Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nàng Betty Đen

Với những người Mỹ da đen, thời điểm lúc này là trông chờ một tín hiệu lạc quan. Thế nhưng chàng cựu thám tử Easy Rawlins lại nhìn thấy hiện tại đen tối, tương lai mù mịt. Bình thường gã phải ném quăng trả lại hai tờ trăm đô la vô mặt tên cớm nhếch nhác này, hắn là một tên cớm da trắng đang cần gã truy tìm tung tích nàng Betty đen kiều diễm nước da ngăm đen, quyến rũ như một phụ nữ đa tình mơ ước được giàu sang và chiếm đoạt bọn đàn ông. Nàng giã từ khu phố Fifth Ward ở Huston để đến đô thị sang trọng của giới thượng lưu ở Beverly Hills. Còn nhiều bí ẩn Easy chưa nghe kể, thế mà gã không thể từ bỏ ý định gặp lại nàng Betty cho dù phải liều mạng. *** Bộ sách về Easy Rawlins gồm có:  Con Quỷ Áo Xanh Bướm Trắng Nàng Betty Đen ... *** Walter Mosley là nhà văn Mỹ da đen, tác giả nhiều tập truyện trinh thám huyền ảo. Ông là một tác giả được tổng thống Bill Clinton ưa chuộng nhất với lối viết trang nhã, lôi cuốn người đọc. Nhân vật chính trong những tập truyện trinh thám của ông là nhà thám tử Easy Rawlins. Ông đã từng được bầu làm Chủ tịch Hội nhà văn trinh thám Mỹ, thành viên Ban giám khảo giải sách hàng năm, sáng lập viên Hội sách Trung tâm văn bút Mỹ. Hiện ông là nhà văn trinh thám hàng đầu ở Mỹ, tác phẩm của ông được báo New York Times xếp hạng bestseller. Liền sau đó các tác phẩm nổi tiếng ra đời: Cái chết đỏ; Nàng Betty đen; Bướm trắng; Thủ lĩnh Jones v.v... *** Bọn chúng đang đứng chờ dưới ánh đèn vàng trong ngõ hẻm phía sau quán rượu John. Gã Bruno Ingram, biệt danh Bàn Tay Lớn, thân hình vạm vỡ đang đứng im với vẻ mặt vênh váo. Gã mặc bộ đồ vét may bằng hàng mohair, phía trong không có áo sơ mi, đầu để trần. Tay đứng gần bên dáng người nhỏ con, trông bộ đồ bó sát người sáng như bạc, tôi đoán loại hàng nhập của Ý. Tôi đứng núp sau lối của ra vào lắng nghe bọn chúng trao đổi một lúc. “…Dodge thua cuộc” - Mouse - tên nhỏ con vừa nói. Trông hắn có vẻ hài lòng. - Cậu còn nợ mình hai lăm cent. “Đến đây, Sooky” - một giọng nói vô hình vẳng lên từ giữa đường phố. Giọng nói một chàng thanh niên. “Đâu có, Alfred” - một giọng nói của phụ nữ trả lời nghe rõ từng tiếng. Nhưng đoạn sau, tôi không nghe được nàng nói gì. Gã Bruno đổi giọng: - “Cút đi ngay, đồ âm binh”. Tôi quay lại, một cảm giác sợ hãi trỗi dậy trong người - Mẹ kiếp! Mi bú con… đen thui của tao đây nè. Tôi muốn la lên một tiếng, nhưng cổ họng như nghẹn lại. Mouse xô đẩy Bruno, hắn chỉ muốn giữ một khoảng cách vừa đủ để rút khẩu súng ngắn nòng 41 ra. Bruno nhếch mép cười chợt vẻ mặt gã biến sắc như đứa trẻ lên tám có tội. Phát súng vừa vang lên gã đã lùi lại phía sau cả thước, hai bàn tay chìa ra phía trước y như gã mộng du trong truyện tranh. Người gã muốn ngã nhào xuống đất, khẩu súng trên tay Mouse, tiếp tục nhả đạn đẩy lùi Bruno dạt về phía cửa sau nhà hàng. Chợt nghe một tiếng thét vang lên, tôi bước đi loạng choạng giật lùi về phía cửa ra vào. *** Tôi giật mình choàng dậy giữa đêm khuya. Tôi ngỡ ngàng không rõ mình đang ở đâu. Tôi đang nằm trên tấm nệm thật êm, giương tay tìm chiếc đồng hồ nhưng bàn để đầu giường đâu mất. Tôi té ngã từ trên chiếc ghế ở bên ngoài bãi cỏ xuống thềm nhà. Rồi tôi nhớ lại không khí bên trong nhà nóng nực. Bọn trẻ Jesus và Feather phải cho chạy chiếc quạt gió từ ngoài cửa sổ thổi vào buồng ngủ của Jesus. Tôi hay thức giấc lúc hai giờ sáng, và lúc nào người tôi cũng ướt nhem mồ hôi. Tôi ngồi ngay dậy cố xua đi cơn ác mộng. Chuyện đó đã qua năm năm, cứ mỗi tháng tôi nằm mơ thấy cái chết của Bruno một lần, nhưng dạo sau này lại thường hơn. Tôi không thể quên được hình ảnh thằng bạn thân nhất, không thể quên được giây phút khi súng dồn Bruno vào chân tường. Tôi muốn nghĩ đến những chuyện tốt đẹp hơn. Đó là hình ảnh ngài Tổng thống người Ai- len, chuyện ngài Mục sư Martin Luther King, tình hình thế giới đang đổi thay và chuyện một anh chàng da đen sống ở đất Mỹ được công nhận là một người công dân chân chính trải qua mấy trăm năm nay. Trong cái thế giới đó, đang rung chuyển mỗi ngày vì các vụ thử hạt nhân ngầm dưới đất và chiến tranh chực chờ bùng nổ. Tôi đi ra phố, chợt thấy thằng bạn cũ Martin Smith nằm chết phơi thấy trên đường. Hắn là đứa học trò được thầy giáo quan tâm nhất. Tôi định đến thăm hắn từ lâu nhưng không hiểu vì sao tôi cứ tránh mãi. Tôi đang đứng giữa trời. Gió tháng chín càng thổi gắt. Gió mỗi lúc một nóng bức như đang thiêu đốt tâm hồn tôi. Tôi tưởng chừng như nghẹt thở hơn nhưng chẳng ai ngó ngàng tới - tất cả đều bỏ mặc tôi với cái xác chết vô tội kia nằm ngoài đường phố tối om. Nhìn về phía trên kia đường, vệt nắng sớm mai trải dài lấp lánh trên nóc, dãy nhà. Thật là một ngày tươi đẹp lại đến, nhưng không phải ai cũng được diễm phúc đón nhận. Gã Bruno đã yên phần dưới nấm mồ năm năm rồi, còn Mouse thì đang rên siết trong nhà tù ở Chino vì can tội ngộ sát. Tôi cũng là một tù nhân đây. Tù nhân của tội lỗi, tù nhân của vô thức. “Có phải ông Rawlins?” - giọng nói lạ vừa cất lên. Tôi lại giương tay tìm khẩu súng ngắn để trên bàn tại đầu giường. Nhìn lại tôi không còn ở trong phòng ngủ. Tôi đang trần truồng, không có chăn đắp, nằm một mình trong bóng đêm ngoài trời. Tay tôi nắm lấy cái gạt tàn bằng đất sét Jesus nắn nót làm ra trong những ngày đi trại hè. “Ai vậy kìa?” - tôi cố giữ vẻ bình thản. Tôi nhìn rõ bóng hình in trên tấm màn cửa là một gã đàn ông. Tôi giật lấy tấm drap dưới sàn quấn vào thắt lưng mình. “Saul Lynx đây! Thưa ông Rawlins” - Tôi biết hắn là một tên da trắng. - “Ông có thể nói chuyện một chút được chứ?”