Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bánh Xe Nghiệt Ngã

Tiểu thuyết “BÁNH XE NGHIỆT NGÔ của tác giả PHI TRƯỜNG đưa bạn đọc đi sâu vào một cơ sở sản xuất của nền công nghiệp hiện đại Hoa Kỳ, hé cho ta thấy bí quyết thành công của nó : những giám đốc năng nổ, tháo vát làm việc mười hai mười bốn tiếng một ngày, những kỹ sư tận tụy yêu nghề luôn tìm cách ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất để nâng cao chất lượng sản phấm, tổ chức lao động chặt chẽ trong nhà máy mẹ kết hợp với hệ thống xí nghiệp vệ tinh qui tụ những tay nghề cao, bộ máy quảng cáo và dịch vụ thương mại rộng khắp thuận tiện cho người tiêu dùng… Đồng thời tác giả cũng phanh phui những mâu thuẫn đang ngáng trở nền sản xuất lớn tư bản. Chủ nghĩa phát triển thậm chí có nguy cơ sa sút : sự cạnh tranh tàn nhẫn giữa các công ti cá mập, nạn ô nhiễm môi trường sống, tệ phân biệt chủng tộc và nạn mafia có mặt khắp nơi dùng khủng bố tàn bạo để bòn rút công nhân, số đông người lao động bần cùng nổi giận… Qua câu chuyên xoay quanh một nhà máy sản xuất ôtô lớn với nhiều gương mặt rất khác nhau, chủ tịch công ty, quản đốc phân xưởng, công nhân bình thường, da trắng và da đen, những cặp vợ chồng chung thủy và những cô nhân tình quí phái… bạn đọc có thể cảm nhận được ánh hào quang kỳ diệu nhưng đầy lo lắng của một hình thái kinh tế xã hội đang tìm cách thích nghi để tồn tại. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như: Bản Tin Chiều Lời Chẩn Đoán Cuối Cùng Phi Trường Tập 1 Phi Trường Tập 2 Nhà Băng Khách Sạn Phi Trường (Người dịch: DgHien) Bánh Xe Nghiệt Ngã ... *** Chủ tịch hãng Động Cơ Thông Dụng bực mình, cả đêm qua mất ngủ : chiếc chăn điện trở chứng liên tục và mỗi lần như thế ông lại thức giấc vì lạnh. Lúc này vẫn mặc bộ đồ ngủ, choàng áo khoác, ông rón rén đi lục tìm khắp ngôi nhà vắng lặng rồi mang bầy lên nửa còn lại của chiếc giường lớn nhiều thứ dụng cụ đồ nghề, bắt đầu tháo bộ phận điện trong khi Côrali vợ ông vẫn còn ngủ. Ông phát hiện ngay chỗ tiếp xúc kém. Vừa cằn nhằn các tay sản xuất chăn điện làm ẩu, ông mang xuống xưởng riêng dưới hầm để sửa. Người vợ vươn vai. Chỉ vài phút nữa đồng hồ báo thức sẽ đánh chuông. Lúc ấy bà mới dậy lo bữa điểm tâm trong khi vẫn còn ngái ngủ. Ở thị trấn Blumfin Hin cách Đitơroi mười lăm kilômét này bây giờ vẫn còn tối. Sáng sớm hôm đó chủ tịch hãng ĐCTD, người khô khan, cử chỉ lanh lẹn nhưng bản tính nói chung điềm tĩnh có hai cớ để bực mình : chiếc chăn điện tất nhiên là một, còn một nữa là cách xử sự rất đáng giận của Imơcxơn Vên. Mấy phút trước đây qua chiếc đài bán dẫn đặt trên bàn ngủ mở thầm đủ nghe ông đã nhận ra giọng nói chua ngoa quen thuộc và dễ ghét của nhà “phê phán xe hơi” cỡ lớn này. Bữa qua trong cuộc họp báo ở Oasinhtơn một lần nữa Imơcxơn Vên lại công kích ba người đáng ghét nhất xưa nay của lão : Động Cơ Thông Dụng, Fo và Craixlơ. Lên án ba ông Lớn về tội “tham lam, tụ tập bè đảng lưu manh, bội tín, cưỡng đoạt tiền của dân chúng”. Vì ba Ông Lớn đã hoàn toàn thỏa thuận cùng nhau ngăn cản việc phát triển loại xe “sạch sẽ” thay cho xe chạy xăng, loại xe chạy hơi nước hoặc chạy điện là những loại Vên cho rằng “đã sẵn sàng lăn bánh”. Lời buộc tội chẳng có gì mới. Nhưng Vên vốn rất khôn khéo trong sự giao tiếp với công chúng và giới báo chí nên đã lồng vào lời tuyên bố những tư liệu mới làm nó có giá trị thông tin, thu hút được người đọc. Vị chủ tịch hãng công nghiệp lớn nhất thế giới tốt nghiệp kĩ sư một trường nổi tiếng ngồi sửa bộ phận hâm nóng của chiếc chăn điện với niềm vui thích thường thấy khi có thì giờ làm các việc trong gia đình. Rồi ông đi tắm, cạo mặt, bận quần áo, tới dùng bữa sáng với Côrali. Trên bàn ăn có tờ Đitơroi Tự Do. Vừa trông thấy tên và ảnh Imơcxơn Vên in trên trang nhất ông chửi thề và quăng tờ báo xuống đất. Côrali đặt trước mặt chồng các món của bữa điểm tâm theo chế độ “chống tăng côléttêrôn” : bánh mì nướng không phết bơ, lòng trắng một quả trứng luộc, cà chua xắt khoanh, fomát trắng. Sáng nào vợ ông chủ tịch ĐCTD cũng tự tay soạn bữa ăn đầu tiên này và cùng ăn với chồng mặc dầu chồng phải đi làm sớm. Côrali ngồi xuống trước mặt chồng, nhặt tờ báo mở ra và nói : “Theo Imơcxơn Vên, chúng ta đã có đủ trình độ kỹ thuật để đưa người lên mặt trăng hoặc sao Hỏa thì ngành kỹ nghệ xe hơi cũng phải cho ra được loại xe hoàn hảo, không có khuyết điểm gì và không gây ô nhiễm không khí”. Người chồng đặt khăn xuống. “Định làm tôi ăn mất ngon đấy à ? Bữa ăn đã chẳng có gì lại còn…” Người vợ tủm tỉm cười. “Em thấy hình như anh đã hết ngon miệng rồi thì phải ! Ông Vên còn trích dẫn Kinh thánh nói về ô nhiễm nữa cơ. - Lay Chúa Kitô ! Kinh thánh nói gì về cái đó được ! - Không phải Chúa Kitô đâu. Đoạn này trích trong kinh Cựu Ước. - Thì đọc đi vậy. Đằng nào bà cũng định đọc”. Người chồng lầu bầu, vẻ tò mò muốn biết. “Thánh Giêrêmi: Ta cho ngươi tới xứ sở xanh tươi như một khu vườn để các người được ăn những trái quả tươi ngon nhất. Nhưng sau khi đến các người đã làm ô trọc xứ sở của ta, biến gia tài của ta thành thứ ghê tởm.” Bà rót cà phê vào tách. “Em thấy tay ấy viết khá tài tình”. - Chẳng ai cho cái thằng đểu ấy là kém thông minh. Người vợ đọc tiếp. “Ngành kỹ nghệ xe hơi và dầu mỏ đồng tình kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật đáng lẽ từ lâu đã dẫn đến việc phát minh ra xe chạy điện hoặc hơi nước. Lập luận của họ rất đơn giản : loại xe này sẽ biến thành số không toàn bộ khoản tiền khổng lồ đầu tư vào loại động cơ đốt trong đang đầu độc khí quyển”. Bà đặt báo xuống. “Bài này có gì đúng sự thật không ? - Rõ ràng Vên cho tất cả những điều ấy là đúng. - Anh thì không ? - Nhất định không. - Không có một tí nào ? - Đôi khi có thể thoang thoảng tí chút sự thật trong một lời tuyên bố ngoa ngoắt. Chính bằng cách đó mà những kẻ như Imơcxơn làm ra vẻ mình có lý”. Người chồng đáp lại, vẻ bực bội. - Anh sẽ bác bỏ những điều lão nói chứ ? - Có lẽ không. - Sao vậy ? - Vì nếu Động Cơ Thông Dụng nện Imơcxơn, người ta sẽ lên án cái Hãng lớn như thế mà đi đè bẹp một cá nhân tầm thường. Nếu không đập lại thiên hạ cũng sẽ nguyền rủa bọn anh, nhưng dù sao họ không thể trích dẫn lời bọn anh để xuyên tạc. - Sao không để một người nào khác đập lại ? - Nếu có tay nhà báo kha khá nào đó đụng đến Hăngri Fo xem, có lẽ ông ta sẽ trả miếng - ông mỉm cười - có điều là Hăngri sẽ nói toạc móng heo và sẽ không công bố lời ông ta được. - Ở địa vị anh, có lẽ em sẽ nói một cái gì. Tất nhiên nếu em tin chắc mình có lý. - Cám ơn lời khuyên của em. Vị chủ tịch ĐCTD chấm dứt bàn cãi ngồi ăn xong bữa. Nhưng cuộc tranh luận với những lời châm chọc cố tình mà Côrali cho là thỉnh thoảng đưa ra sẽ bổ ích cho ông, đã làm tiêu tan nỗi bực dọc từ sáng. Ông nghe phía ngoài cửa bếp bước chân người hầu gái đang vào. Như vậy là lái xe đón cô ta dọc đường đã về và đang đợi ông dưới kia. Ông đứng lên, ôm hôn vợ. Mấy phút sau, khoảng sáu giờ sáng chiếc Cađilắc chở ông theo đường Têlêgráf đi về phía đường FriUê và khu trung tâm. Vào một sáng tháng mười trong trẻo có từng cơn gió tây bắc báo hiệu mùa đông đang về. Thành phố Đitơroi bang Misigân, thủ đô thế giới của công nghiệp xe hơi bắt đầu tỉnh giấc. Ở Blumfin Hin, cách nhà ông chủ tịch ĐCTD mười phút đi bộ, phó