giam. Hoàng Tử Hà đành cầu đến sức mạnh nhà họ Vương trợ giúp, món nợ với Vương Uẩn càng thêm nặng. Bí ẩn về loài cá thích máu người A Già Thập Niết, lá bùa quỷ dị đã theo Lý Thư Bạch bấy nhiêu năm, bức tranh với ba vệt mực đen do tiên hoàng để lại, những bí mật không lời giải ấy lại là manh mối duy nhất để Hoàng Tử Hà phá giải câu đố lớn nhất trong đời của Quỳ vương Lý Thư Bạch, cũng là để giải cứu người cô yêu thương nhất trên đời này. *** Trăng Trung thu sáng vằng vặc. Bóng quế đung đưa, hương thơm ngan ngát. Trời vừa chạng vạng, vô vàn ngọn đèn lồng bọc sa mỏng đã được thắp trên cây quế, soi bóng xuống mặt nước lung linh, điện ngọc lầu quỳnh, bóng hoa gió lộng, nhất thời chẳng biết là cảnh nhân gian hay tiên cảnh nữa. Trong ngôi đình nhỏ bên bờ nước, tiếng đồng ca của các ca nữ nghe còn rõ hơn tiếng trúc tơ. Trên vũ đài, ba mươi thiếu nữ vận áo gấm nắm tay nhau cùng múa. Đeo châu giắt ngọc, áo khăn lộng lẫy, hoa lệ vô vàn. Hoàng Tử Hà ngồi sau bức rèm ở nhà thủy tạ cùng nữ quyến, nghe tiếng ca theo gió đưa tới. Đây là vườn hoa phủ tiết độ sứ Tây Xuyên, hôm nay là Trung thu, tiết độ sứ Phạm Ứng Tích bày tiệc tại phủ mời Quỳ vương Lý Thư Bạch. Về phần Hoàng Tử Hà thì được Phạm phu nhân đưa thiếp mời, cùng mấy cô nương họ Hoàng tới thưởng thức điệu Nghê Thường. ... Mời các bạn đón đọc tập cuối cùng của bộ Trâm 4: Chim Liền Cành của tác giả Châu Văn Văn.
Chuỗi Án Mạng A.B.C - Agatha Christie
  AudioBook Chuỗi Án Mạng A.B.C   Chuỗi Án Mạng A.B.C Nhà văn Agatha Christie được mệnh danh là "Nữ hoàng truyện trinh thám" với số lượng tác phẩm được xuất bản nhiều, chỉ xếp sau Kinh Thánh và Shakespeare. Tại Việt Nam, nhiều thế hệ độc giả đã đọc và say mê sách của bà. Sách của Agatha có mặt trong nhiều tủ sách gia đình, được thế hệ này truyền sang thế hệ khác. Chuỗi án mạng A.B.C là câu chuyện về một hung thủ gây án theo bảng chữ cái, khiến cả nước Anh kinh hoàng. Khi một sát nhân giết người hàng loạt bí danh ABC chế nhạo Poirot bằng những lá thư úp mở và giết người theo thứ tự chữ cái, Poirot tiến hành một phương pháp điều tra bất thường để truy tìm ABC. Chữ A là bà Ascher ờ Andover, B là Betty Barnard ở Bexhill, C là ngài Carmichael Clarke ở Churston. Qua từng vụ án, kẻ giết người càng tự tin hơn - nhưng để lại một vệt manh mối rõ ràng để chế nhạo Hercule Poirot tài ba có thể lại sai lầm đầu tiên và chí tử. Trong một câu chuyện có vẻ như không can hệ gì, một người bán rong tên Alexander Bonaparte Cust đã có mặt ở tất cả những địa điểm xảy ra án mạng và ngày tội ác đó diễn ra. Cust bị trúng đạn vào đầu lúc đi lính. Hậu quả là, ông bị mất trí nhớ, đau đầu và bị động kinh. Liệu một người ngờ nghệch như thế có thể là kẻ giết người mệnh danh ABC không? Nhận định "Agatha Christie đã tạo nên một câu chuyện, giải trí và giải thoát những nỗi lo lắng và khủng hoảng con người trong chiến tranh và hòa bình cho hàng triệu độc giả trên khắp thế giới." (P.D. James, tác giả sách bán chạy theo bình chọn của New York Times) *** Của đại úy Arthur Hastings Sĩ quan Hoàng gia Anh Trong truyện này, tôi không chỉ kể lại những sự việc và nơi chốn tôi có liên quan và có mặt, do đó một số chương truyện được viết theo ngôi thứ ba. Tôi xin cam đoan với độc giả rằng tôi có thể đảm bảo tính xác thực của các sự kiện trong các chương này. Nếu tôi có hơi lãng mạn trong việc miêu tả suy nghĩ và tình cảm của nhiều người khác nhau thì đó là vì tôi nghĩ tôi đã kể về họ một cách chính xác nhất. Ngoài ra, tôi cũng muốn nói thêm rằng những chương đó đều được ông bạn Hercule Poirot của tôi “duyệt” qua rồi. Tóm lại, tôi muốn nói là nếu tôi có miêu tả dài dòng các mối quan hệ riêng tư không quan trọng lắm nhưng xuất hiện trong loạt vụ án kỳ lạ này thì đó là vì yếu tố con người và cá nhân không thể bỏ qua được. Có lần Hercule Poirot đã bảo tôi các vụ án hay làm nảy sinh ra những mối tình lắm. Còn về việc phá vụ án A.B.C. bí ẩn này, tôi chỉ có thể nói rằng theo ý tôi Poirot đã chứng tỏ tài năng thật sự của ông trong việc xử lý một vấn đề hoàn toàn khác với những vụ ông đã phá trước đó. Tháng 6 năm 1935 tôi về thăm nhà sau chừng sáu tháng trời ở trang trại của mình bên Nam Mỹ. Thời gian đó thật là khó khăn. Cũng như mọi người, chúng tôi bị ảnh hưởng bởi suy thoái toàn cầu. Có nhiều việc ở Anh mà tôi cảm thấy phải đích thân xử lý thì mới ổn thỏa. Vợ tôi ở lại bên ấy quản lý trang trại. ... Mời các bạn đón đọc Chuỗi Án Mạng A.B.C của tác giả Agatha Christie.