. “Hở? Sao?” - Tay tôi nắm chặt cái gạt tàn đất sét đến nỗi bể vụn nghe răng rắc. “Tôi biết giờ này còn sớm” - tên da trắng vừa nói “Nhưng tôi cần phải gặp ông. Tối qua mới biết được tên ông. Tôi đứng chờ bên ngoài lần theo địa chỉ từng nhà, lúc tìm ra được thì ông đã lên giường ngủ. Ông biết đó, cho đến bây giờ tôi mới nói cho ông nghe được”. “Vậy sao ông không cút đi sáng mai trở lại đây có được không?”. Tôi dồn tất cả sức mạnh vào cánh tay để ném cái gạt tàn qua tới chỗ màn cửa. Nếu thò tay đẩy then cửa thì chỉ có nước chết. Gã không tỏ vẻ giận dữ, gã lại nói “Tôi đến đây giới thiệu cho ông một chỗ làm. Nội bữa nay - sáng hôm nay. Ông có thể mở đèn cho sáng sủa được chứ?”. Tôi không muốn ai nhìn thấy mình đang trần truồng. Tôi rất dị ứng nếu có ai nhìn thấy được da thịt tôi. Tôi muốn nằm im một chỗ trong bóng tối tôi chợt hiểu ra tôi không thể im lặng một khi có ai đó đã biết mình đang ở đâu. Tôi quân tấm drap quanh người như chiếc áo choàng dân châu Phi rồi bước tới sau cánh cửa và bật đèn. Tôi nhìn thấy Lynx đứng núp dưới ánh đèn mờ nhạt phía ngoài tấm màn che. “Cho phép tôi vô nhà được chứ?” - Gã vừa cất tiếng. “Ông vô đây”. - Tôi gắt giọng Người gã nhỏ thó mặc bộ đồ vét màu nâu nhạt, thắt cà vạt nâu để hờ. Chiếc mũi to nổi bật trên khuôn mặt xấu xí, nhô lên một đống. Hắn đội mũ màu nâu, mặc bên trong chiếc áo sơ mi trắng tiệp với nước da nhợt nhạt. Đôi mắt hắn xanh sáng rỡ. Thấy tôi, Saul Lynx cười gật đầu, tôi không thèm bắt tay hắn. “Ông không cần phải bắt tay”. - Gã đứng nhìn theo chiếc gạt tàn. - “Tôi không ngạc nhiên khi ông ngủ ngoài trời. Hồi còn nhỏ, những ngày hè nóng bức tôi ngủ ngoài cầu thang thoát hiểm thích hơn là ở trong nhà”. “Ông cần việc gì đây?”. - Tôi gắt giọng vì tôi không còn kiên nhẫn để nói chuyện vớ vẫn. “Như tôi đã nói” - gã nhắc lại, giọng lạnh tanh. “Tôi đến đây giới thiệu ông một việc làm. Tôi có một thân chủ đang cần gấp người đi tìm một phụ nữ mất tích”. Ngoài đường phố Genesee, trời đã sáng tỏ. Tôi nhìn thấy rõ bóng cây minh quyết bên kia đường và bãi cỏ cắt xén gọn của nhà hàng xóm. “Ta ngồi xuống nói chuyện được không?” - Saul Lynx gợi ý với tôi. “Có việc gì quan trọng, ông nói cho hết rồi ra về. Tôi có con nhỏ nên không thích người lạ vào nhà như thế này”. Nhìn Saul Lynx cười tôi ngỡ đâu hắn là nhân viên mai táng thành tâm cười tiễn đưa người chết. “Ông có nghe nói tên một người phụ nữ là Elizabeth Eady bao giờ chưa?” - gã hỏi. Nghe qua, tôi chợt nhớ lại từ cõi vô thức. Nó trùng hợp với thời điểm tháng Chín mùa ẩm thấp cùng với những giấc mơ hàng đêm. “Bà sống ở L.A. hai mươi lăm năm nay, quê quán thì ở Houston”, gã kể lại. - “Hình như là hàng xóm với ông. Tôi còn giữ một tấm ảnh đây”. - Gã chìa ra một tấm ảnh cũ mèm. Tấm ảnh sẫm màu nâu nhạt thay vì ảnh đen trắng. Ảnh chụp theo kiểu lấy liền. Người phụ nữ trẻ đứng trước thềm cửa ngôi nhà nhỏ hẹp. Nàng cười đứng tựa lưng một bên cửa có vẻ ngượng nghịu. Thân hình nàng cao ráo, nước da ngăm ngăm, cho dù có tô một lớp phấn hồng cũng không che được màu da sạm của nàng Betty. Môi miệng nàng hé mở như muốn trêu ghẹo anh chàng phó nhòm. Black Betty không phải là mẫu người phụ nữ đảm đang, mà là mẫu người thích chơi bạo. Nhiều tay đã gục ngã dưới chân nàng. Nếu ai có một người bạn theo tán tỉnh nàng Betty thì hãy khóc giùm cho hắn, bởi nếu không chết thì cũng bị thương. Nàng có ma lực dìm đắm đàn ông và nàng không che giấu cái ma lực đó. Nếu gặp một tay chơi mời nàng đi ăn uống, nàng ít khi từ chối. Bất kỳ ngày nào, thứ Hai, Ba, Tư, Năm - chơi suốt đêm. Betty không thích ngồi lì một chỗ, nếu qua ngày thứ Sáu túi tiền hắn rỗng tuếch - y như rằng Betty bỏ đi ngay. Từ trước đến giờ ít có tay chơi người da màu nào dám bao nàng ăn chơi xả láng. Tại nhà nàng ong bướm dập dìu hàng đêm. Nàng có thể làm tình với bọn da đen một tuần ba đêm là chuyện thường. Tôi đã từng nhìn thấy nàng lê bước chệnh choạng trên hè phố lát gỗ ở khu Houston Fifth Ward. Thuở đó tôi là một thằng nhóc mười hai tuổi ăn mặc lôi thôi, còn nàng đã là một phụ nữ chững chạc. Nàng mặc áo viền đăng ten màu đen, mang găng tay áo choàng lông thú. Đứng gần bên nàng, ngửi thấy mùi hương thơm nồng nàn tôi quên mất mình là ai. Hôm đó tôi đang đứng bên ngoài quán bar Corcheran ở phố Blanford Street. Lúc đó tôi cảm thấy thật khó chịu, lỗ mũi nóng ran. “Mày nhìn gì đó, nhóc kia?” - nàng quay hỏi tôi. “Nhìn bà đó”. “Mày thích nhìn cái gì?” Tôi phải lấy giọng mới nói ra được “Ờ… ờ… phải. Có lẽ bà đẹp nhất trên đời này”. “Có lẽ?”. Tôi chới với. Đáng lý tôi phải khen nàng là người đẹp nhất trần gian. Chỉ có nàng đẹp nhất thôi. Tôi đã bỏ lỡ dịp may được nói chuyện với nàng một lần nữa. “Lại đây, cưng” - người tình nàng vừa cất tiếng. Thay vì nghe theo, nàng bước lại hôn tôi - quanh môi. Nàng thè lưỡi ra khi tôi chưa kịp há miệng. Nàng buông ra lùi lại, tôi té nhào xuống đất. Bọn chúng đứng cười nhìn theo tôi, chỉ riêng Betty không thèm cười. Nàng đắm đuối vì đã áp đảo được tôi. Có một lúc nào đó tôi sẽ té nhào vì nàng một phen nữa, hoặc có khi lọt ra ngoài cửa sổ vì được nàng hôn. “Ông biết nàng chứ, ông Rawlins” - Saul Lynx hỏi. Tôi đang ngắm bức ảnh thì Dawn vừa tới. Tôi nhìn thấy chiếc xe chạy ngang qua bỏ báo ngoài sân và nhà bên cạnh. Vừa lúc đó một người đàn bà da trắng nhanh chân bước ra nhặt tờ báo. Đó là bà Horn, bà thường mất ngủ nên tính hay bồn chồn nôn nóng. Có lẽ bà ngồi chờ xe đưa báo chạy ngang qua từ nãy giờ. “Tôi không nhớ ra nàng”, - tôi đáp. “Được rồi…” - Gã nói giọng dề dà như thể không tin. - “Thôi được, chẳng sao cả. Ông chỉ cần tìm