chủ tịch hãng Fo cũng đang sửa soạn ra sân bay Mêtrôpôlitên của thành phố. Ông đã dùng xong bữa sáng, một mình. Người nữ nhân viên phục vụ bưng khay thức ăn vào tận văn phòng chiếu sáng yếu ớt trong đó ông ngồi đọc các bản báo cáo từ năm giờ sáng (phần lớn các báo cáo đều viết trên loại giấy xanh đặc biệt mà văn phòng phó chủ tịch dùng cho các văn kiện về thực hiện đề án mới) và ghi vào băng từ những chỉ thị rõ ràng, chính xác. Gần như ông không ngẩng lên nhìn khi bữa điểm tâm được mang vào và cũng chẳng nhìn xem mình đang ăn gì. Trong có một giờ ông làm xong khối công việc người khác phải làm trong cả một ngày hoặc hơn nữa mới xong. Phần lớn các quyết định xoay quanh việc xây dựng thêm xưởng máy mới hoặc mở rộng những nhà máy hiện có, tốn kém hàng mấy tỉ đô la. Phó chủ tịch ngoài nhiều nhiệm vụ khác, có trách nhiệm phê chuẩn hoặc bác bỏ các đề án được đệ trình và định thứ tự ưu tiên. Hôm có người hỏi ông phê duyệt những khoản lớn như vậy có thấy run tay không, ông đáp lại : “Không, bởi vì bao giờ tôi cũng thầm bỏ bớt ba chữ số cuối. Thành ra cũng không khó hơn khi cân nhắc mua một ngôi nhà”. Câu trả lời rõ ràng, bật ra rất nhanh, nói lên bản lĩnh của người vốn là anh bán xe xoàng xĩnh chỉ trong thời gian kỉ lục đã trở thành một trong mười hai ông chủ có quyền quyết định trong vương quốc xe hơi. Cũng chính cách làm ăn kiểu đó giúp ông trở thành siêu triệu phú. Vấn đề cần xem xét là sự tiến bộ và sự giàu sang có đáng với cái giá phải trả không. Phó chủ tịch làm việc mỗi ngày mười hai có khi mười bốn tiếng, thường là bẩy ngày trong một tuần với nhịp độ dồn dập. Như ngày hôm nay, trong lúc phần đông dân thành phố còn đang ngủ ông đã phải lên máy bay riêng của hãng bay đi NiuYoóc, trong lúc ngồi trên máy bay ông tranh thủ nghiên cứu thị trường với các nhân viên dưới quyền, vừa đến nơi phải chủ tọa ngay cuộc họp với các giám đốc địa phương cũng về vấn đề đó. Cuộc họp vừa xong ông phải tranh cãi gay gắt với hai mươi đại lý bang NiuGiơdi về việc bảo hành và các dịch vụ hậu mãi. Sau dó đến Manhattan dùng bữa trưa với một nhóm chủ ngân hàng, đọc một bài diễn văn. Rồi họp báo, đương đầu với các phóng viên. Buồi trưa trở về Đitơroi cũng bằng chiếc máy bay đó, ông có nhiều cuộc gặp gỡ để giải quyết công việc thường lệ cho đến bữa chiều. Trong ngày, vào một lúc nào đó chưa sắp xếp được, phải đưa đầu cho thợ đến tận nơi cắt tóc. Bữa tối ăn trên sân thượng sẽ được điểm xuyết bằng cuộc trò chuyện với người phụ trách các ban quan trọng về kiểu xe mới. Cuối cùng sẽ đến vĩnh biệt một đồng nghiệp mới từ trần tối qua vì nghẽn động mạch vành, (tại nhà thờ tang lễ Hêminhtơn, một chặng trên con đường đưa các ông Lớn ngành xe hơi tới nghĩa trang Út Lên). Sau tất cả những việc đó cuối cùng phó chủ tịch mới được về nhà ôm theo chiếc cặp căng phồng hồ sơ phải nghiên cứu để chuẩn bị cho ngày mai. Lúc này ông đẩy khay điểm tâm ra xa, thu gom giấy từ rồi đứng lên. Bốn bức tường của phòng làm việc đều có giá xếp đầy sách. Đôi khi, vào những buổi không bận rộn tối tăm mắt mũi như sáng nay ông ném lên chúng một cái nhìn tiếc nuối và thèm muốn. Vì nhiều năm trước đây có một thời ông đọc rất nhiều. Có thể ông đã trở thành sinh viên nếu đời ông đi theo hướng khác. Bây giờ thì không có thì giờ đọc sách nữa. Ngay cả việc đọc tờ báo hàng ngày cũng phải rình chộp thời cơ tranh thủ liếc thật nhanh. Nên ông cầm tờ báo còn nguyên nếp gấp khi nhân viên phục vụ mang tới và nhét luôn vào cặp. Vì thế mãi sau ông mới biết những lời công kích mới nhất của Imơcxơn Vên và nguyền rủa hắn như những người khác trong ngành xe hơi đã nguyền rủa từ sớm. Tại sân bay ban tham mưu cùng đi với ông đã tề tựu trong phòng đợi của đoàn Vận chuyển hàng không Hăngri Fo. Ông ra lệnh giọng khô khan. “Lên đường”. Động cơ chiếc Jết Xta bắt đầu chạy, trong lúc cả đoàn tám người lên máy bay. Những người lên sau chưa kịp đeo dây an toàn máy bay đã lăn bánh. Chỉ những người thường đi máy bay riêng mới thấy rõ cái lợi về tiết kiệm thì giờ so với đi máy bay công cộng. Máy bay lăn nhanh ra đường băng cất cánh trong lúc mọi người mở cặp đặt trên đầu gối. Phó chủ tịch mở đầu ngay cuộc thảo luận. “Kết quả thu được ở khu vực đông bắc mấy tháng gần đây không được khả quan. Các ông đều đã nắm được số liệu, cũng như tôi. Tôi đòi hỏi sự giải thích tình hình đó. Và muốn biết những biện pháp nào đã được thi hành”. Ông vừa nói xong thì máy bay cất cánh. Phía chân trời vầng dương đỏ quạch nhô dần, sáng lên giữa những đám mây xám trôi rất nhanh. Dưới cánh máy bay đang nâng độ cao, ánh sáng ban mai làm nhìn rõ thành phố và các vùng phụ cận trải dài. Khu trung tâm Đitơroi, ốc đảo vuông mỗi cạnh một cây số giống như một Manhattan thu nhỏ; tiếp liền sau đó là những héc ta đường phố buồn tẻ, nhà cao tầng, nhà máy, nhà ở, phần lớn cáu bẩn. Một thành phố công nghiệp dơ dáy phát sợ vì không chịu vung tiền cho công việc quét dọn vệ sinh. Phía tây thành phố, Điếcbơn sạch sẽ xanh tươi hơn, tận cùng bằng tổ hợp công nghiệp khổng lồ của LơRu. Ngược lại ở đầu phía đông, khu Mũi Lớn, phô những rặng cây thẳng tắp : đó là thiên đường của những kẻ giầu có. Phía Nam là khu công nghiệp Vianđốt mù mịt khói; đảo Bel-In nép sát bờ sông Đitơroi như chiếc sà lan mầu rỉ đồng chở khẳm. Bờ sông bên kia là lãnh thổ Canada, thành phố Oaixo cũng xấu xí cũng gớm ghiếc không kém Đitơroi trên đất Mĩ. Và trên khắp mọi miền, ánh sáng ban ngày làm nổi rõ mật độ giao thông dầy đặc trên mạng đường sá. Hàng vạn con người như đàn kiến cỏ (hoặc đàn chuột len-mút tùy theo cách nhìn từng người) gồm thợ thuyền, nhân viên, viên chức lũ lượt kéo nhau bước vào một ngày sản xuất mới trong vô vàn xí nghiệp lớn nhỏ. Đitơroi kiểm soát và điều khiển nền sản xuất xe hơi của cả nước, nên khi ngày làm việc bắt đầu thì nhịp xuất xưởng lập tức hiện trên tấm bảng lớn đặt tại điểm giao thông lộ các con đường đi tới Fo và tới Craixlơ, những con đường đầy ứ xe. Nhờ sử dụng một hệ thống thống nhất trong cả nước, từng phút một số lượng xe xuất xưởng trong năm hiện lên bằng những con số cao một mét rưỡi trên bảng. Mỗi khi có thêm một dây chuyền khởi động thì tổng số lại tăng lên. Lúc này đã có hai mươi chín nhà máy trong vùng đông bắc làm việc, gửi số liệu lên bảng, số liệu tăng vọt sau khi mười ba xưởng lắp ráp của trung tâm tây và sáu xưởng của Califoócnia khởi động. Những người chạy xe trên đường nhìn tấm bảng với tâm trạng của người bác sĩ nhìn số đo huyết áp, của kẻ đầu cơ chứng khoán khi nhìn bảng giá ở ngân hàng. Có những người còn cá cược nhau về tổng số lúc sáng, lúc chiều. Những xưởng gần nhất cách đây khoảng 1,5km là của Craixlơ, nói chính xác là các xưởng Đốt và Plai-mao mỗi giờ cho ra hơn trăm xe. Trước đây viên chủ tịch hội đồng quản trị của Craixlơ thỉnh thoảng đến giám sát việc bắt đầu chế tạo một sản phẩm mới và tự mình thử khi sản phẩm ra đời. Gần đây ít khi ông làm thế. Buổi sáng hôm đó ông vẫn còn ngồi nhà đọc từ nhật báo Phố Uôn và uống ly cafê do vợ pha trước khi bà đi dự cuộc họp Hiệp hội Nghệ thuật. Hồi đó ông tổng giám đốc hãng Craixlơ (mới nhậm chức chủ tịch gần đây) tất bật chạy ngược chạy xuôi khắp nhà máy không hề mệt mỏi, phần vì nhà máy thiếu máu đang rất cần một giám đốc năng nổ, phần khác là vì bản thân ông đang muốn dứt khoát dứt bỏ cái nhãn “kế toán” người ta thường gán cho những người ngoi lên theo con đường của ngành tài vụ chứ không qua ngạch kỹ sư hoặc chuyên viên thương mại. Dưới quyền ông, hãng đã trải qua nhiều bước thăng trầm : sáu năm thịnh vượng gây được lòng tin cho các cổ đông tiếp theo là sáu năm sa sút đến mức báo động. Sau đó bằng những cố gắng ghê gớm và những tiết giảm khắc nghiệt hãng đã vượt qua cơn hiểm nghèo, khiến có người cho rằng chưa bao giờ hãng hoạt động tốt bằng trong thời kì khó khăn. Tuy nhiên thời khó khăn đã qua, không ai cho rằng chiếc Pentátta đời mới nhất của Craixlơ có thể lại mất cái vị trí nó đã chiếm được. Vị chủ tịch có thể rảnh rang một chút, suy nghĩ nhiều hơn, đọc những thứ thấy thích đọc. Lúc này ông đang đọc bài của Imơcxơn Vên; bài đăng trên nhật báo Phố Uôn có phần kín đáo hơn trên từ Đitơroi Tự do. Nên làm ông chán ngấy, ông thấy lời chỉ trích của lão cùn mòn, không có bản sắc. Nên ông chỉ lướt qua rồi chuyển qua mục bất động sản có sức thuyết phục hơn. Không mấy người biết ít lâu nay Craixlơ đang chăm lo xây dựng một vương quốc bất động sản, trước mắt làm cho hoạt động kinh doanh của công ti phong phú hơn, và sao lại không ? trong vài thập kỷ nữa sẽ đưa “số ba” lên ngang hàng hoặc cao hơn Động Cơ Thông Dụng. Trong khi chờ đợi ngày đó, vị chủ tịch hài lòng ghi nhận nhịp độ sản xuất trên mức khả quan của các nhà máy Craixlơ. Như vậy đó, sáng nay cũng như tất cả các buổi sáng, Ba Ông Lớn vật lộn ráo riết để giữ vững ngôi thứ của mình trong khi một hãng khác ở bang Uýtcơnxin, hãng Động Cơ Mĩ bé nhỏ hơn cũng góp vào dòng lũ xe hơi này một phần tuy ít ỏi hơn nhưng hiện đại hơn. Mời các bạn đón đọc Bánh Xe Nghiệt Ngã của tác giả Arthur Hailey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bậc Thầy
“Cuốn tiểu thuyết được nhắc đến nhiều nhất năm 2016.” — Washington Post Luôn bị đối xử tệ tại một nhà đấu giá tranh nghệ thuật nổi tiếng London, thoạt tiên, Judith chỉ là một trợ lý làm công ăn lương nhiều tham vọng, gắng vượt khỏi gốc gác hạng xoàng của mình để leo lên địa vị cao hơn trong thế giới nghệ thuật, một thế giới khó chạm tới nhưng cô biết mình thuộc về nó. Nhưng một vụ lừa đảo tại nhà đấu giá khiến cuộc đời cô tan tành đảo lộn. Thay vì suy sụp hay mất phương hướng, cô trở thành một con người khác. Vũ khí hộ thân không gì hơn trí thông minh sắc sảo và tài ngụy tạo, cô đưa đường dẫn lối bản thân từ French Riviera tới Genève, tới Rome, biến hình như tắc kè hoa, tính toán những con đường để giành lấy cuộc sống nhung lụa. Được bình chọn là cuốn sách xuất sắc nhất hệ thống Amazon tháng Tư năm 2016, cuốn tiểu thuyết ly kỳ này đã mở đầu cho bộ ba tác phẩm hấp dẫn, dõi theo tiến trình cuộc đời của Judith, một người đàn bà vừa mong manh vừa lạnh lùng. Trong lúc Judith hành động càng lúc càng xảo trá, nhập vai càng ngày càng dễ như thay giày, Hilton cũng khéo léo dệt nên một thế giới hào nhoáng, mang đầy cảm giác sắc bén về cuộc sống phù hoa đương đại.  Rốt cuộc, ta sẽ đi đâu khi ta đã đi quá xa? *** Review ''Bậc Thầy'' - L.S Hilton người review Nguyễn Ngọc Nam 388 trang với một câu truyện kỳ lạ. Một câu truyện phiêu lưu thời hiện đại, giống như một bộ phim hành động tua chậm trước mắt người đọc khiến cho khi gập sách lại ta vẫn không thể tin được kết thúc đã được phơi bày của nó. Judith là một cô gái thông minh và quỷ quyệt. Ban đầu cô ta chỉ là trợ lý quèn cho một nhà đấu giá có tham vọng trở thành một người quyền lực trong giới nghệ thuật nhưng hiện thực khắc nghiệt của cuộc sống đã cản bước cô. Mãi cho đến tận sau này cô mới nhận ra rằng tất cả những cố gắng của mình thực sự là vô ích. Đỉnh điểm là một vụ lừa đảo tại nhà đấu giá khiến cuộc đời cô tan tành đảo lộn. Và từ đây, câu truyện về Bậc thầy chính thức khai màn! Bạn nên đọc cuốn sách trong môi trường yên tĩnh tuyệt đối bởi bản gốc có lẽ tác giả hành văn nghe chừng thấy phức tạp khó hiểu quá, câu văn kiểu hack não người đọc nên về Việt Nam khi dịch lại dịch giả có lẽ cũng gặp nhiều khó khăn, chính vì vậy mà bạn sẽ phải mất kha khá thời gian để làm quen với sách bởi vì nó khá khó đọc. Truyện miêu tả rất đúng xã hội thời hiện đại, con người thời hiện tại và có lẽ là cả trong tương lai nữa. Một xã hội ưa vật chất, lừa đảo, giẫm đạp lên nhau để sống. Những con người lạnh lùng vô cảm và vô cùng xảo quyệt. Trong truyện không có một giai đoạn nào tươi sáng. Dường như thế lực bóng tối đã bao trùm lên toàn bộ cuốn sách này, bạn sẽ phải căng não và tư duy liên tục, như một cuộc chạy marathon với nó. Trinh thám, kinh dị, phiêu lưu, hài hước, sex thậm chí là cả viễn tưởng đều được tác giả thể hiện trong truyện. Đặc biệt là sex. Có lẽ phải đến 1/3 truyện yếu tố sex được đề cập đến với những mô tả cực chi tiết. Nó làm tôi nhớ tác phẩm "Thế giới mới tươi đẹp" nơi mà con người sex với nhau mọi lúc mọi nơi để xả stress liên tục. Xuyên suốt truyện người đọc sẽ thấy được một Judith mạnh mẽ. Và như tôi đã nói, cô mạnh mẽ theo cái cách tàn nhẫn. Đúng, tàn nhẫn bởi cô nhận ra rằng chỉ mạnh mẽ theo cách đó mới có thể tồn tại được trong xã hội này. Tất nhiên không một người tốt đẹp, trong sáng nào ủng hộ điều này nhưng xét theo một khía cạnh nào đó, những việc làm của Judith ít nhiều cũng là cần thiết và đúng đắn. Bởi hiện thực là khốc liệt, sự thật là tàn nhẫn. Dẫm đạt lên nó là điều tất yếu của cuộc sống. Bởi vậy mới nói, sự tha hóa của con người trong xã hội ngày nay đang "phát triển" vượt bậc. Tôi đánh giá cao về quyển sách này. Nó hoàn toàn thực tế, đúng đắn tới từng phân cảnh. Cũng giống "Bắt trẻ đồng xanh" đây hoàn toàn không phải là cuốn sách những đứa trẻ ngoan hay những người tin vào đạo lý nên đọc. Thật sự là khi các bạn đọc review này rồi thì hãy cân nhắc việc đọc nó nếu không muốn bị ức chế hoặc chửi thề sau khi đọc được vài chương. Tôi không muốn ai phải có một trải nghiệm tồi tệ không đáng có với điều đã được cảnh báo trước. *** Gấu váy nặng nề và gót giày nhọn hoắt lướt vun vút và gõ lạch cạch trên mặt sàn lát gỗ. Chúng tôi đi ngang hành lang đến một cửa đôi, tiếng rì rầm khe khẽ sau cửa cho biết cánh đàn ông đã ở trong phòng. Căn phòng được thắp nến, giữa các sofa và ghế ăn thấp có kê bàn nhỏ. Cánh đàn ông đang chờ, họ mặc quần lụa xa tanh đen dày cùng áo khoác có khuyết thùa ngang kiểu nhà binh, sợi ngang của vải óng ánh lộng lẫy bù khuyết cho lần áo trong hồ cứng ngắc. Thi thoảng, một chiếc khuy măng séc nặng nề hay một chiếc đồng hồ thanh mảnh lại nhoáng vàng trong ánh nến, một hình thêu chữ lồng thấp thoáng bên dưới một chiếc khăn tay lụa hoa mỹ. Cảnh tượng này hẳn sẽ có vẻ sến súa và giả tạo nếu mọi chi tiết không hoàn hảo đến vậy, nhưng tôi lại thấy như bị thôi miên, mạch đập của tôi chậm và sâu. Yvette đang được một người đàn ông có cổ tay áo gắn lông công dẫn đi - tôi nhìn lên và thấy một người khác tiến về phía mình, một cây dành dành giống của tôi gắn trên ve áo ông ta. “Vậy cách thức là thế này sao?” “Khi chúng ta ăn, đúng vậy. Sau đó cô được chọn. Bonsoir*.” “Bonsoir.” Dáng ông ta cao và mảnh khảnh, dù cơ thể có vẻ trẻ hơn khuôn mặt đã có phần nhăn nheo và đanh cứng, với mái tóc muối tiêu chải ngược trên vầng trán cao và cặp mắt lớn hơi sụp mí, như một vị thánh Byzantine. Ông ta dẫn tôi đến