quanh trong khu phố người da màu thôi. Chúng tôi chỉ cần có vậy”. “Chúng tôi là ai vậy?” “Ông chỉ cần biết tôi là đủ rồi”. “Nàng làm nghề gì?” “Chả có nghề gì cả. Theo tôi biết, nàng giúp việc cho một bà suốt thời gian còn ở đây. Nhưng rồi câu chuyện bắt đầu từ đấy. Nàng Eady xin nghỉ việc, nay người chủ cũ gọi về lại”. - Saul Lynx nhếch mép cười đưa tay sờ mũi theo thói quen. - “Nàng không để lại địa chỉ liên lạc và trong danh bạ điện thoại không có tên Elizabeth Eady”. “Nàng làm việc cho ai?” “Tôi không cho phép tự nói ra được”. “Ơ… ơ… Ông tính trả công tìm được nàng là bao nhiêu?” “Hai trăm đô la đưa trước, tìm được nàng lãnh thêm hai trăm nữa”. Gã chỉ tay về phía tôi “Ông phải tiến hành ngay”. Theo tôi biết, người phụ nữ đứng ra trả tiền đang nôn nóng tìm cho được nàng Eady”. “Lấy gì làm bằng chứng ông biết rõ chuyện đó?” “Đấy, ông thấy chưa”, gã nói như muốn được thông cảm. “Tôi chưa hề gặp bà ấy. Bà ấy không quan hệ với các nhà thám tử. Luật sư riêng của bà ấy đứng ra nhờ tôi”. - Nói xong gã rút ra một xấp bạc đưa qua tôi. Tay tôi đang giữ cái gạt tàn còn tay kia cầm tấm ảnh. “Hai trăm đô la ứng trước”, gã vừa nói. Số tiền lớn hơn cả tài khoản tôi gửi trong băng. Đã có lúc tôi mừng vì có được thu nhập từ việc cho thuê một căn hộ chung cư. Năm 1948 nhờ món tiền trời cho, tôi tậu được cơ ngơi. Nhưng do lao vào mua bán nhà đất nên bị phá sản. Tôi cho thuê căn nhà đang ở. Mỗi tuần lễ ăn uống kham khổ thắt lưng buộc bụng cũng vừa đủ sống. Tôi buông cái gạt tàn xuống đỡ lấy xấp tiền. Tôi sờ thấy hơi ẩm vì gã vừa rút trong túi quần ra. “Tôi sẽ lo cho”, - tôi nói cho có. - “Tôi phải đi gặp ông luật sư đó trước rồi sẽ báo cho ông hay sau. Tên ông ta là gì nhỉ?”. “Chờ khi nào ông làm được việc rồi mới nói chuyện đó sau. Tôi sẽ cho ông ta hay là ông cần gặp có chút việc”. - Gã chẳng cần quan tâm đến ý kiến tôi vừa nêu, gã nói tiếp - “Nếu luật sư đồng ý gặp thì liên lạc với ông bằng cách nào?”. Tôi đọc số máy điện thoại gã nghe xong gật đầu. “Làm sao ông tìm ra tôi, ông Lynx. Địa chỉ tôi không nằm trong sổ danh bạ?” “Tên tuổi ông ai mà không biết, thưa ông Rawlins”. Gã móc ở túi sau chiếc ví cũ mèm ra. Gã lôi ra một tấm danh thiếp nhăn nheo cáu bẩn. Chỉ nhìn thấy số điện thoại, địa chỉ bờ biển ở Venise in nét chữ đen lấm tấm dấu mốc meo. Còn tên tuổi không thấy đâu. “Tên chỉ có vậy L- Y- N- X”, gã nói. “Khi nào tìm được cho tôi hay. Càng sớm càng tốt”. “Ông sẽ nghĩ sao nếu tôi không nhận số tiền này? Và vì vậy nên ông còn nợ tôi một việc”. Saul Lynx nhìn thẳng vào mắt tôi, nụ cười điềm nhiên trên gương mặt gã vụt biến. - “Biết đâu tôi nghĩ sai, nhưng tôi dám cuộc ông là mẫu người nói là làm. Dù sao còn có thêm hai trăm đô la nữa kia mà”. “Thế được rồi, nhưng làm sao ông dám tin tôi có thể tìm ra được một người phụ nữ lẫn trong số hai triệu rưỡi người kia? Ông nên cho tôi biết đôi diều về đối tượng đang tìm kiếm chứ”. - Tuy nói vậy nhưng tôi đã biết mọi ngõ ngách tìm ra nàng Betty, tôi chỉ muốn dò la gã da trắng này đã biết được những gì. Gã biết ý tôi định nói gì. Nụ cười thoáng hiện trên gương mặt gã. Chợt gã lắc đầu. “Tiếc là, ông Rawlins, tôi chỉ biết nàng có bạn bè trong xóm dân Negro. Biết đâu có người sẽ nhận ra nàng qua tấm ảnh ông đưa ra”. Tôi định trả tiền lại, chợt tôi nghĩ biết đâu gã sẽ đoán được ý đồ rằng tôi cũng đang khao khát nhìn lại nàng Betty, khi đã là một chàng trai chững chạc. “Tôi sẽ nói chuyện đó sau” - tôi đáp. Lynx đưa tay sờ trán giả vờ thân mật đáp chào. “Nhờ đấy”, gã nói. - “Tôi mong được tin sớm”. Gã nhếch mép cười rồi bước ra. Tôi dưng nhìn theo cho đến lúc gã ngồi vào trong chiếc xe ô tô nhỏ xíu sơn màu nâu. Gã vừa phóng xe đi, bà Horn bước ra - mặt mũi có vẻ bàng hoàng. Lúc nhìn thấy tôi quàng tấm drap quanh mình đứng ngoài trời vẻ mặt bà chợt biến sắc. Tôi không biết bà nghĩ gì trong đầu. Tôi cười gọi với theo, bà không nghe vội vã chạy vào nhà. Tôi cúi xuống nhặt từ báo lên liếc qua mấy hàng tin trên đầu. Nước Nga vừa cho nổ vụ thứ hạt nhân lần thứ ba trong một tháng. Mời các bạn đón đọc Nàng Betty Đen của tác giả Walter Mosley.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tháng Tám Không Vua - Kiutzo Kobayasi
Phóng viên Iximôri trên đường đi công tác từ Fukuoka về Tokyo. Tại ga Hacata anh đọc báo và biết tấm vé tàu của mình mua qua hệ thống bán vé tự động đã bị bán nhầm, nghĩa là có một người khác cũng mua tấm vé với chỗ ngồi của anh. Nhưng vì nghĩ lên tàu sẽ có nhân viên tàu sắp xếp nên anh bỏ qua, không đổi lại. Cùng lúc đó, anh có cảm giác mình bị theo dõi, và sau đó là 2 nhân vật bặm trợn tiếp cận anh để đòi mua lại vé. Cảm thấy có gì bất ổn, anh nhất định không nhượng lại. Anh không biết rằng, tấm vé định mệnh ấy đã đưa anh gặp lại người yêu cũ trên cùng chuyến tàu, đồng thời rơi vào một âm mưu đảo chính tồi tệ của Lực lượng phòng vệ... *** Trong biển sương mù dày đặc, hoàn toàn không thể trông thấy gì cả. Sinh ra không biết ở đâu, từng đám hơi nước nặng nề và xám xịt như những đợt sóng đập vào tấm kính chắn gió, chảy tụ thành từng dòng và chậm chạp tan dọc theo hai bên thành xe. Một sự chuyển động đơn điệu, tẻ ngắt... Đèn pha chiếu không xa hơn một mét đường, những luồng ánh sáng vấp phải bức tường dày của bóng tối, phản chiếu lại rồi tan biến đi trong sương mù. Tầm nhìn xa gần như bằng không. Nếu như đây không phải là xe hơi, mà là máy bay, chắc từ lâu đã phải chuyển sang bay bằng thiết bị thăm dò tự động. Còn về tốc độ thì không cần phải nói. Thậm chí chỉ với hai mươi cây số một giờ, cũng không thể bảo đảm an toàn được. “Đã lâu không có sương