sofa, đợi tôi ngồi xuống rồi đưa cho tôi một ly vang trắng, chiếc ly bằng pha lê đơn giản, trong veo và cứng rắn. Nghi thức thì sáo rỗng, nhưng tôi thích từng bước thực hiện của nó. Julien rõ ràng có vẻ thích sự mong đợi. Các cô hầu bàn gần như khỏa thân trở lại với những đĩa nhỏ đựng bánh tôm hùm nhỏ xíu, rồi đến ức vịt xé nhỏ trong một hỗn hợp mật ong và gừng, mâm xôi và dâu tây đựng trong bánh ngói hình khay. Những món ăn mang tính lịch sự, không hề nhằm đến việc đáp ứng nhu cầu của chúng tôi. “Trái cây màu đỏ làm cái ấy của đàn bà thành mỹ vị,” bạn cùng bàn của tôi nhận xét. “Tôi biết.” Đôi chỗ có tiếng nói chuyện khe khẽ, nhưng hầu hết chỉ nhìn ngắm và uống rượu, ánh mắt chuyển từ đối phương sang những động tác nhanh nhẹn của các nữ hầu bàn có vóc dáng như vũ nữ, mảnh dẻ nhưng săn chắc cơ bắp, đùi căng đầy trên ống ủng bó chặt. Làm thêm sau giờ múa ba lê chăng? Tôi loáng thoáng thấy Yvette ở bên kia phòng, đang được bón sung nhồi hạnh nhân bằng một cây dĩa bạc nhọn đầu, cơ thể cô ườn ra như một con rắn, một bên đùi sẫm màu lấp ló giữa lớp lụa đỏ. Một cách trang nghiêm, các hầu bàn cầm cây dập nến đi quanh phòng, chỉnh mờ ánh sáng trong một làn mây hình sáp ong, và cùng lúc đó tôi cảm thấy tay người đàn ông trên đùi mình, vừa xoa vừa ve vuốt, không chút vội vã, và đáp lại là sự căng cứng giữa hai chân tôi. Các cô gái đưa ra những khay sơn mài đựng bao cao su, chai pha lê nhỏ chứa dầu thơm Tahiti, dầu bôi trơn được chắt vào khay đĩa. Vài cặp đang hôn nhau, có vẻ hài lòng với đối tượng được ghép đôi của mình; số khác lịch sự đứng dậy và băng qua phòng để tìm con mồi họ đã chọn từ trước. Váy của Yvette rơi xuống cạnh đôi chân mở rộng của cô, một người đàn ông vục đầu vào cô. Tôi bắt gặp ánh mắt cô, và cô mỉm cười, vẻ kiêu sa, trước khi ngả đầu giữa đống gối theo kiểu ngây ngất của một con nghiện chìm vào cơn phê. Mời các bạn đón đọc Bậc Thầy của tác giả L. S. Hilton.
Kẻ Khủng Bố
Kẻ khủng bố có phải là một quái vật, một tên điên? Người bình thường chúng ta liệu có thể nào hiểu và thông cảm được với một kẻ khủng bố? Cuốn tiểu thuyết đặc sắc của John Updike là cuộc hành trình tìm lời đáp cho câu hỏi ấy. Bằng giọng văn điềm tĩnh, óc quan sát sắc sảo, khả năng phân tích tinh tế, cùng một quyết tâm quả cảm hầu vượt qua mọi định kiến có sẵn về thiện và ác, nhà văn hàng đầu nước Mỹ - tác giả Rabbit ơi, chạy đi - khiến cho ta thấy, đằng sau bức chân dung quen thuộc về kẻ khủng bố đáng sợ, đáng căm ghét kia là một con người, với một trí óc và tâm hồn giống chúng ta hơn là khác chúng ta ra sao. *** Trong số các cuốn mới ra của NN mình thấy cuốn này có vẻ thú vị nhất. Tác giả chính là người viết cuốn ''Rabbit ơi, chạy đi''. ”Kẻ khủng bố có phải là một quái vật, một tên điên? Người bình thường chúng ta liệu có thể nào hiểu và thông cảm được với một kẻ khủng bố? Cuốn tiểu thuyết đặc sắc của John Updike là cuộc hành trình tìm lời đáp cho câu hỏi ấy. Truyện kể về Ahmad Ashmawy Mulloy 18 tuổi và sự tôn sùng của cậu đối với thánh Allah và những lời của kinh Koran được dạy từ một nhà thờ Hồi giáo tại địa phương. Con trai của một bà mẹ người Ireland và một người cha Ai Cập đã biến mất khi cậu lên ba, Ahmad đã chuyển sang Hồi giáo ở tuổi mười một. Cậu cảm thấy đức tin của mình bị đe doạ bởi xã hội chủ nghĩa vật chất, nơi mà cậu bé nhìn thấy mọi nơi ngay trong thị trấn nhà máy ở New Prospect, miền bắc New Jersey. Không có người cố vấn hướng dẫn, chán nản tại rrường Trung học cậu làm quen với 2 người bạn: Jack Levy, và Joryleen Grant, những người bạn học tinh nghịch của Ahmad, đã thành công trong việc chuyển hướng cậu bé từ những gì mà tôn giáo gọi là Con đường đúng đắn. Khi cậu tìm được việc làm trong một cửa hàng đồ nội thất thuộc sở hữu của một gia đình người Lebanon nhập cư mới, các chủ đề của một âm mưu thu thập xung quanh cậu, với những tiếng reo hò cổ vũ làm cho Bộ An ninh Quốc gia đang thôi thúc... Bằng giọng văn điềm tĩnh, óc quan sát sắc sảo, khả năng phân tích tinh tế, cùng một quyết tâm quả cảm hầu vượt qua mọi định kiến có sẵn về thiện và ác, nhà văn khiến cho ta thấy, đằng sau bức chân dung quen thuộc về kẻ khủng bố đáng sợ, đáng căm ghét kia là một con người, với một trí óc và tâm hồn giống chúng ta hơn là khác chúng ta ra sao. Cuốn tiểu thuyết thứ hai mươi hai của John Updike là một cuốn tiểu thuyết xuất sắc rực rỡ, chắc chắn sẽ được đánh giá là một trong những tác phẩm hay nhất của ông. Người review: Bookaholic *** John Hoyer Updike (18 tháng 3 năm 1932 - 27 tháng 1 năm 2009) là một tiểu thuyết gia, nhà thơ, người viết truyện ngắn, nhà phê bình nghệ thuật và phê bình văn học người Mỹ. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Updike là chuỗi tiểu thuyết "Rabbit" (các tiểu thuyết Rabbit, Run; Rabbit Redux; Rabbit Is Rich; Rabbit at Rest; và Rabbit Remembered),  mô tả tổng thể cuộc sống của người đàn ông tầng lớp trung lưu Harry "Rabbit" Angstrom trong suốt nhiều thập kỷ, từ khi trưởng thành trẻ tuổi cho đến khi chết. Cả hai tiểu thuyết Rabbit Is Rich (1982) và Rabbit at Rest (1990) của ông đều đoạt giải Pulitzer.  Updike là một trong ba tác giả đoạt giải Pulitzer dành cho tiểu thuyết nhiều hơn một lần (những người khác là Booth Tarkington và William Faulkner). Ông đã xuất bản hơn hai mươi tiểu thuyết và hơn một chục tập truyện ngắn, cũng như thơ, phê bình nghệ thuật, phê bình văn học và sách trẻ em. Hàng trăm câu chuyện, đánh giá, và những bài thơ của ông xuất hiện trên tờ The New Yorker kể từ năm 1954. Ông cũng viết thường xuyên cho The New York Review of Books. Tác phẩm Tiểu thuyết The Poorhouse Fair (Hội chợ trong nhà tế bần, 1959) The Centaur (Nhân mã, 1963) Of the Farm (Ở nông trại, 1965) Couples (Các cặp vợ chồng, 1968) Marry Me (1977) The Coup (1978) Brazil (1994) In the Beauty of the Lilies (Nhan sắc của hoa huệ, 1996) Toward the End of Time (1997) Gertrude and Claudius (2000) Seek My Face (2002) Villages (2004 Terrorist (Kẻ khủng bố, 2006)   Tập thơ The Carpentered Hen (Con gà gỗ, 1958) Telephone Poles (1963) Midpoint (1969) Dance of the Solids (1969) Cunts: Upon Receiving The Swingers Life Club Membership Solicitation (1974) Tossing and Turning (1977) Facing Nature (1985) Collected Poems 1953–1993 (Tuyển tập thơ 1953 - 19993, 1993) Americana and Other Poems (2001) Endpoint and Other Poems (2009) Tuyển tập truyện ngắn The Same Door (Cũng cánh cửa ấy, 1959) Pigeon Feathers (Những cái lông bồ câu, 1962) Olinger Stories (1964) The Music School (1966) Museums And Women (Bảo tàng và phụ nữ, 1972) Problems and Other Stories (Những vấn đề và những câu chuyện khác, 1979) Too Far to Go(Quá xa để đi, 1979) Your Lover Just Called (1980) Trust Me (1987) The Afterlife (Cuộc sống ở thế giới bên kia, 1994) Licks of Love (Tình yêu bằng từng liều nhỏ, 2001) The Early Stories: 1953–1975 (Những truyện gần đây 1953 - 1975, 2003) Three Trips (2003) My Father's Tears and Other Stories (Nước mắt bố tôi và những truyện khác, 2009) The Maples Stories (2009) The Collected Stories, Volume 1: Collected Early Stories (Tuyển tập truyện ngắn - tập 1, 2013) The Collected Stories, Volume 2: Collected Later Stories (Tuyển tập truyện ngắn - tập 2, 2013)   Mời các bạn đón đọc Kẻ Khủng Bố của tác giả John Updike.
Giải Thoát
Câu chuyện bắt đầu bằng một vụ tai nạn thảm khốc, cậu bé Jacob 5 tuổi bị một chiếc ô tô đâm trúng khi đang trên đường trở về nhà sau buổi học cùng với mẹ. Jacob chết, kẻ gây tai nạn bỏ trốn, để lại vụ án mạng chấn động cả Bristol.  Thanh tra thám tử Ray Stevens cùng cộng sự là thanh tra thám tử tập sự Kate Evans nhập cuộc để điều tra vụ án. Mọi thứ ngày càng trở nên bế tắc khi thời gian cứ trôi đi mà manh mối kẻ thủ ác vẫn không lộ diện. Song song với cuộc điều tra, câu chuyện về cuộc đời và công việc của những thanh tra cảnh sát cũng được hé lộ một cách tự nhiên: Những áp lực công việc, sự giằng co giữa đạo đức nghề nghiệp và sự thăng tiến cá nhân, giữa công việc và gia đình, và đặc biệt là nguy cơ tiềm ẩn những mối quan hệ ngoài luồng nơi công sở, qua sự diễn biến cảm xúc của nhân vật Ray và Kate. Trong lúc cảnh sát đang lùng sục tìm kiếm một cách vô vọng vụ án của Jacob, ở một vịnh biển xa xôi nước Anh – vịnh Penfach, có một cô gái kỳ lạ xuất hiện, cô độc, kỳ lạ và khép kín. Cô là Jenna, một nghệ sĩ điêu khắc, do một tai nạn mà phải từ bỏ công việc và đến vịnh Penfach ở ẩn... Liệu có sợi dây liên kết nào giữa vụ tai nạn của cậu bé Jacob và Jenna không? Thám tử Ray Stevens có vén được lớp màn bí mật khủng khiếp về gia đình Jenna? Một sự trùng hợp ngẫu nhiên hay đó là âm mưu? Vậy ai là người đứng sau mọi tội ác đó? *** Người review: Thảo Trần Nguyễn. Nguồn: Hội thích truyện trinh thám Trước hết mình xin khen ngợi Phúc Minh vì sự tiến bộ vượt bậc trong khâu biên tập (câu văn gãy gọn, uyển chuyển, lỗi chính tả rất hiếm), bìa đẹp, chữ Giải thoát được in nhũ vàng. Mảng văn học phương Tây của PM dạo này rất khởi sắc. Một câu chuyện hay và ám ảnh về nạn bạo lực gia đình, đào sâu vào nỗi đau của người mẹ mất con (bạn nào đang yêu hay sắp lập gia đình cân nhắc trước khi đọc nhé . Vụ án trong tác phẩm chỉ là truy tìm kẻ gây tai nạn giao thông làm chết một đứa trẻ ngay trước mặt người mẹ rồi bỏ trốn, thế nhưng nhờ tình tiết nghẹt thở, miêu tả tâm lý xuất sắc, cộng thêm những cú lừa (chắc chắn 100% bạn sẽ bị lừa dù có đề phòng đến đâu), mình đánh giá cao cuốn này, tuy nhiên không khí mà nó mang lại sẽ khá ngột ngạt, không nên đọc khi chỉ muốn giải trí. Điểm trừ có lẽ chỉ là do vài chỗ chuyển ý của tác giả. Nhiều khi 2 đoạn kế nhau lại không liên kết với nhau, đúng ra nên ngắt chương khi muốn chuyển cảnh, làm mình đọc đi đọc lại mấy lần mới hiểu. *Đánh giá: 4.5/5 *** Khởi đầu vì muốn nổi danh, Ca nương dắt báo diễu hành phố xa. Bất ngờ một chuyện xảy ra, Báo đứt dây buộc, trốn xa tầm nhìn. Quân cảnh, đông đảo kiếm tìm, Thú hoang hung ác, im lìm ngoài kia. Báo đen ẩn hiện đêm khuya, Từng cô gái một, hồn lìa xác thân. Khởi nguồn là một chiến dịch truyền thông với mục đích lăng xê cô ca sĩ mới nổi, Kiki Walker. Ông bầu Jerry Maning nghĩ ra chiêu trò: sẽ rất thú vị nếu cô dắt theo một con báo đi dạo vòng quanh khu Almeda cho tất cả fan hâm mộ nhìn thấy, việc này sẽ đánh vào tâm lý ưa thích những điều mới lạ và khác biệt của cư dân thành phố Cidad Real lớn thứ ba của Nam Mỹ (Cidad Real – theo tiếng Tây Ban Nha là “thành phố có thực” nhưng thực chất không hề có thành phố này ở Nam Mỹ mà Cidad Real là một đô thị ở Tây Ban Nha, có thể một cách chơi chữ của tác giả). Cuộc diễu hành trở nên hỗn loạn khi con báo trở nên mất kiểm soát, sổng xích và trốn thoát giữa chốn đông người vào một con hẻm tối tăm. Con báo mất tích kéo theo cái chết của một loạt các cô gái trẻ với đặc điểm chung là trên tử thi xuất hiện nhiều vết cào xé từ nanh vuốt của con thú. Liệu hung thủ thực sự là con báo đốm hay “một thứ gì đó” còn kinh khủng và đáng sợ hơn”??? Nằm trong series “Trinh thám Đen” của tiểu thuyết gia người Mỹ Cornell Woolrich – người được mệnh danh là Poe của thế kỷ XX. Ám ảnh đen có kết cấu như một vở kịch nhiều chương hồi bao gồm chương mở màn mang tính giới thiệu nội dung truyện, sự xuất hiện kẻ sát nhân “bộ lông đen thẫm, cặp tai nhọn ép phẳng, mõm gì sát thảm, con vật bước đến rất nhanh, tấm thân thuôn dài gợn sóng một cách uyển chuyển”. Bốn chương tiếp theo đặt theo tên bốn người phụ nữ, mục tiêu của kẻ sát nhân vô hình giữa lòng thành phố. Bốn nạn nhân xuất thân đa dạng, từ con gái nhà lao động nghèo khó, tiểu thư mười bảy mộng mơ với tình yêu đầu đời, gái điếm trong quán bar, hay cả nữ khách du lịch người Mỹ. Khó có thể tìm ra được điểm tương đồng giữa các nạn nhân, từ hoàn cảnh, xuất thân, địa vị. Cái chết không hề phân biệt đối xử với bất kỳ ai. Không khí hoang mang bao trùm khắp thành phố, không biết ai sẽ là nạn nhân tiếp theo dưới nanh vuốt sắc nhọn ấy. Ám ảnh và sợ hãi là những gì xuất hiện xuyên suốt 4 chương sách chính, gây nên sự căng thẳng tột độ cho người đọc. Lồng ghép một cách tài tình giữa miêu tả khung cảnh gắn liền với diễn biến tâm lý nhân vật, Woolrich như phủ một tấm vải “đen” đầy u ám và ma quái lên người đọc, khiến cảm xúc của độc giả luôn luôn được đẩy lên cao, song hành cùng cảm xúc nhân vật. Không gian của truyện đậm màu kinh dị, tăm tối theo chất Gothic: một đường hầm, một nghĩa trang, một con phố vắng, một hồ nước… Thời gian luôn luôn giữa đêm tối mịt mùng, gợi nên một cảm giác đáng sợ, căng thẳng và đau đớn. Có một áp lực vô hình đè nén, đằng sau có một cái gì đó đang theo dõi, thoắt ẩn thoắt hiện, ta đi nó đi theo, ta chạy nó chạy theo, ta đứng lặng, không gian lại hóa như tờ. Giống như trò mèo vờn chuột, một sự khủng bố tinh thần cả người đọc sách lẫn nhân vật, “cảm giác sợ chết còn đáng sợ hơn chính cái chết.” Bốn chương sách luôn kết thúc bằng việc thi thể các cô gái được tìm thấy với nhiều dấu vết thảm sát để lại chứng minh dường như do con báo gây ra và “ông bầu thất nghiệp” Maning cùng cảnh sát tranh cãi nhau về việc liệu thảm án có phải là do ác thú bốn chân này gây ra thật hay không. Trong khi đó dân chúng ngày càng hoang mang và lo sợ mình