mù như thế này...” - Mitiô Ximauti, cảnh sát trưởng khu Trung tâm của quận Aômôri, nhìn qua tấm kính chắn gió của chiếc xe tuần tra và nghĩ thầm. Chốc chốc, trong ánh đèn pha, những chiếc xe hơi ngược chiều, giống như những cái bóng đột ngột xuất hiện và chạy vụt ngang qua. Sự đột ngột đó làm cho Ximauti lo lắng. Hơi nhổm người lên, anh quay sang phía viên cảnh sát trẻ tuổi Muracami đang ngồi sau tay lái ở bên cạnh: - Hay là ta giảm bớt tốc độ đi ? - Để làm gì ? - Muracami hỏi lại. - Đi thế này cũng đã chậm lắm rồi. Không hơn hai mươi kilômét giờ. - Ừ, thôi được, - Ximauti lẩm bẩm và ngồi lại cho thoải mái hơn. Chỉ còn một quãng nữa là đến chỗ rẽ từ quốc lộ số Bốn vào thành phố. Anh nhìn đồng hồ. Đã quá nửa đêm. “Hừ, tìm ra được tên giết người trong sương mù thế này thật không phải dễ, - Ximauti nghĩ. - Có lẽ, bóng tối đã giúp tên tội phạm đi lọt qua các bót kiểm soát của cảnh sát”. Từ một nơi nào đó trong đáy sâu của ý thức chợt hiện lên những đặc điểm của tên tội phạm đã được thông báo cho tất cả các đồn, trạm cảnh sát. Gần hai mươi lăm tuổi. Cao một mét bảy mươi, gầy. Áo khoác màu sáng. Tóc dài. Qua hình dáng bên ngoài có thể đoán được là làm ở quán bar hay khách sạn. Một vụ trấn lột tắcxi bình thường. Vào hồi hai mươi ba giờ, một viên cảnh sát, trong khi đi tuần quanh khu vực của mình trên phố Hasucamati, thấy bên vệ đường, cạnh công viên, một chiếc xe tắcxi đứng tại chỗ nhưng đèn hiệu trên nóc nhấp nháy liên hồi. Khi viên cảnh sát đi đến, một thanh niên từ trong xe nhảy bổ ra, bỏ chạy. Viên cảnh sát đuổi theo, nhưng chỉ thoáng sau tên kia đã mất hút. Lái xe tắcxi, một người đàn ông đứng tuổi, nằm trên ghế, cổ bị thắt bằng sợi dây thừng nilông, đã tắt thở. Tiền thu được trong ngày cũng đã biến mất. Trực ban ra lệnh báo động, các trạm kiểm soát lập tức được đặt khắp mọi ngả đường thành phố. Mười phút sau sự kiện xảy ra, hai chục chiếc xe tuần tra phóng vào màn đêm dày đặc sương mù để truy tìm thủ phạm. -  Chúng ta loanh quanh đã gần hai tiếng đồng hồ rồi đấy. - Không hiểu sao, Ximauti cứ có linh cảm rằng cuộc truy lùng sẽ thất bại. Hình ảnh tưởng tượng của tên giết người bị truy lùng bỗng đột nhiên nhòa mờ đi; thay vào đó, khuôn mặt vợ và đứa con trai của anh hiện ra, mỗi lúc một rõ nét hơn. Mới hôm qua con anh vừa chẵn hai tuổi - cái tuổi tuyệt diệu nhất của đứa trẻ. Bây giờ có lẽ nó đang ngủ. Và Ximauti hình dung ra khuôn mặt say sưa của con anh đang áp vào bộ ngực trần của mẹ nó. Anh lắc mạnh đầu, cho tay vào túi lấy thuốc. Bao thuốc rỗng không. -  Này, Muracami, cho xin điếu thuốc. Tớ hết mất rồi. -  Chờ một tí. - Muracami rời tay khỏi cần lái và hơi nghiêng người, rút bao thuốc từ trong túi đưa cho Ximauti. Đúng vào khoảnh khắc đó, Ximauti trông thấy trước mặt mình hiện lên một bóng đen khổng lồ. Khối thép lớn, từ trong màn sương bay vụt ra, chắn ngang đường của họ. -  Cẩn thận !  - Nhưng tiếng phanh đã rít lên, trước cả khi Ximauti kịp mở miệng kêu. Trong luồng ánh sáng của hai ngọn đèn pha, một khối đen lao tới, như sắp đè cả sức nặng đáng sợ của nó lên chiếc xe tuần tra cảnh sát. Ximauti nghe ớn lạnh toàn thân. Ngay bên cạnh, một luồng ánh sáng chói chang quét vụt qua. Và liền đó, tiếng rú của động cơ đập vào tai. -  Qua rồi !  Chỉ cần một phần mấy giây nữa là... - Cùng với cảm giác nhẹ nhõm, một đợt máu nóng dồn lên mặt Ximauti. Quay đầu lại, anh chỉ kịp nhận ra thùng xe của một chiếc ô tô vận tải rất lớn. Với tiếng gầm nhức óc, nó phóng vụt qua và biến mất trong màn sương tối. -  Đuổi theo !  - Ximauti đập tay lên vai Muracami, ra lệnh. - Nhanh lên ! -  Có ngay !  - Sau một giây lúng túng, viên cảnh sát trẻ đáp. Cuộc chạm trán với chiếc xe tải điên rồ kia đã làm cho anh mất bình tĩnh. -  Nhanh lên !  - Ximauti quát. Bây giờ tất cả mọi nghi ngờ của anh đều tập trung vào chiếc xe khổng lồ vừa chạy lướt qua. Điều này gần như là một linh cảm được sinh ra bởi kinh nghiệm của mười năm làm nghề điều tra. -  Đồ mất dạy !  - Cuối cùng Muracami đã bình tĩnh lại. Anh mở máy, quay gấp tay lái và phóng xe vụt đi. Ximauti chẳng còn nhận ra đồng đội của mình nữa. Nét mặt Muracami - anh đang dồn hết sức dấn ga - biểu lộ một sự tập trung căng thẳng. Tiếng còi rú dài. Cứ mỗi lần trên đường xuất hiện và lớn vụt lên ánh đèn pha của những chiếc xe ngược chiều, Ximauti cảm thấy mồ hôi trên tay mình rịn ra vì sợ hãi. - Chiếc xe kì quái, - Muracami căng mắt nhìn về phía trước, lẩm bẩm. - Hình như chột mắt. “Một đèn pha trước bị vỡ”, - Ximauti giải mã trong đầu lời của Muracami. Chiếc xe tải nặng với một bên đèn pha bị vỡ phóng trong đêm sương mù dày đặc với tốc độ mà họa chăng chỉ những kẻ điên mới dám. Không thể xác định được chính xác, nhưng chắc phải đến bảy-tám mươi kilômét một giờ. Phóng xuyên qua đêm tối, không chọn đường. Một thằng muốn tự tử ngồi sau tay lái chắc ? “Không biết nó vội đi đâu thế nhỉ ? - Ximauti lẩm bẩm, cố nhìn cho được một cái gì đó trong bóng tối. - Đến Môriôca, Xendai hay Tôkiô ?” Đột nhiên ngay trước mũi Ximauti hiện ra thành sau của chiếc xe tải. Trong lần gặp gỡ thứ nhất, Ximauti bị bất ngờ đến nỗi ngoài khối vỏ thép, anh không kịp nhìn ra gì hết. Bây giờ anh mới thấy rõ chiếc thùng xe vận tải có mui rất lớn màu bạc trắng. Ô tô kéo moóc mười tấn bịt kín. Muracami mở còi hết công suất, ra lệnh cho người lái chiếc xe tải phải dừng lại. Nhưng nó vẫn cứ tăng thêm tốc độ, rõ ràng là muốn tìm cách tẩu. - Nó đang cố chạy trốn, - Muracami nói giọng khàn khàn và lại nhấn mạnh thêm chân ga. -  Đuổi nhanh lên !  - Ximauti nghiến chặt hai hàm răng. Ý nghĩ về sự nguy hiểm của cuộc đuổi bắt trong đêm sương mù không còn làm anh sợ nữa. Đuổi kịp !  