sẽ trở thành nạn nhân tiếp theo. Quả nhiên thứ đáng sợ nhất chính là nỗi sợ hãi. Chương cuối cùng, luôn luôn được xác định là màn suy luận dẫn đến tìm ra hung thủ, lại một lần nữa, không gian đậm chất gothic lại xuất hiện trở lại, đầy u ám, bất an và hồi hộp. Series “Đen” của Woolrich không có một hình mẫu thám tử cụ thể, một ông thanh tra trong “Cô dâu đen” hay một bầu sao thất nghiệp trong “Ám ảnh đen”, ai cũng có thể trở thành nhân vật chính anh hùng trong sách của ông. Trinh thám đen nói chung và “Ám ảnh đen” nói riêng không đặt nặng tính suy luận, truy tìm thủ phạm, Nếu để ý người đọc sẽ thấy tư duy trinh thám, suy luận trong sách có nhiều lỗ hổng và không được đánh giá cao. Nhưng bù lại, tính hành động xuất hiện xuyên suốt toàn nội dung, hung thủ khá bất ngờ. Không đề cao tính logic, câu chuyện tập trung chú trọng đến sự hồi hộp và bí ẩn, qua đó khắc họa tính cách các nhân vật, ai cũng có số phận riêng, cuộc sống riêng, nhưng “một thời khắc định mệnh” xuất hiện và tất cả họ bị cuốn vào “vòng xoáy đen” của tội ác, do sự hoang dã của thiên nhiên hay sự đáng sợ của lương tâm con người? Lựa chọn hình ảnh “Con báo đen” là trung tâm của tội ác, một con thú hoang dã, điên dại, lấy giết chóc làm vui, đối ngược với hình ảnh các nạn nhân – luôn là những cô gái yếu đuối, tác giả muốn nhắn nhủ một thông điệp rằng: “Đôi khi người ta giết người vì đam mê, đó là bản năng thú tính, nguyên thủy, hoang dã tồn tại trong một góc khuất nào đó, chỉ đợi bùng lên. Giết chỉ để giết thôi. Vì chúng thích cảnh máu me. Máu khiến chúng mê mẩn.” ——————————————————————- 2018/05/08, Hà Nội đêm hè, Ngọc Vũ tạ bút. *** Cơn gió nhè nhẹ thổi khiến mấy lọn tóc ẩm ướt của cô khẽ vương trên khuôn mặt. Cô cố nheo mắt lại để tránh những giọt mưa vẫn đang rơi. Cơn mưa bất chợt khiến ai cũng trở nên vội vã lao thật nhanh trên những vỉa hè trơn trượt. Những chiếc xe chạy ngang qua làm nước bắn tung tóe lên giày của khách bộ hành. Âm thanh ồn ã từ những phương tiện giao thông khiến cô chỉ nghe lõm bõm được câu chuyện cậu con trai đang kể từ lúc được mẹ đón ở trường về. Cậu nhóc vẫn liến thoắng không ngừng, huyên thuyên đủ thứ chuyện, không giấu nổi sự phấn khích với thế giới mà cậu đang được lớn lên trong đó. Cô nghe loáng thoáng được vài chi tiết từ câu chuyện, về một người bạn thân, một dự án ngoài vũ trụ, một giáo viên mới ở trường rồi nhìn con và khẽ mỉm cười, mặc cho gió lạnh đang thổi từng cơn qua chiếc khăn quàng cổ. Cậu bé cười toe toét với mẹ, lắc lư cái đầu để những giọt mưa vương trên tóc khẽ rơi xuống. Cơn mưa khiến cho hai hàng mi đẫm nước. “Và con có thể viết tên của mình mẹ ạ.” “Con là cậu bé thông minh mà.” Cô nói và dừng lại, đặt một nụ hôn thật say sưa lên vầng trán còn ướt của cậu bé. “Con sẽ cho mẹ xem khi chúng ta về đến nhà chứ?” Cô và cậu con trai 5 tuổi cố gắng rảo bước thật nhanh. Gần tới nhà rồi. Ánh đèn ô tô phản chiếu từ mặt đường ướt sũng khiến mắt họ bị chói trong chốc lát. Chờ tín hiệu đèn đỏ, họ bước nhanh qua con đường tấp nập xe cộ. Cô nắm chặt tay con trai qua lớp bao tay len mềm mại để chắc chắn rằng cậu bé có thể bắt kịp mình. Những chiếc lá đẫm nước mưa vương trên hàng rào không còn tươi màu nữa mà đã dần chuyển thành nâu xám. Hai mẹ con đến một con phố yên tĩnh, nơi có ngôi nhà của họ. Ngôi nhà ấy luôn khiến họ nghĩ về những điều ấm áp nhất. An ninh ở khu phố khiến cô yên tâm thả tay con trai để vén những sợi tóc ướt lòa xòa trên gương mặt rồi chợt mỉm cười khi thấy từng giọt nước rỏ xuống từ mái tóc. “Nhà mình kia rồi”, cô nói với con trai khi hai mẹ con băng qua một khúc rẽ, “mẹ vẫn bật đèn sáng đó.” Chỉ vài bước sang bên kia đường nữa thôi là tới căn nhà của họ. Đó là một ngôi nhà gạch đỏ với thiết kế hai phòng ngủ, căn bếp nhỏ xinh và một khu vườn đầy những chiếc chậu hoa rỗng mà cô luôn định bụng một ngày nào đó sẽ tô điểm chúng bằng những cây hoa đủ màu sắc. Nhà chỉ có hai mẹ con. “Con sẽ đua với mẹ…” Vốn là một đứa trẻ hiếu động, cậu bé chạy nhảy, nghịch ngợm suốt ngày, chỉ khi nào đi ngủ mới chịu ngừng lại. “Thử xem nào!” Ngay lập tức, cậu bé lao nhanh về hướng ngôi nhà có ánh đèn sáng hắt ra từ trong sân, háo hức khi nghĩ về cảm giác thân thuộc và ấm cúng trong ngôi nhà. Nào là sữa, rồi bánh quy, cả 20 phút xem ti vi và chút bánh để nhấm nháp cùng với trà nữa. Những điều này đã nhanh chóng trở thành thói quen của họ khi kỳ học đầu tiên của cậu bé mới đi qua được gần một nửa thời gian. Bỗng nhiên một chiếc xe hơi không biết từ đâu lao đến. Phanh xe ướt nước rít lên những âm thanh chói tai, rồi dường như có tiếng vật gì đó bị đập mạnh vào kính xe. Cậu bé bắn tung lên giữa không trung, rơi mạnh xuống mặt đường. Cô vội lao tới bên con, vụt qua trước đầu xe vẫn đang di chuyển. Cô trượt chân ngã sõng soài, hai tay đập mạnh xuống nền đường, gần như nghẹt thở vì cú va chạm. Mọi chuyện diễn ra chỉ trong chớp mắt. Cô vội quỳ xuống bên cạnh con trai, hoảng loạn tìm mạch đập. Cô vẫn kịp thấy hơi thở của mình tạo thành một làn khói trắng lơ lửng trong không khí. Rồi cô thấy một bóng tối hình thành từ phía sau đầu mình, nghe thấy bản thân đang gào khóc như thể con người đó là ai khác. Cô nhìn lên chiếc kính xe mờ đục, miệng gào lên van xin những kẻ giấu mặt ngồi trong xe cứu giúp mình. Cô ôm choàng lấy con trai, vớ lấy áo khoác quấn quanh hai mẹ con, cố gắng dùng cơ thể của mình sưởi ấm cậu bé. Mép áo ướt sũng vì ngấm nước mưa đọng trên mặt đường. Cô hôn lên khuôn mặt con như điên dại, cầu xin cậu bé tỉnh dậy. Chợt luồng ánh sáng rọi từ đèn pha chiếc xe hơi mỗi lúc một xa dần. Nó đang đi lùi. Động cơ xe rú lên, kẻ ngồi trong đang đánh lái ba, bốn lần nhằm xoay đầu trong con phố hẹp. Trong lúc vội vã chạy trốn, gã đã quệt thân xe vào một cây phong nằm bên vệ đường. Và rồi con phố chìm vào bóng tối như lúc ban đầu. Mời các bạn đón đọc Giải Thoát của tác giả Clare Mackintosh.
Ám Ảnh Đen
Ba giờ sáng, khi những ồn ào của thành phố khép lại, những con phố bao trùm bởi bóng tối. Đó cũng là thời điểm thích hợp nhất cho những chuyến “săn đêm". Ám ảnh đen mở ra bằng một màn quảng cáo giật gân: một nữ ca sĩ dắt báo đen đi diễu phố. Nhưng rồi con vật ấy vùng chạy và mất hút trong lòng Ciudad Real, một thành phố Nam Mỹ rộng lớn. Chẳng bao lâu sau, người ta phát hiện ra thi thể một cô gái trẻ bị xé xác, rồi một cô gái khác… Cả thành phố chìm trong sợ hãi. Nỗi ám ảnh đen rình rập đâu đó trong các ngõ ngách và bụi rậm, với bước chân êm như nhung và móng vuốt sắc tựa dao cạo, sẵn sàng vồ lấy những nạn nhân xấu số. Trong khi cảnh sát mải mê tìm kiếm con báo “cuồng mồi” nguy hiểm kia, một người đã quyết định đào bới sâu hơn - truy lùng một sinh vật còn khủng khiếp hơn bất cứ loài dã thú nào…Một kế hoạch “đi săn” mới được vạch ra… *** Review Quynh Anh Thi Dang (Điền Yên) -------------------------- Lúc nhận được sách, tôi nghe nói nó giống Dolocher. Tôi hơi chờn chờn vì tôi xem Dolocher mãi không hết. Một ngày nắng như đổ lửa nọ, tôi mở Ám ảnh đen ra coi cho đời bớt chói. Và thế là bị hút vào luôn. Mở đầu giới thiệu hoàn cảnh không có gì lắm: một nữ diễn viên muốn chơi trội bằng cách dắt báo đi chơi. Ngờ đâu con báo lồng lên rồi chạy mất hút. Sau đó, liên tiếp các vụ án mạng khủng khiếp xảy ra. Nạn nhân đều là các cô gái trẻ, vì lý do gì đó, ở ngoài đường vào ban đêm vắng vẻ. Thảm trạng của nạn nhân rất kinh khủng: đều bị móng vuốt xé xác tơi tả nhưng không bị ăn thịt. Tràn ngập truyện là bóng tối - kẻ bất khả chiến bại, cứ 24 giờ một lần, đánh bại mọi đối thủ. Tác giả mô tả quá hay. Ví dụ như lúc Teresa đi trong hầm tối, bị bủa vây bởi nỗi sợ hãi, cô bé muốn chạy nhưng chân tay bủn rủn, chỉ còn cách chờ cái chết đến. Tôi nhớ đến những giấc mơ của tôi. Rất nhiều lần, tôi nằm mơ thấy mình rơi vào hiểm cảnh, lẽ ra tôi phải chạy thục mạng nhưng toàn thân tôi đơ cứng, không sao cử động nổi. Tim tôi đập thình thịch. Có lúc tôi còn nghĩ trong giấc mơ rằng Adrenalin quái quỉ gì, nghe nói sẽ khiến con người làm được những việc phi thường cơ mà, tại sao mình lại không chạy được? Và khi cái chết trùm bóng đen lên tôi thì tôi choàng tỉnh vì quá sợ hãi. Tôi chưa bao giờ chết trong mơ. Tiếp đến vụ Conchita. Chất điện ảnh của Ám ảnh đen hay kinh khủng. Những chi tiết đủ nhỏ để người đọc tự vẽ trong đầu cảnh tượng của truyện, cũng đủ uớc lệ để cảnh tượng đó của mỗi người sẽ khác nhau, tuỳ vào nỗi sợ hại của họ. Cùng một sự vật đó, dưới ngòi bút của tác giả, nó hiện lên khác hẳn bình thường, mà lại giống với cảnh phim kinh dị nào đó ta đã từng xem qua. Cô gái cuối cùng, trời, tôi muốn yêu cô ấy vì lòng can đảm tuyệt vời. Tôi là người đọc mà còn thấy hồi hộp đến mức mồ hôi lạnh ướt cả tay, thế mà cô ấy lại có thể chế ngự được nỗi sợ hãi, diễn vai mồi nhử từ đầu đến cuối không hề sai sót. Cái kết khá bất ngờ. Ngay từ đầu tôi đã không nghĩ là con báo vì nó sổng khi bị rọ mõm. Nó không bị giết thì cũng chết đói, sức đâu đi vồ người rồi bỏ đi. Nhưng tôi không nghĩ ra cái kết của tác giả. Cái bìa nhìn cũng hay đấy, nhưng không giống mô tả trong truyện, hoặc ít nhất là không giống tưởng tượng của tôi về hoàn cảnh trong truyện. Được cái lần này, tôi không nhớ mình có gặp lỗi chính tả nào không :))) Chấm điểm: 8.25/10 *** Cornell Woolrich (1903-1968) là một trong những nhà văn “trinh thám đen” vĩ đại nhất thế kỷ XX. Ông để lại một kho tàng đồ sộ gần 200 truyện ngắn hình sự. Nhưng tiểu thuyết trinh thám mới là lĩnh vực ông để lại dấu ấn lớn hơn cả. Truyện của Woolrich không có một hình mẫu thám tử cố định, nhưng vẫn cuốn hút độc giả bởi hình ảnh những con người bình dị phải vùng vẫy thoát khỏi định mệnh nghiệt ngã bủa vây. Văn phong tinh tế, tình tiết đầy ám ảnh, kết thúc bất ngờ, tất cả đã tạo cho Woolrich một phong cách rất riêng. Ông được mệnh danh là “Poe của thế kỷ XX”. Cornell Woolrich cũng là một trong những nhà văn trinh thám có nhiều tác phẩm được dựng phim nhất: gần 60 lần chuyển thể lên màn ảnh rộng, trong đó có ba bộ phim gần chạm ngưỡng kinh điển là Phantom Lady, The Window và No Man of Her Own. Đạo diễn danh tiếng Alfred Hitchcock đặc biệt ưu ái khi chọn đến 5 truyện ngắn của ông để chuyển thể, nổi tiếng nhất là Rear Window. *** Trong khi người người dạo phố thì cô ngồi bên cửa sổ, đắn đo giữa một chùm nho pha lê và một bông dành dành tươi, không biết nên gài món đồ nào lên vai áo. Đúng lúc ấy, có tiếng ai đó gõ lên cánh cửa căn phòng nằm đối diện phòng lễ tân. Cho dù chọn món đồ nào, cô cũng biết nó sẽ trở thành một trào lưu lan khắp thành phố. Hàng trăm cô gái trẻ sẽ đua nhau đeo nho pha lê hoặc hoa dành dành tươi những tuần sau đó. Khó mà tin nổi mới mấy năm trước, chẳng ai quan tâm cô gắn thứ gì lên vai. Thật ra thì chẳng ai đoái hoài đến cô chút nào. Hồi ấy, cô vẫn còn đi đôi giày bệt mòn vẹt và liên tục bị mấy hàng ăn ven đường xoàng xĩnh tại Detroit cho thôi việc. Còn giờ đây… Cô không thể ngừng quay đầu lại để ngắm nó ngoài cửa sổ. Đó là minh chứng, là biểu tượng cho thấy cô quan trọng nhường nào, cho dù địa vị này có ngắn ngủi đến đâu. Chính cái hình bóng ngoài kia. CASINO HẠNG SANG KIKI WALKER en la gran revista de arte “TRIC-TRAC” Biển quảng cáo ấn tượng nhất thành phố nổi trên nền trời xanh cobalt của buổi chiều muộn. Trong buổi diễn mở màn tuần sau, khi dòng điện truyền vào, đến cả những người sống ở đầu kia quận Alameda cũng sẽ thấy được tên cô trên màn đêm. Đã có nhãn hiệu nước hoa và sơn móng tay đặt theo tên cô rồi, tất nhiên họ phải trả tiền mới được lãnh vinh dự ấy, và cả thức uống mới nhất tại quán bar Inglaterra sang trọng nữa, cocktail Kiki Walker (đầu đỏ rực và thấu tận óc, theo như cách giải thích của người pha rượu). Suốt mùa đông vừa rồi (từ tháng Sáu đến tháng Chín), cô đi diễu như nữ chúa khắp thành phố lớn thứ ba miền Nam kênh đào Panama này, với xe hơi và tài xế riêng, người hầu riêng và phòng khách sạn hạng sang. Đối với một cô gái đàn ca mua vui cho mấy quán xá Detroit bỗng vụt tỏa sáng thành một ngôi sao sau một tour diễn rong, điều đó không tệ. Không tệ chút nào. Cô vẫn chưa hiểu lắm là nhờ đâu mà mình được như thế này. Một chút tài năng nhảy múa, một xíu tài nghệ ca hát và cực kỳ nhiều may mắn đã hỗ trợ cô. Chủ yếu là cô đã vô tình ở đúng nơi, đúng lúc và không có đối thủ cạnh tranh. Hồi làm tại Detroit, bài hát của cô bị coi là rẻ tiền, nhưng tại đây thì chẳng ai hiểu ca từ nên thành ra chúng nghe có vẻ sâu sắc. Hồi ở Detroit, mái tóc đỏ của cô xuất hiện nhan nhản khắp nơi, nhưng ở đây nó lại trở thành mặt hàng hiếm. Và cô cũng phải thừa nhận rằng có khả năng, khả năng nhỏ thôi, là Manning cùng mấy cái trò điên rồ của anh ta đã góp phần be bé trong việc thu