Đuổi kịp bọn chạy trốn !  Cái máu say mê săn đuổi đã hoàn toàn xâm chiếm Ximauti, nó lây sang cả Muracami đang ngồi bên cạnh, sau tay lái. Động cơ rú mạnh, chiếc xe rung lên trước luồng không khí ngược chiều. Thậm chí cả sương mù cũng bắt đầu loãng ra, để lộ dải sơn trắng giữa tâm đường. Chiếc xe tải phía trước chạy ngoằn ngoèo, từ bên này sang bên kia trên toàn bộ nửa bề mặt rộng của con đường, cố tìm cách chặn không cho những người đuổi theo vượt lên. Đúng là tiết mục của dân Tôkiô. Muracami chúi người về phía trước chờ thời điểm thuận lợi. Cần phải biết chắc rằng phía trước không có xe ngược chiều, và lúc đó có thể vòng sang phía bên kia tâm đường, phóng vượt qua chiếc ô tô vận tải. Nhưng để nhận ra những chiếc xe ngược chiều trong bóng tối dày đặc này đâu phải dễ, nhất là khi phía trước lại còn cả một cỗ xe khổng lồ hết lượn sang phải lại sang trái để tìm cách chặn đường. -  Hừ, cứ đợi đấy, - Muracami khẽ lẩm bẩm và đột ngột đánh quặt tay lái sang phải. Ximauti bị hất đổ nghiêng sang một bên, dải sơn trắng giữa lòng đường như treo trong không khí ở phía trên con đường. Tiếng bánh xe cọ lên mặt nhựa kêu rít, mùi cao su cháy xộc vào mũi. Khi Ximauti lấy lại được thăng bằng, phía bên phải anh hiện lên một bức tường trắng bạc. Chiếc xe của họ đang chạy song song với cỗ xe vận tải. Ximauti có cảm giác như đã qua rất nhiều thời gian, nhưng thực ra tất cả chỉ mới có năm - sáu giây đồng hồ. Chiếc xe tuần tra dồn hết sức lao như tên bắn về phía trước. Bức tường màu trắng bạc nằm lại sau và bắt đầu lùi nhanh ra xa. Sau khi vượt được cỗ xe vận tải, chiếc xe cảnh sát quay trở về bên trái của đường, chạy thêm một quãng rồi bắt đầu phanh lại. Ximauti nhảy vụt xuống đường - chiếc xe ô tô vận tải đang lao tới như một con voi điên có thể đè nát xe của họ như đè một vỏ trứng mỏng manh. Muracami cũng nhảy theo ra. Đường của chiếc xe tải đã bị chặn. Và nó, dường như đành chịu thuần phục, dần dần giảm tốc độ và dừng lại, thanh chắn trước thiếu tý nữa thì đâm vào chiếc xe cảnh sát. Ximauti chạy bổ tới bên cabin chiếc xe tải. Anh đã nổi điên đến mức sẵn sàng bắn chết lái xe. Cần phải biết điều khi nói chuyện với cảnh sát chứ ! Viên cảnh sát trưởng leo lên bậc lên xuống và nhìn vào cabin. Sau tay lái là một thanh niên còn trẻ. Tóc cắt ngắn - theo mốt mới bây giờ, trông hơi là lạ. Qua tấm cửa kính của cabin, Ximauti bắt gặp ánh mắt nhìn sắc nhọn và thù địch. Người ngồi bên cạnh lái xe có vẻ già hơn nhiều. Tóc cũng cắt ngắn, cái nhìn cũng như thế - lạnh lùng và sắc nhọn. Muracami leo lên đứng bên cạnh Ximauti, lấy tay gõ vào kính. Chiếc cửa sổ nhỏ hé mở ra. -  Bằng lái của anh đâu ? - Ximauti ra lệnh. Lái xe lấy bằng lái từ trong túi ra và đưa cho Ximauti, đôi mắt cảnh giác theo dõi từng cử chỉ của hai viên cảnh sát. “Chẳng lẽ bọn này giấu tên giết người lái xe tắcxi hay sao ?” - Ximauti vừa xem xét kĩ lưỡng bằng lái vừa căng thẳng nghĩ. Tên: Côiti Tatzima, thành phố Murôman, phố Vanixi, số... Anh nhìn ảnh, rồi nhìn lái xe. Vừa giống vừa không giống... Nỗi nghi ngờ càng tăng thêm. Cần phải xem xét xe kĩ lưỡng. -  Các anh chở gì ? - Ximauti hỏi. -  Máy móc... về nhà máy, ở Tôkiô, - lái xe ấp úng đáp. -  Để rồi xem !  - Không trả lại bằng, Ximauti ra hiệu bảo người lái ra khỏi cabin. Mặt lái xe lập tức sầm lại. Anh ta quay sang phía người nhiều tuổi hơn ngồi bên cạnh - từ lúc đầu tới giờ người này chưa hề thốt lên một lời nào - và nhận được một tín hiệu gì đó bằng mắt. Lái xe ngoan ngoãn mở cửa cabin. Hai viên cảnh sát nhảy xuống đường. Lái xe cũng bước xuống, để cánh cửa cabin hé mở. Và lúc đó Ximauti, đang chuẩn bị nhổm vào thùng xe, chợt trông thấy một vật mà anh không thể nào ngờ tới - đó là nòng súng đen ngòm đang chĩa thẳng vào anh từ phía trong cánh cửa không đóng kín. Ngay trong khoảnh khắc ấy, lái xe xô mạnh hai viên cảnh sát rồi nhảy lên cabin. Bị bất ngờ, Ximauti và Muracami bắn ra giữa đường. Theo bản năng, Ximauti liếc nhìn về phía cabin. Nòng súng trường !  Ximauti không thể nào hiểu được cái người già hơn kia đang làm gì. Một ánh lửa lóe lên đầu nòng súng. Một tiếng kêu ngắn đập mạnh vào mang tai. Thân người Muracami nhảy dựng lên, ngã vật xuống đất. Mấy giọt chất lỏng ấm dính bắn vào mặt Ximauti. Chúng đã bắn chết Muracami ! Chỉ vừa mới nhận thức ra điều đó, Ximauti đã trông thấy nòng súng trường quay sang chĩa vào anh. Ánh thép lạnh lấp lánh. Và bộ mặt lầm lì của người đang ngắm bắn. Ximauti vụt nhảy tránh sang một bên và bỏ chạy, người cúi rạp xuống sát đất. Ở một nơi nào đó, dường như xa lắm, vang lên tiếng nổ khô khốc, giống như tiếng roi quất mạnh. Và có một cái gì đó đánh vào thắt lưng anh. Ximauti cảm thấy hơi lạnh của thần chết làm cứng đờ cả người mình. Anh không thể bước đi thêm bước nào nữa. Một cơn đau co giật lan truyền khắp thân thể. Quằn quại vì đau đớn khủng khiếp, anh đổ vật xuống mặt đất. Tất cả nhòa đi trước mắt. Thấp thoáng bóng tên lái xe nhảy vội vào cabin. Tiếng động cơ rú lên. Chiếc ô tô vận tải rời chỗ. Cần phải báo động !  Ý nghĩ đó khoan sâu vào ý thức đã bắt đầu tắt của viên cảnh sát. Nhưng thân thể anh không còn tuân lệnh nữa. Phải hết sức vất vả, đau đớn, anh mới trở mình nằm úp lại được. Ximauti đưa mắt nhìn theo cỗ xe đang chìm dần trong màn sương mù, cố đoán ra hướng đi của nó. Chiếc ô tô vận tải vòng qua xe kiểm tra của cảnh sát, đi chệch sang phía phải của vạch tâm đường. Vừa lúc đó, một chiếc xe tải khác đi ngược chiều phóng tới. Một ngọn lửa khổng lồ lao vụt lên trời, xé tan màn sương dày đặc. Khối hàng chở trên chiếc ô tô vận tải thứ nhất đã bốc nổ. - Cháy !  - Ximauti thì thào, anh không còn nghe thấy những tiếng nổ nữa. "Chúng mang gì thế nhỉ ?” - Ximauti vật vã cố sức hiểu, nhưng một màn đen đã trùm lên đôi mắt anh. Bằng sự cố gắng cuối cùng của ý chí, Ximauti ngẩng đầu lên nhìn. Ý thức của anh đang run rẩy trên điểm cuối cùng của sự sống. Và anh bỗng cảm thấy như có một trận mưa vũ khí đang rơi xuống quãng đường nhựa - đó là những thứ chở trong thùng xe bị bắn lên không: súng cacbin, súng máy M.1, súng phóng lựu M79. - Một sự điên rồ thế nào ấy !  - Ximauti rên rỉ. Sương mù trên quốc lô số Bốn lại bắt đầu trở nên dày đặc.  ... Mời các bạn đón đọc Tháng Tám Không Vua của tác giả Kiutzo Kobayasi.