hút sự chú ý của công chúng về phía cô. Kiki không muốn nhớ về cuộc gặp đầu tiên của họ. Khi ấy Manning ngồi tại một quán cà phê ven đường, râu ria chưa cạo và cổ áo thì dơ dáy; còn cô thì tạt qua quán xem họ có cần tuyển thu ngân, hay thậm chí bồi bàn không. Anh ta mời cô một tách cà phê, bởi vì vẫn còn đủ tiền mua thêm một tách; còn cô trông có vẻ đang cần đến cà phê. Nửa tiếng sau, lúc cả hai rời bàn đứng lên, anh ta đã trở thành đại diện truyền thông của cô. Hai tuần sau, Kiki có công việc đầu tiên và Manning có một cái cổ áo sạch. Mình đã giúp anh ta thành danh, cô hay ngắt quãng dòng hồi tưởng khó chịu kia ở đoạn này. Chuyện anh ta góp phần tạo nên thành công của cô nghe thật không tưởng, chẳng đáng nghĩ đến dù chỉ một giây. Bất kể ai đã giúp ai thành danh, chỉ có điều này là chắc chắn: Giờ cả thành phố đang phát điên lên vì cô. Tiếng gõ cửa lại vang lên. “Maria, chắc là Senor Manning đấy,” cô gọi chị người hầu. “Cho ông ấy vào đi.” Cô nghe tiếng then kéo được mở ra, nhưng thay vì câu chào khe khẽ quen thuộc, chị hầu gái lại rú lên chí mạng. Có tiếng bước chân chạy rầm rập, tiếng ghế đổ cái rầm, như thể ai đó vừa ngã lăn ra. Kiki vội xoay người trên băng ghế, tò mò đứng dậy. Trước khi cô kịp làm gì khác, nó đã lộ diện. Cảnh tượng đáng kinh ngạc đến độ tâm trí dứt khoát không tin nổi vào hình ảnh mà cặp mắt thu được, ngay cả khi nó đang lồ lộ trước mặt. Một cái đầu áp sát mặt đất, bấy giờ đang chui qua cửa, tiến về phía cô. Trong khoảnh khắc hoảng loạn đầu tiên, cô chỉ có thể nhận ra đây là đầu của một con vật họ mèo. Mấy từ báo đốm, báo hoa nối đuôi nhau lướt qua bộ óc đờ đẫn vì sốc của cô. Bộ lông đen thẫm, cặp tai nhọn ép phẳng, mõm gí sát thảm, con vật bước đến rất nhanh, tấm thân thuôn dài gợn sóng một cách uyển chuyển. Cô chỉ nhịn được đến lúc ấy trước khi la hét thất thanh, hòa cùng tiếng hét của chị hầu gái. Cô quay lại và nhảy vọt lên bàn trang điểm với sự nhanh nhẹn đầy bản năng của một vũ công. Nước hoa, phấn hộp và đồ trang trí rơi tứ tung xuống khắp sàn nhà, một hộp nhạc nhỏ lập tức ngân nga ngay khi chạm đất. Cô đứng tít trên đó múa may loạn xạ, tóm lấy phần váy gần đùi và vung vẩy nó lia lịa để xua đuổi nỗi kinh hoàng kia. Chỉ đến khi ấy, cô mới để ý cái rọ mõm siết chặt bộ hàm con vật cùng sợi dây buộc đang căng ra, và cả gương mặt đậm chất Trung Tây quen thuộc của Jerry Manning đang nhòm cô từ phía sau. Tiếng la hét trở nên tròn vành rõ chữ hơn, nhưng không giảm âm lượng chút nào. Chắn giữa họ là cái thân mình duyên dáng, uyển chuyển, uốn éo chẳng khác nào loài bò sát của con vật. Bấy giờ nó đang kéo căng dây buộc, bụng áp sát sàn, các thớ cơ vai mạnh mẽ nổi gồ lên dưới lớp lông đen mượt mà, đuôi giật liên hồi, chân tìm cách vồ lấy cái hộp nhạc đang phát ra một giai điệu trong trẻo như tiếng sáo. “Lôi nó ra khỏi đây!” Kiki rú rít như đang ngân quãng tám. “Manning, anh mắc chứng quái gở gì thế, sao lại mang cái thứ đó vào trong này?” “Nó sẽ không làm hại cô đâu,” Manning tìm cách giải thích, đẩy cái mũ cối lên qua vầng trán. “Chẳng việc gì phải sợ cả. Ban nãy, chính tôi đã ngồi cùng nó trong xe chở nông sản suốt chặng đường đến đây. Con báo đã được thuần hóa hoàn toàn. Nó vốn được một tay sống ở ngoại ô nuôi dưỡng từ khi còn bé tí mà.” “Rồi, thế anh mang nó đến chỗ tôi làm gì?” Ít nhất cô cũng đã ngừng la hét. “Tôi tin là trong lúc thực hiện chuyến ngao du hàng ngày quanh khu Alameda, sẽ là ý hay nếu cô dắt theo con vật này.” “Dắt theo cái thứ đó ấy hả? Không bao giờ! Còn lâu tôi mới đi cùng nó ra cửa, chứ đừng nói là ngồi cùng một xe với nó rong ruổi khắp Alameda! Giờ nghe cho rõ đây, Manning, tôi bắt đầu thấy mệt mỏi với sóng não nhà anh…” Anh ta tranh thủ đưa một tay lên châm điếu thuốc. “Hãy nghĩ thử mà xem, cô sẽ gây dậy sóng cỡ nào? Chỉ cần bước xuống khỏi xe với con báo bên cạnh, ghé vào quán Globo nhấm nháp vài hớp Martini trong mấy phút thôi. Chuyện ấy có gì khó khăn nhỉ? Tôi đã cài cắm nhiếp ảnh gia khắp quán để chụp cảnh cô dắt theo nó rồi. Tôi có thể giúp cô độc chiếm toàn bộ trang đôi của tờ Grafico Chủ nhật tới này, lão Herrera đã bật đèn xanh. Nguyên hai trang ảnh in ống đồng xanh, chỉ dành riêng cho cô. Nhìn này, tôi còn kiếm cho cô cả một cây roi vàng để mang cho đủ bộ.” “Anh tử tế với tôi quá!” Cô giận dỗi nói. “Chuyện này chỉ tốt cho cô, chứ không phải cho tôi,” anh ta dỗ ngon dỗ ngọt. “Tuần tới cô diễn mở màn rồi. Dân Mỹ Latin thích các siêu sao trông phải thật khác biệt. Cô muốn tour diễn thành công vang dội phải không?” “Tôi muốn tham gia biểu diễn, chứ không phải nằm băng bó đầy người trong một bệnh viện nào đó,” cô nói. “Mọi thứ đã chuẩn bị xong xuôi hết rồi, giờ tôi còn cần chiêu trò làm gì nữa? Nếu là lúc mới bắt đầu sự nghiệp thì lại khác.” “Chẳng bao giờ cô xong xuôi trong cái ngành này được đâu. Thôi nào, Kick, chịu chơi đi. Xem này, nhìn tôi một tí nhé.” Con vật đang nằm ườn một bên, lười nhác liếm láp bên chân. Anh ta cúi xuống, gập ngón trỏ lại và nhẹ nhàng vuốt lớp lông mượt dưới bụng nó mấy lần. Nó lập tức lật ngửa lên theo đúng kiểu bọn mèo nhà, bốn chân giơ trên không, khẽ khàng tìm cách gạt ngón tay anh ta ra. “Cô không thể kiếm được con báo nào thuần hơn con này đâu. Cứ thử dắt nó xem. Chỉ cần thử thôi, xem cảm giác thế nào.” Anh ta vươn ra và chộp lấy bàn tay hãy còn ngại ngần của cô, luồn vòng dây buộc qua mấy ngón tay. Kiki vẫn đứng im trên bàn, trong lòng đã bắt đầu xuôi xuôi, dù không biểu hiện đồng tình ra mặt. Váy cô đã được thả xuống như cũ. Anh ta buông tay, sợi dây dắt nằm hoàn toàn trong lòng bàn tay cô. “Tôi sẽ ngồi trong một cái taxi ngay đằng sau và theo sát cô suốt cả chặng đường.” Riêng việc này thì cô kiên quyết rắn mặt, “Ồ không, anh sẽ không làm vậy. Hoặc anh đi cùng xe với tôi và ngồi trên ghế trước, hoặc là tôi sẽ ở lì trong này không thèm ló mặt ra đường.” Anh ta để dành lập luận hiệu nghiệm nhất của mình vào phút chót. Bằng kinh nghiệm bản thân, Manning biết chắc nó sẽ thuyết phục được cô ngay lập tức. Anh chàng này quả là một nhà tâm lý học ranh mãnh. “Cô nhìn mà xem, con báo hợp với bộ đồ cô đang mặc chưa kìa! Cô phải tận mắt thấy mình với nó hợp thành một bộ đôi ấn tượng ra sao! Xuống dưới này một phút thôi, Kick, đứng cạnh nó và nhìn vào gương đi! Đến cả hai vị nữ hoàng Zenobia và Cleopatra cũng không thể sánh được bằng cô!” Anh ta giơ tay lên đỡ cô xuống. Có vẻ đòn tấn công đã phát huy tác dụng. Tiếp tục liếc con báo đầy ngờ vực, Kiki dè dặt chúc mũi chân xuống, chuẩn bị đặt chân lên sàn một lần nữa. “Chết tiệt,” cuối cùng cô thốt ra, chút bỗ bã từ những tháng ngày lăn lộn ở Detroit tái trỗi dậy, “tôi thật đúng là biết hi sinh vì nghệ thuật!”   Mời các bạn đón đọc Ám Ảnh Đen của tác giả Cornell Woolrich.