Điệp Viên Yêu Chúng Ta: Chiến Tranh Việt Nam Và Trò Chơi Nguy Hiểm Của Phạm Xuân Ẩn - Thomas A. Bass
Cuốn này đã được Nhã Nam xuất bản với tựa đề Điệp Viên Z.21 Kẻ Thù Tuyệt Vời Của Nước Mỹ “Đây là câu chuyện xuất sắc về một con người và thời đại của ông. Nó càng củng cố thêm cho cảm giác của tôi khi gặp ông trong giai đoạn cuối đời của ông rằng Phạm Xuân Ẩn là một trong những người ấn tượng nhất mà tôi từng gặp. Ông là con người của trí tuệ, lòng can đảm và tình yêu đất nước nồng nàn. Ông cũng là - mặc dù có vẻ thật trớ trêu khi nói ra điều này trong hoàn cảnh hiện nay - một con người của sự chính trực phi thường. Ông yêu chúng ta ở khía cạnh tốt đẹp nhất trong khi lại đối đầu với chúng ta ở khía cạnh tồi tệ nhất.” - Daniel Ellsberg, tác giả của Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers (Những bí mật: hồi ức về Việt Nam và tài liệu mật của Lầu Năm Góc) “Thomas Bass kể một câu chuyện tuyệt vời về mưu mô[1], nghề gián điệp và tình bạn. Cuốn sách của ông được viết như thể nó đến từ những bến bờ xa xôi nhất của sự hư cấu, và hẳn tôi sẽ không bao giờ tin nổi lấy một từ nào nếu như chính tôi không gặp rất nhiều nhân vật trong đó và không biết câu chuyện để tin rằng nó có thực và không biết câu chuyện đó có thực hay không.” - H. D. S. Greenway, biên tập viên, The Boston Globe, và là phóng viên chiến tranh Việt Nam cho tạp chí Time và báo Washington Post “Mỗi cựu binh, mỗi học giả, mỗi sinh viên, bất kỳ ai từng sống qua cuộc chiến tranh Việt Nam đều được khuyên đọc cuốn sách này và suy ngẫm về thông điệp của nó. Trong cuốn tiểu sử rất sâu sắc và kích thích này về một trong những điệp viên thành công nhất trong lịch sử, Thomas Bass thách thức một vài giả định cơ bản nhất của chúng ta về những gì đã thực sự xảy ra ở Việt Nam và về ý nghĩa của nó đối với chúng ta trong hiện tại.” - John Laurence, phóng viên chiến tranh Việt Nam cho CBS News và là tác giả cuốn The Cat from Huế: A Vietnam War Story (Con mèo Huế: một câu chuyện chiến tranh Việt Nam). * Gã cảm thấy mình đang vĩnh viễn quay lưng lại với sự thanh thản. Mắt mở to, ý thức rõ hậu quả, gã đi vào lãnh địa của sự dối trá không mang theo tấm hộ chiếu cho ngày quay trở lại. GRAHAM GREENE Cốt lõi của vấn đề (The Heart of Matter) *** “Nước Mỹ chỉ giỏi tiến hành những cuộc thập tự chinh,” tướng David Petraeus viết trong luận án tiến sĩ của mình về đề tài “Quân đội Mỹ và những bài học từ chiến tranh Việt Nam”. Được đưa ra bảo vệ tại Đại học Princeton năm 1987, luận án của Petraeus công kích những gì đã trở thành quan niệm được giới nhà binh chấp nhận một cách rộng rãi về những bài học từ Việt Nam. Ông coi đây là một “lối suy nghĩ kiểu được ăn cả ngã về không”, mà chung quy là xuất phát từ học thuyết cho rằng nước Mỹ chỉ nên tiến hành những cuộc chiến tranh thông thường với sự ủng hộ áp đảo của một công chúng mang tinh thần thập tự chinh. Petraeus bác bỏ quan điểm “làm ăn như lối suy nghĩ bình thường” này. Thay vào đó, ông lập luận rằng nước Mỹ có nhiều khả năng là thấy mình sa vào những cuộc chiến tranh phi chính quy khác, đôi khi phải chống trả hai, ba, hay nhiều trận chiến kiểu Việt Nam. Sau này Petraeus tiếp tục biên soạn cẩm nang tác chiến cho lục quân về chống nổi dậy được ban hành ấn hành năm 2006. Năm sau, được trao cơ hội tiến hành công tác thực địa về chuyên ngành học thuật của mình, ông được bổ nhiệm vào vị trí tư lệnh lực lượng Mỹ tại Iraq. Chiến tranh không chỉ là những cuộc thập tự chinh; chúng còn là những cuộc dan díu của con tim. Chiến tranh được phát động vì tình yêu, điều này thì chúng ta đã biết từ thời nàng Helen của thành Troy[2] khiến cho cả nghìn chiến thuyền chở đầy những chàng trai mê mẩn sẵn sàng chết vì nàng xung trận. Nhà văn hài hước người Mỹ P. J. O’Rourke đã nhận ra chân lý này trong một bài tiểu luận ông viết về Việt Nam năm 1992. “Ở Huế, cứ chiều đến, những nữ sinh trung học trở về nhà sau khi tan học, từng đoàn nữ sinh đạp xe trên con phố, tất cả đều tha thướt trong những tà áo dài trắng tinh, một kiểu trang phục gồm áo dài may ôm sát người mặc trùm lên quần rộng. Không phải vô cớ mà những nhà thờ Công giáo còn lại gióng lên hồi chuông cầu kinh Đức Bà vào thời điểm này trong ngày. Tôi không hiểu ở một nơi mà cái đẹp đã trở nên quá đỗi bình dị như thế có thể thay đổi được bản chất của một xã hội hay không.” Sau khi trầm trồ trước “tỷ lệ khổng lồ những mỹ nhân ngư và giai nhân tuyệt sắc” ở cái đất nước Địa đàng này, O’Rourke viết: “Giờ thì tôi hiểu tại sao chúng ta lại can dự vào Việt Nam. Chúng ta đã phải lòng… [Chúng ta] đã ngây ngất bởi nơi này. Tất cả mọi người, từ những cố vấn đầu tiên mà Ike3 gửi tới đây năm 1955 cho đến Henry Kissinger ở bàn đàm phán hòa bình Paris, thảy đều mê mệt đến phát cuồng vì Việt Nam. Nó làm tan vỡ trái tim họ. Họ cứ tiếp tục đến thăm và gửi hoa mãi không thôi. Họ không thể tin nổi rằng đây là lần chia tay cuối cùng.” Trước khi bắt đầu câu chuyện của mình về Việt Nam và nước Mỹ (với đôi nét điểm qua về nước Pháp và những khu vực khác trên thế giới), tôi xin phép được nói rằng cuốn sách này nói về chiến tranh và tình yêu, về những bài học Việt Nam, tác chiến chống nổi dậy và những cuộc xung đột khác bị gọi là phi chính quy. Nó cũng nói về những điệp viên và phóng viên cùng sự lẫn lộn giữa hai nghề này. Một số người sẽ cho rằng các phóng viên góp phần làm cuộc chiến (của chúng ta) tại Việt Nam thất bại. Trong trường hợp này, tôi xin khẳng định rằng có một phóng viên đã góp phần mang đến chiến thắng trong cuộc chiến - cho phía người Việt. Cuốn sách phiền muộn này nói về thông tin và hỏa mù cùng sự mơ hồ không thể tránh khỏi trong việc xác định ranh giới nơi hai yếu tố này hòa nhập vào nhau. Cuốn sách không đưa ra thêm chân lý nào có thể được đúc rút thành những bài học mới về chiến tranh Việt Nam. Nó nói về cuộc sống đơn giản của một con người phức tạp. Sự thật nằm trong các chi tiết. Chúng ta hãy bắt đầu. ... Mời các bạn đón đọc Điệp Viên Yêu Chúng Ta: Chiến Tranh Việt Nam Và Trò Chơi Nguy Hiểm Của Phạm Xuân Ẩn của tác giả Thomas A. Bass.
Vượn Cáo - Benjamin Black
John Glass sống ở New York. Ông bỏ nghề báo để viết tiểu sử cho bố vợ mình là ngài Bill Mullholland, hay còn gọi là Bill lớn. Vốn là cựu nhân viên CIA, giờ Bill Lớn là trùm tư bản trong lĩnh vực truyền thông. Sáng sáng, John Glass đến làm việc tại văn phòng rộng lớn và sang trọng trong tòa nhà văn phòng Mullholland Tower; tối đến thì về nhà với người vợ giàu có và xuân sắc. Dù thỉnh thoảng có hoài nhớ về quãng đời trước, nhưng nói chung John Glass hài lòng với hiện tại.   Để hoàn thành cuốn tiểu sử, John Glass thuê một tay săn tin trẻ mà ông quen gọi là “Vượn Cáo” thu thập thông tin về người bố vợ. Từ lúc ấy cuộc sống dễ chịu của ông bị đe dọa. Sau đó, “Vượn Cáo” bị sát hại, ông quyết định đi tìm những gì hắn biết và thủ phạm giết hắn chỉ để đào xới thêm nhiều bí mật và cái chết bí ẩn khác. *** Người cung cấp thông tin là một chàng trai trẻ cao lêu đêu và gầy đét. Đầu hắn quá nhỏ so với khung xương, còn cục yết hầu to bằng trái banh gôn. Mắt kính hắn đeo không có gọng viền quanh và gần như vô hình, chỉ làm tăng thêm độ bóng cho đôi mắt đen, tròn, to tướng và hơi bị trố. Một túm râu màu vàng ngắn ngủn, cứng quèo mọc thẳng từ cằm hắn. Cặp lông mày cong, rất xa mắt lấm tấm sẹo mụn trứng cá cũ. Hắn có đôi bàn tay mảnh mai, trắng trẻo, các ngón dài búp măng hệt như tay con gái, hay ít nhất là giống những gì người ta ca ngợi về bàn tay của phụ nữ khuê các. Dù đang ngồi, đũng quần jeans thụng của hắn vẫn thõng xuống ngang đùi. Ngực áo phông màu cháo lòng không của ai ngoài hắn mang dòng chữ: “Đời bi đát tiễn ta về cõi âm”. Thoạt nhìn, hắn mới chỉ mười bảy nhưng John Glass đoán tên này chí ít cũng phải gần ba mươi, cổ dài, đầu nhỏ và cặp mắt tròn đen láy khiến hắn cực kỳ giống một loài gặm nhấm quý hiếm mà nhất thời Glass chưa nhớ ra là con gì. Tên hắn là Dylan Riley. Glass thầm mỉa mai: cái tên Dylan nghe quý phái gớm. Hắn nói: - Vậy ra ông là con rể của Bill Lớn? Hắn ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế xoay bọc da đen trong văn phòng mà bố vợ Glass cho mượn nằm ở mé phía bắc của tòa nhà Mulholland Tower. Sau lưng hắn, bên kia bức tường kính trong suốt là một Manhattan ẩm ướt, ảm đạm dưới màn mưa phùn tháng tư. - Sao? Cậu thấy ngộ nghĩnh lắm ư? Glass vặn vẹo. Ông đặc biệt ghét loại người thích mặc áo phông in đủ thứ triết lý lên đó. Dylan Riley cười khẩy: - Ngộ nghĩnh gì đâu. Tôi chỉ ngạc nhiên thôi. Tôi thấy ông không giống người nhà Bill Lớn chút nào. Glass vờ như không nghe thấy gì. Hơi thở của ông bắt đầu nặng nề, thậm chí phát ra tiếng phì phò. Đó luôn là dấu hiệu cảnh báo sự căng thẳng đang gia tăng. Glass nhấn mạnh như muốn nhắc Riley phải lễ phép hơn: - Ngài Mulholland muốn tôi thu thập mọi dữ liệu và dùng chúng một cách đúng đắn nhất. Riley cười toe toét, gật lia lịa, xoay xoay trên ghế vẻ khoái chí: - Phải, nhất định dữ liệu phải đầy đủ rồi. Glass lạnh lùng nhắc lại: - Điều tiên quyết là phải đủ thông tin chính xác. Chính vì thế tôi mới thuê cậu. Glass đến bên chiếc bàn làm việc vuông vức bằng kim loại cỡ lớn kê trong góc phòng và thận trọng ngồi xuống ghế phía sau nó. Tư thế ngồi luôn giúp Glass bớt bấn loạn. Phòng ông ở tầng ba mươi chín. Trông đợi ông làm ăn được gì ở độ cao như vậy quả là ngớ ngẩn. Hôm đầu tiên vào phòng này, Glass sợ sệt nhích từng chút đến sát tường kính ngó xuống. Dưới chân ông chừng hai tầng nhà, những cụm mây trắng xốp trông như tảng băng lững thững trôi ngang qua, che khuất thành phố phía dưới. Giờ ông bíu hai tay lên mặt bàn trước mặt như người sắp chết đuối cố bám mép chiếc bè nan. Glass thèm thuốc không thể tả. Dylan Riley xoay chiếc ghế quanh bàn. Chắc chắn hắn biết ông chóng mặt, buồn nôn cỡ nào khi ngồi trong cái lồng kính làm bằng thép và thủy tinh ngất ngưởng giữa lưng chừng trời như thế này. Bàn tay Glass vuốt thành hình vòng cung trên mặt bàn, như thể muốn gạt vật gì đó vô hình xuống đất. Động tác ấy khiến ông nhớ đến cái cảnh Tổng thống Richard Nixon khổ sở, toát mồ hôi hột trong một bản tin chiều phát mấy năm trước, cố phân bua rằng mình không phải kẻ dối trá. Trong thời kỳ dân chúng hoang mang vì chứng kiến quá nhiều cáo buộc lẫn nhau ấy, ánh sáng ở trường quay quá gắt khiến ai trông cũng giống nhân vật phản diện trong bộ phim dùng hệ màu Eastmancolor giai đoạn đầu. ... Mời các bạn đón đọc Vượn Cáo của tác giả Benjamin Black.
Truyện Ngắn Trinh Thám
Tập Truyện Ngắn Trinh Thám này gồm có: Kẻ đội lốt Hai chàng thợ săn và một cô gái Chiếc hộp bí mật Không có cánh bay Bà góa Ephese Nhân chứng có ba bộ mặt Cây cầu bằng thủy tinh Một vạn đô-la Được ăn cả, ngã về không Tiếng còi trong sương đêm Không thương tiếc Hai cái chết *** Bốn giờ sáng, hai viên cảnh sát mặc đồng phục áp giải hắn vào văn phòng của nhà giam trung tâm. Ở đây, người ta kiểm tra người hắn, tịch thu mọi đồ dùng cá nhân của hắn, trừ gói thuốc lá, chiếc khăn tay và đưa cho hắn một tờ giấy biên nhận. Sau đó người ta lấy dấu vân tay của hắn và dán vào khẩu súng lục mà người ta tìm thấy trong người hắn một mẩu giấy có chữ “vật chứng”. Viên đội trưởng hỏi tên họ và hắn trả lời mình là George Carter. Với những câu hỏi tiếp theo như tiền án, tiền sự... thì hắn trả lời là không. Cảnh sát còn hỏi trên một chục câu hỏi khác rồi ghi vào sổ nói rõ hắn bị bắt về tội ăn cướp trong tay có vũ khí. Cuối cùng người ta giam hắn trong một xà lim chưa có người. Khi còn lại một mình, việc làm đầu tiên của hắn là châm một điếu thuốc lá rồi nằm dài trên một trong bốn chiếc nệm. Rủi ro làm sao! Hắn cay đắng nghĩ. Số phận mới đen đủi làm sao! Hai tiếng đồng hồ trước đây, theo một kế hoạch đã lập ra một cách tỉ mỉ trong một tuần lễ liền, hắn đã đột nhập vào một quán rượu ở giữa thành phố trước giờ đóng cửa để ăn cướp. Hắn đợi cho chủ quán đóng cửa hàng trong khi hắn vẫn ở trong nơi ẩn nấp, sau đó hắn nhốt ông chủ khốn khổ vào trong toa-lét còn hắn thì đi lục lọi trong quán. Kết quả thật là bất ngờ: hai hoặc ba ngàn đô-la trong két sắt ở văn phòng. Trước khi tẩu thoát, hắn còn nhặt thêm bốn chai úych-ky hảo hạng thêm vào món chiến lợi phẩm ấy. Cho đến lúc ấy, mọi việc diễn ra êm đẹp. Hắn đã nghĩ đến những cuộc đi nghỉ thú vị mà hắn có thể thực hiện được bằng cách tính toán lưng vốn của mình: khoảng trên một ngàn năm trăm đô-la để dành đặt ở một nơi an toàn. Tổng cộng là năm ngàn đô-la đủ để nghỉ ở Mê-hi-cô ba hoặc bốn tháng, nếu hắn không hoang phí. Nhưng hắn sẽ không làm như vậy vì hắn không phải là kẻ không biết sử dụng tiền bạc. Một căn hộ khiêm tốn ở thành phố, một tủ quần áo hiện đại và về mặt giải trí, buổi chiều hắn sẽ đi dạo, nói chuyện về các cuộc chơi bóng pơ-lốt, các cuộc đua chó và đi uống một cốc vào buổi tối; dự những trận đầu bò tót vào ngày Chủ nhật ở Acapulco; thỉnh thoảng cho các cô thu tiền hoặc các cô phục vụ xinh đẹp một khoản tiền boa hào phóng... Đó là tất cả. Những nhu cầu của hắn rất đơn giản, không tốn kém, giống như những người làm công có thu nhập ở mức trung bình trong mỗi kỳ đi nghỉ. Tuy nhiên có sự khác nhau giữa hắn và người những ấy, vì người ăn lương phải tiết kiệm cả một năm trời để đi nghỉ, còn hắn, hắn chỉ cần ba hoặc bốn phi vụ trong một năm, mỗi phi vụ chỉ cần bốn năm phút đồng hồ thôi. Và hai ba năm nay mọi việc đều diễn ra một cách trôi chảy. Nhưng bây giờ tất cả đã kết thúc - hắn nghĩ. Chuyện đó diễn ra một cách khá bất ngờ: khi hắn ra khỏi kho rượu thì va phải người em trai chủ quán đánh xe đến để đón anh về. Nếu cuộc đụng độ ấy không quá đột ngột, nếu trong một hoàn cảnh khác, hắn chỉ cần hạ gục người đàn ông ấy rồi lủi cho nhanh. Nhưng tình hình lại không phải như vậy vì người em chủ quán lại là một cảnh sát trong đội chống nạn mại dâm, tuy không phải đang trong giờ làm việc nhưng anh ta vẫn còn đeo súng bên người. Rất vô ích mà nói rằng viên cảnh sát không nghi ngờ gì khi thấy hắn với hai chiếc túi căng phồng và bốn chai rượu trên tay tuy đèn lúc này chỉ lờ mờ sáng. Anh ta chỉ giơ súng lên và thế là George bị tóm gọn. Đúng hai tiếng đồng hồ sau đó, George bị kết tội ăn cướp có vũ khí và bị tống giam. Việc khai tên giả của hắn cũng sẽ chẳng kết quả gì vì sau đây bốn mươi tám tiếng nữa, với những dấu vân tay, FBI sẽ biết rõ cái tên George Carter mà hắn đã khai là giả mạo mà chính George Maxwell mới là tên thật của hắn. Mà George Maxwell đã bị ngồi tù hai lần vì tội trộm cướp: lần đầu, hai năm vì tội ăn cắp, thời ấy hắn mới vào nghề, và lần thứ hai, năm năm vì tội ăn cướp có vũ khí, việc này xảy ra cách đây ba năm. Như vậy hắn được tự do mới có ba mươi sáu tháng. Lần này, với những tiền án ấy, chắc chắn án hai mươi năm tù sẽ treo trước mũi hắn. Năm nay ba mươi nhăm tuổi... Hai mươi năm ngồi bóc lịch, thế là kết thúc cuộc đời... Thật là đen đủi - hắn lại nghĩ với tiếng thở dài não nề khi thấy giấc mộng đi nghỉ ở Mê-hi-cô đã tan thành mây khói. Hắn ném điếu thuốc đi để mặc nó tiếp tục cháy. Sau đó, quay mặt vào tường, nghĩ đến tương lai ảm đạm của mình. ... Mời các bạn đón đọc Truyện Ngắn Trinh Thám.